Bộ giáo dục và đào tạo
Trường đại học Nông nghiệp hà nội
---------------
Đỗ Thị Thu
PHân tích thực trạng đầu tư vốn và chính sách đầu tư vốn cho ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương
luận văn thạc sĩ kinh tế
Chuyên ngành: Kinh tế Nông nghiệp
Mã số: 60.31.10
Người hướng dẫn khoa học: ts. nguyễn Tất Thắng
Hà nội – 2008
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung t
163 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2443 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phân tích thực trạng đầu tư vốn và chính sách đầu tư vốn cho ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hực và chưa từng được ai công bố trong các công trình nghiên cứu nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày.... tháng.... năm 2008
Tác giả luận văn
Đỗ Thị Thu
LờI CảM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, trước nhất, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Tất Thắng – Giảng viên khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn - Người thầy đã dành nhiều thời gian tâm huyết, tận tình hướng dẫn chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Tôi xin được bày tỏ tấm lòng biết ơn đến Ban giám hiệu Nhà trường, các thầy cô giáo, đặc biệt là các thầy trong Bộ môn Kinh tế - Khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn và Khoa sau đại học, những người đã truyền đạt cho tôi những kiến thức bổ ích trong quá trình học tập và rèn luyện tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn UBND huyện Kim Thành, các phòng: Phòng Thống kê, Phòng Nông Nghiệp & Phát triển nông thôn, Phòng Kế hoạch Tài Chính, Trung tâm Khuyến nông, Trạm Bảo vệ thực vật, Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng chính sách xã hội và những người dân đã tham gia các cuộc điều tra, đã cung cấp những số liệu cần thiết và giúp đỡ tôi trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu tại địa bàn.
Trong quá trình học tập và thực hiện luận văn tôi đã được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên của các bạn và gia đình. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và ghi nhận những tình cảm quý báu đó.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày.... tháng.... năm 2008
Tác giả luận văn
Đỗ Thị Thu
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
BVTV
Bảo vệ thực vật
CDCC
Chuyển dịch cơ cấu
CNH-HĐH
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
CSHT
Cơ sở hạ tầng
DS
Doanh số
ĐVT
Đơn vị tính
ĐT
Đầu tư
ĐTBQ
Đầu tư bình quân
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
GO
Tổng giá trị sản xuất
HTx
Hợp tác xã
KHKT
Khoa học kỹ thuật
NHNNo&PTNT
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
NNo
Nông nghiệp
NSNN
Ngân sách Nhà nước
NTTS
Nuôi trồng thuỷ sản
QTDND
Quỹ tín dụng nhân dân
SL
Sản lượng
TDCT
Tín dụng chính thức
TSCĐ
Tài sản cố định
UBND
Uỷ ban nhân dân
VĐT
Vốn đầu tư
Danh mục Bảng
STT
Tên bảng
Trang
3.1. Cơ cấu kinh tế các ngành kinh tế huyện Kim Thành giai đoạn 2003-2007 55
3.2 Tình hình sản xuất lúa và một số cây rau màu huyện Kim Thành giai đoạn 2003-2007 58
3.3 Tình hình phát triển một số loại gia súc, gia cầm và NTTS trên địa bàn huyện Kim Thành 60
4.1 Tổng đầu tư cho nông nghiệp trên địa bàn huyện Kim Thành giai đoạn 2003-2007 66
4.2 Đầu tư từ Ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp giai đoạn 2003-2007 68
4.3 Vốn đầu tư cho nông nghiệp từ Ngân sách nhà nước phân theo lĩnh vực trong nội bộ ngành nông nghiệp 69
4.4 Vốn đầu tư chia theo các yếu tố phục vụ sản xuất 73
4.5. Đầu tư của hộ gia đình theo lĩnh vực trong nội bộ ngành nông nghiệp giai đoạn 2003-2007 77
4.6 Tình hình cho vay phục vụ sản xuất nông nghiệp của các tổ chức tín dụng chính thống giai đoạn 2003-2007 78
4.7 Một số chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả và hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp giai đoạn 2003-2007 83
4.8 Sự thay đổi trong cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp giai đoạn 2003-2007 85
4.9. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho nông nghiệp giai đoạn 2003 -2007 86
4.10 Mức độ quan tâm tới chính sách đầu tư cho nông nghiệp đối với nhóm hộ điều tra 101
4.11 Tình hình tiếp cận với chính sách đầu tư nông nghiệp đối với nhóm hộ điều tra 103
4.12 Đánh giá của nhóm hộ điều tra về tầm quan trọng của chính sách đầu tư cho nông nghiệp 105
4.13 Tác động của các chính sách đầu tư nông nghiệp đối với thu nhập của nhóm hộ điều tra 106
1. Mở đầu
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước có truyền thống nông nghiệp với hơn bốn nghìn năm lúa nước. Sau khoán 10 năm 1988, nông nghiệp nước ta đã có những bước phát triển không ngừng. Từ một nước phải thường xuyên đi nhận viện trợ lương thực từ các nước bạn, chúng ta đã đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và vươn lên trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ X xác định "phải phát triển toàn diện nông nghiệp, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao… " [12]. Nông nghiệp được coi là mặt trận hàng đầu được đặc biệt quan tâm, đầu tư phát triển.
Kim Thành là một huyện thuộc vùng đồng bằng sông Hồng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển ngành nông nghiệp. Trong cơ cấu kinh tế chung, ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng 50,1% trong GDP toàn huyện. Tuy nhiên nông nghiệp vẫn còn phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của nó.
Vốn đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nói chung, trong sản xuất nông nghiệp vốn lại đóng vai trò càng quan trọng hơn bởi ngành nông nghiệp là một ngành sản xuất chịu nhiều rủi ro, người sản xuất nông nghiệp là những người nông dân với điều kiện kinh tế khó khăn, vốn ít, lực nội sinh không đủ để họ thoát khỏi sự nghèo đói, khó khăn, cần có sự hỗ trợ từ phía nhà nước cho đầu tư phát triển. Điều đó cho thấy một trong những khó khăn đối với việc phát triển ngành nông nghiệp là có những chính sách hợp lý nhằm huy động vốn và đầu tư có hiệu quả nguồn vốn .
Do vậy để khắc phục những khó khăn giúp cho nông nghiệp phát triển, những vấn đề mang tính lý thuyết và thực tiễn về lĩnh vực đầu tư và phân tích chính sách đầu tư cho ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện cần được nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện .
Chính vì những lý do trên tôi chọn đề tài nghiên cứu: "Phân tích thực trạng đầu tư vốn và chính sách đầu tư vốn cho ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương".
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu chung:
Phân tích thực trạng đầu tư vốn và tình hình thực hiện chính sách đầu tư vốn trên địa bàn huyện Kim Thành.
- Mục tiêu cụ thể:
Góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư, chính sách đầu tư vốn trong nông nghiệp: khái niệm, phân loại, vai trò của đầu tư; khái niệm chính sách đầu tư, vai trò, mục tiêu của chính sách đầu tư trong nông nghiệp.
Đánh giá thực trạng đầu tư vốn về quy mô, chất lượng, xu hướng biến động, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Đánh giá tình hình thực hiện chính sách đầu tư vốn trong nông nghiệp trên địa bàn huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư vốn và thực hiện tốt chính sách đầu tư vốn cho ngành nông nghiệp.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề về đầu tư (đầu tư vốn, hoạt động đầu tư vốn trong nông nghiệp).
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về nội dung: nghiên cứu những vấn đề về kinh tế đầu tư vốn, chính sách đầu tư vốn trong lĩnh vực nông nghiệp.
+ Phạm vi về không gian: nghiên cứu những vấn đề về đầu tư vốn, tình hình thực hiện chính sách đầu tư vốn trong nông nghiệp trên địa bàn huyện Kim Thành tỉnh Hải Dưong
+ Phạm vi về thời gian: nghiên cứu trong thời gian 5 năm từ năm 2003 đến năm 2007.
2. Một số vấn đề lý luận về đầu tư Và chính sách đầu tư cho phát triển ngành nông nghiệp
2.1 Lý luận cơ bản về đầu tư vốn, đầu tư vốn trong ngành nông nghiệp
2.1.1 Các khái niệm về đầu tư trong ngành nông nghiệp
Đầu tư theo nghĩa rộng, là sự từ bỏ các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực bỏ ra để đạt được kết quả đó [17]. Nguồn lực phải hy sinh đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Theo khái niệm này, đầu tư là khoản chi trong hiện tại, bao trùm nhiều lĩnh vực như: đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư tài sản vật chất và phi vật chất… ở nhiều cấp độ như cấp độ nền kinh tế, ngành, địa phương, doanh nghiệp, hộ gia đình…
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt kết quả đó. Những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay đầu tư phát triển.
Kết quả của đầu tư sẽ đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Tất cả những hoạt động (chi tiền xây dựng đường xá, cầu cống, như mua bán các loại giống cây, mua hàng dự trữ, gửi tiền tiết kiệm, chi tiền lương công nhân...) nhằm thu được lợi ích nào đó (về tài chính, cơ sở vật chất, trí tuệ ...) trong tương lai lớn hơn những chi phí đã bỏ ra. Vì vậy xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị bỏ tiền ra thì các hoạt động này đều được gọi là đầu tư.
Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các hoạt động trên đều đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được coi là lợi ích của nền kinh tế. Có những hoạt động đầu tư không hề làm tăng tài sản (tài chính, vật chất trí tuệ ...) cho nền kinh tế. Các hoạt động này thực chất chỉ là chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng (cổ phiếu, tiền, hàng hoá...) từ người này sang người khác. Giá trị tăng thêm của người này là sự mất đi của người khác, còn tổng giá trị tài sản của toàn xã hội không thay đổi.
Các hoạt động bỏ tiền ra xây dựng kho chứa hàng, xây cầu cống, tổ chức báo cáo khoa học đã làm tăng tài sản cho nền kinh tế. Các hoạt động này gọi là đầu tư phát triển hay đầu tư trên giác độ nền kinh tế. Đầu tư phát triển đòi hỏi rất lớn nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp nguồn lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc thiết bị, tài nguyên.
Đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại, gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua phân phối lại, chuyển giao tài sản giữa các tổ chức, cá nhân không phải là đầu tư đối với nền kinh tế.
Như vậy có thể hiểu rằng đầu tư vốn bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại (vốn), nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt kết quả đó.
Đầu tư vốn trong nông nghiệp là một trong những bộ phận của đầu tư nói chung thông qua việc sử dụng vốn vào nông nghiệp nhằm tăng năng lực sản xuất của ngành nông nghiệp.
2.1.2 Khái niệm về vốn đầu tư trong nông nghiệp
Vốn là nguồn lực hạn chế đối với các ngành kinh tế nói chung và đối với sản xuất nông nghiệp nói riêng. Vốn sản xuất vận động không ngừng từ phạm vi sản xuất sang phạm vi lưu thông và trở về với sản xuất.
C.Mác đã khẳng định: "Như vậy vốn là giá trị ứng ra lúc ban đầu không những được bảo toàn trong lưu thông mà còn thay đổi đại lượng của nó, còn cộng thêm một giá trị thặng dư, hay đã tự tăng thêm giá trị. Chính sự vận động ấy biến nó thành tư bản"[2, tr.228].
C.Mác đã chỉ rõ bản chất và chức năng của tư bản (vốn) trong phát triển kinh tế. Bản chất của tư bản là giá trị, chức năng của tư bản là sinh lời. Tuy nhiên, để giá trị trở thành tư bản và tư bản sinh lời phải trải qua sự vận động. Nghĩa là tư bản phải có mặt trong lưu thông, tham gia vào quá trình sản xuất. Thông qua sự vận động, tư bản sinh sôi nảy nở và lớn lên không ngừng.
Ngày nay, do yêu cầu của sự phát triển, vốn là một yếu tố quan trọng không thể thiếu được với tất cả các quốc gia đã và đang phát triển. Phạm trù vốn vẫn được các nhà kinh tế học quan tâm nghiên cứu và tiếp cận nó trên nhiều khía cạnh khác nhau.
Dưới góc độ tài chính, trong tác phẩm "Chú giải thuật ngữ kế toán Mỹ", tác giả Hồ Văn Mộc và Điêu Quốc Tín cho rằng, vốn là "tổng số tiền biểu hiện nguồn gốc hình thành của tài sản được đầu tư trong kinh doanh để tạo ra thu nhập và lợi tức"[21, tr.29].
Dưới góc độ tài sản, trong quyển "Dictionary of Economic" của Penguin Reference do Phạm Đăng Bình và Nguyễn Văn Lập dịch đưa ra khái niệm "Vốn là những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập và bản thân nó cũng được cái khác tạo ra" [30, tr.56].
ở Việt Nam, trong "Từ điển tiếng Việt" của Viện ngôn ngữ học chỉ ra rằng: "Vốn là tiền của bỏ ra lúc đầu, dùng trong SXKD, nhằm mục tiêu sinh lợi" [35, tr.1126].
