Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận & vai trò của lợi nhuận trong nền Kinh tế thị trường

Mục lục Chương I: Nguồn gốc - bản chất của lợi nhuận. 4 I. Các quan điểm về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Quan điểm của trường phái trọng thương về lợi nhuận 4 Quan điểm của trường phái cổ điển. 4 Quan điểm của W. Petty. 4 Quan điểm của A.Smith. 5 Quan điểm của D.Ricardo. 6 Quan điểm của Samuelson. 6 Quan điểm của Mác về nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận Qúa trình sản xuất ra giá trị thặng dư. 6 Mâu thuẫn của công thức của tư bản 6 Qúa trình sản xuất ra giá trị thặng dư 7

doc18 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1822 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận & vai trò của lợi nhuận trong nền Kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lợi nhuận 8 Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa 8 Lợi nhuận. Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận-Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận.. 9 Những hình thức chuyển hoá của giá trị thặng dư 10 Tỷ suất giá trị thặng dư. 10 Tỷ suất lợi nhuận 10 Lợi nhuận công nghiệp 11 Lợi nhuận thương nghiệp 11 Lợi tức và tỉ suất lợi tức 11 Lợi nhuận ngân hàng 11 Lợi tức cổ phần 12 Địa tô, lợi nhuận siêu ngạch 12 Chương 2: Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam 13 I. Những tác động tích cực của lợi nhuận 13 1. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển 2. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển 14 3. Vai trò của lợi nhuận với quá trình tái sản xuất xã hội 14 4. Lợi nhuận là động lực hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 14 II. ảnh hưởng tiêu cực của lợi nhuận 15 III. Lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam 16 Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế ở Việt Nam 16 Những khuyết điểm còn tồn tại. 17 Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 18 Kết luận. 20 Tài liệu tham khảo. 21 lời nói đầu Hiện nay trước thế kỷ 21, Việt Nam vẫn đang đứng trước nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế xo với các nước trên thế giới cũng như trong khu vực. Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trước đây, chúng ta chưa thực sự coi lợi nhuận với tư cách là hình thức thu nhập đối với người sản xuất kinh doanh. Sản xuất, kinh doanh chỉ là để phục vụ chứ không phải với mục đích lợi nhuận. Cơ chế hình thành và phân phối lợi nhuận không được tiến hành trên cơ sở căn cứ khoa học và khách quan. Điều đó đã gây sự bất bình đẳng lớn giữa các đơn vị sản xuất kinh doanh, làm mất đi động lực thúc đẩy của đòn bẩy lợi nhuận, tạo ra một tư tưởng ỷ lại ngày càng trầm trọng của các doanh nghiệp và nhà nước, làm mất đi tính chủ động sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh...Làm cho nền kinh tế chậm phát triển. Ngày nay, trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội nền kinh tế của chúng ta đang vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà Nước, chúng ta mong mỏi cho quá trình kinh tế thành công. Vì thế không phải ai khác một tổ chức quốc gia nào khác có thể thực hiện giúp chúng ta mà tự ta phải vận động tự ta phải tìm ra con đường phát triển phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay, điều đó đòi hỏi phải có những chính sách phát triển kinh tế đúng đắn. Muốn thực hiện chính sách phát triển kinh tế có hiệu quả thì người cầm lái phải là người có hiểu biết sâu rộng trong việc nắm bắt vấn đề để đề ra các phương án tối ưu. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ bản chất, nguồn gốc cuả những yếu tố bên trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là yếu tố chính quyết thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường.Đó chính là lợi nhuận. Vậy thế nào là lợi nhuận? Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận là gì? và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào đối với nền kinh tế thị trường mà ta lại có thể xem nó là nhân tố chính yếu quyết định sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế thị trường, áp dụng lý luận về lợi nhuận như thế nào đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Để tìm hiểu những vấn đề trên em đã chọn đề tài: "Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường" Đây là một vấn đề có tầm quan trọng lớn. Qúa trình nghiên cứu phải xuất phát từ các quan điểm của các học thuyết trước Mác kết hợp với lý luận của Mác về lợi nhuận và thực tiễn hiện nay của đất nước ta. Với những hiểu biết còn nhiều hạn chế cùng kinh nghiệm thực tiễn còn non kém. chắc chắn đề án của em sẽ không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ dẫn của thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn. Chương 1: nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận Các quan điểm về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận: Quan điểm của chủ nghĩa trọng thương về vấn đề lợi nhuận: Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào thời kỳ quá độ,nền kinh tế phong kiến bước vào thới kỳ suy đồi và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành.Giai cấp tư sản tăng cường dùng những biện pháp bạo lực như xâm chiếm đất đai,trao đổi không ngang gía...nhằm đẩy nhanh quá trình tích luỹ nguyên thuỷ Tư Bản. Bên cạnh đó trong lĩnh vực khoa học tự nhiên (cơ học,thiên văn học,địa lý...) đã có sư phát triển mạnh mẽ. Để biện hộ cho những hành vi của mình, giai cấp tư sản đã đưa ra học thuyết trọng thương. Các nhà kinh tế học của trường phái Trọng Thương đã đi tìm nguồn gốc của lợi nhuận trong lưu thông. Họ cho rằng:”Lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông trao đổi mua bán sinh ra nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều,mua rẻ bán đắt. Không một người nào được lợi mà không làm hại cho kẻ khác. Dân tộc này làm giàu bằng cách hy sinh lợi ích của dân tộc khác. Trong trao đổi phải có một bên thua để bên kia được lợi.” Có thể thấy các nhà kinh tế học của trường phái Trọng Thương chưa thấy được nguồn gốc thực sự của lợi nhuận là xuất phát từ quá trình sản xuất.Mặc dù còn những sai lầm về cơ bản nhưng hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Trọng Thương đã tạo ra nhiều tiền đề kinh tế – xã hội cho các lý luận kinh tế thị trường sau này phát triển. Các quan điểm của trường phái cổ điển: Quan điểm của William Petty: W.Petty là nhà đại biểu nổi bật nhất của tư tưởng kinh tế Châu Âu trong thời kỳ tan rã của Chủ Nghĩa Trọng Thương. K. Mark đánh giá cao W. Petty, coi ông là người sáng lập ra Kinh Tế Học, Mark viết “ Khoa học cổ điển là toàn bộ mọi Khoa Học Kinh Tế kể từ W. Petty trở đi đã tìm hiểu cái hiện thực nội tại của các QHSX trong xã hội Tư Sản “. Ông là người đầu tiên khởi xướng lý thuyết về giá trị lao động và phát triển lý thuyết này thành học thuyết giá trị lao động. Xuất phát từ lý luận này,W.Petty đã nghiên cứu về gía trị thặng dư,tuy chưa đi sâu nhưng ông đã nêu lên khá rõ nét về hai hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư là địa tô và lợi tức. Ông đã định nghĩa: “Địa tô Tư Bản Chủ Nghĩa là số chênh lệch giữa giá trị của sản phẩm và chi phí sản xuất. Địa tô là một phần của lợi nhuận nhờ độ phì nhiêu của đất đai và vị trí canh tác”. Như vậy W. Petty đã thấy được địa tô chênh lệch một. Về lợi tức,trong tác phẩm “Bàn về tiền tệ “, W. Petty cho rằng: “ Lợi tức cũng như tiền thuê ruộng đất, là số tiền trả cho việc nhịn ăn tiêu và thưởng cho sự mạo hiểm “. Mức lợi tức phụ thuộc vào những điều kiện tự nhiên và tự phát. Từ lý thuyết địa tô và lợi tức, W.Petty đã cố gắng giải thích về giá cả ruộng đất. Ông khẳng định rằng giá cả ruộng đất phải được qui định một cách đặc biệt và gắn giá cả ruộng đất với mức địa tô. Nhưng ông đã sai lầm vì cho rằng giá cả ruộng đất bằng 20 địa tô/ năm. Có sai lầm này là do W.Petty chưa thấy được