MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Từ xa xưa, hệ thống các làng nghề tiểu thủ công nghiệp luôn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa tinh thần ở các vùng quê Việt Nam. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp rất có ý nghĩa trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương
116 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2732 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Phát triển các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã Thanh Hà - Huyện Thanh Liêm - tỉnh Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hỗ trợ và phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước, các ngành nghề, làng nghề tiểu thủ công nghiệp ở nước ta đã và đang được khôi phục và phát triển. Nhiều làng nghề tiểu thủ công nghiệp đã tạo ra việc làm thường xuyên cho trên 50% lao động và sử dụng được phần lớn lao động nông nhàn.
Thanh Hà (huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) là xã có nghề thêu ren truyền thống từ lâu đời. Những năm gần đây, các làng nghề thêu ren ở xã được khôi phục và phát triển ở tất cả các thôn, xóm. Có thể nói, phát triển các làng nghề thêu ren là một thế mạnh thực sự để xã tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn địa phương. Các làng nghề đã từng bước làm thay đổi bộ mặt nông thôn của xã, góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập và nâng cao mức sống người dân địa phương. Một số làng nghề thêu ren từ lâu đã trở nên nổi tiếng cả trong và ngoài tỉnh như làng nghề thêu ren An Hoà, Hoà Ngãi,... sản phẩm thêu ren của những làng nghề này đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới. Nhưng nhìn chung, sự phát triển các làng nghề thêu ren ở Thanh Hà thời gian qua còn nhiều hạn chế: làng nghề phát triển vẫn mang tính tự phát, chưa có định hướng phát triển rõ ràng; các sơ sở làng nghề còn nhỏ bé, sử dụng những công nghệ, thiết bị lạc hậu; thiếu vốn, thiếu mặt bằng, thiếu nguyên liệu cho sản xuất; công tác đào tạo nghề cho lao động ở các làng nghề chưa được chú trọng; chưa khai thác tốt thị trường trong nước và xuất khẩu; công tác đăng ký thương hiệu, nâng cao chất lượng sản phẩm còn rất hạn chế; chưa khai thác tốt tiềm năng du lịch làng nghề; thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định; chưa quan tâm đúng mức tới vấn đề môi trường,... Mặt khác, hiện nay và trong những năm tới, diện tích đất canh tác của xã đang có xu hướng giảm nhanh, số người không có việc làm thường xuyên ngày càng nhiều, sức ép về lao động và việc làm ngày càng lớn. Chính vì vậy, trong thời gian tới phát triển các làng nghề thêu ren nhằm phát huy những lợi thế, tiềm năng của địa phương về một ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống, từ đó thúc đẩy các làng nghề thêu ren phát triển bền vững, lâu dài, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn địa phương là một yêu cầu tất yếu, là mối quan tâm của các cấp, ngành xã Thanh Hà nói riêng và huyện Thanh Liêm nói chung.
Từ những vấn đề nêu trên, tôi đã chọn đề tài: “Phát triển các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã Thanh Hà - huyện Thanh Liêm - tỉnh Hà Nam" cho Luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển ngành nghề và làng nghề tiểu thủ công nghiệp.
- Phân tích và đánh giá tình hình phát triển các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã Thanh Hà trong những năm qua. Từ đó rút ra những thuận lợi, khó khăn trong phát triển các làng nghề thêu ren và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp nghiên cứu chung
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận. Phương pháp luận duy vật biện chứng nhằm xem xét, nghiên cứu những vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề thêu ren xã Thanh Hà trong mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau và trạng thái vận động, biến đổi không ngừng của các yếu tố cấu thành và tác động đến sự phát triển của các làng nghề. Phương pháp luận duy vật lịch sử xem xét, nghiên cứu những vấn đề trên đây trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và trong quá trình biến đổi, phát triển của các làng nghề thêu ren xã Thanh Hà nhằm làm rõ và chỉ ra bản chất thực trạng và xu hướng vận động, phát triển của các làng nghề thêu ren.
3.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp thu thập thông tin:
+ Thu thập thông tin thứ cấp (thu thập và nghiên cứu tài liệu có sẵn): Thông qua các tài liệu văn bản, sách báo, tạp chí, sổ sách, báo cáo, website và tư liệu do địa phương cung cấp có liên quan đến đề tài.
+ Thu thập thông tin sơ cấp (khảo sát điều tra): Thông qua việc tham quan, khảo sát điều tra, phỏng vấn trực tiếp ở các làng nghề thêu ren xã Thanh Hà. Đối tượng được điều tra là các hộ gia đình, các cơ sở sản xuất kinh doanh ở 2 làng nghề thêu ren An Hoà và Hoà Ngãi - xã Thanh Hà.
- Phương pháp thống kê: là phương pháp tổng hợp các số liệu của các hiện tượng để tiến hành phân tích, so sánh nhằm làm rõ những vấn đề thuộc bản chất của hiện tượng nghiên cứu. Qua các số liệu thống kê, ta có thể thấy được tính quy luật của các hiện tượng và rút ra được những nhận xét và kết luận đúng đắn.
- Phương pháp chuyên khảo (nghiên cứu điển hình): tiến hành nghiên cứu một số hiện tượng điển hình (làng nghề, hộ gia đình, doanh nghiệp, người lao động,...) để rút ra những kết luận có tính chất chung cho các hiện tượng thuộc đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp chuyên gia: là phương pháp sử dụng ý kiến tư vấn của những nhà khoa học, cán bộ quản lý, nhà kinh doanh, người lao động có tri thức, kinh nghiệm về một vấn đề kinh tế, tổ chức quản lý và kỹ thuật sản xuất kinh doanh. Phương pháp này được thực hiện trong quá trình nghiên cứu Luận văn bằng hai cách: phỏng vấn trực tiếp và xin ý kiến nhận xét.
- Phương pháp so sánh: dùng để so sánh các yếu tố định lượng hoặc định tính. So sánh phân tích các yếu tố, chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lượng hóa có cùng nội dung, tính chất tương tự để xác định mức độ biến động của các chỉ tiêu.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề kinh tế có liên quan đến tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh của nghề thêu ren trong các làng nghề trên địa bàn xã Thanh Hà.
- Phạm vi:
+ Về không gian: Tại các làng nghề thêu ren xã Thanh Hà, trong đó tập trung vào 2 làng nghề thêu ren An Hoà và Hoà Ngãi.
+ Về thời gian:
- Số liệu nghiên cứu của đề tài là số liệu thống kê qua 5 năm (từ năm 2001 đến năm 2005) và số liệu điều tra qua 2 năm 2006, 2007.
- Dự kiến giai đoạn 2008 - 2010, định hướng phát triển đến năm 2015.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp.
Chương 2. Thực trạng phát triển các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã Thanh Hà - huyện Thanh Liêm - tỉnh Hà Nam
Chương 3. Giải pháp phát triển các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã Thanh Hà - huyện Thanh Liêm - tỉnh Hà Nam.
Phát triển các làng nghề thêu ren có ý nghĩa rất quan trọng nhằm phát huy lợi thế của huyện Thanh Liêm nói chung và xã Thanh Hà nói riêng. Tuy nhiên, ở địa phương vấn đề này chưa thật sự được quan tâm chú trọng trong thời gian qua. Do đó, trong quá trình viết Luận văn, tôi đã gặp một số khó khăn về phương pháp luận cũng như về số liệu thực tế, nhất là việc đưa ra các giải pháp thích hợp, hữu hiệu. Song, với sự giúp đỡ của các cán bộ ở UBND xã Thanh Hà, Phòng Công thương huyện Thanh Liêm, Sở Công thương Hà Nam và đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS. TS. Trần Quốc Khánh, tôi đã hoàn thành được Luận văn của mình. Nhưng do thời gian, kiến thức thực tế, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học, trình độ của bản thân còn hạn chế nên trong Luận văn chắc chắn còn nhiều sai sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu cùng bạn đọc để tôi có thể hoàn thiện hơn luận văn của mình và vận dụng vào thực tiễn phát triển các làng nghề thêu ren của xã một cách có hiệu quả.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP
1.1. Lý luận chung về làng nghề tiểu thủ công nghiệp
1.1.1. Một số khái niệm
Làng là đơn vị cư trú cơ bản của nông thôn người Việt và được hình thành từ rất sớm. Làng ra đời gắn với hai yếu tố “định canh" và "định cư”. Ở những khu vực nào mà dân cư đã định canh sẽ đưa đến việc định cư và đã định cư, định canh thì làng xuất hiện.
Làng quê Việt Nam là nơi sản sinh ra các nghề tiểu thủ công nghiệp và các sản phẩm mang dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá, văn minh dân tộc. Quá trình phát triển của làng nghề là một quá trình phát triển của tiểu thủ công nghiệp nông thôn. Lâu nay các quan niệm về nghề và làng nghề tiểu thủ công nghiệp còn có nhiều ý kiến khác nhau, ở đây chỉ đề cập một số khái niệm đã và đang được sử dụng khá phổ biến.
Nghề thủ công: là những nghề sản xuất ra sản phẩm mà kỹ thuật sản xuất chủ yếu là làm bằng tay. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các nghề thủ công có thể sử dụng máy, hoá chất và các giải pháp kỹ thuật của công nghiệp trong một số công đoạn, phần việc nhất định, nhưng phần quyết định chất lượng và hình thức đặc trưng của sản phẩm vẫn làm bằng tay.
Thủ công mỹ nghệ: là các nghề thủ công làm ra các sản phẩm mỹ nghệ, hoặc các sản phẩm tiêu dùng được tạo hình và trang trí tinh xảo giống như sản phẩm mỹ nghệ. Ở sản phẩm mỹ nghệ, chức năng văn hoá, thẩm mỹ trở nên quan trọng hơn chức năng sử dụng thông thường.
Tiểu thủ công nghiệp: là lĩnh vực sản xuất bao gồm các nghề thủ công và các cơ sở công nghiệp nhỏ. Thường các cơ sở công nghiệp nhỏ này có nguồn gốc từ các nghề thủ công phát triển thành.
Làng nghề tiểu thủ công nghiệp (làng nghề): là làng có nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển với một tỷ lệ số hộ và tỷ lệ thu nhập từ nghề TTCN nhất định, trở thành nguồn thu nhập quan trọng không thể thiếu được của người dân trong làng. Nhiều nước trên thế giới lấy tỷ lệ 20% hay 30%, ở Việt Nam đang có xu hướng lấy tỷ lệ 30% hay 50% số hộ dân làm nghề và thu nhập của làng từ nghề thủ công. Tỷ lệ đó được duy trì và ổn định trong nhiều năm.
1.1.2. Phân loại làng nghề TTCN
Nước ta có hàng trăm nghề thủ công khác nhau, các nghề thủ công phát triển theo từng làng. Ngày nay, các nghề thủ công vẫn liên tục phát triển với nhiều chủng loại mặt hàng mới. Có nhiều cách phân loại làng nghề, nhưng thường phân loại theo một số tiêu chí chủ yếu sau:
- Theo thời gian (sự hình thành của làng nghề):
+ Làng nghề truyền thống: là làng nghề có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Sản phẩm của làng nghề có nét độc đáo, có tính riêng biệt mang đặc thù của địa phương, chứa đựng cả yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần, được nhiều người biết đến và được tiêu thụ ở nhiều nơi. Làng nghề truyền thống có thể đang phát triển, có thể đang bị mai một hoặc không còn làm nghề nữa.
+ Làng nghề mới: là làng nghề mới được hình thành do yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống trên cơ sở tận dụng tiềm năng và lợi thế của địa phương.
- Theo nghề TTCN:
+ Làng nghề thủ công mỹ nghệ (sản xuất ra các sản phẩm như: thêu ren, thảm, khảm, sơn mài, gốm sứ mỹ nghệ, chạm khắc gỗ, kim hoàn,...).
+ Làng nghề chế biến nông sản thực phẩm.
+ Làng nghề vật liệu xây dựng.
+ Làng nghề dệt nhuộm.
+ Làng nghề tái chế chất thải (giấy, nhựa, kim loại,...).v.v...
- Theo tính chất của sản xuất: làng nông nghiệp kiêm nghề thủ công, làng nghề thủ công chuyên nghiệp, làng nghề thủ công xuất khẩu.v.v...
1.1.3. Đặc điểm và những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các làng nghề TTCN
1.1.3.1. Đặc điểm của làng nghề TTCN
Nhìn chung, các làng nghề TTCN ở nước ta đều có những đặc điểm chung nổi bật sau đây:
Một là, tổ chức sản xuất kinh doanh trong các làng nghề TTCN theo hộ gia đình là chủ yếu. Ngoài ra, trong làng nghề còn có một số loại hình sản xuất khác như: doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác,...