Như vậy, vốn sẽ bao gồm bất cứ thứ gì đưa lại một “luồng thu nhập qua thời gian", "Sự phát triển có thể coi như là một quá trình khái quát của sự tích lũy vốn". Những cách tiếp cận trên về vốn đã cho ta thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ về hình thái tồn tại của vốn. Vốn có thể là tiền hay là tài sản được huy động vào SXKD để tạo ra hàng hóa, dịch vụ nhằm mục tiêu có thu nhập trong tương lai.
Để hiểu rõ hơn bản chất của vốn, trên cơ sở đó có biện pháp đúng đắn khi sử dụng vốn cho đầu tư phát triển, chúng ta cần nhận thức sâu sắc một số vấn đề sau:
Thứ nhất, về các hình thái biểu hiện của vốn.
- Xét về mặt trừu tượng, vốn là hình thái giá trị.
- Xét về mặt cụ thể, vốn được biểu hiện rất đa dạng, bao gồm: tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính.
Tài sản hữu hình là những tài sản tồn tại dưới dạng cụ thể của vật chất. Tài sản hữu hình bao gồm hai bộ phận: tài sản hữu hình phục vụ trực tiếp cho sản xuất và tài sản hữu hình phục vụ gián tiếp cho sản xuất. Việc phân loại tài sản hữu hình cho ta phương pháp luận đúng đắn khi ra quyết định và tìm ra được một cơ cấu đầu tư vốn hợp lý.
Tài sản vô hình là những tài sản không tồn tại dưới dạng cụ thể của vật chất, bao gồm những sản phẩm trí tuệ như: bằng phát minh, sáng chế, bản quyền, thương hiệu sản phẩm, uy tín kinh doanh, vị trí kinh doanh, chí phí đào tạo nguồn nhân lực...Nền kinh tế ngày càng phát triển, giá trị tài sản vô hình càng trở nên quan trọng trong cơ cấu vốn đầu tư. Bởi khi đã huy động được tài sản vô hình vào phát triển kinh tế, sử dụng chúng hợp lý sẽ đem lại lợi nhuận, thậm chí siêu lợi nhuận cho các nhà đầu tư.
Tài sản tài chính bao gồm tiền mặt hay các chứng chỉ có giá (cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ...), có thể gọi chung là tiền. Tuy nhiên không phải tất cả tiền đều là vốn. Tiền là hình thái cụ thể của vốn. Tiền được coi là vốn khi và chỉ khi tiền đại diện cho một lượng giá trị hàng hóa, dịch vụ hay tài sản nhất định, được ném vào lưu thông hoặc tham gia trực tiếp vào SXKD để kiếm lời. Bởi vậy tiền được cất trữ hay dùng trong sinh hoạt hàng ngày không phải là vốn.
Như vậy, về mặt nhận thức có thể thấy rằng vốn tồn tại ở nhiều dạng hình thái cụ thể: tài sản hữu hình, tài sản vô hình, tài sản tài chính. Nhưng hình thái giá trị - tiền tệ với tư cách vốn là loại vốn linh hoạt, biến hóa nhất trong nền kinh tế thị trường. Thị trường không những là nơi diễn ra các hoạt động đa dạng của vốn mà còn là nơi để bộc lộ khả năng sinh lời của vốn. Khả năng sinh lời vừa là mục đích cuối cùng của việc đầu tư kinh doanh đồng vốn, vừa là phương tiện để vốn tiếp tục vận động với quy mô ngày càng được mở rộng ở chu kỳ kinh doanh tiếp theo.
Thứ hai, vốn là hàng hóa
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là hàng hóa. Muốn phát triển SXKD đòi hỏi phải có vốn đầu tư. Nhu cầu vốn đầu tư được coi là cơ sở phát sinh quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường. Như vậy, vốn hiển nhiên là đối tượng trao đổi, mua bán trên thị trường vốn. Với tư cách là hàng hóa, vốn có hai loại thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng; có chủ sở hữu và là một trong những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.
Thứ ba, vốn là hàng hóa đặc biệt
Tính đặc biệt của hàng hóa vốn thể hiện ở chỗ: vốn có khả năng sinh lời. Với tư cách là hàng hóa, quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn tách rời nhau. Đặc điểm này của vốn không có ở các loại hàng hóa thông thường. Chủ sở hữu vốn sẽ nhận được một khoản lợi tức (giá bán hay lãi suất quyền sử dụng vốn) khi bán quyền sử dụng vốn cho người mua (các nhà đầu tư). Nhà đầu tư khi mua quyền sử dụng vốn phải bỏ ra một khoản gọi là chi phí (giá mua quyền sử dụng vốn) trả cho chủ sở hữu và nhận về mình quyền sử dụng vốn. Nhờ có sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn làm cho vốn trở nên linh hoạt trong lưu thông và sinh lời.
Thứ tư, vốn có quan hệ mật thiết với thời gian
C.Mác viết: "Tiền chỉ được đem nhượng lại với hai điều kiện: một là, nó sẽ quay trở lại điểm xuất phát sau một kỳ hạn nhất định; hai là nó sẽ quay trở lại điểm đó với tư cách là tư bản đã thực hiện, nghĩa là sau khi đã thực hiện được các giá trị sử dụng của nó, thực hiện được các khả năng của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư" [2, tr.525].
Như vậy, chủ sở hữu vốn nhượng lại quyền sử dụng vốn cho nhà đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định. Sau khi vốn trải qua chu kỳ vận động, nó quay về tay chủ sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn. Lượng giá trị lớn hơn đó là lợi tức của chủ sở hữu vốn hay là lãi suất phải trả của nhà đầu tư khi sử dụng vốn. Mức lãi suất được tính bằng tỷ lệ phần trăm so với thời gian (tháng, quý, năm...), phù hợp với nền kinh tế thị trường. Thông thường, thời gian vay vốn dài, lãi suất lớn và ngược lại, thời gian vay vốn ngắn, lãi luất nhỏ (lãi suất tỷ lệ thuận với thời gian vay).
2.1.3 Phân loại đầu tư vốn trong nông nghiệp
Vốn, hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ các nguồn lực tài chính, nhân lực, trí lực, tri thức, tài sản vật chất và cả quan hệ đã tích lũy của mỗi cá nhân, doanh nghiệp hay quốc gia.
Vốn, hiểu theo nghĩa hẹp là nguồn lực về tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia.
Như vậy, đầu tư vốn là đầu tư nguồn lực tài chính để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực SXKD và mọi hoạt động xã hội khác. Với các tiêu chí phân chia khác nhau, đầu tư vốn trong Nông nghiệp được chia ra thành nhiều loại. Cụ thể như sau:
* Chia theo các yếu tố chi phí, có thể phân chia đầu tư vốn ra thành các khoản sau đây:
- Chí phí tạo ra tài sản cố định: chi phí ban đầu về đất đai, chi phí sửa chữa nhà cửa, cấu trúc hạ tầng, chi phí mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị, mua phương tiện vận chuyển và chi khác.
- Chi phí tạo tài sản lưu động: chi phí mua nguyên vật liệu đầu vào: giống cây con, phân bón, thức ăn, chi thuê lao động…
- Chi phí nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ KHKT
* Theo phương thức đầu tư, Đầu tư vốn trong nông nghiệp bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp thông qua các phương thức:
- Đầu tư trực tiếp bằng NSNN để khuyến khích phát triển những sản phẩm nông nghiệp có ý nghĩa sống còn đối với quốc gia như cây lương thực, cây xuất khẩu, cây đặc sản có giá trị cao. Vốn đầu tư sẽ được sử dụng để chuyển giao công nghệ mới, áp dụng kỹ thuật tiên tiến hoặc giống mới có năng suất và chất lượng cao, phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đối tượng đầu tư theo nội dung này là hệ thống trạm trại nghiên cứu thực nghiệm và triển khai như giống, thủy nông, bảo vệ thực vật, cải tạo đất...
- Đầu tư gián tiếp thông qua tín dụng phát triển nông thôn với lãi suất ưu đãi. Nhà nước dành một phần vốn ngân sách, một phần vốn đi vay cung cấp cho các đối tượng SXKD nông nghiệp và kinh tế nông thôn với mục tiêu hỗ trợ vốn cho hộ sản xuất thông qua hệ thống NHNNo&PTNT, NHCSXH.
- Đầu tư xây dựng CSHT nông thôn như thủy lợi, giao thông, điện, chợ, thông tin liên lạc, kho tàng bến bãi.. tùy theo khả năng ngân sách, Nhà nước đầu tư toàn bộ hoặc nhà nước và nhân dân cùng làm để xây dựng và hoàn thiện CSHT nông thôn và sản xuất nông nghiệp có điều kiện mở rộng và tăng hiệu quả.
- Đầu tư qua giá mua vật tư và bán nông sản của hộ sản xuất cũng là phương thức được nhiều nước áp dụng. Hộ sản xuất nông nghiệp được mua vật tư, xăng dầu phục vụ sản xuất với giá ổn định và thấp, được bán nông sản hàng hóa và sản phẩm ngành nghề dịch vụ ở nông thôn với giá cao và ổn định. Nhà nước bù lỗ phần chênh lệch giữa giá thị trường với giá thu mua hoặc giá bán của nhà nước cho hộ sản xuất.
* Theo nguồn hình thành vốn đầu tư được hình thành từ hai nguồn: đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
- Vốn đầu tư trong nước:
Vốn đầu tư trong nước là tổng giá trị của những tài sản (tài sản hữu hình, tài sản vô hình và tài sản tài chính), được hình thành từ các nguồn lực kinh tế và sản phẩm thặng dư của nhân dân lao động ở một nước, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình SXKD nhằm mục tiêu thu nhập trong tương lai. Vốn trong nước là phần tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, bao gồm tiết kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết kiệm của Chính Phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội. Biểu hiện cụ thể của nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn đầu tư nhà nước, nguồn vốn của dân cư và tư nhân. Vốn đầu tư trong nước cho nông nghiệp được huy động từ nhiều nguồn: vốn NSNN, vốn tín dụng của ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vốn huy động trong dân…
+ Nguồn vốn đầu tư từ NSNN: Sử dụng qua các chương trình, dự án khuyến nông, thú y, bảo vệ thực vật, dự án xây dựng CSHT giao thông, thuỷ lợi…đây là nguồn vốn quan trọng trong việc phát triển ngành nông nghiệp của mỗi quốc gia.
+ Nguồn vốn tín dụng: Trong nông nghiệp, vốn tín dụng được hình thành qua hệ thống tín dụng chính thống (các NHNNo&PTNT, NHCSXH, các QTDND) và hệ thống tín dụng phi chính thống (cho vay nặng lãi, họ (hụi), phường, anh em bạn bè cho vay tương trợ nhau….). Đây là một kênh huy động vốn quan trọng đáp ứng được nhu cầu vốn của người sản xuất nông nghiệp một cách nhanh chóng và hiệu quả tới người nông dân. Nguồn vốn này ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nông nghiệp. Khác với nguồn vốn tín dụng huy động từ các nguồn khác, nguồn vốn tín dụng được hình thành từ NSNN sử dụng cho vay với lãi suất ưu đãi, cho vay để xây dựng các kết cấu hạ tầng, kinh tế xã hội và cho vay thông qua các dự án phát triển kinh tế xã hội.
+ Nguồn vốn của dân cư và tư nhân
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp kinh doanh, các HTX. Theo ước tính của Bộ Kế Hoạch Đầu Tư, tiết kiệm trong dân cư và các doanh nghiệp dân doanh chiếm bình quân khoảng 15% GDP, trong giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư của dân cư và tư nhân chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Cho đến nay, nguồn vốn này có xu hướng chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Trong đầu tư nông nghiệp, nguồn vốn từ dân cư và tư nhân được hình thành thông qua tiết kiệm của các hộ gia đình, các HTX nông nghiệp. Đây là một nguồn vốn quan trọng trong phát triển ngành nông nghiệp thông qua đầu tư trực tiếp sản xuất nông nghiệp hoặc kinh doanh các sản phẩm liên quan đến nông nghiệp. Vốn huy động từ dân cư được thành thông qua vốn huy động từ các hộ nông dân thông qua sản xuất kinh tế hộ hoặc trang trại.
- Nguồn vốn từ ngoài nước: bao gồm vốn hợp tác, liên doanh, liên kết, vốn vay và vốn viện trợ… Vốn nước ngoài đầu tư vào các ngành kinh tế nói chung, nông nghiệp nông thôn nói riêng dưới nhiều hình thức: vốn hợp tác liên minh, liên kết, vốn vay và vốn viện trợ. Các hình thức vốn vay và vốn viện trợ phần lớn được bổ sung vào nguồn vốn ngân sách đầu tư dước hình thức gián tiếp. Phần vốn còn lại được đầu tư dưới hình thức trực tiếp qua hợp tác, liên doanh, liên kết. Đối với nhiều nước trong đó có Việt Nam, nguồn vốn bên ngoài đóng vai trò hết sức quan trọng trong phát triển nông nghiệp. Cùng vói sự phát triển mối quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài ngày càng được mở rộng, nông nghiệp nước ta ngày càng có điều kiện huy động được nhiều nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào SXKD. Trên cơ sở Luật đầu tư đã ban hành và bổ sung, vốn đầu tư nước ngoài được đầu tư kinh doanh theo hai hình thức:
+ Các công ty nước ngoài đầu tư 100% vốn vào phát triển sản xuất nông nghiệp hay một lĩnh vực nào đó trong kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Hình thức này hiện còn hạn chế do phía nước ngoài chưa mạnh dạn đầu tư tuy phía Nhà nước Việt Nam đang có những thay đổi theo hướng khuyến khích.