giá cả ruộng đất một mặt có quan hệ với địa tô, mặt khác có quan hệ với tỷ suất lợi tức. Ông chưa thấy giá cả ruộng đất chính là địa tô Tư Bản hoá. Tóm lại, mặc dù còn nhiều thiếu sót và còn chịu ảnh hưởng của Chủ Nghĩa Trọng Thương nhưng W.Petty đã có những bước tiến lớn khắc phục được những sai lầm cơ bản của Chủ Nghĩa Trọng Thương như: Đã thấy được lợi nhuận từ lĩnh vực sản xuất, nêu ra được mầm mống của lý luận về vấn đề bóc lột. Chính W.Petty đã đặt nền tảng ban đầu cho Kinh Tế học cổ điển ở nước Anh. Quan điểm của Adam Smith: A.Smith (1723 – 1790) là người mở ra giai đoạn mới trong sự phát triển của Kinh Tế Chính Trị Tư Sản. A.Smith đã xây dựng lý luận về lợi nhuận trên cơ sở lý luận về giá trị lao động. Ông cho rặng lợi nhuận là “khoản khấu trừ thứ hai “ vào sản phẩm của người lao động, chúng đều có chung nguồn gốc là lao động không được trả công của người công nhân. Một mặt ông gắn lợi nhuận với quá trình sản xuất, là kết quả của sự bóc lột, nhưng mặt khác ông đã phạm phải một sai lầm đó là cho rằng lợi nhuận được tạo ra trong lưu thông. Khi nói về lợi tức, ông xem lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà Tư Bản hoạt động bằng tiền đi vay phải trả cho chủ nợ để được sử dụng Tư Bản. Ông đã thấy xu hướng bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận và xu hướng tỉ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng Tư Bản tăng lên,vạch ra một cách đúng đắn mối quan hệ giữa tỉ suất lợi nhuận với Tư Bản. Về địa tô, A.Mith chịu nhiều ảnh hưởng của trường phái Trọng Nông, ông đã thấy được địa tô và lợi nhuận có cùng nguồn gốc với nhau, đều là kết quả lao động của người khác. Địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm người lao động còn lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai. Về mặt chất nó phản ánh quan hệ bóc lột. Tuy nhiên A.Mith còn có những hạn chế về lý luận lợi nhuận như: Chưa nêu ra được lý luận hoàn chỉnh về lợi nhuận. Mặt khác ông không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và lưu thông nên cho rằng Tư Bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong lưu thông đều tạo ra lợi nhuận như nhau. Hơn nữa ông còn quan niệm lợi nhuận là số tiền trả cho chủ xí nghiệp về sự rủi ro trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, ông cũng phủ nhận lý luận giá trị thặng dư. Quan điểm của David Ricardo: Nếu như A.Smith sống trong thời kỳ công trường thủ công phát triển mạnh mẽ thì D.Ricardo sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Đó là điều kiện khách quan để ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A.Smith dừng lại. Theo Mác D.Ricardo là nhà tư tưởng của thời đại công nghiệp. D.Ricardo cho rằng: “ Lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà Tư Bản trả cho công nhân “. Ông đã thấy được xu hướng giảm sút tỉ suất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân của sự giảm sút nằm trong sự vận động biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp: Địa chủ, công nhân và nhà Tư Bản. Ông cho rằng do qui luật màu mỡ đất đai ngày càng giảm, giá cả nông phẩm ngày càng tăng lên làm cho tiền lương công nhân và địa tô tăng theo còn lợi nhuận không tăng. Do đó “lợi nhuận có khuynh hướng tự nhiên giảm xuống “. Như vậy theo ông địa chủ là người có lợi, công nhân không có lợi cũng như không bị hại còn nhà Tư Bản thì có hại vì tỉ suất lợi nhuận giảm xuống. Mặc dù có nhiều tiến bộ so với những học thuyết trước nhưng ông cũng vấp phải nhiều sai lầm như: ông đã giải về lợi nhuận căn cứ vào năng suất lao động, ông không phân biệt được giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư. Cũng xuất phát từ việc chưa phân biệt được tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư nên ông đã kết luận rằng tỷ suất lợi nhuận giảm là do tăng lương. Quan điểm của Samuelson về lợi nhuận: Theo Samuelson lợi nhuận là phần thưởng cho việc gánh chịu rủi ro cho sự đổi mới, lợi