Hai là, hầu hết các làng nghề sử dụng công nghệ thủ công và thô sơ. Cho đến nay vẫn chỉ có một số mặt hàng có khả năng cơ giới hoá được một số công đoạn sản xuất. Có thể nói, đặc điểm này đã đem lại những đặc tính riêng biệt và sự quý hiếm cho các sản phẩm của làng nghề. Tuy nhiên, chính đặc điểm này làm cho năng suất, chất lượng sản phẩm của nhiều làng nghề thấp, khả năng cạnh tranh của nhiều làng nghề bị hạn chế.
Ba là, ở các làng nghề TTCN thường có nhiều nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề. Việc sản xuất các sản phẩm thủ công trong làng nghề đều có các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, có kỹ thuật tinh xảo làm hạt nhân để phát triển. Mỗi làng nghề thường có một ông tổ nghề là người truyền dạy bí quyết, kỹ thuật nghề. Phương thức dạy nghề chủ yếu là truyền nghề, kèm cặp của người thợ cả đối với thợ học việc.
Bốn là, nguyên liệu sử dụng cho sản xuất của làng nghề chủ yếu là nguyên liệu sẵn có ở địa phương và trong nước như tre nứa, song mây, gỗ, sừng, tơ tằm... Ngoài ra có nhập khẩu một số nguyên liệu từ nước ngoài; việc tận dụng phế liệu cho sản xuất cũng được coi trọng.
Năm là, sản phẩm của làng nghề: thường là những sản phẩm độc đáo, được sản xuất theo kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, nhiều sản phẩm không thể sử dụng máy móc vào quá trình sản xuất được mà chỉ có bàn tay con người mới thực hiện được. Sản phẩm của các làng nghề TTCN truyền thống mang tính độc đáo, tính nhân văn, nét nghệ thuật cao,... tất cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương và chứa đựng trong nó những ảnh hưởng văn hoá tinh thần, quan niệm nhân văn, tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc. Khác với các mặt hàng công nghiệp sản xuất hàng loạt bằng máy móc, giá trị của hàng thủ công trong các làng nghề chính là ở lao động thủ công, ở tâm hồn và sự sáng tạo của người thợ được thể hiện trong chính mỗi sản phẩm.
Sáu là, làng nghề TTCN ở Việt Nam không chỉ phản ánh mối quan hệ giữa "nghề" với "nghiệp" mà còn chứa đựng những giá trị tinh thần đậm nét, được phản ánh qua các tập tục, tín ngưỡng, lễ hội và nhiều quy định khác. Trước hết có thể nói đến là những quy ước, luật lệ để gìn giữ bí quyết nghề, để bảo tồn nghề của dòng họ hay của cộng đồng làng xã. Có thể nói tất cả các nghề thủ công đều có bí quyết. Việc giữ bí quyết nghề không chỉ đơn thuần là giữ nghề mà nó còn chi phối cả các quan hệ xã hội khác như quan hệ hôn nhân, hoặc việc truyền nghề chỉ đóng khung trong một số đối tượng cụ thể, như chỉ truyền cho con trai, hoặc chỉ truyền cho con trưởng hoặc cháu đích tôn. Điều này đã tạo ra một trật tự trong làng nghề và những nét văn hoá đặc thù trong các làng nghề Việt Nam. Điều thứ hai cần đề cập đến trong đặc điểm sinh hoạt văn hoá tinh thần của làng nghề là: hầu như làng nghề nào cũng có tục thờ cúng tổ nghề và gắn liền với lễ hội cùng với các hoạt động văn hoá dân gian khác. Như vậy, ở làng nghề ngoài yếu tố sản xuất còn mang rất đậm yếu tố văn hoá và phần nào còn có những yếu tố tâm linh phù hợp. Bởi làng nghề ngoài phạm vi đơn vị sản xuất và khái niệm đơn vị hành chính còn có đặc trưng riêng biệt là tính cộng đồng cư trú, cộng đồng lợi ích rất cao.
* Đặc điểm của nghề thêu ren trong các làng nghề Việt Nam:
Thêu là một nghề thủ công truyền thống mang tính chất nghệ thuật trang trí tạo hình truyền thống của nước ta, xuất hiện từ thuở vua Hùng dựng nước. Nghề thêu ren phát triển thành làng nghề vào thế kỷ thứ 17. Thời gian đầu sản phẩm thêu chỉ phục vụ cho cung đình và làm đồ tế lễ, cống nạp cho các vương triều phương Bắc. Trải qua bao thăng trầm, nghề thêu đã phát triển rộng khắp tới mọi miền đất nước, trở thành một nghề thu hút được đông đảo lao động, nhất là lao động vùng nông thôn. Kế thừa những kinh nghiệm quý báu của cha ông truyền lại, người thợ thêu đã vận dụng kỹ thuật thêu một cách hiệu quả vào việc tạo nên những mẫu thêu đạt trình độ nghệ thuật cao, cung ứng cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, góp phần tăng thu nhập trong từng hộ gia đình, chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất, đời sống và trong nền kinh tế quốc dân.
Nghề thêu ren không quá phức tạp, đòi hỏi lớn nhất với những người làm nghề là sự kiên trì, cẩn thận và ý thức làm việc tập thể. Công cụ dùng trong nghề thêu ren khá đơn giản. Các thợ thêu chỉ sử dụng một số thứ vật liệu ở mức tối thiểu như khung thêu, kim thêu các cỡ (kiểu tròn và kiểu chữ nhật), kéo, thước, bút lông, phấn mỡ, vải thêu (vải trắng, sa tanh, lụa...), chỉ thêu các màu. Chính vì thế, nghề thêu ren rất phù hợp với khả năng nguồn lao động của nước ta, nhất là ở khu vực nông thôn. Mũi kim thoăn thoắt đưa đi đưa lại những đường chỉ cùng đó là những hình thù với màu sắc sống động dần hiện ra. Các sản phẩm thêu ren trước hết là những vật phẩm có giá trị nghệ thuật cao, không bao giờ lỗi mốt, chúng rất gần gũi với cuộc sống con người và tô điểm cho cuộc sống của con người kể từ lúc chào đời cho đến khi giã từ cuộc sống, từ những tấm khăn tay đến các loại khăn trải bàn, ga gối, rèm cửa, quần áo,... đến tranh thêu.
Quy trình sản xuất sản phẩm thêu ren bao gồm những công đoạn cơ bản: pha cắt, in kẻ, thêu, kiểm hoá, giặt là, đóng gói.
Pha cắt: Đây có thể được coi là khâu khởi đầu để tạo nên sản phẩm thêu ren. Trên cơ sở mẫu đã được thiết kế, đội ngũ nghệ nhân, thợ, cán bộ kỹ thuật của cơ sở sản xuất tiến hành tính toán định mức vải cần sử dụng để có thể làm nên sản phẩm theo đúng kích cỡ, tiêu chuẩn khách hàng yêu cầu.
In kẻ: Sau khi có số liệu từ khâu pha cắt, những người thợ làng nghề tiến hành in kẻ. Đây là khâu đòi hỏi độ chính xác rất cao.
Thêu: Sản phẩm thêu ren của cơ sở sản xuất làng nghề được các nghệ nhân, những người thợ thực hiện bằng đôi bàn tay khéo léo cùng với tâm hồn thăng hoa của người dân làng nghề thêu ren truyền thống.
Kiểm hoá: Để có thể có được một sản phẩm thêu ren hoàn hảo cả về kỹ thuật và hình thức, các cơ sở làng nghề rất coi trọng khâu kiểm hoá. Với kinh nghiệm và tay nghề của mình, những tay kim, những kỹ thuật viên luôn cố gắng tìm ra và chỉnh sửa lại từ những sai sót nhỏ nhất của sản phẩm thêu ren như đường thêu, sợi chỉ thừa,...
Giặt là: Sản phẩm sau khi được kiểm hoá sẽ được chuyển sang khâu giặt là. Tại đây, đội ngũ công nhân kỹ thuật ở các cơ sở sản xuất sẽ giúp làm sạch những vết dơ, rồi là ủi kỹ theo từng đường nét thêu.
Đóng gói: Đây là khâu cuối cùng của một sản phẩm thêu. Nó đóng vai trò không nhỏ tạo nên vẻ đẹp, sức hấp dẫn của sản phẩm thêu ren bởi đóng gói không chỉ tạo thuận lợi cho việc vận chuyển mà còn làm nổi bật lên những góc thêu, đường nét của sản phẩm.
Đối với quy trình sản xuất ra một sản phẩm tranh thêu thì nhất thiết phải tuân thủ chặt chẽ những bước cơ bản sau: Khi nhận được bản vẽ và bảng phân loại màu từ hoạ sỹ thiết kế, bộ phận kỹ thuật sẽ chuyển các đường nét từ bản vẽ sang vải hoặc tơ tằm đã được chọn lựa sao cho thích hợp với nội dung của bức tranh. Sau đó người thợ sẽ căng tấm vải lên trên các loại khung chuyên dùng, chọn lựa số lượng và màu chỉ theo như bảng phân màu chỉ và thêu bằng những kỹ thuật đã chỉ định trong bảng vẽ chi tiết. Trung bình người thợ phải mất từ một tháng rưỡi đến hai tháng để hoàn thành một bức tranh. Tranh thêu xong sẽ được chuyển đến cho bộ phận hoàn chỉnh, sau đó căng lên trên một miếng ván mỏng và lồng vào khung. Với chất lượng của nguyên liệu hiện nay, một bức tranh có thể có tuổi thọ đến vài mươi năm.
Sản phẩm thêu ren không chỉ dừng lại ở một số mặt hàng đơn giản như những năm trước đây. Ngày nay nghề thêu ren đã đạt tới trình độ khá cao đòi hỏi tính sáng tạo và nghệ thuật điêu luyện. Có thể nói đó là nghệ thuật vẽ bằng những mũi kim, nó đòi hỏi sự cần mẫn, khéo léo, sáng tạo, tính thẩm mỹ cao như nghệ thuật phối màu và các kỹ thuật hội hoạ khác nhưng khác ở chỗ là phải thể hiện bằng kim và chỉ. Từng đường kim, mũi chỉ khéo léo hài hoà kết hợp với nền vải và sự đan, quyện vào nhau tạo thành những sản phẩm rất đẹp và có giá trị cao. Máy móc dù có tinh xảo đến đâu cũng không thể thay thế đôi bàn tay tài hoa, điêu luyện của con người. Hiện nay trên thế giới người ta đã chế tạo được máy thêu công nghiệp hiện đại với 20 - 25 đầu kim thêu, điều khiển bằng máy vi tính, năng suất gấp 1.000 lần thêu thủ công. Tuy nhiên, dàn máy thêu hoặc máy thêu cá nhân chỉ có thể sản xuất ra được một loại sản phẩm nhất định, tuy năng suất lớn, giá thành hạ nhưng tính nghệ thuật không cao, không thể so sánh với thêu thủ công.
Công nghệ dệt vải ngày nay đã đạt trình độ rất cao nhờ sử dụng các thiết bị máy móc tiên tiến, hiện đại, năng suất cao, nguyên liệu sử dụng cả các loại sợi tự nhiên đến loại sợi tổng hợp, hoá học và đủ các loại màu sắc khác nhau... Tuy nhiên vải dệt khác với hàng thêu bởi nét độc đáo, tinh xảo vượt trội của hàng thêu. Từ mảnh vải và từ các sợi chỉ màu khác nhau, với bàn tay người thợ, người ta có thể sáng tạo ra không chỉ bộ thời trang lộng lẫy, khéo léo mang tính độc đáo cao mà con người còn tạo ra được những bức tranh có tính nghệ thuật, phục vụ cho các nhà chơi tranh nghệ thuật, hoặc các bộ đồ trang trí nội thất như khăn trải bàn, khăn ăn, rèm cửa,... mà máy móc không thể làm được. Nhìn vào sản phẩm thêu người ta thấy nét tài hoa và thể hiện nét văn hoá của dân tộc kết tinh trong đó.
Ngoài giá trị sử dụng phục vụ nhu cầu của con người, hàng thêu ren còn có giá trị văn hoá lịch sử thể hiện nét văn hoá dân tộc độc đáo. Trước đây hàng thêu chỉ phục vụ trong các cung đình và vua chúa, quan lại mới đủ điều kiện sử dụng. Ngày nay, khi đời sống vật chất và tinh thần của con người nâng cao, nhất là ở những nước phát triển, người ta thích dùng hàng thủ công sản xuất bằng tay, có giá trị văn hoá. Vì vậy họ tìm đến những nước mà ở đó công nghiệp chưa phát triển, hàng hoá chủ yếu làm thủ công để mua sắm hàng. Ngày nay, nhu cầu đó ngày càng phát triển, thị trường hàng thêu ren ngày một mở rộng và đòi hỏi cao hơn.