+ Các công ty nước ngoài góp vốn liên doanh, hợp tác với các doanh nghiệp trong nước cùng kinh doanh sản xuất nông nghiệp dưới các hình thức: hai bên cùng kinh doanh theo Luật định dưới hình thức các công ty cổ phần, các liên doanh sản xuất (ngành chè, ngành cao su… là một trong những ví dụ), các công ty nước ngoài đầu tư vốn vào các doanh nghiệp trong nước dưới dạng cung ứng vốn thu hồi sản phẩm (ngành chè, cà phê, cao su, bông, dâu tằm…).
2.1.4 Đặc điểm sử dụng vốn đầu tư trong nông nghiệp
Vốn là nguồn lực khan hiếm đối với các ngành kinh tế nói chung và đối với nông nghiệp nói riêng. Với mỗi mục đích sử dụng vốn đầu tư cho những ngành, những lĩnh vực khác nhau vốn mang những đặc điểm khác nhau. Trong nông nghiệp, vốn đầu tư có những đặc điểm như sau:
- Nông nghiệp là ngành có nhiều đặc điểm mang tính đặc thù, trong đó tính nặng nhọc, phức tạp của lao động, tính sinh lợi thấp và tính rủi ro cao của sản xuất là những đặc điểm có tính đặc trưng nhất. Với những đặc điểm này, nông nghiệp là ngành cần lượng vốn đầu tư lớn, nhưng lượng vốn trong nội bộ ngành ít, sức thu hút từ các ngành, lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân rất kém. Vì vậy nguồn vốn đầu tư qua ngân sách, nguồn vốn đầu tư tín dụng ưu đãi có vai trò hết sức quan trọng.
- Nông nghiệp là ngành sản xuất sinh học. Sự tác động của vốn sản xuất vào quá trình sản xuất và hiệu quả kinh doanh không phải bằng cách trực tiếp mà thông qua đất, cây trồng, vật nuôi. Cơ cấu và chất lượng của vốn sản xuất phải phù hợp với yêu cầu của từng loại đất đai, từng đối tượng sản xuất là sinh vật. Ngoài những tư liệu lao động có nguồn gốc kỹ thuật còn có những tư liệu lao động có nguồn gốc sinh học (cây trồng, vật nuôi…). Những tư liệu lao động này một mặt thay đổi giá trị sử dụng theo quy luật sinh học, mặt khác chúng không thể có sự khôi phục từng bộ phận như máy móc. Hơn nữa, chu kỳ sản xuất của cây trồng, vật nuôi khá phức tạp. Tuỳ thuộc từng loại mà chu kỳ sản xuất dài hay ngắn khác nhau. Những yêu cầu về vốn theo đặc điểm trên rất nghiêm ngặt. Vì vậy, đầu tư vốn và chính sách đầu tư vốn cần phải tuân thủ và phù hợp với từng loại cây trồng vật nuôi theo đặc tính sinh học đó.
- Chu kỳ sản xuất dài và tính thời vụ trong nông nghiệp, một mặt làm cho sự tuần hoàn và luân chuyển chậm chạp, kéo dài thời gian thu hồi vốn cố định, tạo ra sự cần thiết và khả năng tập trung hoá cao về phương tiện kỹ thuật trên một lao động nông nghiệp so với công nghiệp.
- Sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Do đó sự tác động của vốn vào quá trình sản xuất và hiệu quả kinh tế của nó không phải là trực tiếp mà thông qua đất, cây trồng, vật nuôi. Vì vậy việc sử dụng vốn gặp nhiều rủi ro, làm tổn thất hoặc giảm hiệu quả của việc sử dụng vốn. Để đầu tư vốn có hiệu quả, cơ cấu và lượng vốn phải phù hợp với yêu cầu của từng loại đất đai, từng đối tượng sinh học. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, môi trường sinh thái ngày càng xấu đi, điều kiện thiên nhiên ngày càng khắc nghiệt hơn làm cho tính rủi ro của sản xuất ngày càng cao, tổn thất ngày càng lớn và khó lường trước. Trong bối cảnh đó, vốn đầu tư cho nông nghiệp cần một lượng rất lớn, nhiều khi đầu tư khó thu hồi (đầu tư cho phòng hộ), khả năng rủi ro với vốn rất cao.
- Một bộ phận sản xuất nông nghiệp không qua lĩnh vực lưu thông mà được chuyển trực tiếp làm tư liệu sản xuất cho bản thân ngành nông nghiệp, do vậy vòng tuần hoàn vốn sản xuất được chia thành vòng tuần hoàn đầy đủ và không đầy đủ. Vòng tuần hoàn không đầy đủ là vòng tuần hoàn của một bộ phận vốn không được thực hiện ngoài thị trường mà được tiêu dùng trong nội bộ ngành nông nghiệp khi vốn lưu động được khôi phục trong hình thái hiện vật của chúng. Vòng tuần hoàn đầy đủ yêu cầu vốn lưu động phải trải qua tất cả các giai đoạn, trong đó có giai đoạn tiêu thụ sản phẩm.
- Ngoài ra, tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp một mặt làm cho sự tuần hoàn và luân chuyển vốn chậm chạp, sự cần thiết phải dự trữ đáng kể trong thời gian tương đối dài vốn lưu động (giống, thức ăn, gia súc, phân bón…) làm cho vốn ứ đọng. Mặt khác, đã tạo sự cần thiết tập trung hoá cao hơn các phương tiện kỹ thuật cho một lao động nông nghiệp. Vì vậy, yêu cầu vốn cho nông nghiệp thường tập trung một lượng lớn vào những thời điểm nhất định.
2.1.5 Vai trò của đầu tư vốn trong nông nghiệp.
Trong kinh tế học từ cổ điển đến hiện đại đều coi đầu tư là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò của đầu tư được xem xét trên hai góc độ nền kinh tế.
* Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế:
Đầu tư phát triển vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu.
Về tổng cầu: Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu toàn bộ nền kinh tế.
Công thức tính tổng cầu của nền kinh tế mở:
AD =C + I + G + ( Ex –Im ).
Trong đó:
AD: Tổng cầu
I: Chi tiêu của doanh nghiệp
C: Chi tiêu của hộ gia đình
G: Chi tiêu của Chính phủ
(Ex –Im): Xuất khẩu ròng
Như vậy đầu tư của các doanh nghiệp và một phần chi tiêu của Chính phủ ( đầu tư Chính Phủ) là một bộ phận trong tổng cầu nền kinh tế. Tuy nhiên sự tác động của đầu tư đến tổng cầu là trong ngắn hạn, trong thời gian thực hiện đầu tư, trong khi tổng cung chưa kịp thay đổi (các kết quả của đầu tư chưa phát huy tác dụng ).
P
(mức giá)
Q
(Sản lượng)
P1
P2
Q1
Q2
AS
AD2
AD1
Hình 1. Đồ thị tổng cung - cầu
Khi tổng cầu tăng thì giá và sản lượng cân bằng tăng lên, tuy nhiên việc tăng này chỉ trong ngắn hạn.
Về tổng cung:
P
(mức giá)
Khi các kết quả của đầu tư bắt đầu phát huy tác dụng, các năng lực mới tăng thêm đi vào hoạt động thì tổng cung tăng, đặc biệt là tổng cung dài hạn.
AS1
AS2
P1
P2
AD
Q
(Sản lượng)
Q2
Q1
Hình 2. Đồ thị tổng cung –cầu
Như vậy về dài hạn khi đầu tư tăng thì tổng cung tăng, sản lượng cân bằng tăng và giá giảm.
Về dài hạn, giá sẽ ổn định, sản lượng cân bằng tăng khi tăng đầu tư. Việc tăng giảm đầu tư có ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế. Khi tăng đầu tư, sản lượng cân bằng tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm do có công ăn việc làm được tạo ra. Tuy nhiên khi tăng đầu tư cũng làm mức giá tăng, tốc độ lạm phát tăng ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế.
Khi giảm đầu tư thì sản lượng, tỷ lệ thất nghiệp tăng nhưng giá ổn định.
Như vậy, việc tăng giảm đầu tư đều có mặt lợi hại nhất định, do đó tuỳ thuộc vào điều kiện của nền kinh tế mà có những chính sách kinh tế thích hợp để điều tiết nền kinh tế thông qua tác động đến đầu tư.
*Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Học thuyết kinh tế hiện đại đã nghiên cứu và giải đáp._. thành công mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư và phát triển kinh tế nói chung, nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Học thuyết đó khẳng định: đầu tư là chìa khóa của tăng trưởng kinh tế. Muốn tăng trưởng kinh tế, nhất thiết phải giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng theo quan điểm: đầu tư là điều kiện để đạt tới mục tiêu tăng tưởng kinh tế một quốc gia cũng như một ngành. Trong Nông nghiệp, quan hệ đầu tư và tăng trưởng vận động theo chu kỳ: Tăng đầu tư đ tăng thu nhập đtăng sức mua đ tăng đầu ra, tăng đầu tư mới đ tăng thu nhập mới đ sức mua mới đtăng đầu ra mới đ tăng trưởng mới.
Qua phân tích các nhà kinh tế học đã rút ra rằng giữa đầu tư và tăng trưởng có mối quan hệ tỷ lệ. Muốn giữ cho tăng trưởng ổn định ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư so với GDP phải đạt từ 15 -–25% tuỳ vào hệ số ICOR của mỗi nước .
ICOR =
Δ GDP
Δ I
Trong đó:
Δ I: Mức tăng của vốn đầu tư
Δ GDP: Mức tăng của GDP
Hệ số ICOR phản ánh cứ tăng thêm một đồng vốn đầu tư thì sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng trong GDP. Nó phản ánh hiệu quả tăng thêm của vốn đầu tư. Trong công thức trên nếu ICOR không đổi, thì GDP tăng khi đầu tư tăng. Do đó đầu tư chính là chìa khoá cho sự tăng trưởng, là nhân tố làm tăng GDP.
* Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Mục tiêu cuối cùng của đầu tư là tạo ra hiệu quả cao, tăng trưởng kinh tế lớn do đó đầu tư phải tập trung vào những ngành có lợi suất đầu tư lớn. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới là muốn tăng trưởng nhanh với tốc độ trung bình 8- 10% thì cần đầu tư vào khu công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên không phải vì thế mà chỉ tập trung đầu tư vào công nghiệp và dịch vụ mà lãng quên ngành nông nghiệp. Bài học thực tế từ Liên Xô và các nước Đông Âu là một ví dụ. Do quá chú trọng đầu tư cho công nghiệp nặng, xem nhẹ vai trò của công nghiệp nhẹ và nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá XHCN nên dẫn đến sự thiếu hụt nghiêm trọng về lương thực, thực phẩm do sản xuất nông nghiệp bị trì trệ, nông dân không muốn sản xuất. Tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm triền miên, giá bánh mỳ và bơ tăng không có điểm dừng làm cho mâu thuẫn trong nền kinh tế quốc dân càng trở nên gay gắt và cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu. Do đó, trong thực tế phải xem xét đầu tư một cách hợp lý giữa công nghiệp - dịch vụ và nông nghiệp, đảm bảo việc chuyển dịch cơ cấu có hiệu quả và tiến bộ.
* Đầu tư tác động đến cơ cấu lãnh thổ.
Đầu tư có thể giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa những vùng lãnh thổ, đặc biệt là giải quyết về cơ sở vật chất kỹ thuật, đời sống văn hoá xã hội của người dân. Việc đầu tư giải quyết những mất cân đối về phát triển kinh tế giữa các vùng thường được thực hiện bằng vốn đầu tư của nhà nước, thông qua các định hướng chính sách chung... nhằm đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, phát triển và khai thác tối đa những lợi thế so sánh, những tiềm năng sẵn có để đưa những vùng có tiềm năng phát triển tăng trưởng nhanh hơn và làm bàn đạp cho các vùng khác cùng phát triển.
Do đó, muốn tăng trưởng phải đầu tư vào những ngành mũi nhọn, với một cơ cấu lãnh thổ hợp lý, kết hợp với các chính sách hiệu quả về kinh tế nói chung và về đầu tư nói riêng thì sẽ tạo ra được một tốc độ tăng trưởng như mong muốn.
*Đầu tư tăng cường khả năng công nghệ của đất nước.