nhuận là lợi tức độc quyền. Ông cho rằng phần lớn giá trị lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chỉ là phần lợi tức của các chủ sở hữu công ty có được do lao động của họ hay do vốn đầu tư của họ mang lại. Nếu loại bỏ tất cả các lợi tức ẩn thì ta được lợi nhuận thuần tuý và đó là phần thưởng cho các hoạt động đầu tư có lợi bất định. Doanh thu của công ty phụ thuộc rất lớn vào thăng chầm trong chu kỳ kinh doanh. Do các nhà đầu tư không thích các trường hợp rủi ro nên họ đòi hỏi phải có mức phí dự phòng cho các đầu tư không chắc chắn nhằm bù đắp cho những rủi ro này. Quan điểm của Mác về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận: Qúa trình tạo ra giá trị thặng dư: Mâu thuẫn chung của công thức của Tư Bản: Mac và Ănghen là người đầu tiên đã xây dựng nên lý luận về giá trị thặng dư một cách hoàn chỉnh. Qua thực tế xã hội tư bản lúc bấy giờ Mác thấy rằng giai cấp tư bản ngày càng giàu thêm còn giai cấp vô sản ngày càng nghèo khổ, ông đã đi tìm hiểu nguyên nhân vì sao có hiện tượng này. Cuối cùng ông đã phát hiện ra rằng nếu nhà tư bản đưa ra một lượng tiền là T vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thì số tiền thu về là T’ lớn hơn số tiền ứng ra ( T’>T) hay T’=T+DT. C.Mác gọi là giá trị thặng dư. Ông cũng thấy rằng mục đích của lưu thông tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị. Mục đích của lưu thông T-H-T’ là sự lớn lên của giá trị thặng dư nên sự vận động T-H-T’ là không có giới hạn. Mác gọi đó là Công thức chung của tư bản chủ nghĩa. Qua nghiên cứu Mác đi đến kết luận: “ Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời cũng không phải trong lưu thông “ (*). Đây chính là mâu thuẫn chung của công thức tư bản.Để giải thích mâu thuẫn này Mác đã phát hiện ra nguồn gốc sinh ra giá trị hàng hoá - sức lao động. Cũng như mọi hàng hoá khác được qui định bởi số thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và do đó để tái sản xuát ra sức lao động, nó được qui thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra lượng tư liệu sinh hoạt mà người công nhân phải tiêu dùng để duy trì cuộc sống ở trạng thái bình thường. Hàng hoá sức lao động không chỉ có giá trị mà còn có giá trị sử dụng, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng chỉ thể hiện trong quá trình tiêu dùng sức lao đông. Qúa trình đó là quá trình sản xuất ra hàng hoá và đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động. Phần lớn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà Tư Bản chiếm đoạt. Vậy “ Gía trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt “. Như vậy hàng hoá sức lao động cũng có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Đó là đặc điểm cơ bản nhất của hàng hoá sức lao động do với hàng hoá khác. Nó là chìa khoá để giải thích tính mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Qúa trình sản xuất giá trị thặng dư (m): Để nghiên cứu cốt lõi tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất của tư bản Mác đã chia tư bản thành hai bộ phận: Tư bản bất biến và tư bản khả biến Tư bản bât biến là hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất. Ký hiệu là C. Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến. Ký hiệu là V. Như vậy ta thấy muốn tư bản khả biến hoạt động được phải có một tư bản bất biến đã được ứng trước với những tỉ lệ tương đương. Và qua sự phân chia ta rút ra tư bản khả biến tạo ra giá trị thặng dư vì nó dùng để mua sức lao đông. Còn tư bản bất biến có vai trò gián tiếp trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Từ đây ta có kết luận “ Gía trị của một hàng hoá bằng giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng cộng với giá trị của tư bản khả biến ( tức là giá trị thậng dư đã được sản xuất ra ). Nó được biểu hiện bằng công thức: Gía trị = C + V + m C: Gía trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm. V: Gía trị sức lao động của người công