1.1.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các làng nghề
Quá trình hình thành và phát triển của các làng nghề chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, trong đó thì các nhân tố kinh tế - xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn cả. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển của các làng nghề gồm có:
* Nhu cầu thị trường:
Sự tồn tại và phát triển của các làng nghề phụ thuộc rất lớn vào khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú và thường xuyên biến đổi của thị trường. Những làng nghề có khả năng thích ứng với sự thay đổi nhu cầu của thị trường thường có sự phát triển nhanh chóng. Sự thay đổi nhu cầu của thị trường tạo định hướng cho sự phát triển của các làng nghề. Những làng nghề mà sản phẩm của nó phù hợp với nhu cầu của xã hội, có khả năng tiêu thụ lớn thì vẫn phát triển bình thường. Ngay cả trong mỗi một nghề, cũng có những làng nghề phát triển, trong khi một số làng nghề khác lại không phát triển được, do sản phẩm làm ra chỉ là những sản phẩm truyền thống, ít chú ý đến sự thay đổi kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng và giá cả nhằm đáp ứng được sự thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng trên thị trường.
* Cơ chế chính sách về phát triển ngành nghề, làng nghề TTCN:
Cơ chế chính sách của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển hay suy vong của các làng nghề. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, khi các hộ gia đình được công nhận là chủ thể kinh tế độc lập tự chủ trong nông thôn, các doanh nghiệp tư nhân được phép phát triển chính thức, thì các làng nghề đã có điều kiện phục hồi và phát triển mạnh. Chính sách mở cửa hội nhập nền kinh tế nước ta với khu vực và thế giới cũng làm cho một số sản phẩm làng nghề có điều kiện phát triển vì mở rộng được thị trường, nhất là hàng thủ công mỹ nghệ, trong đó có sản phẩm thêu ren truyền thống, nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho hàng nước ngoài tràn vào thị trường trong nước khá nhiều, làm cho sản phẩm của các làng nghề khó có thể cạnh tranh nổi với sản phẩm ngoại nhập, làm hạn chế sự phát triển của một số làng nghề. Trong quá trình CNH, HĐH đất nước, nếu không có chính sách phát triển hợp lý đối với sự kết hợp giữa đại công nghiệp với tiểu thủ công nghiệp thì các làng nghề cũng khó có điều kiện phát triển.
* Kết cấu hạ tầng:
Kết cấu hạ tầng, trước hết là giao thông, điện, cấp và thoát nước, bưu chính - viễn thông,... có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành, tồn tại và phát triển của các làng nghề, trong đó giao thông vận tải là yếu tố quan trọng nhất.
Từ xa xưa, các làng nghề truyền thống thường nằm trên các đầu mối giao thông thủy, bộ khá thuận lợi. Ngày nay, khi giao lưu kinh tế phát triển rộng khắp, khi mà thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề không chỉ ở tại địa phương mà vươn tới các thị trường xa xôi khác, khi mà nguồn nguyên liệu tại chỗ đã cạn kiệt phải vận chuyển từ nơi xa về thì nhu cầu về hệ thống giao thông vận tải phát triển thuận lợi đối với các làng nghề là rất quan trọng.
Trong công cuộc CNH, HĐH, sự phát triển của các làng nghề chịu ảnh hưởng rất lớn bởi hệ thống cung cấp điện, nước và thoát nước, trong việc đưa thiết bị, công nghệ, máy móc hiện đại để đổi mới công nghệ cổ truyền, làm tăng năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm làng nghề và làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở các làng nghề.
Sự hoạt động của các làng nghề trong điều kiện nền kinh tế thị trường chịu tác động mạnh bởi yếu tố thông tin nói chung, bưu chính viễn thông nói riêng. Nó sẽ giúp cho các chủ doanh nghiệp nắm bắt kịp thời, nhanh chóng, chính xác những thông tin về thị hiếu, giá cả, mẫu mã, chất lượng, quy cách sản phẩm trên thị trường, để có những ứng xử thích hợp đáp ứng nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, hệ thống cửa hàng, cửa hiệu, nhà trưng bày, giới thiệu sản phẩm, chợ nông thôn, trường học, bệnh viện... cũng là những nhân tố tích cực giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm nhanh, phát triển mạnh nguồn nhân lực có sức khỏe, trình độ tri thức và kỹ thuật tay nghề cao, tạo điều kiện cho các làng nghề phát triển.
* Trình độ kỹ thuật và công nghệ:
Trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất có ảnh hưởng rất quan trọng đối với bất kỳ ngành nghề nào, sản phẩm nào. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng và giá thành sản phẩm, đến năng lực cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa trên thị trường và cuối cùng là quyết định đến sự tồn tại hay suy vong của một cơ sở sản xuất, một ngành nghề nào đó. Hiện nay, phần lớn các cơ sở sản xuất ở các làng nghề vẫn sử dụng thiết bị thủ công, công nghệ cổ truyền chủ yếu dựa vào kinh nghiệm có tính chất cha truyền con nối trong từng hộ gia đình là chính. Bởi vậy, sản phẩm sản xuất ra với năng suất, số lượng và chất lượng sản phẩm thấp kém, không đồng bộ, giá thành cao, hạn chế khả năng cạnh tranh của các sản phẩm làng nghề. Để đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề không thể không đổi mới trang thiết bị, cải tiến áp dụng một số tiến bộ khoa học công nghệ vào các lĩnh vực sản xuất.
* Vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh:
Vốn là yếu tố, là nguồn lực quan trọng đối với bất kỳ quá trình sản xuất, kinh doanh nào. Sự phát triển của các làng nghề cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng của nhân tố vốn sản xuất. Trước đây, vốn của các hộ sản xuất, kinh doanh trong các làng nghề rất nhỏ bé, thường là vốn tự có của từng gia đình hoặc vay mượn của bà con họ hàng, láng giềng, nên quy mô sản xuất không mở rộng được. Ngày nay, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, nhu cầu về vốn đã khác trước, đòi hỏi các hộ sản xuất, kinh doanh trong các làng nghề phải có lượng vốn khá lớn để đầu tư, cải tiến công nghệ, đưa thiết bị, máy móc tiên tiến vào một số khâu, công đoạn, công việc có thể thay thế kỹ thuật lao động thủ công được, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
* Yếu tố nguyên vật liệu:
Yếu tố nguyên vật liệu cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất của các làng nghề. Khối lượng, chủng loại, phẩm cấp và khoảng cách từ cơ sở sản xuất tới nơi có nguồn nguyên vật liệu có ảnh hưởng tới chất lượng và giá thành sản phẩm của các đơn vị sản xuất. Cho nên, các làng nghề thường chú ý nhiều đến yếu tố nguyên vật liệu. Trước đây, phần lớn các làng nghề được hình thành do có nguồn nguyên vật liệu tại chỗ và nghề nghiệp chủ yếu được gắn bó với nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương. Hiện nay, nguồn nguyên liệu tại chỗ của nhiều làng nghề truyền thống đã cạn kiệt, phải vận chuyển từ những nơi khác về, điều kiện khai thác, vận chuyển có ảnh hưởng tới việc đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các làng nghề. Trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển như hiện nay, nguyên vật liệu cho các làng nghề đã có sự phong phú, đa dạng. Một loại nguyên vật liệu có thể dùng cho nhiều loại sản phẩm, ngược lại một loại sản phẩm có thể dùng nhiều loại nguyên vật liệu thay thế. Vì vậy, vấn đề chọn lựa và sử dụng các loại nguyên vật liệu thay thế hợp lý, theo hướng đa dạng hóa, giá rẻ, bảo đảm cho quy trình sản xuất nhanh, đảm bảo sảm phẩm của các làng nghề có được chất lượng cao, giá thành hạ là điều cần được quan tâm.
* Yếu tố truyền thống:
Đây là yếu tố có ảnh hưởng nhất định đối với sự phát triển của các làng nghề, là nhân tố quan trọng không chỉ chi phối các hoạt động sản xuất mà chi phối cả tiêu dùng và đời sống của cư dân nông thôn. Sự bình ổn của các làng nghề là điều kiện tạo ra truyền thống và truyền thống lại góp phần giúp cho làng nghề ổn định hơn, phát triển truyền thống cao hơn. Yếu tố truyền thống có những tác động trái ngược nhau tới sự phát triển của làng nghề.
Trong các làng nghề truyền thống, bao giờ cũng có các thợ cả, nghệ nhân có trình độ tay nghề cao, có kinh nghiệm sản xuất, có tâm huyết với nghề, là những hạt nhân để duy trì và phát triển của làng nghề. Họ và cơ sở cho sự tồn tại bền vững của các làng nghề trước mọi thăng trầm và đảm bảo duy trì những nét độc đáo truyền thống của các làng nghề. Yếu tố truyền thống có tác dụng bảo tồn những nét đặc trưng văn hóa của từng làng nghề, của dân tộc, làm cho sản phẩm làng nghề có tính độc đáo và có giá trị cao.
Song, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, không thể chỉ có kinh nghiệm cổ truyền, mà còn phải có khoa học và công nghệ hiện đại, phải có những con người có đầu óc kinh doanh năng động, sáng tạo. Yếu tố truyền thống trong điều kiện hiện nay có tác dụng hai mặt, vừa tích cực vừa tiêu cực, đối với sự phát triển của các làng nghề. Việc khó là làm sao đưa được những tiến bộ của khoa học và công nghệ hiện đại vào nhưng vẫn giữ được những yếu tố truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và những sản phẩm của các làng nghề phải được tiếp nhận trong thị trường của xã hội hiện đại.
1.1.4. Vai trò của làng nghề TTCN ở Việt Nam
* Phát triển các làng nghề TTCN là hình thức chủ yếu của phát triển công nghiệp nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn:
Trong ._.thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, làng nghề là nơi phát triển của các ngành nghề phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu và nâng cao đời sống nông dân. Trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), các làng nghề sản xuất kinh doanh tiểu thủ công nghiệp góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tạo ra sản phẩm phục vụ xã hội và góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
Làng nghề là lực lượng chủ yếu của công nghiệp nông thôn và là hình thức chủ yếu của phát triển nông thôn trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Phát triển các làng nghề đồng nghĩa với phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, nhờ vậy sẽ nâng tỷ trọng của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế ở nông thôn và tăng tốc độ phát triển kinh tế nông thôn. Đồng thời với thúc đẩy phát triển công nghiệp, phát triển các làng nghề sẽ kéo theo phát triển nông nghiệp để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp, thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các nghề dịch vụ... Do vậy, phát triển làng nghề sẽ góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.. Đến nay, cơ cấu kinh tế ở nhiều làng nghề truyền thống đã chuyển dịch theo hướng 60 - 80% cho công nghiệp và dịch vụ, 20 - 40% cho nông nghiệp.
* Làng nghề TTCN góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân ở nông thôn:
Phát triển toàn diện kinh tế, xã hội nông thôn, tạo việc làm, nâng cao đời sống cho dân cư nông thôn là vấn đề quan trọng hiện nay ở nước ta. Với diện tích đất canh tác bình quân vào loại thấp và tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở khu vực nông thôn còn chiếm tỷ lệ cao (hiện khoảng 30 - 35% lao động nông thôn). Do vậy vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho lao động nông thôn trở nên hết sức khó khăn, đòi hỏi sự hỗ trợ nhiều mặt và đồng bộ của các ngành nghề và khu vực. Việc mở mang, đầu tư phát triển ngành nghề ở các làng nghề là biện pháp tốt nhất để huy động nguồn lao động này. Bởi vì, sản xuất TTCN ở làng nghề chủ yếu thực hiện bằng tay, không đòi hỏi cao về chuyên môn, kỹ thuật như đối với các lĩnh vực sản xuất khác. Các cơ sở sản xuất thủ công trong làng nghề tuy có quy mô nhỏ, thậm chi chỉ là sản xuất của các hộ gia đình nhưng đã thu hút một số lượng khá lớn lao động nông thôn. Nhiều làng nghề ở nước ta hiện thu hút trên 60% lao động tham gia vào các hoạt động ngành nghề. Sự phát triển của làng nghề không những chỉ thu hút lao động ở gia đình làng xã mình mà còn thu hút được nhiều lao động từ các địa phương khác. Ngoài ra, sự phát triển của các làng nghề còn kéo theo nhiều nghề dịch vụ khác phát triển, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Mặt khác, cần chú ý đến ý nghĩa xã hội của những việc làm được tạo ra ở các làng nghề. Sự phát triển của các làng nghề đã có vài trò tích cực trong việc hạn chế di dân tự do. Người dân nông thôn luôn có tâm lý gắn bó với làng quê, do vậy khi đã có việc làm và thu nhập ổn định, mà nguồn thu nhập này lại cao hơn thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thì họ sẽ không muốn đi tìm việc nơi khác. Việc phát triển làng nghề theo phương châm “ly nông, bất ly hương” không chỉ có khả năng lớn giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, mà còn có vai trò tích cực trong việc hạn chế dòng di dân tự do từ nông thôn ra thành thị, từ vùng này sang vùng khác ở nước ta hiện nay. Hoạt động sản xuất TTCN của làng nghề không chỉ tạo ra một số lượng lớn lao động mà còn giải quyết việc làm cho những lao động nông nghiệp nhàn rỗi sau vụ sản xuất. Ở nhiều làng nghề, những người nông dân, trong những vụ nông nhàn hoặc ngoài giờ ra đồng lại chính là những người thợ thủ công tài hoa. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất thủ công trong làng nghề còn thu hút được một lực lượng đông đảo người già, trẻ em, người tàn tật tham gia sản xuất ở những công đoạn đơn giản. Theo ước tính của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, những nhóm đối tượng này chiếm đến 30 - 35% lao động đang làm việc trong các làng nghề.