Công nghệ có thể được thông qua hai con đường chính là: Thứ nhất là tự bỏ chi phí để tự nghiên cứu, phát hiện ra công nghệ bằng khả năng của chính mình sau đó áp dụng vào các hoạt động kinh tế để thu hồi vốn đã bỏ ra nghiên cứu công nghệ và có lãi. Nhưng để nghiên cứu ra công nghệ cần nhiều vốn đầu tư, lao động chất xám cao, máy móc hiện đại, thời gian đầu tư kéo dài và độ mạo hiểm cao khi nghiên cứu thất bại. Do đó việc nghiên cứu thường do các nước phát triển mới có đầu tư thực hiện. Thứ hai là mua công nghệ trên thị trường thế giới và nó sẽ nhanh chóng giúp cho có được công nghệ như mong muốn, nhưng công nghệ này thường không hiện đại, phải cạnh tranh và cũng không đắt lắm. Đây là hình thức thích hợp với các nước đi sau, tuy nhiên phương pháp này cũng có những rủi ro nhất định khi mua phải công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường...Dù theo con đường nào đi nữa thì chỉ có đầu tư mới tăng cường khả năng công nghệ một cách thích hợp và hiệu quả.
Tóm lại, đầu tư trong nông nghiệp có vai trò quan trọng như đầu tư trong những ngành khác. Đó là động lực giúp cho ngành nông nghiệp phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Thông qua đầu tư, một loạt CSHT, các thiết bị KHKT, những kỹ thuật mới về tiến bộ KHKT và những giống mới được áp dụng đưa vào SXKD từ đó giúp ngành nông nghiệp phát triển mở rộng sản xuất, vừa nâng cao được năng suất, chất lượng cũng như giá trị của cây trồng vật nuôi.
2.1.6 Hiệu quả đầu tư và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư
Hiệu quả đầu tư vốn là một phạm trù khách quan, tồn tại do sự khan hiếm nguồn lực vốn. Yêu cầu đầu tư vốn có hiệu quả ngày càng trở nên bức xúc hơn đối với các nước đang phát triển nói chung và đối với Việt Nam nói riêng.
Theo nghĩa chung nhất, hiệu quả đầu tư biểu hiện mối quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế - xã hội đã đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phí phải bỏ ra để có các kết quả đó trong một thời kỳ nhất định.
Hiệu quả hoạt động đầu tư được đánh giá thông qua các chỉ tiêu đo lường hiệu quả. Việc xác định các chỉ tiêu này phụ thuộc vào mục tiêu của chủ thể đầu tư đưa ra.
Hiệu quả đầu tư vốn biểu hiện giữa mức độ hoàn thành các mục tiêu kinh tế đã đặt ra cho người bỏ vốn cũng như thoả mãn nhu cầu vật chất của xã hội. Nó thể hiện cụ thể qua sự thay đổi số lượng, chất lượng sản phẩm, cơ cấu sản phẩm, mức lợi nhuận thu lại và chi phí bỏ ra.
Có ba quan điểm đánh giá hiệu quả đầu tư vốn:
- Thứ nhất: Coi tiêu chuẩn hiệu quả là một mức định mức nhất định (Hđm) và dựa vào đó để kết luận hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Nếu H> Hđm thì việc đầu tư vốn là có hiệu quả và ngược lại H< Hđm thì việc đầu tư vốn là không có hiệu quả. Hoạt động đầu tư được đánh giá là có hiệu quả khi trị số của các chỉ tiêu đo lường hiệu quả thoả mãn tiêu chuẩn hiệu quả trên cơ sở sử dụng các định mức hiệu quả do chủ đầu tư định ra.
- Thứ hai: Coi tiêu chuẩn hiệu quả là một mức cao nhất Hmax. Do đó trên thực tế, hiệu quả đầu tư H thường nhỏ hơn Hmax. Nếu hiệu quả đầu tư H càng gần Hmax thì việc đầu tư càng có hiệu quả.
- Thứ ba: Coi tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả đầu tư vốn là do quy luật kinh tế cơ bản quy định.
Quan điểm thứ ba là rất đáng quan tâm vì nó gắn liền giữa mục tiêu và phương tiện để đạt được mục tiêu. Tuy nhiên, trong thực tế và theo tôi nên sử dụng quan điểm thứ nhất vì nó cho phép đánh giá hiệu quả đầu tư vốn một cách cụ thể và dễ dàng tính toán thực hiện trong thực tế.
* Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư :
- Mức tăng của giá trị sản xuất so với toàn bộ vốn đầu tư phát triển phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu (ký hiệu Hlv(GO)
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách so sánh giữa mức tăng của giá trị sản xuất với toàn bộ vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của ngành trong địa phương:
DGO
H lv(GO) =
IvPHTD
Trong đó:
DGO là giá trị sản xuất tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của ngành, địa phương, vùng và của toàn bộ nền kinh tế.
IvPHTD là vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của ngành trong toàn bộ địa phương.
Công thức này được sử dụng để tính hiệu quả kinh tế của đầu tư ở cấp độ ngành ở địa phương hoặc toàn bộ nền kinh tế. Nó cho biết 1 đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu đã tạo ra được bao nhiêu đơn vị mức tăng của giá trị sản xuất trong kỳ nghiên cứu cho các ngành, địa phương.
- Mức tăng của giá trị tăng thêm so với toàn bộ vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu (Ký hiệu Hlv(VA))
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách so sánh giữa mức tăng của tổng sản phẩm quốc nội với toàn bộ vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của vùng, địa phương hoặc nền kinh tế.
DVA
Hlv(VA) =
IvPHTD
Trong đó:
DVA: Mức tăng của giá trị tăng thêm trong kỳ nghiên cứu tính cho từng ngành.
IvPHTD là vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của từng ngành.
Công thức này được sử dụng để đánh giá hiệu quả đầu tư cho từng ngành. Cho biết 1 đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu đã tạo ra bao nhiêu đơn vị mức tăng của giá trị tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của từng ngành.
- Chỉ tiêu suất đầu tư cần thiết để làm tăng thêm 1 đơn vị tổng sản phẩm quốc nội.
Iv
ICOR =
DVA
Trong đó:
Iv là vốn đầu tư trong kỳ nghiên cứu của ngành, địa phương.
DVA là mức tăng của giá trị tăng thêm trong kỳ nghiên cứu tính cho ngành.
Chỉ tiêu này cho biết để tạo 1 đơn vị tổng sản phẩm giá trị gia tăng thêm cần bao nhiêu vốn đầu tư. Xét trên góc độ sử dụng nguồn lực đầu vào là vốn và đầu ra là mức tăng trưởng (VA) thì hệ số ICOR phản ánh đúng hiệu quả đầu tư. Tuy nhiên chỉ tiêu này chưa tính đến độ trễ của thời gian trong đầu tư, chưa xét đến ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào khác như lao động, đất đai, công nghệ… và ảnh hưởng của các yếu tố ngoại ứng.
- Chỉ tiêu hệ số huy động tài sản cố định (TSCĐ)
Chỉ tiêu này biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ giữa giá trị tài sản cố định huy động ở cấp độ ngành, địa phương, vùng và toàn bộ nền kinh tế trong kỳ nghiên cứu với tổng số vốn đầu tư thực hiện trong kỳ nghiên cứu ở cấp độ ngành:
F
H TSCĐ =
IvTH
Trong đó:
F là giá trị tài sản cố định huy động trong kỳ nghiên cứu của ngành, địa phương, vùng và toàn bộ nền kinh tế.
IvTH: là vốn đầu tư thực hiện trong kỳ nghiên cứu của ngành, địa phương, vùng và toàn bộ nền kinh tế hoặc toàn bộ vốn đầu tư thực hiện.
Chỉ số của chỉ tiêu càng cao phản ánh việc thi công dứt điểm xây dựng công trình, các công trình nhanh chóng được huy động vào sử dụng trong từng ngành, làm tăng năng lực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của ngành, vùng, địa phương và toàn bộ nền kinh tế.
Trong các chỉ tiêu trên theo chúng tôi nên dùng chỉ tiêu thứ nhất (chỉ tiêu mức tăng giá trị sản xuất so với toàn bộ vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu) là thích hợp nhất cho tính toán hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư của ngành nông nghiệp bởi các chỉ tiêu VA, F trong ngành nông nghiệp rất khó thống kê và xác định chính xác do đặc thù của không tách rõ được giữa các khoản thu nhập và chi phí trung gian (đặc điểm tự sản tự tiêu là một ví dụ).
2.1.7 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động đầu tư, trong đó có các nhân tố chính sau:
- Nhóm nhân tố cơ chế, chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước:
Cơ chế chính sách kinh tế vĩ mô đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển nông nghiệp và việc đầu tư, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Cơ chế chính sách kinh tế là bộ não chỉ huy, hướng dẫn và điều tiết sản xuất nông nghiệp, tạo tiền đề và điều kiện để khai thác những tiềm năng, thế mạnh về đất đai, lao động, đặc biệt là vốn. Cơ chế chính sách đúng đắn, hợp lòng dân sẽ tạo thêm động lực cho người lao động, doanh nghiệp và các thành phần kinh tế tham gia tích cực đầu tư phát triển SXKD, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, tạo điều kiện sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp. Ngược lại, sẽ triệt tiêu động lực phát triển kinh tế cũng như làm suy giảm hiệu quả hoạt động đầu tư.
Trong thực tế, cơ chế chính sách ra đời hoặc không còn hiệu lực có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động đầu tư. Khi tiến hành đầu tư, nhà đầu tư phải tính đến tác động của các yếu tố này để chủ động lường trước mọi tình huống có thể xẩy ra.
- Nhóm nhân tố công tác tổ chức quản lý đầu tư: Đây là nhóm yếu tố chủ quan do công tác tổ chức quản lý đầu tư quyết định trực tiếp đến hiệu quả hoạt động đầu tư. Việc tổ chức quản lý đầu tư phải đảm bảo chống thất thoát, tham ô, lãng phí, việc hoàn thành theo đúng quy hoạch, kế hoạch đề ra. Để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư cần tổ chức quản lý đầu tư một các khoa học, gọn nhẹ, tránh sự chồng tréo gây nên sự lãng phí không cần thiết. ở Việt Nam, trong những năm qua, do công tác quản lý đầu tư vốn không tốt đã gây ra tình trạng thất thoát nghiêm trọng về vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư từ NSNN do việc quản lý lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm đã làm cho hiệu quả của việc đầu tư vốn không cao.
- Nhóm nhân tố về đối tượng của hoạt động đầu tư: Đây là nhóm nhân tố liên quan đến con người, đến cơ sở vật chất kỹ thuật. Trong nông nghiệp, trình độ hiểu biết, tay nghề của người nông dân ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động đầu tư. Đồng thời, điều kiện về CSHT trong nông nghiệp, những nền tảng về giao thông, hệ thống kênh mương, điều kiện về thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng cũng ảnh hưởng to lớn đến hiệu quả của hoạt động đầu tư.
2.2. Cơ sở lý luận về chính sách đầu tư vốn trong nông nghiệp
2.2.1. Khái niệm, vai trò của chính sách đầu tư vốn trong nông nghiệp
Theo nghiên cứu của Đại học Kinh tế quốc dân cho rằng: “Chính sách là một hệ thống quan điểm chủ trương, biện pháp và quản lý được thể chế hoá bằng pháp luật của nhà nước để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội của đất nước’’[20]. Kinh tế gia Franc Ellis lại cho rằng: "Chính sách được xác định như là đường lối hành động mà chính phủ lựa chọn đối với mọi lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả các mục tiêu mà Chính Phủ lựa chọn đối với mọi lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả các mục tiêu mà Chính Phủ tìm kiếm và sự lựa chọn các phương pháp để theo đuổi các mục tiêu đó"[20].
Theo giáo trình chính sách nông nghiệp của Đại học Nông nghiệp I, tác giả Nguyễn Vân Đình cho rằng: "Chính sách được hiểu là phương cách, đường lối hoặc phương hướng dẫn dắt hành động trong việc phân bổ và sử dụng nguồn lực. Đó là tập hợp các quyết sách của Nhà nước nhằm điều khiển nền kinh tế hướng tới những mục tiêu nhất định, từng bước tháo gỡ những khó khăn trong thực tiễn, đảm bảo sự vận hành của nền kinh tế thông qua các quy định trong các văn bản chính sách của Chính Phủ"[14].
Chính sách nông nghiệp là một trong những chính sách quan trọng của Chính Phủ, thể hiện quan điểm của Chính Phủ về một lĩnh vực nào đó nhằm thay đổi môi trường của sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển. Các vấn đề có liên quan đến sản xuất gồm các tác động đến giá thị trường yếu tố đầu vào, thị trường tư liệu sản xuất, các tác động đến sự tiến bộ KHKT và công nghệ và các vấn đề có liên quan đến tổ chức phối hợp nguồn lực.
Chính sách đầu tư vốn cho nông nghiệp là tổng thể các biện pháp kinh tế và phi kinh tế tác động đến các quy luật hình thành và sử dụng vốn trong nông nghiệp, nông thôn nhằm đạt những mục tiêu nhất định, với những điều kiện và thời gian xác định. Chính sách đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông thôn bao gồm: huy động vốn cho nông nghiệp, nông thôn và chuyển tải vốn đến các ngành, lĩnh vực của nông nghiệp, nông thôn giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả.