nhân. m: Gía trị thặng dư.Như thế nhà tư bản đã bỏ ra một lượng tư bản để tạo ra giá trị là C + V. Nhưng giá trị mà nhà tư bản thu vào là C+V+m. Phần m dôi ra ngoài là phần mà nhà tư bản bóc lột của người công nhân. Để rõ hơn chúng ta về quá trình tăng thêm của giá trị, ta hãy nghiên cứu thí dụ sau: Gỉa định để sản xuất 10kg sợi cần 10kg bông. giá 10kg bông là 10$. Để biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6h và hao mòn máy móc là 2$; giá trị sức lao động của công nhân trong 1ngày là 3$; trong 1h lao động người công nhân tạo ra lượng giá trị là 0,5$. Trong quá trình sản xuất sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết. Với giả đình như vậy, nếu như thời gian lao động chỉ kéo dài đến cái điểm mà ở đó bù đắp được giá trị sức lao động(6h), tức là bằng thời gian lao động cần thiết thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư, do đó tiền chưa biến thành tư bản. Trong thực tế quá trình lao động không dừng lại ở điểm đó. Gía trị sức lao động mà nhà tư bản phải trả khi mua và giá trị sức lao động đó có thể tạo ra cho nhà tư bản là hai đại lượng khác nhau. Nhà tư bản trả tiền mua sức lao động trong ngày. Vậy việc sử dụng sức lao động trong ngày đó thuộc về nhà tư bản. Chẳng hạn nhà tư bản bắt công nhân lao động 12h trong một ngày thì chi phí sản xuất = Tiền bông+Hao mòn máy móc + Tiền mua sức lao động của công nhân=20+4+3=27$. Gia trị sản phẩm mới tạo ra =giá trị của bông +Gia trị của máy móc + giá trị do sức lao động của công nhân tạo ra= 20+4+12=30$. Như vậy toàn bộ chi phí nhà tư bản để mua tư liệu sản xuất và sức lao động là 27$. Trong 12h lao động công nhân tạo ra một lượng giá trị mới là 30$. Vậy 27$ ứng trước chuyển hoá thành 30$. Do đó tiền đã biến thành tư bản. Phần giá trị mới dôi ra này là giá trị thặng dư. Chi phí sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa. Lợi nhuận: Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa: Muốn tạo ra giá trị hàng hoá, tất yếu phải chi phí một số lao động nhất định bao gồm: Lao động hiện tại, tức là lao động tạo ra giá trị mới (v+m ). Lao động quá khứ. Chi phí thực tế để tạo ra giá trị hàng hoá là c+v+m. Nhưng các nhà tư bản không quan tâm đến điều đó họ chỉ ứng tư bản để sản xuất ra hàng hoá do đó nhà tư bản chỉ xem hao phí hết bao nhiêu tư bản chứ không tính xem hết bao nhiêu lao động xã hội. Mác gọi chi phí đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, và ký hiệu bằng k ( k= c+v+m). Vậy chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hoá. Khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thì công thức giá trị hàng hoá (gt=c+v+m) sẽ chuyển thành gt=k+m. Giữa giá trị và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự khác nhau về cả mặt lượng lẫn về mặt chất. Về mặt lượng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí thực tế hay giá trị hàng hoá. ( c+v)<(c+v+m). Về mặt chất chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ánh đúng đầy đủ hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó, còn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ phản ánh hao phí tư bản của nhà tư bản mà thôi. Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận: Ta đã thấy giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn có một khoảng chênh lệch, nên sau khi tiêu thụ hàng hoá nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra mà còn thu đực một số tiền lời ngang bằng với giá trị thặng dư. Số tiền này được gọi là lợi nhuận. “ Gía trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức chuyển hoá của lợi nhuận. Nếu ta ký hiệu lợi nhuận là pt thì công thức: gt = c+v+m sẽ chuyển thành gt= k+m.