Bên cạnh đó, tạo thêm công ăn việc làm sẽ làm tăng thu nhập của người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân. Đây cũng là một trong những chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề quốc kế dân sinh. Thực tế là trong những năm qua, sự phục hồi và phát triển của các làng nghề đã có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Thu nhập của các hộ làm nghề thủ công ở các làng nghề cao hơn từ 2 - 8 lần thu nhập của hộ thuần nông. Ở các làng có nghề, tỷ lệ hộ khá và giàu thường rất cao, tỷ lệ hộ nghèo thường rất thấp và hầu như không có hộ đói. Thu nhập từ nghề thủ công chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập đã đem lại cho người dân ở các làng nghề một cuộc sống đầy đủ, phong lưu hơn cả về vật chất lẫn tinh thần.
* Làng nghề góp phần phát triển kinh tế địa phương và xây dựng nông thôn mới:
Phát triển làng nghề góp phần tăng thu nhập của người dân, đồng thời đã tạo ra nguồn tích luỹ khá lớn và ổn định cho các hộ gia đình cũng như cho ngân sách địa phương. Vì vậy, nguồn vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn được huy động từ sự đóng góp của người dân tại các địa phương có làng nghề phát triển cũng khác hẳn so với các địa phương không có nghề. Ở làng nghề, đặc biệt là ở các làng nghề vùng Đồng bằng sông Hồng, gần như 100% đường làng, ngõ xóm đều được bê tông hoá hoặc lát gạch hoặc chạt xỉ vôi. Các địa phương này đều có trường mầm non, tiểu học, phổ thông cơ sở khang trang. Hệ thống điện nước được cải tạo và nâng cấp. Đời sống văn hoá tinh thần của người dân được cải thiện và từng bước được nâng cao. Sức mua của người dân có xu hướng tăng, góp phần tạo điều kiện cho thị trường hàng hoá tiêu dùng, dịch vụ phát triển. Thu hẹp dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn và góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
* Hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề góp phần làm tăng giá trị tổng sản phẩm hàng hóa cho nền kinh tế:
Phát triển làng nghề có ý nghĩa rất quan trọng đối với phát triển kinh tế, xã hội nông thôn. Với quy mô nhỏ bé, được phân bổ rộng khắp ở các vùng nông thôn, hàng năm các làng nghề luôn sản xuất ra một khối lượng sản phẩm hàng hoá khá lớn phục vụ cho tiêu dùng trong nước và cho xuất khẩu, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân nói chung và cho từng địa phương nói riêng. Năng lực sản xuất, kinh doanh của các làng nghề là yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá ở nông thôn. Thực tế cho thấy ở địa phương nào có nhiều làng nghề thì ở đó kinh tế hàng hoá phát triển.
* Làng nghề phát triển góp phần phát huy tiềm năng, thế mạnh nội lực của địa phương:
Các nghề thủ công trong làng nghề cho phép khai thác triệt để hơn các nguồn lực ở địa phương, cụ thể là nguồn lao động, nguyên vật liệu, tiền vốn. Làng nghề truyền thống có thể làm được điều này vì nó có nhiều loại quy mô, dễ dàng chuyển hướng kinh doanh v.v...
Một khi làng nghề ở nông thôn phát triển mạnh, nó sẽ tạo ra một đội ngũ lao động có tay nghề cao và lớp nghệ nhân mới. Chính thông qua lực lượng này để tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến áp dụng vào sản xuất, làm cho sản phẩm có chất lượng cao, giá thành giảm, khả năng cạnh tranh trên thị trường lớn. Như vậy các làng nghề càng phát triển mạnh nó càng có điều kiện để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Hơn nữa khi cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường và hiện đại, chính là tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ lao động thích ứng với tác phong công nghiệp, nâng cao tính tổ chức kỷ luật. Đồng thời trình độ văn hoá của người lao động ngày một nâng cao, lại là cơ sở thuận lợi cho việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào lĩnh vực sản xuất và hoạt động dịch vụ trong làng nghề.
* Phát triển làng nghề góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của địa phương:
Lịch sử phát triển kinh tế cũng như lịch sử phát triển nền văn hoá Việt Nam luôn gắn liền với lịch sử phát triển của các làng nghề truyền thống. Văn hoá làng nghề với các thể chế cộng đồng chứa đựng những quan hệ huyết thống, láng giềng, hôn nhân, nghề nghiệp với các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội mang đậm những sắc thái riêng, tạo nên bản sắc truyền thống văn hoá phong phú sâu đậm của dân tộc ta. Vì vậy, để các làng nghề truyền thống mai một cũng tức là đánh mất đi một phần máu thịt của nhiều thế hệ, đánh mất một vốn quý của dân tộc.
Làng nghề là cả một môi trường kinh tế, xã hội và văn hoá thu nhỏ. Nó bảo lưu những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật từ đời này sang đời khác, hun đúc các thế hệ nghệ nhân tài ba và những sản phẩm độc đáo mang bản sắc riêng. Bởi vậy, các làng nghề truyền thống với những bàn tay vàng của người thợ thủ công cần được coi trọng, bảo tồn và phát triển. Bảo tồn và phát triển các làng nghề là tăng thêm sức mạnh cội nguồn, gieo vào lòng mỗi người Việt Nam tình cảm dân tộc, yêu quý, trân trọng, giữ gìn di sản và bản sắc văn hoá Việt Nam. Điều đó không gì khác là giữ gìn và phát huy một bộ phận của nền văn minh nhân loại, làm tăng những giá trị văn hoá truyền thống trong một thế giới đa phương tiện thông tin và đầy biến động.
Với vai trò to lớn của làng nghề trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, để khôi phục và phát triển làng nghề đòi hỏi các cấp chính quyền phải nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của làng nghề; kịp thời có những biện pháp hỗ trợ các làng nghề phát triển phù hợp với đặc điểm từng địa phương cũng như yêu cầu của thị trường.
1.2. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta có liên quan đến phát triển làng nghề TTCN
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 đã khẳng định “... đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu, thị hiếu và điều kiện sinh thái của từng vùng, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và cơ cấu lao động, tạo việc làm, thu hút nhiều lao động ở nông thôn, ... phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn liền với thị trường trong nước và xuất khẩu...”. Qua đó, có thể nhận thấy phát triển các làng nghề gắn liền với thị trường trong nước và xuất khẩu nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước. Chính phủ cũng đã đưa ra nhiều chính sách, biện pháp ưu tiên, khuyến khích phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn: Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi và áp dụng những chính sách nhằm đảm bảo quyền lợi cho các cơ sở sản xuất và ngành nghề nông thôn, đặc biệt là các ngành, nghề TTCN, nhằm thoả mãn yêu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, thu hút lao động và góp phần tạo công ăn việc làm ở nông thôn, xoá đói giảm nghèo, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Quyết định số 132/2001/QĐ-TTg ngày 07/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế tài chính phục vụ triển khai các chương trình phát triển đường và cơ sở hạ tầng phục vụ nông, ngư nghiệp ở các làng nghề, nội dung của Quyết định là: khuyến khích các địa phương huy động mọi nguồn lực và tổ chức triển khai có hiệu quả các chương trình phát triển đường và cơ sở hạ tầng nông thôn phục vụ nông, ngư nghiệp tại các làng nghề.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng đã xác định “... Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp. Tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, tạo điều kiện để phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, các vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung, các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các làng nghề, các loại hình sản xuất trang trại, hợp tác xã, sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao...”. Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 về phát triển ngành nghề nông thôn. Nghị định này đã đưa ra một hệ thống chính sách khuyến khích phát triển làng nghề, từ xây dựng mặt bằng sản xuất, đầu tư tín dụng đến xúc tiến thương mại, khoa học công nghệ và đào tạo nhân lực.
Năm 2008, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã chính thức trình Chính phủ Đề án phát triển mỗi làng một nghề. Đây là Đề án có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xoá đói giảm nghèo, đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, thực hiện Nghị quyết của Ðảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Mục tiêu của Đề án là tạo ra phong trào rộng khắp trong cả nước phát huy lợi thế, tiềm năng của các địa phương về ngành nghề nông thôn, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước; thu hút và tạo ra mối liên kết chặt chẽ hơn giữa nhiều “nhà” cùng tham gia phát triển ngành nghề; tạo ra những nghề mới, thêm nhiều làng có nghề, thêm nhiều làng nghề mới. Từ đó thúc đẩy ngành nghề nông thôn phát triển bền vững, lâu dài, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, nâng cao tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp, dịch vụ và nâng cao thu nhập của người dân nông thôn; góp phần bảo tồn giá trị truyền thống, tạo ra bản sắc mới của các làng xã trong các sản phẩm. Như vậy, khi Đề án được triển khai thực hiện sẽ mở ra cơ hội để thúc đẩy các làng nghề phát triển hơn nữa trong thời gian tới.
1.3. Những bài học kinh nghiệm về phát triển làng nghề TTCN
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước châu Á
Hiện nay, ở nhiều nước châu Á việc phát triển làng nghề TTCN được coi là một trong những giải pháp tích cực, góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội nông thôn, tạo thêm việc làm cho người lao động với thu nhập cao hơn thu nhập từ nông nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, mỗi nước đều có những chính sách và giải pháp riêng, phù hợp với điều kiện thực tế của mình.
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Ở Nhật Bản, tuy công nghiệp hoá diễn ra nhanh và mạnh song những ngành nghề, làng nghề TTCN không những không bị mai một mà trái lại, nó vẫn được duy trì và phát triển ở nông thôn. Họ không những duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống mà còn mở ra một số nghề mới.
Đối với nghề thủ công truyền thống - một bộ phận tài sản văn hoá quý báu của dân tộc, Chính phủ đã sớm đề ra những chính sách bảo tồn thích hợp và thiết thực. Vào những năm 70 của thế kỷ XX ở tỉnh Oita (miền Tây Nam Nhật Bản) đã có phong trào “Mỗi thôn làng một sản phẩm” nhằm phát triển ngành nghề cổ truyền ở nông thôn. Sau đó phong trào này đã nhanh chóng lan rộng ra khắp đất nước. Nhận thức được vai trò quan trọng của nghề thủ công truyền thống ở các làng nghề trong việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân, tạo ra phong vị chân chính cho cuộc sống - cái mà ngành sản xuất hàng loạt trong những thập kỷ vừa qua không thể đem tới cho họ, năm 1974 Chính phủ đã ban hành Luật Phát triển nghề thủ công truyền thống (gọi tắt là Luật Nghề truyền thống), tạo cơ sở cho việc thực hiện. Luật Nghề truyền thống được ban hành với mục tiêu khôi phục và phát triển nghề thủ công truyền thống vốn đang đứng trước nguy cơ bị mai một dần bởi các vấn đề của xã hội công nghiệp hiện đại. Cho đến nay, với hai lần sửa đổi, bổ sung Luật vẫn có hiệu lực và đang chứng tỏ vai trò quan trọng của nó trong việc tạo dựng lối sống và văn hoá Nhật Bản. Bên cạnh Luật này còn có một số bộ luật có liên quan cung góp phần tạo nên hiệu quả trong việc bảo tồn nghề thủ công truyền thống như “Luật Khuyến khích phát triển năng lực lao động” do Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi ban hành năm 1969. Bộ Luật này đảm bảo cho mọi người có cơ hội được đào tạo, dạy nghề hoặc thi lấy bằng, chứng chỉ về khả năng lao động, nhằm phát triển tay nghề của người thợ thủ công cũng như bảo đảm vị trí, nâng cao vị thế của họ.