Nông nghiệp, nông thôn là ngành, lĩnh vực có sức hấp dẫn vốn kém. Điều đó do các đặc điểm của nông nghiệp nông thôn chi phối. Vì vậy huy động và sử dụng vốn đều có vai trò quan trọng. Chính sách huy động và sử dụng vốn cho nông nghiệp, nông thôn cần chú ý đến cả 2 phương diện đó. Tuy nhiên, vốn cho nông nghiệp nông thôn có nhiều nguồn khác nhau như đã trình bày ở trên. Trên phương diện chính sách, quan hệ của nhà nước với mỗi nguồn vốn đó có những biểu hiện khác nhau. Vì vậy, sự chi phối của chính sách đến huy động và sử dụng vốn cũng khác nhau. Sự khác biệt đó của chính sách tạo nên sự đa dạng và là điểm cần chú ý khi hoạch định và triển khai chính sách.
2.2.2. Vai trò của chính sách đầu tư vốn trong nông nghiệp
Vốn là điều kiện cần thiết và không thể thiếu được để thực hiện quá trình SXKD của mọi ngành trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy việc đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông thôn có vai trò hết sức quan trọng, điều đó được biểu hiện:
- Nông nghiệp là một trong những ngành sản xuất vật chất quan trọng và cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Khác với các ngành sản xuất khác, nông nghiệp là ngành sản xuất sinh học, phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên. Vì vậy, đây là ngành cần lượng vốn lớn nhưng lợi nhuận của ngành thấp, tính rủi ro cao. Trong điều kiện sản xuất hàng hoá, do các quy luật của sản xuất hàng hoá chi phối, những người sản xuất sẽ tập trung đầu tư vào những ngành, những lĩnh vực có lợi nhuận cao, dẫn đến một số ngành đầu tư mang hiệu quả thấp sẽ không được chú ý phát triển. Nông nghiệp nông thôn phát triển nhanh hay chậm phụ thuộc vào đầu tư - yếu tố quyết định để phát huy tiềm năng về đất đai, sức lao động và nguồn lợi tự nhiên khác nhằm cải biến nông nghiệp, nông thôn từng bước theo kịp với các ngành, các lĩnh vực khác trong phát triển kinh tế xã hội.
- Ngoài những vấn đề trên, nông nghiệp còn là ngành, lĩnh vực chứa đựng nhiều mối quan hệ kinh tế xã hội phức tạp. Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn còn giải quyết các vấn đề xã hội nan giải (xoá đói giảm nghèo, bài trừ hủ tục lạc hậu…), thực hiện các chính sách xã hội là vấn đề hết sức được quan tâm ở hầu hết các nước và các tổ chức quốc tế trên thế giới.
- Đối với Việt Nam, nông nghiệp nông thôn có vị trí quan trọng. Trong nhiều năm, chúng ta chỉ chú ý đến nông nghiệp, lãng quên địa bàn nông thôn. Vì vậy kinh tế nông thôn nước ta chủ yếu là thuần nông với cơ sở vật chất nghèo nàn, kết cấu hạ tầng thấp kém, sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị, giữa nông nghiệp với các ngành ngày càng lớn. Hiện nay, nền kinh tế nước ta đã bước vào hội nhập WTO, bối cảnh đó càng yêu cầu phải đẩy mạnh nông nghiệp, nông thôn sang sản xuất hàng hoá theo hướng CNH-HĐH. Để đáp ứng yêu cầu đó, yêu cầu vốn trong nông nghiệp, nông thôn lại càng trở nên cần thiết.
- ở Việt Nam, trước năm 1989 chúng ta theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chúng ta đã sai lầm trong nội dung và phương thức đầu tư cho nông nghiệp. Vì vậy hiệu quả của đầu tư chưa cao. Những năm gần đây, nhờ có những thay đổi về nội dung và phương thức đầu tư, nông nghiệp, nông thôn đã đạt được những kết quả đáng khích lệ và những bước tiến đáng kể. Tuy vậy, nông nghiệp, nông thôn vẫn còn ở tình trạng thấp kém, sự cách biệt xa giữa thành thị và nông thôn vẫn còn lớn và có xu hướng gia tăng.
Từ những vấn đề đó, để thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển sản xuất hàng hoá theo hướng CNH-HĐH, từng bước xoá bỏ sự cách biệt với thành thị và các ngành khác, vốn đóng vai trò hết sức quan trọng. Nông nghiệp nước ta thiếu vốn để sản xuất, để mở rộng và phát triển theo chiều sâu. Do đó, việc đầu tư vốn và có những chính sách đầu tư vốn cho ngành nông nghiệp là thực sự cần thiết.
2.2.3 Phân loại và nội dung một số chính sách đầu tư vốn cho nông nghiệp
2.2.3.1 Chính sách đầu tư vốn từ ngân sách:
Vốn ngân sách là nguồn vốn quan trọng đối với nông nghiệp nông thôn. Vì vậy, chính sách đầu tư vốn ngân sách là một trong các vấn đề cốt lõi của chính sách đầu tư vốn cho nông nghiệp nông thôn. Chính sách đầu tư vốn này đã tạo cho nông nghiệp, nông thôn một nguồn vốn ngân sách với tỷ trọng khá lớn. Mặt khác, nhà nước được coi là người chủ sở hữu vốn. Vì vậy, sự chi phối nguồn vốn ngân sách thông qua chính sách đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông thôn được coi là rộng rãi nhất trong các nguồn vốn. Tuy nhiên, đầu tư cho nông nghiệp từ nguồn vốn ngân sách một mặt phải tuân thủ theo nhưng quy luật vận động của vốn trong nông nghiệp, nông thôn. Phải tuân thủ những cam kết về đầu tư mang tính hỗ trợ nông nghiêp, nông thôn khi đàm phán gia nhập WTO. Bên cạnh đó sự chi phối nguồn vốn đó phải đảm bảo tính hiệu quả trong sử dụng vốn.
2.2.3.2 Chính sách đầu tư vốn tín dụng
Tín dụng là hình thức đầu tư vốn quan trọng trong các hình thức đầu tư trong nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, chính sách đầu tư vốn tín dụng có vai trò rất quan trọng trong các chính sách vốn và đầu tư trong nông nghiệp nông thôn. Hiện nay, trong nông nghiệp nông thôn tồn tại tất cả các hình thức tín dụng. Trong các hình thức tín dụng đó, tín dụng từ nguồn vốn NSNN có sự chi phối khác hơn các nguồn vốn tín dụng khác. Tuy nhiên, để chính sách tín dụng cho nông nghiệp nông thôn đáp ứng tốt nhu cầu vốn của nông nghiệp cần tập trung một số nội dung sau:
- Vấn đề xác định các đối tượng và hình thức cho vay:
Nông nghiệp, nông thôn là một lĩnh vực hoạt động cần vốn. Vì vậy, cần căn cứ vào nguồn vốn tín dụng, đặc điểm của hoạt động kinh doanh, của các chủ thể kinh doanh để xác định hình thức và đối tượng cho vay phù hợp.
Việc xác định đối tượng và hình thức cho vay cần căn cứ vào:
+ Mục đích của việc cho vay
+ Tính an toàn trong bảo toàn và phát triển nguồn vốn vay.
+ Hiệu quả của việc sử dụng vốn vay.
Đối với ngân hàng, các tổ chức tín dụng chuyên doanh, tính an toàn và hiệu quả của việc sử dụng vốn vay được coi trọng trong việc xác định đối tượng và hình thức cho vay. Đối với các ngân hàng, tổ chức tín dụng, các tổ chức xã hội thực hiện chính sách hỗ trợ nông nghiệp như ngân hàng Người nghèo, chương trình 120…mục đích lại ưu tiên khi xác định đối tượng và hình thức cho vay. Vì vậy, chính sách tín dụng nên tập trung vào các hoạt động tín dụng mang tính hỗ trợ. Nếu muốn can thiệp vào các hoạt động tín dụng của các tổ chức chuyên doanh cần có sự hỗ trợ các hoạt động tín dụng của các tổ chức này, để họ thực hiện chức năng hỗ trợ nhưng không gây khó khăn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng.
- Vấn đề lãi suất cho vay:
Về nguyên tắc, nông nghiệp nông thôn có những đặc thù so với các ngành, các lĩnh vực khác. Vì vậy, đầu tư cho nông nghiệp nông thôn qua các hình thức tín dụng phải được áp dụng mức lãi suất thấp. Xác định lãi suất tín dụng là rất quan trọng. Chính sách can thiệp lãi suất phải tuỳ loại hình hoạt động tín dụng có mức độ can thiệp khác nhau.
+ Đối với ngân hàng chuyên doanh, mức lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở lãi suất đi vay, các chi phí hoạt động cho vay và mức tích luỹ hợp lý của hoạt đông tín dụng. Nhà nước muốn sử dụng các hoạt động tín dụng như là công cụ tác động đến nông nghiệp nông thôn thì nhà nước cần phải có các công cụ tác động đến nông nghiệp nông thôn như bổ sung nguồn vốn ngân sách cho sự hoạt động của ngân hàng, hỗ trợ chi phí kinh doanh…Có như vậy hoạt động của các tổ chức tín dụng mới đảm bảo.
+ Đối với các NHCSXH: nguồn vốn và hoạt động tín dụng có sự hỗ trợ của nhà nước. Vì vậy, nhà nước có thể tự xác định mức lãi suất cho vay, tuỳ theo đối tượng và mục đích vay. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng trợ cấp cho tín dụng làm cho tỷ lệ lãi suất tín dụng thấp đã tạo ra tác động tiêu cực đối với khả năng lâu dài của các tổ chức tín dụng nông thôn cũng như đối với người vay, người gửi.
2.2.3.3 Chính sách đầu tư vốn trực tiếp từ các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước
Vốn đầu tư trực tiếp từ các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước là nguồn vốn đầu tư trực tiếp thông qua việc hình thành các tổ chức kinh doanh trong nông nghiệp nông thôn. Nông nghiệp nông thôn là ngành, lĩnh vực có sức hấp dẫn đầu tư kém. Vì vậy, nội dung của chính sách đầu tư vốn cần tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
- Tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư vào nông nghiệp nông thôn. Các chính sách thu hút đầu tư cần tập trung vào đơn giản hoá các thủ tục đầu tư, miễn giảm thuế và tiền thuê quyền sử dụng đất, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, giảm các khoản phí và lệ phí…
- Có các chính sách điều tiết nguồn vốn đầu tư trực tiếp và hoạt động kinh doanh theo hướng khai thác các tiềm năng, lợi thế của nông nghiệp.
- Thực hiện xã hội hoá các nguồn vốn đầu tư vào xây dựng các CSHT theo phương châm "nhà nước và nhân dân cùng làm" đối với CSHT phục vụ thôn xã. Thu hút nguồn vốn BOT của các CSHT giao thông, điện, nước, trường học…đối với nguồn vốn nước ngoài và các tổ chức kinh tế trong nước.
2.2.4 Đặc điểm của chính sách đầu tư nông nghiệp
- Do nông nghiệp sản xuất ra các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu, hàng ngày sử dụng trực tiếp và gián tiếp đối với mọi người dân cho nên chính sách đầu tư nông nghiệp tác động đến không chỉ đối với nông dân mà tất cả mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
- Nông nghiệp là một lĩnh vực hoạt động trên địa bàn rộng lớn, phức tạp và đa dạng, cho nên phạm vi tác động của chính sách nông nghiệp rất rộng. Mỗi nông hộ, mỗi đơn vị SXKD nông nghiệp hoạt động trên một địa bàn nhất định gắn với tính chất xã hội, nhân văn và lịch sử phát triển của cộng đồng địa phương. Vì vậy mọi chính sách đầu tư nông nghiệp áp dụng chung cho quốc gia cần được cụ thể hoá cho phù hợp với mỗi vùng, mỗi địa phương. Do vậy chính sách đầu tư nông nghiệp không chỉ thuần tuý đạt được mục tiêu kinh tế mà còn cần phải đạt được cả mục tiêu xã hội.
- Sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, mức độ rủi ro cao, cho nên chính sách đầu tư nông nghiệp nhiều khi không lường hết được những điều kiện bất thuận của các yếu tố khách quan mang lại. Do vậy khi hoạch định chính sách đầu tư và chỉ đạo thực hiện chính sách đầu tư, người ta không chỉ tính đến tác động của yếu tố kinh tế - xã hội mà còn phải tính đến các yếu tố tự nhiên.
- Chính sách đầu tư nông nghiệp không chỉ tác động đến hộ nông dân, các doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp mà còn tác động đến cả các ngành kinh tế khác, nhất là các ngành có liên quan đến nông nghiệp nông thôn.
- Do đối tượng tiếp nhận và phạm vi tác động của chính sách đầu tư nông nghiệp rộng, trình độ của người dân ở các vùng không đồng đều cho nên việc tiếp thu và thực hiện chính sách đầu tư nông nghiệp không đồng đều giữa các địa phương và giữa ngay những nhóm người trong cùng địa phương.
Nghiên cứu đặc điểm của chính sách đầu tư nông nghiệp có ý nghĩa to lớn trong việc hoạch định và triển khai thực hiện chính sách đối với người dân trong từng vùng, từng địa phương.