(hay giá trị hàng hoá bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận. Qua những phân tích trên ta có thể thấy nguồn gốc của lợi nhuận là kết quả bóc lột lao động của công nhân làm thuê. Đồng thời sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xoá nhoà sự khácnhau giữa c và v nên việc p sinh ra trong quá trình sản xuất nhờ bộ phận của v được thay thế bằng sức lao động bây giờ lại trở thành con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước. Do k luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thức tế nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất là đã có lợi nhuận. Nếu nhà tư bản bán hàng với giá bằng giá trị của nó thì m=p, trong trường hợp còn lại thì m > hoặc < p. Chính sự không nhất quán này đã che dấu quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, che dấu nguồn gốc thực sự của lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận. Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận: Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo % giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước: m P’= .100% c+v Tỷ suất lợi nhuận không phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản mà nói lên mức lãi của việc đầu tư cho nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào đâu thì có lợi. Do đó việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy các nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản. Do mục tiêu đạt được lợi nhuận cao nhất nên giữa các nhà tư bản luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắy giữa nội bộ ngành và giữa các ngành nhằm mục tiêu tìm nơi đầu tư có lợi hơn để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận: Tỷ suất giá trị thặng dư. Sự tiết kiệm của tư bản bất biến. Cấu tạo hữu cơ của tư bản. Tốc độ chu chuyển của tư bản. Những hình thức chuyển hoá của giá trị thặng dư: Như ta đã biết, giá trị thặng dư và lợi nhuận không hoàn toàn đồng nhất nhưng chúng đều có nguồn gốc từ lao động thặng dư. Gía trị thặng dư là phần giá trị mà nhà Tư Bản bóc lột không công của người công nhân. Có thể nói chinh giá trị thặng dư biểu hiện sự bóc lột sản xuất, chứng minh công thức, mâu thuẫn tư bản một cách chính xác và khoa học. Trước Mác các nhà kinh tế học đã hình dung ra giá trị thặng dư nhưng họ chưa có đủ lý luận để diễn đạt mà chủ yếu biểu hiện quan điểm của mình trong vấn đề thu nhập tiền lương. Chỉ đến Mác lý thuyết giá trị thặng dư mới được xây dựng một cách hoàn chỉnh. Trong xã hội tư bản giá trị thặng dư chuyển hoá thành những hình thái sau: Tỷ suất giá trị thặng dư: Là tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Ký hiệu là m’. m.100% m’= v Tỷ suất giá trị thặng dư vạch ra một cách chính xác trình độ bóc lột công nhân. Thức chất đây là tỉ lệ phân chia lao động thành thời gian lạo động cần thiết và lao động thặng dư. Nhưng nó không biểu hiện lượng tuyệt đối của sự bóc lột tức là khối lượng giá trị thặng dư. Tỷ suất lợi nhuận: Đối với người chủ xí nghiệp thì mức lãi cao hay thấp là do tỷ suất lợi nhuận quyết định. Tỷ suất lợi nhuận là biểu hiện của tỷ số giữa giá trị thặng dư và tổng tư bản. Ký hiệu: P’. m.100 P’= k Sự chuyển hoá giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận được hoàn thành ở sự chuyển hoá giá trị thăng dư thành lợi nhuận. Lợi nhuận công nghiệp: Về bản chất là phần giá trị do công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm không và phần giá trị này được đem bán trên thị trường để thu được một số tiền lời sau khi trừ đi chi phí sản xuất. Ngày lao động của công nhân được chia thành hai phần: một phần làm ra giá trị tương đương với số lương mà nhà tư bản trả cho anh ta và một phần tạo ra giá trị thặng dư. Vì mong muốn lợi nhuần cao nên nhà Tư Bản Công Nghiệp luôn tìm cách giảm thời gian lao động tất yếu tăng thời gian lao động thặng dư bằng cách làm tăng năng suất lao động. Thời gian lao động thặng dư càng nhiều lợi nhuận của nhà tư bản càng cao. Đây là hình thái gần nhất dễ thấy nhất với giá trị thặng dư và lợi nhuận công nghiệp là hình thái chung. Lợi nhuận thương nghiệp: Khác với tư bản thương nghiệp trước chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra để phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp. Tư bản thương nghiệp chỉ hạn chế ở chức năng mua và bán nó không sáng tạo ra gía trị và giá trị thặng dư. Nhìn bề ngoài lợi nhuận thương nghiệp là do mua rẻ bán đắt do lưu thông tạo ra. Nhưng thực chất “ Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư của nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp “(*)(C.Mac: Tư bản, NXB Sự thật, HN,1962,QIII tập I), vì tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, đó là một khâu một giai đoạn của quá trình sản xuất, không có giai đoạn đó thì quá trình tái sản suất không thể tiếp tục được. Và dĩ nhiên nhà tư bản thương nghiệp không hoạt động không công và họ cũng đòi hỏi phải có lợi nhuạn. Điều này buộc nhà tư bản công nghiệp phải nhường một phần lợi nhuận của mình cho nhà tư bản thương nghiệp. Lợi tức và tỉ suất lợi tức: Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp luôn có số tư bản tạm thời nhàn rỗi thí dụ như tiền trong quĩ khấu hao của tư bản cố định, tiền để mua nguyên vật liệu nhưng chưa đến kỳ ; bộ phận giá trị thặng dư tích luỹ ( dưới dạng tiền ) để mở rộng sản xuất nhưng chưa sử dụng...số tiền nhàn rỗi đó không đem lại một thu nhập nào cho nhà tư bản. Nhưng đối với nhà tư bản tiền phải đẻ ra tiền. Vì vậy nhà tư bản phải cho người khác vay để kiếm lãi. Trong cùng thời gian đó có những nhà tư bản khác rất cần tiền để mở rộng sản xuất do đó họ có nhu cầu vay. “ Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một khoản lời nào đó, Số lời đó được gọi là lợi tức “. Bản chất của lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay đã đưa cho nhà tư bản cho vay sử dụng. Vì vậy nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Lợi tức vận động theo qui luật tỉ suất lợi tức. Tỉ suất lợi tức là tỉ lệ tính theo % giữa tổng số lợi nhuận bình quân, tỉ lệ phân chia lợi nhuận thành lợi tức và thu nhập của xí nghiệp mà nhà tư bản hoạt động, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của tư bản cho vay. Lợi nhuận ngân hàng: Lợi nhuận ngân hàng là thu nhập của nhà tư bản ngân hàng là hình thái biến tướng riêng biệt của giá trị thặng dư m. Nghiệp vụ chính của ngân hàng là thu nhận tiền gửi cho vay. Lợi tức cho vay của ngân hàng cao hơn lợi tức tiền gửi, con số chênh lệch này là nguồn gốc lợi nhuận của ngân hàng. Tuy vậy không phải toàn bộ con số chênh lệch ấy đều là lợi nhuận của ngân hàng, lợi nhuận ngân hàng mà lợi nhuận ngân hàng chỉ là con số còn lại sau khi đã trừ đi một phần để bù vào chi phí nghiệp vụ ngân hàng. Ngân hàng trực tiếp cho các nhà sản xuất, kinh doanh vay. Nhà tư bản lấy số tiền đó để sản xuất ra giá trị thặng dư, sau đó đem một phần m thu được thành lợi tức trả cho ngân hàng. Do đó lợi nhuận ngân hàng cũng là giá trị thặng dư. Sự cạnh tranh giữa các ngành trong xã hội tư bản cũng là do lợi nhuận ngân hàng bằng lợi nhuận binh quân, nếu không chủ ngân hàng sẽ chuyển sang kinh doanh ngành khác. Lợi tức cổ phần: Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản gặp phải một giới hạn của qui mô tư bản cá biệt. Vì vậy muốn mở rộng sản xuát và xây dựng các xí nghiệp lớn thì phải liên kết nhiều nhà tư bản cá biệt lại với nhau thành công ty cổ phần. “ Công ty cổ phần là một xí nghiệp lớn tư bản chủ nghĩa mà vốn được hình thành từ sự đóng góp của nhiều nguồn thông qua phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có giá, ghi nhạn quyến sở hữu cổ phần đồng thời bảo đảm cho người chủ sở hữu có quyền lĩnh một phần thu nhập của công ty tương ứng với số tiền ghi trên cổ phiếu. Như ta đã biết lợi nhuận của công ty có nguồn gốc từ giá trị thặng dư do người công nhân làm ra. Vì vậy thực chất lợi tức cổ phần cũng bắt nguồn từ giá trị thặng dư. Địa tô, lợi nhuận siêu ngạch: Cũng như các nhà tư bản kinh doanh trong công nghiệp, các nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân. Nhưng muốn kinh doanh trong nông nghiệp thì họ phải thuê ruộng đất của địa chủ. Vì vậy, ngoài lợi nhuận bình quân ra, nhà tư bản kinh doanh phải thu thêm được một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân đó, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tưông đối ổn định và lâu dài và họ phải trả nó cho chủ ruộng đất dưới hình thái địa tô tư bản chủ nghĩa. Vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Chương 2: vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam. I.Những tác động tích cực của lợi nhuận: 1.Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: Các nhà Tư Bản luôn mong muốn tạo ra ngày càng nhiều lợi nhuận. Với mụch đích đó, trước đây họ có thể tạo ra lợi nhuận bằng cách kéo dài ngày lao động của công nhân nhưng phương pháp đó gặp phải sự phản đối quyết liệt vì vậy muốn có thêm lợi nhuân buộc các nhà Tư Bản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột khác đó là áp dụng kỹ thuật mới để tăng năng suất lao động đồng thời tăng thời gian lao động thặng dư của người công nhân trong điều kiện giờ làm không thay đổi.Yếu tố này đã giúp cho nhà Tư Bản không chỉ thu được lợi nhuận đơn thuầnmà còn thu được lợi nhuận siêu ngạch. Nhưng để có được điều này các buộc nhà Tư Bản phải đầu tư ngày càng nhiều vào vấn đề nghiên cứu khoa học, đây là một điều kiện hết sức thuận lợi đối với sự phát triển của khoa học kỹ thuật qua đó tạo điều kiện thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển một cách nhanh chóng. Theo bước tiến của sự phát triển về khoa học kỹ thuật. những người công nhân là nhưng người trực tiếp sử dụng vận hành công nghệ mới cũng buộc phải không ngừng nâng cao trình độ tay nghề nếu không họ sẽ bị đào thải bởi qui luật phát triển. Còn về các nhà Tư bản, họ hiểu rằng để đạt được hiệu quả cao, tận dụng được hết các chức năng của công nghệ tiên tiến thì phải có một đội ngũ công nhân lanh nghề có trình độ kỹ thuật cao. Vì vậy yêu cầu cấp thiết là phải nâng cao trình độ của bản thân nhà tư bản và của công nhân đã diễn ra. Qua đó trình độ chuyên môn chung trong các nganh nghề nói riêng và cả xã hội nòi chung từng bước được nâng cao. 2.Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có quan hệ biện chứng với nhau, khi lực lượng sản xuất phát triển thì nó kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất và ngược laị. Do tác động của lợi nhuận, do sự phân chia lợi nhuận dưới nhiều hình thức khác nhau một cách hết sức chặt chẽ giữa các bên tham gia vào quá trình phân chia đã làm cho chế độ sở hữu ngày càng được củng cố và phát triển. Quan hệ sở hữu từng bước được thắt chặt hơn, rõ ràng hơn giữa các nhà Tư Bản và người lao động nói riêng, giữa các cá nhân trong xã hội nói chung. Bên cạnh mục đích lợi nhuận luôn đặt cácnhà kinh tế, các tổ chức kinh tế trước yêu cầu hiệu quả, làm thế nào để chi phí ít nhât và thu được lợi nhuân lớn nhất. Điêu đó đòi hỏi tính chuyên môn hoá cao và sự sắp sếp, tổ chức thiết lập lại các bộ phận quản lý để quá trình hoạt động được nhịp nhàng thông suốt, tránh sự trì trệ hạn chế bớt một bộ phận quản lý cồng kềnh. Thông qua những hoạt động trên quan hệ sản xuất trong xã hội dần dân từng bước phát triển. 3.Vai trò của lợi nhuận với quá trình tái sản xuất xã hội: Để hiểu được vai trò của lợi nhuận đối với quá trình tái sản xuất xã hội trước tiên ta hãy xem xét điều kiện để tái sản xuất xã hội diễn ra là gì ? Như ta đã biết muốn tái sản xuất mở rộng thì phải có nhiều vốn. Muốn vậy phải tích luỹ vốn. Tích luỹ vốn gắn liền với tái sản xuất mở rộng và trở thành qui luật kinh tế chung của các hình thái kinh tế xã hội có tái sản xuất mở rộng. Tích luỹ vốn nói chung xét về thực chất là sự chuyển hoá một phần giá trị của sản phẩm thặng dư do lao động thặng dư tạo ra thành vốn phụ thêm để mở rộng sản xuất. Do vậy nguồn tích luỹ vốn là giá trị của sản phẩm thặng dư do lao động thặng dư tạo ra trong quá trinh sản ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0025.doc
Tài liệu liên quan