Nghề thủ công truyền thống ở Nhật Bản được chia làm hai lĩnh vực văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ được xếp vào loại di sản văn hoá vật chất, việc quản lý, tu sửa do chủ sở hữu hoặc tổ chức đoàn thể quần chúng tiến hành nhưng sẽ được Nhà nước hỗ trợ về tài chính. Các kỹ thuật, bí quyết nghề thủ công được xếp hạng vào di sản văn hoá tinh thần và những người có tay nghề tái tạo những sản phẩm đó được công nhận là người làm công tác bảo tồn (“nghệ nhân quốc bảo”) hoặc đoàn thể làm công tác bảo tồn. Đối với những cá nhân hoặc đoàn thể này, Nhà nước sẽ trợ cấp tiền để họ trau dồi, nâng cao kỹ năng, tay nghề và bồi dưỡng thế hệ kế nghiệp. Hiện nay, các chính sách hỗ trợ nhằm nuôi dưỡng thế hệ kế thừa truyền thống vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu.
Bên cạnh đó, Nhà nước đã ban hành hàng loạt chính sách khuyến khích phát triển nghề thủ công truyền thống như: chính sách công khai bí quyết nghề thủ công truyền thống (mở triển lãm giới thiệu sản phẩm, làm phim truyền hình và băng video tư liệu về các kỹ thuật chế tác quan trọng, tổ chức các khoá tham quan học tập tại viện bảo tàng cho học sinh tiểu học và trung học), đào tạo thế hệ kế nghiệp, thúc đẩy quảng cáo và bán sản phẩm, nghiên cứu sản xuất nguyên vật liệu thay thế cho nguyên vật liệu truyền thống đang dần dần cạn kiệt, sử dụng nguồn lao động sẵn có tại địa phương để phát triển nghề thủ công truyền thống của khu vực...
Ngoài ra, mới đây Nhà nước đã ban hành một chính sách quan trọng là đầu tư xây dựng các Trung tâm Nghiên cứu phát triển mẫu mã mới cho sản phẩm thủ công tại các làng nghề. Các trung tâm này có nhiệm vụ nghiên cứu và sản xuất thử nghiệm những sản phẩm mới theo quy trình công nghệ truyền thống, có sự kết hợp giữa tính văn hoá truyền thống và văn hoá hiện đại, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội hiện nay. Mặt khác, việc nghiên cứu mặt hàng mới còn nhằm mục đích giúp cho các cơ sở sản xuất có thể tạo ra số lượng hàng hoá nhiều hơn với giá rẻ, kích thích sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế cho các địa phương, sao cho các nghệ nhân ở làng nghề có thể sinh sống được bằng chính nghề của họ.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
Trong quá trình CNH, HĐH, để nâng cao mức sống của người dân nông thôn, đi đôi với việc khuyến khích phát triển nông nghiệp theo hướng xuất khẩu, Chính phủ Thái Lan cũng đã chú trọng và chủ động phát triển các ngành nghề, làng nghề TTCN ở nông thôn. Đặc biệt, từ khi Dự án toàn quốc “Một làng nghề, một sản phẩm” được đưa vào triển khai thực hiện đã tạo ra phong trào phát triển ngành nghề, làng nghề TTCN rất mạnh mẽ trong cả nước và bước đầu đã đạt được những kết quả tích cực.
Dự án toàn quốc “Một làng nghề, một sản phẩm” được Chính phủ Thái Lan khởi xướng vào năm 2001 với mục tiêu tập trung các nguồn lực và chú ý hơn đến xúc tiến những sản phẩm và dịch vụ đặc thù của địa phương. Dự án được coi như một chiến lược tạo ra thu nhập bình đẳng hơn cho người dân nông thôn. Dựa trên đặc điểm và thế mạnh của mình, từng làng sẽ chọn và phát triển một sản phẩm đặc thù có chất lượng. Mục tiêu cuối cùng là sản phẩm giành được các thị trường ngách trên thị trường thế giới và được nhận biết thông qua chất lượng cũng như tính khác biệt nhờ vào đặc thù của từng làng quê Thái. Dự án được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản là: (1) mang tính địa phương, nhưng phải tiến ra toàn cầu; (2) phát huy tính tự lực và sáng tạo, và (3) phát triển nguồn nhân lực.
Dự án không chỉ dừng lại ở việc phát triển những sản phẩm hay dịch vụ đặc thù địa phương, đặc biệt là phát triển các hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống mà mục tiêu của nó có tính toàn diện: phát triển có kế thừa văn hoá địa phương và các kiến thức truyền thống cùng với những kinh nghiệm lâu đời truyền lại, bao gồm: nghệ thuật, âm nhạc và văn học của từng địa phương; từ đó, tạo nguồn thu từ phát triển du lịch và bảo tồn thiên nhiên. Dự án nhằm mục đích tạo ra sự kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát huy và bảo tồn văn hoá truyền thống. Để những kỹ năng và kiến thức truyền thống đem lại nguồn thu bền vững, Chính phủ tập trung vào các nhân tố hỗ trợ, bao gồm: tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực với kỹ năng và kiến thức, bản sắc văn hoá độc đáo, từ đó phát huy tính tự lực, tự quản lý của từng địa phương và khuyến khích những nỗ lực tự vươn lên.
Kết quả bước đầu của Dự án, trong 4 tháng đầu năm 2002, chương trình được thực hiện đã đem lại 3,66 tỷ Baht (84,2 triệu USD) lợi nhuận cho nông dân. Năm 2003 doanh số bán hàng của các làng tham gia Dự án đã đạt mức 30,8 tỷ Baht, tăng 13% so với năm 2002 và năm 2004 đạt khoảng 40 tỷ Baht; cũng nhờ Dự án này mà nhiều người nước ngoài đã biết đến sản phẩm thủ công của Thái Lan.
Dự án “Một làng, một sản phẩm” của Thái Lan tiêu biểu cho một chiến lược cấp quốc gia về phát triển và quảng bá các sản phẩm trong nước, xây dựng hình ảnh Thái Lan trên thị trường toàn cầu như một đất nước có những nét văn hoá đặc trưng. Dự án tiêu biểu cho liên kết có hiệu quả giữa Chính phủ, các cấp chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể, khu vực tư nhân và cộng đồng người dân để khai thác nguồn nội lực từ cộng đồng dân cư. Đặc biệt, Dự án đã sử dụng thương mại điện tử như một công cụ hữu hiệu để phát triển các sản phẩm truyền thống giúp tấn công nghèo đói, phát triển dân trí và kinh tế vùng nông thôn.
Mặc dù đạt được những kết quả nhất định, nhưng sau một thời gian thực hiện Dự án đã bộc lộ một số hạn chế cần được cải tiến, khắc phục như: các sản phẩm của làng nghề còn chưa có khả năng xây dựng được hình ảnh thực sự đặc trưng cho địa phương như dựa trên yếu tố nguyên liệu, nguồn cung ứng nguyên liệu, tính chất lịch sử của sản phẩm. Có nhiều sản phẩm chỉ sao chép các sản phẩm tương tự. Các sản phẩm của Dự án cần đáp ứng hơn nữa thị hiếu của thị trường về chất lượng sản phẩm và đóng gói, việc quản lý chất lượng cần được thực hiện thống nhất. Việc giới thiệu sản phẩm với khách hàng còn chưa thật hiệu quả, chưa nêu bật được đặc điểm của sản phẩm. Nguyên nhân sâu xa là do các cơ sở chế tạo, thiết kế và các cơ quan có liên quan vẫn còn thiếu kiến thức về các lĩnh vực như marketing, thiết kế và phát triển sản phẩm...
1.3.1.3. Kinh nghiệm của Inđônêxia
Chương trình phát triển ngành nghề TTCN được Chính phủ Inđônêxia hết sức quan tâm bằng việc lần lượt đề ra các kế hoạch 5 năm.
- Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất: Xây dựng các xưởng và trung tâm để bán các sản phẩm TTCN của các làng nghề.
- Kế hoạch 5 năm lần thứ hai: Thực hiện các dự án hướng dẫn và phát triển công nghiệp nhỏ nhằm giáo dục, đào tạo, mở mang các hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp của những doanh nghiệp nhỏ.
- Kế hoạch 5 năm lần thứ ba: Chính phủ đứng ra tổ chức một số cơ quan để quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ cung cấp vật tư thiết bị, tiêu thụ sản phẩm cho các làng nghề.
Chính phủ đã thiết lập chương trình kết hợp giữa các trung tâm công nghiệp với làng nghề truyền thống. Các trung tâm công nghiệp có trách nhiệm giúp đỡ làng nghề truyền thống nâng cao năng lực quản lý, quy trình công nghệ marketing, cung cấp tài chính, mua nguyên liệu thô và đứng ra đảm bảo cho làng nghề truyền thống vay vốn ngân hàng, còn làng nghề truyền thống có nhiệm vụ cung cấp dịch vụ, đồng thời làm nhiệm vụ gia công cho trung tâm công nghiệp lớn. Thậm chí có lúc trung tâm công nghiệp lớn còn đứng ra giúp đỡ làng nghề truyền thống bán sản phẩm của mình trên thị trường quốc tế hoặc thường xuyên trao đổi cung cấp thông tin cần thiết về thị trường xuất khẩu, những mặt hàng đang được ưa chuộng và có nhu cầu lớn trên thị trường. Có thể nói, sự nỗ lực của Chính phủ trong việc phát triển ngành nghề TTCN ở nông thôn đã đem lại những hiệu quả thiết thực ở Inđônêxia.
• Tổng kết những bài học kinh nghiệm đúc kết từ một số nước châu Á:
Từ thực tiễn phát triển làng nghề ở một số nước châu Á, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
Một là, muốn phục hồi và phát triển ngành nghề, làng nghề TTCN thực sự có hiệu quả trước hết phải có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước. Đó là sự hỗ trợ bằng việc ban hành những quy định pháp chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, đồng thời hỗ trợ về tài chính và tiếp cận nguồn vốn, tạo nền tảng và động lực cho các doanh nghiệp trong ngành TTCN phát triển. Xây dựng cơ chế, chính sách cho các hộ tại làng nghề vay vốn không cần thế chấp. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, Chính phủ cần có những hỗ trợ toàn diện đối với hoạt động của các làng nghề, từ đảm bảo nguồn nguyên liêu, đào tạo lao động đến cung cấp thông tin, quảng bá sản phẩm,... Những chương trình hỗ trợ toàn diện này sẽ tạo điều kiện cho hoạt động của các làng nghề có thể phát triển một cách bền vững.
Hai là, việc sản xuất các loại hàng phải xuất phát từ nhu cầu thị trường, sản phẩm phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của thị trường. Cải tiến mẫu mã bằng việc mời các chuyên gia của những nước nhập khẩu chính để tư vấn.
Ba là, tăng cường việc đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá, trình độ tay nghề cho người lao động của làng nghề thông qua các trung tâm đào tạo, các viện nghiên cứu. Đồng thời phải xây dựng và phát triển các trung tâm đào tạo nghề bậc cao thay vì đào tạo nghề mới như hiện nay. Bên cạnh đó, cần giáo dục thế hệ trẻ biết giữ gìn văn hoá truyền thống cũng như tôn vinh nghệ nhân, những người trực tiếp làm nên những sản phẩm thủ công độc đáo.
Bốn là, thành lập các tổ chức, hiệp hội ngành nghề và phát huy vai trò của nó trong việc hỗ trợ các vấn đề về vốn, tiêu thụ sản phẩm, đào tạo,...
Năm là, áp dụng công nghệ mới, hiện đại để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hạn chế ô nhiễm môi trường tại các làng nghề.
Sáu là, chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng (kỹ thuật, hành chính, nghiên cứu và phát triển) tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tại làng nghề tiếp cận với các điều kiện sản xuất kinh doanh hiện đại và mở rộng thị trường.
Bảy là, phát triển làng nghề phải xuất phát từ những chính sách bảo tồn và phát triển văn hoá truyền thống; phát triển làng nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch làng nghề. Các sản phẩm thủ công ở các làng nghề, đặc biệt là ở các làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống luôn chứa đựng những giá trị văn hoá của dân tộc. Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy, những chính sách bảo tồn và phát triển văn hoá truyền thống vừa là tiền đề để tổ chức sản xuất, vừa là phương tiện hiệu quả để quảng bá các sản phẩm truyền thống của làng nghề. Bên cạnh đó, thu hút khách du lịch đến với làng nghề không chỉ giúp mở rộng thị trường mà còn chính là một trong những kênh quảng bá cho sản phẩm làng nghề truyền thống. Kinh nghiệm của Dự án “Một làng nghề, một sản phẩm” của Thái Lan cho thấy rằng làng nghề không chỉ là nơi sản xuất hàng thủ công truyền thống mà còn phải là một điểm du lịch.