2.2.5 Mục tiêu của chính sách đầu tư trong nông nghiệp
- Chính sách đầu tư nông nghiệp góp phần thực hiện tốt quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn. Thông qua nguồn vốn đầu tư, CSHT nông thôn được phát triển hơn. Chính sách đầu tư nông nghiệp góp phần đảm bảo cho nông nghiệp, nông thôn phát triển toàn diện. Sự phát triển toàn diện của nông nghiệp được thể hiện đa dạng hoá các sản phẩm nông nghiệp, vừa phát huy thế mạnh của việc sản xuất sản phẩm, vừa tận dụng mọi khả năng để sản xuất ra nhiều loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
- Chính sách đầu tư nông nghiệp nhằm mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường. Trong lĩnh vực kinh tế một mặt vừa đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế, vừa phải phát triển toàn diện ngành. Thông qua chính sách đầu tư, đời sống của người dân dược nâng cao hơn. Cơ hội tiếp cận trường lớp nhiều hơn, nhận thức của người dân được thay đổi, đời sống văn hoá, tinh thần ở nông thôn được nâng cao.
- Chính sách đầu tư vốn là truyền tải vốn đến đúng đối tượng của nông nghiệp, nông thôn. Để phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH-H và hội nhập WTO. Đảng và nhà nước ta đã xây dựng chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn với các mục tiêu và giải pháp khá cụ thể, trong đó:
+ Đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn tập trung vào đầu tư hình thành vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá lớn, thâm canh tăng năng suất gắn liền với phát triển công nghiệp chế biến, phát triển các cơ sở chế biến tại các vùng sản xuất nguyên liệu.
+ Đầu tư phát triển chiều sâu các cơ sở nghiên cứu khoa học giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt. ưu tiên đầu tư phát triển CSHT phục vụ chuyển đổi cơ cấu sản xuất; tăng cường đầu tư thuỷ lợi để đảm bảo phục vụ yêu cầu tưới tiêu nước, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
+ Chính sách đầu tư cho nông nghiệp bao gồm hai mục tiêu kép: mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội. Đầu tư cho nông nghiệp góp phần quan trọng trong công tác xoá đói giảm nghèo - đó là một mục tiêu xã hội quan trọng của chính sách đầu tư trong nông nghiệp.
+ Tăng cường đầu tư phát triển CSHT cho hệ thống cảnh báo, dự báo thiên tai. Đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm từ cơ sở vật chất kỹ thuật cho nghiên cứu đến trạm trại nghiên cứu thực nghiệm, kiểm tra kiểm soát khi có dịch xảy ra.
Để thực hiện được các mục tiêu đó, nông nghiệp cần có một lượng vốn rất lớn. Trong điều kiện sức thu hút vốn kém, nguồn vốn đầu tư hạn chế, chính sách đầu tư vốn vừa nhằm đạt mục tiêu phát triển nông nghiệp vừa phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
2.2.6 Yêu cầu của chính sách đầu tư vốn cho nông nghiệp
- Phải tạo mọi điều kiện để huy động triệt để các nguồn vốn trong nước (vốn ngân sách, vốn tín dụng, vốn trong dân…) và nguồn vốn đầu tư nước ngoài (vốn hợp tác liên doanh liên kết với nước ngoài, vốn đầu tư viện trợ…) để đáp ứng nhu cầu SXKD trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Đối với Việt Nam, quá trình chuyển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá, thực hiện CNH-HĐH nông thôn đã và đang yêu cầu một lượng vốn rất lớn. Để đáp ứng được nhu cầu đó, phải có sự định hướng và ban hành hệ thống chính sách đầu tư đúng đắn, huy động sức mạnh từ nhiều nguồn. Trong đó:
+ Vốn ngân sách phải được coi là nguồn vốn quan trọng cho việc xây dựng các CSHT cho nông nghiệp, nông thôn, làm nguồn vốn "mồi" quan trọng tạo điều kiện huy động các nguồn vốn khác. Thực hiện tốt huy động theo phương châm "nhà nước và nhân dân cùng làm".
+ Vốn tín dụng là nguồn vốn chủ yếu phục vụ cho đầu tư mở rộng sản xuất, tăng cường đầu tư thâm canh, thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, đẩy mạnh phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, các ngành dịch vụ trong nông thôn.
+ Tạo lập môi trường thuận lợi thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua các hình thức đầu tư trực tiếp qua liên doanh, liên kết theo phương thức đầu tư vốn và công nghệ vào ngành lĩnh vực chủ đầu tư cần, thực hiện bao tiêu sản phẩm. Tranh thủ các nguồn vốn viện trợ của Chính Phủ và của các tổ chức phi Chính Phủ.
- Chính sách đầu tư vốn cần tập trung chủ yếu vào những lĩnh vực, những ngành, những khâu có khả năng huy động được nhiều sức lao động, làm ra được nhiều sản phẩm và sản phẩm hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao. Từ đó tạo điều kiện cho nguồn vốn trong nông nghiệp nông thôn ngày càng tăng trưởng. Đây là yêu cầu xuất phát từ chính yêu cầu nội tại của ngành nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế nông thôn.
- Cần có sự thay đổi trong chính sách đầu tư vốn theo hướng tăng tỷ trọng vốn ._. đầu tư gián tiếp thông qua hệ thống tín dụng hoặc các chương trình cho vay vốn với lãi suất ưu đãi. Với phương thức đó, các cơ quan quản lý nông nghiệp buộc phải chấp nhận đổi mới và xoá bỏ dân tình trạng bao cấp, tham nhũng, phiền hà trong việc xét duyệt, cấp phát và sử dụng vốn đầu tư. Một khi, vốn đầu tư cho nông nghiệp chủ yếu lấy từ nguồn vốn tín dụng thì bắt buộc các cơ quan quản lý và các hộ sản xuất phải tính toán, lựa chọn phương án sử dụng vốn có hiệu quả nhất. Trong thời gian tới cần đầu tư gián tiếp thông qua việc mời các nhà khoa học, kỹ thuật và quản lý xuống cơ sở giúp nông dân đưa tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào đồng ruộng thông qua hệ thống khuyến nông.
4.3.3.6 Tăng cường đầu tư cho con người và đào tạo cán bộ nông nghiệp nông thôn
Đổi mới mạnh mẽ chính sách đào tạo, bồi dưỡng sử dụng cán bộ quản lý, kỹ thuật và công nhân lành nghề để thu hút và tăng cường chất xám cho nông thôn, nông nghiệp.
Đây là giải pháp quan trọng về đầu tư trực tiếp cho con người nhằm đáp ứng được yêu cầu CNH- HĐH, nông thôn. Sản xuất nông nghiệp hàng hóa và phát triển kinh tế nông thôn đa ngành với cơ cấu tiến bộ, nhất thiết phải có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề. Đội ngũ này có vai trò quyết định đến kết quả và hiệu quả vốn đầu tư trong nông thôn và nông nghiệp. Cần đổi mới mạnh mẽ chính sách sử dụng cán bộ theo hướng gắn từng đồng vốn đầu tư đến trách nhiệm và lợi ích kinh tế của từng người trong hệ thống quản lý và sử dụng vốn phục vụ cho nông nghiệp. Đó cũng là một điều kiện không thể thiếu để khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực này bởi vì đầu tư vào đâu, trước hiết phải biết ai là người sử dụng đồng vốn đó để đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Đối với huyện, nội giải pháp này nên thực hiện theo các hướng:
+ Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý HTX nông nghiệp kiểu mới, cán bộ chủ chốt của xã, chủ các trang trại, công nhân lành nghề, kể cả trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại.
+ Xây dựng và mở rộng hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công và khuyến thương ở nông thôn để nhanh chóng chuyển giao tiến bộ KHKT tiên tiến đến đồng ruộng, đến hộ nông dân. Thông qua hệ thống này để bồi dưỡng kiến thức kinh tế thị trường cho hộ nông dân, giúp họ vừa tiếp thu kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, vừa tiếp cận với thị trường.
+ Nhà nước cần có chính sách đào tạo và thu hút trí thức trẻ tốt nghiệp các trường đại học và làm việc lâu dài ở nông thôn. Kinh nghiệm ở các nước công nghiệp hóa và thực tế ở nước ta cho thấy: Muốn CNH-HĐH nông ngiệp, nông thôn, nhất thiết phải có lực lượng trí thức trẻ có năng lực và thực sự gắn bó với bà con nông dân, các trang trại, các làng nghề. Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải có chính sách đãi ngộ về tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, điều kiện học tập, nghiên cứu từ đó tác động khuyến khích họ yên tâm, phấn khởi làm việc lâu dài ở nông thôn. Chính sách đó cần thống nhất trên phạm vi cả nước và cần có sự đầu tư thỏa đáng từ NSNN Trung ương để đảm bảo tính bền vững, lâu dài. Đó cũng là một giải pháp đảm bảo tính khả thi của các giải pháp khuyến khích đầu tư trong nông nghiệp và nông thôn nước ta thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH.
4.3.3.7 Tiếp tục thực hiện tốt các giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo động lực và sức mạnh thu hút vốn
Để đẩy mạnh CDCCKT nông nghiệp, nâng cao hiệu quả đầu tư trong nông nghiệp, từ đó thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp của huyện, trong thời gian tới cần thực hiện:
- Tiếp tục hoàn thiện công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của huyện. Trên cơ sở đó, thực hiện quy hoạch chi tiết phát triển ngành nông nghiệp cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng xã theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn với thị trường của huyện, tỉnh và thị trường bên ngoài. Việc quy hoạch phát triển nông nghiệp cần có tầm nhìn chiến lược, dài hạn. Sau đó, phải được thông báo cho toàn bộ nhân dân cùng biết để có sự chủ động trong việc lập kế hoạch SXKD của mình. Tập trung thực hiện phát triển một số cây con có lợi thế so sánh, có tỷ suất hàng hoá cao của huyện như: lúa, ngô, hành, tỏi, dưa hấu, của đậu, phát triển đàn lợn, đàn bò và các nước ngọt…
- Đào tạo nghề cho lực lượng lao động nông thôn của huyện, thúc đẩy việc nâng cao năng lực sử dụng vốn, đáp ứng yêu cầu phát triển nền nông nghiệp hàng hoá.
Đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. Thông qua công tác đào tạo nghề, nâng cao trình độ ứng dụng khoa học - công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm sản xuất cho nông dân. Đào tạo nghề cho nông dân phải kết hợp đồng bộ cả hai loại đào tạo ngắn hạn và đào tạo dài hạn.
Đào tạo nghề ngắn hạn nhằm mục đích nâng cao kiến thức và kỹ năng về trồng từng loại cây, từng loại con; cách sơ chế và chế biến từng loại nông sản, thủy sản sau khi thu hoạch…Cơ sở dạy nghề có thể là các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề tại huyện, các tổ chức chính trị xã hội (Hội nông dân, Đoàn thanh niên,…), trung tâm khuyến nông huyện… Bằng mọi hình thức đào tạo nghề ngắn hạn để có thể phổ biến kiến thức cho mọi lứa tuổi, kể cả người không có điều kiện học tập trung và dài hạn.
Đào tạo nghề dại hạn nhằm mục đích thu hút số lượng lớn lao động trẻ có trình độ văn hoá đã tốt nghiệp phổ thông cơ sở, phổ thông trung học, … vào học tại các trường đại học và các trường đào tạo nghề dài hạn. Sau khi tốt nghiệp, huyện cần có chính sách thu hút và ưu đãi họ về làm việc cống hiến một cách nhiệt tình vào công tác quản lý nông nghiệp của huyện. Đồng thời, cần có kế hoạch thường xuyên đưa cán bộ đào tạo, nâng cao kiến thức, phối hợp với các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề, các lớp học khuyến nông để họ quay trở lại đào tạo và phổ biến rộng rãi các kiến thức quản lý và kiến thức sản xuất cho nông dân.
Khi công tác đào tạo nghề thực hiện tốt, trình độ dân trí, tay nghề và kinh nghiệm sản xuất của nông dân nâng lên, khả năng sử dụng vốn có hiệu quả sẽ đẩy mạnh CDCCKT, tạo nền tảng vững chắc cho việc huy động và sử dụng vốn đầu tư cho nông nghiệp ngày càng có hiệu quả hơn.
- ứng dụng nhanh, có hiệu quả khoa học – công nghệ hiện đại vào phát triển nông nghiệp của huyện, thúc đẩy nâng cao năng suất, chất lượng nông sản hàng hoá. Để thực hiện được mục tiêu đó, Chính phủ cùng với các Bộ, ngành cần phải xây dựng và thực thi cho được chiến lược nghiên cứu, ứng dụng và triển khai thành tựu khoa học - công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là công nghệ sinh học, với lộ trình cụ thể để: một mặt vừa có sản phẩm hàng hoá có năng suất cao, chất lượng tốt, đủ sức cạnh tranh trên thị trường; mặt khác vừa có thể sử dụng những công nghệ truyền thống, tiết kiệm chi phí mua sắm công nghệ nước ngoài. Đối với chính quyền huyện, sau khi đã có các kết quả nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ cần triển khai nhanh chóng và rộng rãi đến bà con nông dân thông qua công tác tuyên truyền trên đài báo, qua các lớp tập huấn, hoặc các mô hình thí điểm cụ thể. Có sự liên hệ thường xuyên với bà con nông dân trong quá trình thực hiện áp dụng các tiến bộ KHKT để kịp thời giải đáp những khó khăn, thắc mắc cho họ khi cần thiết.
- Đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch nhằm nâng cao chất lượng nông sản hàng hoá. Hiện tại, trên địa bàn huyện Kim Thành chỉ có 2 doanh nghiệp chế biến nông sản hàng hoá: một cơ sở chế biến hành tỏi khô và một cơ sở chế biến vải khô, còn lại các cơ sở khác đều hoạt động với quy mô nhỏ lẻ, chủ yếu sử dụng công nghệ lạc hậu, sản xuất thủ công. Trong thời gian tới, cùng với đầu tư cho sản xuất nông sản hàng hóa huyện cần hỗ trợ về vốn đầu tư cũng như tạo điều kiện thuận lợi để kêu gọi các nhà đầu tư xây dựng các trung tâm chế biến nông sản có quy mô vừa và nhỏ nhưng có kỹ thuật hiện đại. Chuyển giao KHKT cho người dân để sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, nâng cao giá trị sản phẩm từ nông nghiệp
- Giải quyết tốt vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá. Trước mắt cần:
+ Duy trì và phát triển các quan hệ thị trường truyền thống trong và ngoài huyện; tích cực mở rộng các thị trường mới ổn định và bền vững.
+ Xây dựng hệ thống chợ, đầu mối bán buôn bán lẻ ở khắp các xã, thị trấn; hình thành chợ đầu mối của toàn huyện để buôn bán nông sản của huyện ra các địa phương khác.
+ ứng dụng thành tựu kỹ thuật thông tin hiện đại vào việc tìm hiểu các thông tin của thị trường. Đưa internet về tận xã, thôn, xóm để bà con nông dân có thể chủ động tìm hiểu các thông tin, xu hướng của thị trường cũng như tìm chủ động tìm kiếm thị trường.
4.3.3.8 Đổi mới quản lý nhà nước trong ngành nông nghiệp, đảm bảo thực hiện tốt các chính sách đầu tư và sử dụng vốn ngày càng có hiệu quả.
Đổi mới quản lý nhà nước đối với ngành nông nghiệp bao gồm các nội dụng: Đổi mới việc thực hiện các chức năng quản lý về kinh tế nông nghiệp và đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với nông nghiệp. Thông qua đó sẽ tác động tích cực đến việc huy động ngày càng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đảm bảo đầu tư được tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, thúc đẩy nông nghiệp của huyện theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn với thị trường.
Thứ nhất, cần đổi mới việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế nông nghiệp.
Về thực chất, quản lý nhà nước trong cơ chế thị trường đã có sự thay đổi căn bản so với thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Song, đổi mới nói chung, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp nói riêng là một quá trình lâu dài, tuân thủ các nấc thang của sự phát triển. Do đó, cần tiếp tục nhận thức rõ vai trò, chức năng của quản lý nhà nước trong cơ chế thị trường, phân định rõ chức năng quản lý của nhà nước với chức năng quản lý sản xuất - kinh doanh. Quản lý nhà nước về kinh tế chỉ mang tính chất định hướng, không can thiệp sâu vào quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời phải quán triệt tốt đặc điểm của sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp để tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Đổi mới chức năng quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Kim Thành phải quán triệt mục tiêu, định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn, đặc điểm kinh tế – xã hội của huyện và của từng xã để có những quyết định thích hợp. Trong thời gian tới, quản lý nhà nước về nông nghiệp của huyện cần hướng vào quản lý các chương trình, dự án phục vụ CDCCKT nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn với thị trường; có sự trợ giá đối với nông sản hàng hoá, sử dụng tổng hợp các công cụ và chính sách kinh tế, thúc đẩy quá trình huy động và sử dụng vốn có hiệu quả; coi trọng kỷ cương, phép nước, kịp thời xử lý những sai phạm và phòng ngừa hữu hiệu hiện tượng tham nhũng, chống thất thoát vốn và tài sản trong các chương trình, dự án kinh tế phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Thứ hai, đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế.
Cần sử dụng tổng hợp các công cụ quản lý, trong đó chú trọng công tác kế hoạch hoá, thực hiện đồng bộ các chính sách và coi pháp luật là một trong những công cụ đóng vai trò quyết định.
Thông qua việc đổi mới có hiệu quả công tác kế hoạch, huyện xây dựng và hình thành các vùng sản xuất nông sản hàng hoá gắn với thị trường. Trên cơ sở đó xây dựng chương trình, kế hoạch huy động tổng lực các nguồn vốn, bố trí, phân bổ vốn đã huy động được một các hợp lý, đảm bảo đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động đầu tư. Mặc dù vậy, cần nhận thức rằng công tác lập kế hoạch chỉ mang tính định hướng. Do đó, cần phải định hướng đúng và sử dụng nhuần nhuyễn các công cụ để điều tiết kinh tế nông nghiệp của huyện, từ đó nâng cao khả năng khai thác, huy động, phân bố và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả.
Thứ ba, phải đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với lĩnh vực nông nghiệp.
Trên cơ sở đổi mới chức năng quản lý cần đổi mới bộ máy quản lý. Đổi mới bộ máy quản lý nông nghiệp phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ quả lý trong cơ chế mới. Đổi mới bộ máy quản lý nông nghiệp tốt sẽ tác động tích cực trợ lại thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
Trên cơ sở sắp xếp, đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong ngành nông nghiệp từ Trung ương, cần tiếp tục đổi mới bộ máy quản lý nhà nước đối với nông nghiệp các địa phương từ cấp sở, phòng, cơ sở làm cho bộ máy quản lý nông nghiệp gọn nhẹ, hiệu quả, trong đó việc đầu tiên phải đảm bảo tuân thủ nguyên tắc của công cuộc cải cách hành chính quốc gia.
Trên cơ sơ đổi mới bộ máy quản lý nhà nước đối với nông nghiệp từ cấp Trung ương, bộ ngành, sở… ở huyện cần phải quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, phân công rành mạch, rõ ràng để phố kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa phòng kế hoạch tài chính, phòng Nông nghiệp, trung tâm khuyến nông, trạm thú y, trạm bảo vệ thực vật,…từ đó đảm bảo sự điều hành tập trung, thống nhất.
5. Kết luận và kiến nghị
5.1 Kết luận
Qua kết quả nghiên cứu ở trên, Luận văn xin phép được rút ra một số kết luận sau:
Một là, Luận văn đã nghiên cứu, và hệ thống hoá các vấn đề về lý luận và thực tiễn về đầu tư, đầu tư cho nông nghiệp và chính sách đầu tư cho nông nghiệp.
Đầu tư vốn bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại (vốn), nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt kết quả đó.
Đầu tư vốn phát triển nông nghiệp là đầu tư vào sản xuất có lợi nhuận thấp, mức độ rủi ro cao, khó hấp dẫn các nhà đầu tư.
Hai là, qua nghiên cứu thực trạng về đầu tư vốn cho nông nghiệp và tình hình thực hiện chính sách đầu tư vốn cho nông nghiệp luận văn đã chỉ ra:
1. Đầu tư cho nông nghiệp trên địa bàn huyện tăng liên tục về giá trị tuyện đối, năm 2007 tổng đầu tư cho nông nghiệp là 144.232 triệu đồng, gấp 1,398 lần so năm 2003, bình quân mỗi năm giai đoạn 2003-2007 đầu tư cho nông nghiệp là 125.233 triệu đồng.
Tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp so với tổng đầu tư có xu hướng giảm dần từ 18,25% năm 2003 xuống 13,7% năm 2007 nguyên nhân do trong giai đoạn này huyện đầu tư mạnh vào lĩnh vực xây dựng cơ bản và phát triển hạ tầng.
2. Đầu tư cho nông nghiệp từ NSNN biến động không đều qua các năm, năm 2005 thấp nhất với 3.198,5 triệu đồng. Tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp từ NSNN so với tổng đầu tư từ NSNN chưa đạt đến 15%.
- Đầu tư cho trồng trọt có xu hướng giảm từ 68,25% năm 2003 xuống còn 62,14% năm 2007. Đầu tư cho chăn nuôi có xu hướng tăng lên từ 24,3% năm 2003 lên 29,22% năm 2007. Đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản tăng lên từ 7,25% năm 2003 lên 8,64% năm 2007.
- Đầu tư từ NSNN chủ yếu tập trung cho thuỷ lợi và giống cây con: năm 2007 đầu tư cho thuỷ lợi chiếm 45%, đầu tư hỗ trợ giống cây trồng là 43,23%. Các khoản đầu tư cho thú y, bảo vệ thực vật… chiếm rất thấp (dưới 5%)
3. Đầu tư bình quân của 1 hộ gia đình cho sản xuất nông nghiệp có xu hướng tăng lên từ 3,7 triệu đồng/hộ năm 2003 lên 4,8 triệu đồng/hộ năm 2007: đầu tư cho thức ăn, giống, phân bón vấn chiếm tỷ lệ lớn (trên 60% so với tổng vốn đầu bình quân của 1 hộ). Đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật tuy có tăng lên nhưng vẫn chiếm tỷ lệ thấp nhất (khoảng 15-19%).
4. Tình hình cho vay vốn tín dụng đầu tư cho nông nghiệp của các ngân hàng: Doanh số cho vay tăng từ 24.555 triệu đồng năm 2003 lên 45.275 triệu đồng năm 2007. Trong đó doanh số cho vay của NHNNo&PTNT luôn giữ vị trí đứng đầu, chiếm từ 70-72%.
5. Hiệu quả đầu tư cho nông nghiệp:
Đầu tư vốn cho ngành nông nghiệp đã có hiệu quả, thể hiện:
- Tốc độ tăng trưởng năm 2003 đạt 4,5%, năm 2007 đạt 7,6%.
- Năng suất lúa tăng từ 55,8 tạ/ha lên 57,2 tạ/ha (2007).
- Thu nhập bình quân từ nông nghiệp/hộ/năm tăng từ 12,4 triệu đồng năm 2003 lên 18,3 triệu đồng năm 2007.
- Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 12,8% năm 2003 xuống 8,7% năm 2007.
- Cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp chuyển dịch theo xu hướng giảm tỷ trọng trồng trọt từ 69% năm 2003 xuống 66,7% năm 2007, tăng tỷ trọng của chăn nuôi từ 27,4% năm 2003 lên 28,2% năm 2007, tăng tỷ trọng nuôi trồng thuỷ sản từ 3,6% năm2003 lên 5,1% năm 2007.
Chỉ tiêu Hlv(GO) > 0 cho thấy đầu tư cho nông nghiệp có hiệu quả, tuy nhiên chỉ tiêu này còn thấp và tăng không đều qua các năm.
6. Các chính sách đầu tư cho nông nghiệp được chính quyền địa phương nghiêm chỉnh triển khai thực hiện trên một số lĩnh vực như phát triển giống mới, xây dựng hệ thống thủy lợi, hỗ trợ lãi suất cho vay.
Những chính sách đầu tư cho nông nghiệp trên địa bàn đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao thu nhập cho người nông dân.
Các chương trình đầu tư cho thú y, bảo vệ thực vật tuy một số năm gần đây đã được duy trì đều đặn những quy mô đầu tư chưa lớn, dịch bệnh chưa được khống chế đã gây thiệt hại cho người chăn nuôi.
Chính quyền địa phương còn bị động trong việc tạo lập, phân bổ vốn đầu tư cho nông nghiệp giữa các năm. Vốn đầu tư cho nông nghiệp qua NSNN chủ yếu được phân bổ từ ngân sách tỉnh thông qua các chương trình, dự án chung của tỉnh, vẫn còn mang cơ chế cấp phát, xin cho. Các cơ quan tổ chức thực hiện các chính sách đầu tư chưa có sự phối kết hợp để lồng ghép các chương trình, dự án.
Chính sách khuyến khích hỗ trợ đầu tư cho phát triển nông nghiệp thường chậm, mức hỗ trợ đầu tư còn thấp so với yêu cầu nhưng lại dàn trải, chưa tập trung. Thời gian áp dụng của các chính sách đầu tư thường trong ngắn hạn (chỉ từ 1-3 năm).
Nhận thức về chính sách đầu tư cho nông nghiệp của các hộ sản xuất nông nghiệp có điều kiện kinh tế khác nhau là rất khác nhau. Nhóm hộ nghèo là mục tiêu quan trọng của chính sách nhưng hiệu quả mà các chính sách đầu tư mang lại với nhóm hộ này chưa cao.
7. Vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn còn thấp so với yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH, cơ cấu vốn đầu tư cho nông nghiệp hiện nay còn chưa hợp lý giữa ngành trồng trọt và chăn nuôi, tỷ lệ đầu tư cho việc ứng dụng tiến bộ KHKT phục vụ sản xuất nông nghiệp còn thấp, việc thực hiện các chủ trương chính sách của nhà nước về đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn còn nhiều bất cập.