1.3.2. Kinh nghiệm trong nước
1.3.2.1. Kinh nghiệm của tỉnh Hà Tây (cũ)
Hà Tây là đất trăm nghề, là tỉnh có nhiều làng nghề nhất của cả nước với nhiều nghề truyền thống lâu đời như lụa Vạn Phúc, rèn Đa Sỹ, sơn mài Duyên Thái... Với hơn 1.000 làng có nghề và hơn 200 làng nghề ở địa phương đã góp phần làm cơ cấu kinh tế của tỉnh có bước chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 20,5%, cao hơn mặt bằng chung của cả nước, giải quyết công ăn việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn, góp phần tích cực vào công cuộc xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn. Nhiều biện pháp được Hà Tây đặt ra và thực hiện có hiệu quả như:
Một là, khôi phục và phát triển làng nghề:
Tỉnh uỷ Hà Tây nhận thức sâu sắc việc khôi phục, duy trì, phát triển làng nghề, ngành nghề truyền thống và nhân cấy nghề mới là một trong những giải pháp quan trọng để khai thác và phát huy nhân tố nội lực tiềm ẩn ở nông thôn. Trong 5 năm qua, với quyết tâm cao trong tổ chức thực hiện của các ngành, các cấp, nhiều ngành nghề truyền thống đã dần dần thích nghi với điều kiện của nền kinh tế thị trường. Tỉnh đã có nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ các nghề thủ công bị mai một trong thời kỳ bao cấp như các nghề: dệt, thêu ren, sơn mài, khảm trai, điêu khắc, đồ mộc, tơ tằm... Bên cạnh việc khôi phục, duy trì làng nghề, nhân cấy nghề mới đặc biệt là việc đưa nghề vào các làng nghề, tiến tới làng nghề. Với cách làm như vậy, số lượng làng nghề và làng có nghề ở Hà Tây được tăng lên nhanh chóng. Hiện nay, Hà Tây có 1.160 làng có nghề, 201 làng nghề và số lượng làng nghề, làng có nghề chiếm 80% số làng của tỉnh.
Hai là, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực:
Sự hoạt động của các làng nghề có sức thu hút lao động rất lớn. Song, lao động của mỗi nghề lại mang tính đặc thù cần có của nó. Vì vậy, việc dạy nghề, truyền nghề cho người lao động để họ có được một trình độ tay nghề nhất định, làm ra sản phẩm được thị trường chấp nhận và sau khi học họ có thể trở thành một thợ thủ công độc lập là một nhân tố quan trọng trong phát triển làng nghề. Trong thời gian qua, tỉnh Hà Tây đã mở hàng trăm lớp học nghề với hàng chục ngàn học viên theo học. Khoảng 80% số học viên sau khi học xong được bố trí việc làm ngay tại các cơ sở sản xuất ở các làng nghề và họ thường trở thành những hạt nhân trong các nghề mới hình thành. Tỉnh xác định vấn đề đào tạo để sử dụng được sức lao động tại chỗ trong các vùng nông thôn làm nghề TTCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển.
Ba là, chính sách khuyến công:
Để thực hiện tốt việc chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với quá trình CNH, HĐH tỉnh Hà Tây rất chú trọng đến chính sách khuyến công. Hà Tây đã chi hỗ trợ mỗi năm khoảng 1,5 tỷ đồng cho các chương trình khuyến công để hỗ trợ phát triển công nghiệp, TTCN. Trong đó, trên 50% dành cho hỗ trợ mở lớp truyền dạy nghề, nhân cấy nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại các địa phương, đặc biệt là tại các làng xã không có nghề. Quỹ khuyến công của tỉnh còn được sử dụng vào hỗ trợ các dự án áp dụng công nghệ mới, thiết bị mới, làm ra sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, bồi dưỡng kiến thức cho các chủ doanh nghiệp, các cán bộ quản lý ở các cơ sở, tổ chức tham quan học tập các tỉnh bạn... Vì vậy đã khuyến khích các làng nghề phát triển mạnh và phong trào phát triển làng nghề ở Hà Tây thực sự đã có những chuyển biến tích cực trong những năm qua.
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, Hà Tây đưa ra mục tiêu 100% làng có nghề vào năm 2010. Để thực hiện được mục tiêu đó, tỉnh đã và đang tiếp tục bổ sung, ho._.ực hiện tốt sự gắn bó giữa chiến lược thị trường với chiến lược sản xuất trong làng nghề.
3.4.8. Thành lập và phát huy vai trò của các Hiệp hội làng nghề thêu ren trên địa bàn xã Thanh Hà
Hiện nay, trong các làng nghề thêu ren ở xã tồn tại chủ yếu là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh theo quy mô hộ gia đình. Các loại hình doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ như: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, hợp tác xã, tổ hợp tác... đã và đang xuất hiện. Đặc điểm nổi bật của chúng là quy mô vốn và lao động quá nhỏ, luôn nằm trong tình trạng thiếu vốn, công nghệ, thiết bị lạc hậu, năng lực quản lý kinh doanh yếu kém dẫn tới năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế thấp. Thêm vào đó là sự thiếu thông tin trên nhiều góc độ mà nổi bật là thiếu thông tin về thị trường, cũng như khả năng hoạt động tiếp thị kém, làm cho năng lực cạnh tranh và thâm nhập thị trường yếu kém. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc bảo tồn và phát triển các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã.
Để khắc phục được những hạn chế nêu trên thì việc thành lập và phát huy vai trò của các hiệp hội làng nghề thêu ren trên địa bàn có ý nghĩa rất quan trọng. Việc thành lập Hiệp hội làng nghề thêu ren nhằm tập hợp các hộ, cơ sở, tổ hợp sản xuất trong làng cùng sản xuất, cạnh tranh lành mạnh, hỗ trợ nhau cùng phát triển làng nghề, chia sẻ thông tin về thị trường. Vai trò của hiệp hội được tập trung trong bốn lĩnh vực sau:
- Hiệp hội là cầu nối giữa các cơ sở sản xuất làng nghề với các cơ quan Nhà nước;
- Hiệp hội là người đại diện và bảo vệ quyền lợi của các thành viên trên thị trường cả trong nước và quốc tế;
- Hiệp hội là người thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại chung cho các thành viên (như tiếp thị, mở rộng thị trường, xây dựng thương hiệu,...);
- Hiệp hội góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm thêu ren của các làng nghề trên địa bàn xã.
Hiện tại, các làng nghề trên địa bàn xã chưa thành lập được Hiệp hội làng nghề. Năm 2006, một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm thêu ren trên địa bàn xã đã đứng ra thành lập Hiệp hội làng nghề thêu ren xã Thanh Hà. Tuy nhiên, vai trò của Hiệp hội này chưa được phát huy nên các việc tham gia của các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề thêu ren vào Hiệp hội còn rất hạn chế. Để tăng cường sức mạnh và tính đại diện cao cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề, Hiệp hội làng nghề cần đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của mình, tạo lòng tin và thu hút sự tham gia của các cơ sở sản xuất kinh doanh ở các lang nghề, mở rộng tổ chức phát triển Hiệp hội. Hiệp hội cần mở rộng thành viên của mình trong tất cả doanh nghiệp thuộc mọi loại hình, từ các hộ gia đình đến các doanh nghiệp, hợp tác xã. Bên cạnh đó, cần khuyến khích thành lập các hiệp hội làng nghề trong từng làng nghề trên địa bàn xã. Tuy nhiên, cần chú ý rằng, hiệp hội là một tổ chức mang tính tự nguyện. Do đó, không có cách nào khác là để mở rộng các thành viên của hiệp hội ngoài việc phải làm cho doanh nghiệp thấy được những lợi ích của việc tham gia hiệp hội. Điều này đòi hỏi hiệp hội phải hoạt động thực sự có hiệu quả.
Để phát huy vai trò của mình, các hiệp hội làng nghề cần thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:
- Tham gia tuyên truyền, phổ biến cho hội viên nắm được các chính sách của Nhà nước trong việc bảo tồn và phát triển làng nghề, bảo đảm vệ sinh môi trường, nâng cao đời sống người lao động.
- Động viên nhiệt tình và khả năng lao động sáng tạo của các hội viên, hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ nhau về kinh tế - kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sản phẩm thêu ren của các làng nghề trên cơ sở trao đổi kinh nghiệm, phổ biến và ứng dụng các công nghệ, thiết bị mới.
- Trợ giúp, tư vấn cho hội viên trong việc tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ, đẩy mạnh xuất khẩu. Trợ giúp hội viên trong việc đăng ký và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Tập hợp sức mạnh các làng nghề cùng nhau tiến hành xúc tiến thương mại, tạo lập thương hiệu, logo, cung cấp thông tin về thị trường giá cả, mẫu mã, các quy định mới của Nhà nước, lập trang Web chung trên mạng. Tổ chức các cuộc triển lãm, hội chợ, chợ phiên, hội nghị, hội thảo để trao đổi kinh nghiệm về phát triển nghề thêu ren, khuyến khích hợp tác, liên kết giữa các hội viên.
- Trợ giúp việc tổ chức du lịch làng nghề gắn với du lịch văn hóa, du lịch sinh thái.
- Tổ chức và phối hợp với các ngành, các cơ sở đào tạo nghề mở các lớp dạy nghề; đào tạo bồi dưỡng trình độ quản lý; đặc biệt coi trọng việc truyền nghề của các nghệ nhân lão thành cho lớp thợ trẻ... nhằm bảo tồn và phát triển các làng nghề thêu ren.
- Đại diện cho hội viên tập hợp ý kiến, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của hội đề nghị với các cơ quan nhà nước về những biện pháp khuyến khích, giúp đỡ bảo tồn, phát triển các làng nghề thêu ren, tăng giá trị kinh tế, giá trị văn hóa của sản phẩm thêu ren ở làng nghề, bảo vệ quyền lợi chính đáng của hội viên.
3.4.9. Khuyến khích chuyển đổi hộ sản xuất kinh doanh sang mô hình doanh nghiệp
Có thể nói, việc chuyển đổi hộ sản xuất kinh doanh sang mô hình doanh nghiệp đang là xu hướng hiện nay ở các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần giữ gìn, phát triển nghề thêu ren truyền thống phù hợp với nền kinh tế chuyển đổi và hội nhập trong giai đoạn hiện nay.
Việc chuyển đổi từ hộ kinh doanh sang doanh nghiệp ở các làng nghề thêu ren xã Thanh Hà có nhiều thuận lợi, bởi trước hết đó là sự thay đổi tư duy của chính những người sản xuất kinh doanh. Chuyển thành doanh nghiệp có địa vị pháp lý rõ ràng, trong kinh doanh việc giao dịch gặp nhiều thuận lợi hơn, thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước. Điều quan trọng là chính quyền địa phương cũng hết sức quan tâm đến sự phát triển của làng nghề, bằng cách quy hoạch, tạo điều kiện về đất đai để doanh nghiệp tập trung mở rộng nhà xưởng, hình thành cụm công nghiệp làng. Trong làng các làng nghề thêu ren sẽ là nơi tập trung các cửa hàng trưng bày sản phẩm và giao dịch, là nơi khách hàng đến tham quan mua sắm hàng thêu ren. Những yếu tố đó đã tạo động lực khuyến khích nhiều hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp và đã trở thành làng doanh nghiệp.
Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ, các cơ sở sản xuất trong các làng nghề thêu ren tham gia các hình thức hợp tác sản xuất, đa dạng hoá các hình thức tổ chức nghề tham gia các hình thức hợp tác sản xuất. Đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất như hộ, liên hộ, doanh nghiệp nghiệp tư nhân, công ty TNHH, hợp tác xã thêu ren,.. nhằm tăng cường sức cạnh tranh và củng cố quan hệ sản xuất.
Khuyến khích và tạo điều kiện cho các làng nghề thêu ren (hoặc cơ sở, doanh nghiệp) thành lập tập trung đứng ra bảo đảm giới thiệu đầu ra, đầu vào của sản phẩm hoặc đảm nhiệm việc đầu tư mang tính chất chuyên môn hoá.
Tăng cường hợp tác liên doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp nhà nước với các làng nghề thêu ren trên địa bàn, tăng cường hình thức làng nghề làm vệ tinh.
Thành lập và thu hút các cơ sở sản xuất trong các làng nghề thêu ren tham gia Hiệp hội làng nghề thêu ren xã, liên kết giữa các khâu trong quá trình sản xuất, phân công hợp tác sản xuất và giúp nhau về thông tin khoa học công nghệ, kinh nghiệm sản xuất, cùng nhau bảo vệ lợi ích chính đáng.
3.4.10. Xây dựng mô hình làng nghề gắn với du lịch
Việc xây dựng và phát triển mô hình gắn làng nghề với hoạt động du lịch là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã trong thời gian tới. Để các làng nghề thêu ren phát triển được theo hướng này, thì điều quan trọng nhất là giữ gìn bản sắc văn hóa của làng nghề, phát triển các sản phẩm mang tính đặc trưng văn hóa và tính nghệ thuật cao. Giá trị các sản phẩm thêu ren không chỉ tính bằng giá nguyên liệu và công lao động, mà chủ yếu được đánh giá bằng tính nghệ thuật và tính văn hóa của sản phẩm. Điều thu hút khách du lịch sẽ không chỉ là sản phẩm thêu ren của làng nghề, mà chính là hoạt động sản xuất sản phẩm thêu ren truyền thống ở làng nghề trên địa bàn xã. Với các làng nghề kết hợp với khu du lịch theo mô hình này, vấn đề vệ sinh môi trường sẽ được đặt ra như là một tiêu chí quan trọng trong việc quy hoạch làng nghề. Điều kiện môi trường cũng sẽ là một trong những yếu tố thu hút khách du lịch. Trên thực tế, mô hình gắn phát triển làng nghề với hoạt động du lịch đã và đang được thực hiện có hiệu quả tại làng nghề thêu ren truyền thống An Hoà và Hoà Ngãi. Trong khoảng 5 năm trở lại đây, bình quân hàng năm các làng nghề này đã thu hút hàng trăm khách du lịch trong nước và quốc tế đến tham quan, mua sắm sản phẩm thêu ren của làng nghề. Tuy nhiên mô hình du lịch làng nghề ở 2 làng nghề thêu ren trên địa bàn xã nêu trên chủ yếu mới diễn ra một cách tự phát mà chưa có nghiên cứu và triển khai thực hiện một cách bài bản và đồng bộ, việc phát triển mô hình này vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập, chưa tương xứng với tiềm năng, chưa được sự quan tâm đúng mức của các ban ngành, chính quyền các cấp. Để đẩy mạnh phát triển du lịch làng nghề trong thời gian tới thì bản thân các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã cần có những đầu tư vào việc nghiên cứu cải tiến mẫu mã sản phẩm, đề cao tính nghệ thuật của sản phẩm, đồng thời cần phải khôi phục và phát triển các hoạt động văn hóa dân gian truyền thống nhằm xây dựng môi trường văn hóa ở các làng nghề. Bên cạnh đó, các cấp chính quyền từ tỉnh đến huyện, xã cần quan tâm đầu tư cải thiện hệ thống đường giao thông, xây dựng, trùng tu, tôn tạo cơ sở văn hóa du lịch ở làng nghề; khuyến khích sự hợp tác giữa các nghệ nhân, các trường dạy nghề, doanh nghiệp hợp tác với các nghệ nhân để dạy nghề cho lao động trẻ, khôi phục kỹ thuật sản xuất truyền thống, giữ gìn bản sắc văn hóa của làng nghề.
3.4.11. Giải pháp về môi trường
Để phát triển làng nghề thêu ren trên địa bàn xã Thanh Hà một cách bền vững, cũng như tạo điều kiện để giải quyết tốt vấn đề bảo vệ môi trường thì cần thực hiện một cách đồng bộ những biện pháp cơ bản sau:
Di dời các cơ sở sản xuất sản phẩm thêu ren có chất thải gây ô nhiễm môi trường (các xưởng giặt, là, nhuộm) nằm xen kẽ trong khu dân cư đến cụm TCNN tập trung để xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường, đảm bảo sức khỏe cộng đồng ở trong các làng nghề.
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục:
Một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu là nâng cao dân trí cho nhân dân nói chung và người dân các làng nghề nói riêng bằng cách xây dựng các chương trình truyền thông, giáo dục về môi trường. Xuất phát từ trình độ và ý thức của người dân địa phương còn lạc hậu, thấp kém, nhiều khi chỉ chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt mà không chú ý tới môi trường và sức khoẻ. Trước hết nên cung cấp những thông tin đầy đủ và thường xuyên về những vấn đề cấp thiết trong lĩnh vực môi trường, giới thiệu Luật và chính sách bảo vệ môi trường, hiện trạng ô nhiễm môi trường tại địa phương và hậu quả của nó đối với sức khoẻ con người thông qua các phương tiện thông tin đại chúng từ huyện đến xã, trong các trường học và các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn để người dân và các đơn vị hiểu được những tác hại của việc suy giảm chất lượng môi trường do hoạt động sản xuất nghề; nhận thức rõ quyền lợi, trách nhiệm và tự giác thực hiện tốt các yêu cầu về vệ sinh môi trường và phòng chống ô nhiễm môi trường làng nghề.
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng, các cấp, ngành địa phương nên thành lập ban an toàn vệ sinh làng nghề để phổ biến thông tin, pháp luật về môi trường, đồng thời có biện pháp xử phạt nghiêm khắc đối với các cơ sở sản xuất vi phạm.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về môi trường:
Trong những năm qua, tỉnh, huyện đã chỉ đạo các ngành, địa phương lập dự án, quy hoạch, đầu tư xây dựng các cụm tiểu thủ công nghiệp - làng nghề và ban hành nhiều văn bản quản lý nhà nước về tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, trong đó có vấn đề môi trường. Tuy nhiên, do sự quan tâm của các cấp chính quyền từ tỉnh đến huyện, xã còn hạn chế nên chưa tạo sự chuyển biến tích cực đối với việc giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường ở các làng nghề. Bên cạnh đó, việc xây dựng cụm tiểu thủ công nghiệp - làng nghề còn chậm, sự phối kết hợp giữa các cấp, các ngành trong công tác quản lý Nhà nước về làng nghề, việc nắm bắt các thông tin phản hồi từ cơ sở còn hạn chế, dẫn đến thiếu giải pháp đạt hiệu quả.
Để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về làng nghề ở địa phương trong thời gian tới, cần tăng cường và tổ chức hệ thống quản lý môi trường làng nghề từ quy mô cấp tỉnh, huyện, xã tới thôn xóm. Tỉnh cần sớm đưa ra các chính sách quản lý môi trường phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương, như việc quy định về đóng góp cho quỹ môi trường, chế độ thưởng phạt, kể cả thuế môi trường đối với các hoạt động phát sinh hoặc giảm thiểu ô nhiễm.
Bên cạnh đó, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và phương tiện vận chuyển cho cơ quan quản lý môi trường cấp huyện đáp ứng nhu cầu thu gom, phân loại chất thải rắn để không ảnh hưởng tới môi trường và sức khỏe người dân; củng cố, bổ sung hệ thống cán bộ phụ trách về môi trường chuyên trách ở cả cấp huyện và cấp xã; khẩn trương xây dựng khu tập kết chất thải rắn thông thường, chất thải nguy hại. Tỉnh, huyện cần tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ từ trung ương và các tổ chức nước ngoài, huy động nguồn vốn đóng góp của các tổ chức kinh tế trong nước hỗ trợ các chương trình, dự án giải quyết ô nhiễm môi trường trong các làng nghề thêu ren, bao gồm cả xử lý riêng lẻ trong các doanh nghiệp và xử lý tập trung ở các khu và cụm tiểu thủ công nghiệp.
Ngoài ra, các cấp chính quyền từ huyện đến các xã, thị trấn cần tích cực hỗ trợ cung cấp thông tin, khuyến khích các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã, các hộ sản xuất, cơ sở hoạt động tại làng nghề áp dụng các giải pháp công nghệ giảm thiểu ô nhiễm do sản xuất nghề gây ra, hướng dẫn áp dụng công nghệ mới ít gây ô nhiễm môi trường. Tỉnh, huyện cần đẩy mạnh công tác kiểm tra môi trường làng nghề, kịp thời phát hiện những yếu tố gây nguy hại tới môi trường và sức khỏe người dân, đặc biệt là lao động ở các cơ sở sản xuất tại các làng nghề của huyện.
3.4.12. Hoàn chỉnh một số chính sách kinh tế của Nhà nước trong việc phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp
Một là, chính sách tạo vốn và khuyến khích đầu tư:
Nhà nước tạo điều kiện trong việc huy động vốn an toàn và có hiệu quả cho sản xuất kinh doanh ở các làng nghề truyền thống. Để làm tốt việc này cần có trung tâm hỗ trợ tài chính và bảo lãnh tín dụng. Sự giúp đỡ này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo vốn cho các làng nghề, làm cho quy mô sản xuất được mở rộng và thu hút vốn đầu tư ngày càng nhiều.
Đa dạng hoá các hình thức cho vay vốn đối với làng nghề, có chính sách thực hiện lãi suất ưu đãi, thay đổi định mức cho vay và thời gian cho vay. Tăng cường kiểm soát các nguồn vốn vay để hộ gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng nguồn vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả.
Tiếp tục đổi mới hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng. Nghiên cứu hạ lãi suất cho vay đối vói nông dân nói chung và các làng nghề truyền thống nói riêng trên cơ sở giảm chi phí dịch vụ ngân hàng. Mở rộng hình thức cho vay tín chấp, cho vay có bảo lãnh đối với hộ dân quá nghèo, có chính sách hỗ trợ vốn để họ có điều kiện sản xuất kinh doanh. Cải tiến các thủ tục cho vay sao cho thật đơn giản, mặt khác vẫn phải bảo đảm an toàn vốn vay.
Khuyến khích các doanh nghiệp trong làng nghề truyền thống, nhất là ngành nghề thu hút nhiều lao động và giải quyết việc làm tại chỗ như thêu ren đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Các làng nghề truyền thống cần kịp thời nắm bắt những thông tin về thị trường, tiếp xúc với đối tác nước ngoài để tìm cơ hội trong liên doanh, liên kết.
Hai là, chính sách thuế:
Nhà nước cần bổ sung, hoàn chỉnh một số vấn đề về chính sách thuế theo hướng sau:
+ Thực hiện chính sách miễm giảm thuế đối với các doanh nghiệp mới thành lập, hộ gia đình sản xuất kinh doanh lần đầu và những sản phẩm mới đưa vào sản xuất.
+ Để khuyến khích sự đổi mới công nghệ trong làng nghề truyền thống, cần có chính sách miến giảm thuế từ 2 - 3 năm đối với cơ sở sản xuất áp dụng công nghệ mới. Tạo điều kiện cho họ phát triển sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, nhằm tăng thu nhập và tạo việc làm cho người lao động.
+ Trước mắt cần ưu tiên miễn giảm thuế đối với những làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu nhưng không vi phạm điều luật của WTO, sử dụng nguyên liệu và lao động tại chỗ hoặc các cơ sở sản xuất có vệ tinh ở nông thôn.
Ba là, tăng cường công tác quản lý của Nhà nước đối với các làng nghề truyền thống.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, có không ít làng nghề truyền thống do mất thị trường tiêu thụ sản phẩm đã rơi vào tình trạng mai một, không phát huy được tiềm năng vốn có của mình. Nguyên nhân của tình trạng đó là: Thiếu năng động trong việc chuyển nghề, cải tiến kỹ thuật mẫu mã, chưa duy trì sản xuất. Nhưng mặt khác, nguyên nhân không kém phần quan trọng đó là việc quản lý.
Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật và tạo môi trường kinh doanh cho các làng nghề. Ngoài luật và chính sách chung có liên quan đến phát triển làng nghề, nên có hệ thống chính sách riêng cho làng nghề truyền thống phải đồng bộ và hướng vào mục tiêu đã định. Từ đó tạo ra mọi điều kiện thuận lợi cho môi trường sản xuất kinh doanh ở các làng nghề, trong đó đặc biệt chú ý đến chính sách trợ giúp cho làng nghề có sản phẩm mang đậm nét văn hoá, nhưng đang gặp khó khăn về tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
Để thực hiện sự giúp đỡ có hiệu quả của Nhà nước đối với làng nghề truyền thống, cần xây dựng một chiến lược toàn diện, tiến hành điều tra khảo sát, quy hoạch tổng thể cho sự phát triển của làng nghề. Xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án, khẩn trương hình thành, phát triển các tổ chức tư vấn nhằm hỗ trợ, giúp đỡ làng nghề trong quá trình sản xuất kinh doanh. Sự giúp đỡ của các tổ chức tư vấn nên tập trung vào những lĩnh vực xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, đào tạo và du lịch,...
Tăng cường công tác quản lý đối với làng nghề trong cơ chế thị trường, cần chỉ đạo các cấp, nhất là cấp lãnh đạo địa phương theo dõi và nắm chắc những chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật, nhằm giúp cho cơ quan cấp trên có được số liệu chính xác, đưa ra quyết định đúng đắn mang tính khả thi cao. Từ đó, có kế hoạch phát triển mạnh mẽ những ngành nghề truyền thống mang hiệu quả kinh tế thiết thực, nhằm khai thác một cách đầy đủ nhất các lợi thế về lao động, về nguyên liệu và tay nghề,...