Ba là, Luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt chính sách đầu tư, thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho nông nghiệp:
1- Trước hết, cần đổi mới quan điểm và nhận thức về vai trò, vị trí, tính chất của nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ CNH-HĐH;
2- Tăng tỷ lệ vốn đầu tư từ NSNN cho nông nghiệp phù hợp với yêu cầu CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn;
3- Hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách về đầu tư vốn trong nông nghiệp;
4- Đổi mới cơ cấu vốn đầu tư trong nông nghiệp;
5- Đổi mới và hoàn thiện phương pháp đầu tư;
6- Tăng cường đầu tư cho con người và đào tạo cán bộ nông nghiệp nông thôn;
7- Tiếp tục thực hiện tốt các giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo động lực và sức mạnh thu hút vốn;
8- Đổi mới quản lý nhà nước trong ngành nông nghiệp, đảm bảo thực hiện tốt các chính sách đầu tư và sử dụng vốn ngày càng có hiệu quả;
Chúng tôi tin tưởng rằng, với xu thế phát triển như hiện nay, cùng với việc giải quyết tốt các vấn đề còn tồn tại, đầu tư vốn cho nông nghiệp trong thời gian tới sẽ tiếp tục đi đúng hướng và phát huy hiệu quả cao, góp phần nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp trên địa bàn, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế chung, đạt được các mục tiêu mà đại hội Đảng các cấp, nhiệm kỳ 2005-2010 đã đề ra.
5.2 Kiến nghị
1. Đối với Nhà nước và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền:
Nhà nước cần nghiên cứu hoàn thiện các chính sách đầu tư cho nông nghiệp để tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Nhà nước cần hỗ trợ nguồn vốn NSNN đầu tư một cách đồng bộ cho hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn. Chính sách đầu tư NSNN cần được hoàn thiện theo hướng tăng đầu tư cho nông nghiệp, đồng thời Nhà nước cần nghiên cứu các cơ chế để quản lý chặt chẽ, chống thất thoát nguồn vốn đầu tư. Chính sách cho vay vốn tín dụng cần được nới lỏng, tạo điều kiện cho các ngân hàng và tổ chức tín dụng có thể cho vay với thủ tục đơn giản hơn, số tiền vay nhiều hơn và thời gian cho vay dài hơn.
2. Đối với chính quyền địa phương: trước hết cần căn cứ vào các chính sách đầu tư chung cho nông nghiệp của Nhà nước, để xây dựng cho mình những quy định về thực hiện đầu tư phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Địa phương cần chủ động hơn trong việc tạo lập và thu hút và sử dụng các nguồn vốn đầu tư hỗ trợ cho nông nghiệp bằng nguồn vốn tiết kiệm của ngân sách địa phương. Tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa các phòng nghiệp vụ thực hiện quản lý trong lĩnh vực nông nghiệp để phối kết hợp với nhau trong việc thực hiện các chương trình, dự án.
3. Đối với hộ sản xuất nông nghiệp: trước hết cần phải tự mình tìm ra hướng sản xuất mới, chủ động tìm hiểu và áp dụng tiến bộ KHKT nông nghiệp, đặc tiến bộ về giống; chủ động tìm kiếm thị trường đầu ra cho nông sản. Ngoài ra, người dân cũng cần thường xuyên tự trau dồi kiến thức về nông nghiệp trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua các lớp tập huấn, hoặc qua học hỏi kinh nghiệm của các hộ sản xuất điển hình. Các hộ cần đổi mới phương thức sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá, gắn vào xu hướng, nhu cầu của thị trường để nâng cao giá trị hàng hoá của nông sản.
Tài liệu tham khảo
Ban tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2007), Các nghị quyết hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Sinh Cúc, Nguyễn Văn Tiêm (1995), Đầu tư trong Nông nghiệp thực trạng và triển vọng, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
Nguyễn Sinh Cúc (2001), "Nông nghiệp vùng Đồng Bằng Sông Hồng trong những năm đổi mới", Lý luận chính trị, (1).
Phan Đại Doãn, Nguyễn Trí Dĩnh (Chủ biên) (1993), Vai trò Nông nghiệp trong phát triển kinh tế các nước ASEAN, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Kim Thị Dung (1999), Thị trường vốn tín dụng nông thôn và sử dụng vốn tín dụng của hộ nông dân huyện Gia Lâm - Hà Nội, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương (Khoá VII), Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương (khoá IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Võ Minh Điều (2002), "Đầu tư tài chính phát triển Nông nghiệp, nông thôn", Tài chính (4).
Phạm Vân Đình, Dương Văn Hiểu, Nguyễn Phượng Lê (2005), Giáo trình chính sách Nông nghiệp, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Kinh tế và Phát triển: Thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam (2006), Thực trạng và giải pháp, Tổng quan đề tài cấp Bộ, Hà Nội.
Phạm Công ích, Nguyễn Đình Phan (chủ biên): Công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam và các nước trong khu vực, Nxb Thống kê Hà Nội, 1995
Nguyễn Bạch Nguyệt, Từ Quang Phương (Chủ biên) (2007), Giáo trình kinh tế đầu tư, Nxb Đại học Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội.
Phạm Thị Khanh (2004), Huy động vốn trong nước phát triển Nông nghiệp vùng Đồng Bằng Sông Hồng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Thị Khanh (Chủ biên) (2007), Phát triển thị trường tín dụng nông thôn góp phần thúc đẩy nhanh CNH-HĐH nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
Phạm Văn Khôi (Chủ biên) (2007), Giáo trình phân tích chính sách Nông nghiệp nông thôn, Nxb Đại học Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội.
Hồ Văn Mộc, Điêu Quốc Tín (1994), Chú giải thuật ngữ kế toán Mỹ, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Ngân hàng chính sách xã hội huyện Kim Thành (2007), Báo cáo tổng kết công tác ngân hàng của NHCSXH xã hội giai đoạn 2003-2007.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Kim Thành (2007), Báo cáo thường niên của ngân hàng Nông nghiệp&PTNT giai đoạn 2003-2007.
Phòng Thống kê huyện Kim Thành (2003), Niên giám thống kê các năm 2001-2003.
Phòng Thống kê huyện Kim Thành (2004), Niên giám thống kê các năm 2002-2004.
Phòng Thống kê huyện Kim Thành (2005), Niên giám thống kê các năm 2003-2005.
Phòng Thống kê huyện Kim Thành (2006), Kết quả điều tra nông thôn, Nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản giai đoạn 2003-2006.
Phòng Thống kê huyện Kim Thành (2006), Niên giám thống kê các năm 2004-2006.
Phòng Thống kê huyện Kim Thành (2007), Niên giám thống kê các năm 2005-2007.
Nguyễn Trần Quế (Chủ biên) (2004), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ.
Penguin Reference (1995), Từ điển kinh tế, Phạm Đăng Bình và Nguyễn Văn Lập (dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Đặng Kim Sơn (2000), Nông nghiệp nông thôn Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
Vũ Đình Thắng (2006), Giáo trình kinh tế nông nghiệp, NXB Đại học Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Khoa kinh tế Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2001), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam bước vào thế kỷ XXI, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển Việt Nam, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội -Đà Nẵng.
Phiếu điều tra hộ
(Thông tin dùng khảo sát đầu tư trong nông nghiệp cho hộ nông dân)
I. Thông tin chung về hộ
- Họ và tên chủ hộ: ..................... ……..Nam (Nữ.):........ Tuổi:.................................
- Trình độ văn hoá: .................................................................................…........................
- Trình độ chuyên môn: .........................................................................….........................
- Thuộc loại hộ:..........................................
+ Theo trình độ phát triển kinh tế:.............................................…..
+ Theo phương hướng sản xuất:......................................................
Địa chỉ: Thôn .............. ……………Xã: ............. ………………………
Huyện: ............. …………….Tỉnh: ...............…………………
II. Vốn vay sản xuất kinh doanh của hộ trong năm 2007
Trong năm 2007 hộ ông bà vay vốn để SX nông nghiệp của tổ chức
Tổng số vay
Phân theo ngành kinh tế
Theo thời hạn vay
Trồng trọt
Chăn nuôi
Nuôi trồng thủy sản
Dưới 12 tháng
Từ 12 - 36 tháng
Từ 36 tháng trở lên
Tổng cộng
1. Ngân hàng CSXH
2. Ngân hàng NNo &PTNT
3. Quỹ TDND
4. Các tổ chức TD khác
5. Người cho vay cá thể
6. Họ hàng, bạn bè
7. Nguồn khác
III. Vốn đầu tư của hộ
Khoản mục
Tổng số
Tổng vốn đầu tư thực hiện
A. Phân theo nguồn vốn
1. Vốn tự có của chủ hộ
2. Vốn vay
Trong đó: Vay ngân hàng, tổ chức tín dụng
3. Vốn khác
B. Phân theo khoản mục đầu tư
1. Vốn đầu tư tài sản cố định
1.1 Vốn đầu tư xây dựng cơ bản
- Xây dựng chuồng trại chăn nuôi
- Trồng mới và chăm sóc cây lâu năm
- Đầu tư xây dựng khác
1.2 Vốn đầu tư mua săm tài sản cố định không qua xây dựng cơ bản
Trong đó:
- Chi phí chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Mua gia súc, gia cầm (cày kéo, sinh sản, lấy trứng, lấy thịt...)
-Mua sắm máy móc thiết bị không qua xây dựng cơ bản (máy kéo, máy tuốt lúa, máy bơm, bình phun thuốc trừ sau...)
- Mua sắm tàu, thuyền, phương tiện đánh bắt thủy sản
- Mua sắm tài sản cố định khác
1.3 Vốn đầu tư sửa chữa lớn, nâng cấp TSCĐ
- Sửa chữa lơn nhà xưởng, chuồng trại chăn nuôi
- Sửa chữa, nâng cấp máy móc thiết bị
- Sửa chữa, ngân cấp tài sản cố định khác
2. Vốn đầu tư bổ sung tài sản lưu động
- Vốn đầu tư bổ sung cho giống cây trồng vật nuôi
- Vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp (thức ăn, phân bón, vật tư khác...)
C. Phân theo mục đích đầu tư
1. Trồng trọt
2. Chăn nuôi
3. Nuôi trồng Thủy sản
IV. Tình hình đầu tư SX một số loại cây trồng chính của hộ năm 2007
Sản xuất trồng trọt
Khoản mục
Các loại cây trồng chính của hộ
Cây
Cây
Cây
Cây
SL
giá
T.tiền
SL
T.tiền
SL
T.tiền
SL
T.tiền
Tổng chi phí
- Giống
+ Gia đình
+ Mua
- Phân hữu cơ
+Đạm
+Lân
+Ka li
- Phân tổng hợp
- Vôi
- Thuốc BVTV
- Mua MMTBKT
- Thuê máy
- Khác
2. Sản xuất chăn nuôi của hộ năm 2007
Khoản mục
Lợn
Gà, vịt ngan
................
SL
Đ.giá
T.tiền
SL
Đ.giá
T.tiền
SL
Đ.giá
T.tiền
Tổng Chi phí
- Giống
+ Gia đình
+ Mua
- Chi phí thức ăn
- CP thuốc thú y
- Điện
- chuồng trại
- Lao động
+ LĐ gia đình
+ LĐ thuê
- CP khác
3. Tình hình sản xuất nuôi trồng thủy sản của hộ năm 2007
Khoản mục
Lợn
Gà
................
SL
Đ.giá
T.tiền
SL
Đ.giá
T.tiền
SL
Đ.giá
T.tiền
Tổng chi phí
- Giống
+ Gia đình
+ Mua
- Chi phí thức ăn
- Điện
- Khấu hao
- Lao động
+ LĐ gia đình
+ LĐ thuê
- CP khác
V. Một số câu hỏi về thực hiện chính sách đầu tư cho nông nghiệp
Câu 1: Xin ông (bà) cho biết mức độ quan tâm của ông bà đến các chính sách đầu tư cho nông nghiệp:
Rất quan tâm ÿ 1 Quan tâm ÿ 2 Không quan tâm ÿ 3
Câu 2: Ông (bà) cho biết ông bà đã được tiếp cận với những chính sách đầu tư cho nông nghiệp nào dưới đây?
1. Chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay ÿ 1
2. Chính sách đầu tư cho thuỷ lợi ÿ 2
3. Chính sách về thú y ÿ 3
4. Chính sách bảo vệ thực vật ÿ 4
5. Chính sách chuyển giao KHKT ÿ 5
6. Các chính sách khác ÿ 6
ý kiến của ông (bà) về việc triển khai thực hiện chính sách đó:................................
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
Câu 3: Theo ông (bà) chính sách nào là quan trọng nhất trong những chính sách dưới đây:
1. Chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay ÿ 1
2. Chính sách đầu tư cho thuỷ lợi ÿ 2
3. Chính sách về thú y ÿ 3
4. Chính sách bảo vệ thực vật ÿ 4
5. Chính sách chuyển giao KHKT ÿ 5
6. Các chính sách khác ÿ 6
Câu 4: Ông bà cho biết các chính sách đầu tư cho nông nghiệp tác động như thế nào đến thu nhập của gia đình?
4. Làm tăng thu nhập ÿ 1
5. Không làm tăng thu nhập ÿ 2
6. Không rõ ÿ 3
Chân thành cám ơn ông (bà) đã trả lời!
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DO THI THU (nop).doc