Tạo điều kiện và khuyến khích hoạt động của các hội nghề nghiệp. Trong cơ chế thị trường, sự ra đời của hội nghề nghiệp là rất cần thiết. Bởi vì, thông qua các tổ chức này mà các cơ sở sản xuất, cá nhân người thợ được cung cấp những thông tin về kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, cũng như giá cả thị trường, đồng thời góp phần giải quyết vấn đề lao động và việc làm cho nhiều người. Do vậy, nhà nước cần có chính sách khuyến khích hỗ trợ, giúp đỡ hội nghề nghiệp phát triển.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN:
Qua quá trình điều tra, tìm hiểu, nghiên cứu đề tài "Phát triển các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã Thanh Hà - huyện Thanh Liêm - tỉnh Hà Nam", về cơ bản Luận văn đã đạt được một số kết quả sau đây:
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về sự cần thiết phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn.
Thứ hai, đánh giá thực trạng ở các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã Thanh Hà trong những năm qua, từ đó rút ra những mặt mạnh cần phát huy, những điểm yếu cần khắc phục.
Thứ ba, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển các làng nghề thêu ren xã Thanh Hà đến năm 2015.
KIẾN NGHỊ:
* Đối với Nhà nước:
- Cần tổng kết kinh nghiệm phát triển các làng nghề TTCN ở Việt Nam trong thời gian qua và xây dựng một chương trình toàn diện và cụ thể về phát triển làng nghề trong chương trình tổng thể về CNH, HĐH nông thôn.
- Thực thi đồng bộ nhiều chính sách và giải pháp nhằm khuyến khích, hỗ trợ, giúp đỡ, tạo môi trường thuận lợi cho sự khôi phục, hình thành và phát triển của các làng nghề TTCN. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến các chính sách và biện pháp hỗ trợ các làng nghề ổn định và mở rộng thị trường, tạo lập và tăng cường vốn, đổi mới và chuyển giao công nghệ, thúc đẩy sự liên kết giữa các doanh nghiệp với các hộ sản xuất kinh doanh, hỗ trợ đào tạo các nhà doanh nghiệp, người lao động, tăng cường quy hoạch, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và giải quyết mặt bằng sản xuất cho các cơ sở sản xuất của các làng nghề.
* Đối với các cấp chính quyền địa phương:
- Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác khuyến công nhằm kịp thời khuyến khích các làng nghề phát triển.
- Tổ chức những cơ quan chuyên môn cung cấp thông tin về thị trường một cách thường xuyên và cập nhật cho các làng nghề.
- Tăng cường chính sách tín dụng, liên kết chặt chẽ các ngân hàng tại địa phương nhằm hỗ trợ về vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh ở các làng nghề.
- Tăng cường hỗ trợ đào tạo, nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, chuyên môn kỹ thuật cho người lao động ở các làng nghề.
- Cấp huyện nên dành một phần kinh phí nhất định trong kinh phí ngân sách cấp hàng năm nhằm hỗ trợ cho phát triển công nghiệp địa phương nói chung và các làng nghề nói riêng.
* Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề:
- Tranh thủ và bố trí sử dụng các nguồn lực hiện có và sự hỗ trợ của Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương một cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả.
- Tăng cường hợp tác, liên kết với nhau và với các đối tác nhằm nâng cao sức mạnh trên thị trường và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Quan tâm hơn nữa đến việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã sản phẩm thêu ren nhằm giữ vững uy tín của các làng nghề và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thêu ren ở các làng nghề xã Thanh Hà trên thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Hữu Bình (2006), Những tác động của yếu tố văn hoá - xã hội trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên, môi trường trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006), Hội thảo "Mỗi làng một nghề", Hà Nội.
3. Chính phủ (2004), Nghị định số 134/2004/NĐ-CP về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn, Hà Nội.
4. Chính phủ (2006), Nghị định số 66/2006/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn, Hà Nội.
5. Cục xúc tiến thương mại (2004), Báo cáo tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam đi các nước trên thế giới, Hà Nội.
6. Nguyễn Điền (1997), Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn các nước châu Á và Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Hoàng Kim Giao (1996), "Làng nghề truyền thống – Mô hình làng nghề và phát triển nông thôn", Kỷ yếu Hội thảo Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống Việt Nam, tr. 73 - 82.
8. Đỗ Thị Hảo (2001), Nghề thủ công truyền thống ở Việt Nam và các vị tổ nghề, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
9. Trần Minh Huân, Phạm Thanh Tùng (2007), "Kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền thống ở một số nước châu Á", Tạp chí Công nghiệp, 6(1), tr.53 - 54.
10. Nguyễn Hữu Khải, Đào Ngọc Tiến (2006), Thương hiệu hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
11. Trần Quốc Khánh (2005), Giáo trình Quản trị kinh doanh nông nghiệp, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
12. Hương Lan (2005), “Làng thêu truyền thống Thanh Hà - Xây dựng thương hiệu, nâng cao chất lượng, đẩy mạnh xuất khẩu", Tạp chí Công nghiệp, 10(1), tr. 31.
13. Phạm Nguyên Minh (2007), "Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh hàng thủ công mỹ nghệ", Tạp chí Thương mại, 5(1), tr. 2 - 3.
14. Nguyễn Đình Phan (2005), "Vấn đề phát triển nghề TTCN trong quá trình hội nhập", Khuyến công, 11(2), tr. 7 - 9.
15. Sở Văn hoá Thông tin Hà Nam - Sở Công nghiệp Hà Nam (2004), Làng nghề Hà Nam - Tiềm năng và triển vọng, Nxb Công ty Văn hoá trí tuệ Việt, Hà Nội.
16. Vũ Đình Thắng (2006), Giáo trình Kinh tế nông nghiệp, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
17. Minh Thu (2003), "Nghề thêu xưa và nay", Tạp chí Di sản, 11(1), tr. 56 - 57.
18. Nguyễn Đức Toàn (2005), "Làng thêu Quất Động", Tạp chí Di sản, 4(13), tr. 7 - 8.
19. Nguyễn Kế Tuấn (1996), "Một số vấn đề về tổ chức sản xuất ở các làng nghề thủ công", Kỷ yếu Hội thảo Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống Việt Nam, tr. 83 - 92.
20. Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Liêm (2008), Báo cáo tình hình sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năm 2007, Thanh Liêm.
21. Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Liêm (2006), Đề án phát triển tiểu thủ công nghiệp - làng nghề giai đoạn 2006 - 2010, Thanh Liêm.
22. Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Liêm (2007), Báo cáo tình hình sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năm 2006, Thanh Liêm.
23. Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Liêm (2006), Báo cáo tình hình sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năm 2005, Thanh Liêm.
24. Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Liêm (2005), Báo cáo tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2005, Xây dựng kế hoạch năm 2006, Thanh Liêm.
25. Uỷ ban nhân dân huyện Thanh Liêm (2005), Báo cáo tình hình thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005, Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, Thanh Liêm.
26. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2006), Đề án phát triển làng nghề tỉnh Hà Nam giai đoạn 2006 - 2010, Hà Nam.
27. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2004), Quyết định số 208/QĐ-UB ban hành Quy định về tiêu chuẩn làng nghề tiểu thủ công nghiệp tỉnh Hà Nam, Hà Nam.
28. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2007), Quyết định số 418/QĐ-UBND bổ sung một số nội dung của Quyết định số 208/QĐ-UB ngày 09 tháng 02 năm 2004, Hà Nam.
29. Uỷ ban nhân dân xã Thanh Hà (2008), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2007, Thanh Hà.
30. Uỷ ban nhân dân xã Thanh Hà (2007), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2006, Thanh Hà.
31. Uỷ ban nhân dân xã Thanh Hà (2006), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, Thanh Hà.
32. Uỷ ban nhân dân xã Thanh Hà (2006), Báo cáo Quy hoạch sử dụng đất đai xã Thanh Hà giai đoạn 2006 - 2010, Thanh Hà.
MỞ ĐẦU 1
1. Sự cần thiết của đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Phương pháp nghiên cứu 2
3.1. Phương pháp nghiên cứu chung 2
3.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 3
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3
5. Kết cấu của đề tài 4
CHƯƠNG 1 5
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP 5
1.1. Lý luận chung về làng nghề tiểu thủ công nghiệp 5
1.1.1. Một số khái niệm 5
1.1.2. Phân loại làng nghề TTCN 6
1.1.3. Đặc điểm và những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các làng nghề TTCN 6
1.1.3.1. Đặc điểm của làng nghề TTCN 6
1.1.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các làng nghề 11
1.1.4. Vai trò của làng nghề TTCN ở Việt Nam 14
1.2. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta có liên quan đến phát triển làng nghề TTCN 19
1.3. Những bài học kinh nghiệm về phát triển làng nghề TTCN 20
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước châu Á 20
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản 20
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Thái Lan 22
1.3.1.3. Kinh nghiệm của Inđônêxia 24
1.3.2. Kinh nghiệm trong nước 26
1.3.2.1. Kinh nghiệm của tỉnh Hà Tây (cũ) 26
1.3.2.2. Kinh nghiệm của tỉnh Hải Dương 27
1.3.2.3. Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh 29
CHƯƠNG 2 31
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC LÀNG NGHỀ THÊU REN TRÊN ĐỊA BÀN XÃ THANH HÀ - HUYỆN THANH LIÊM - TỈNH HÀ NAM 31
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tác động đến sự phát triển các làng nghề thêu ren xã Thanh Hà 31
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi trường 31
2.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên 31
2.1.1.2. Các nguồn tài nguyên 31
2.1.1.3. Cảnh quan môi trường 33
2.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội 34
2.1.2.1. Kết cấu hạ tầng 34
2.1.2.2. Dân số, lao động, việc làm và đời sống dân cư 35
2.1.2.3. Tình hình phát triển kinh tế của xã 36
2.1.3. Một số nhận định tổng quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội 39
2.1.3.1. Thuận lợi 39
2.1.3.2. Những khó khăn, thách thức 39
2.2. Thực trạng phát triển các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã 40
2.2.1. Quy mô và cơ cấu sản xuất của các làng nghề thêu ren 40
2.2.2. Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của các làng nghề thêu ren 45
2.2.3. Tình hình lao động trong các làng nghề thêu ren 46
2.2.4. Tình hình vốn ở các làng nghề thêu ren 53
2.2.5. Hạ tầng kỹ thuật và thiết bị, công nghệ của các làng nghề thêu ren 59
2.2.6. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề thêu ren 63
2.2.7. Kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh ở các làng nghề thêu ren xã Thanh Hà 68
2.2.8. Môi trường ở các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã 75
2.2.9. Tình hình phát triển của một số làng nghề thêu ren tiêu biểu 77
2.3. Đánh giá chung tình hình phát triển các làng nghề thêu ren 81
2.3.1. Kết quả đạt được 81
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế 81
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại 82
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC LÀNG NGHỀ THÊU REN TRÊN ĐỊA BÀN XÃ THANH HÀ - HUYỆN THANH LIÊM - TỈNH HÀ NAM 83
3.1. Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển các làng nghề thêu ren xã Thanh Hà 83
3.1.1. Cơ hội 83
3.1.2. Thách thức 84
3.2. Định hướng phát triển các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã Thanh Hà 85
3.3. Mục tiêu 86
3.4. Những giải pháp chủ yếu phát triển các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã Thanh Hà 87
3.4.1. Giải pháp về thị trường 87
3.4.2. Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm làng nghề thêu ren 90
3.4.3. Giải pháp về vốn 91
3.4.4. Giải pháp đào tạo, nâng cao trình độ người lao động 93
3.4.5. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn 95
3.4.6. Phát triển cụm tiểu thủ công nghiệp tập trung gắn với các làng nghề thêu ren trên địa bàn xã 97
3.4.7. Từng bước hoàn thiện công nghệ sản xuất sản phẩm thêu ren ở các làng nghề 98
3.4.8. Thành lập và phát huy vai trò của các Hiệp hội làng nghề thêu ren trên địa bàn xã Thanh Hà 100
3.4.9. Khuyến khích chuyển đổi hộ sản xuất kinh doanh sang mô hình doanh nghiệp 102
3.4.10. Xây dựng mô hình làng nghề gắn với du lịch 103
3.4.11. Giải pháp về môi trường 104
3.4.12. Hoàn chỉnh một số chính sách kinh tế của Nhà nước trong việc phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp 105
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 108
KẾT LUẬN: 108
KIẾN NGHỊ: 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO 110
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ThS-89.doc