Những vấn đề chung về quy luật phân phối

Tài liệu Những vấn đề chung về quy luật phân phối: ... Ebook Những vấn đề chung về quy luật phân phối

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1517 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những vấn đề chung về quy luật phân phối, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT PHÂN PHỐI 1.1 Quan điểm Mac-Lênin về quy luật phân phối : 1.1.1 Vấn đề phân phối trong xã hội xã hội chủ nghĩa: Chủ nghĩa Mac-Lenin cho rằng phân phối không phải là một hiện tượng cô lập mà còn là một khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội : sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng.Trong quá trình đó, sản xuất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định; còn phân phối và các khâu khác phụ thuộcvào sản xuất và do sản xuất quyết định, nhưng có ảnh hưởng tích cực trở lại đối với sản xuất. Ang-ghen nói: “Phân phối không phải chỉ đơn thuần là một kết quả tiêu cực của sản xuất và của trao đổi; đến lượt nó, nó cũng tác động trở lại sản xuất và trao đổi”(1) Trong lịch sử xã hội loài người đã trải qua nhiều phươngthức sản xuất khác nhau, mà mỗi phương thức sản xuất có quan hệ phân phối riêng, thích hợp với tính chất của quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ phân phối do quan hệ sản xuất, mà trước hết là quan hệ chiếm hữu tư liệu sản xuất quyết định.Trong một xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất thì giai cấp đó có quyền chi phối quan hệ phân phối theo quyền lợi của giai cấp mình. Dưới chế đội công xã nguyên thuỷ, tư liệu sản xuất thuộc quyền sỡ hữu chung của công xã, trình độ sản xuất kém chưa có sản phẩm thặng dư. Nên phương thức phân phối là phân phối bình quân những sản phẩm do lao động chung làm ra. Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, giai cấp thống trị là giai cấp chủ nô; chúng không những chiếm hữu tư liệu sản xuất mà còn chiếm hữu cả những người sản xuất coi họ như là một thứ tư liệu sản xuất. Cho nên bọnchủ nô chiếm hết toàn bộ sản phẩmngười nô lệ làm ra và chỉ bố thí cho họ một phần đủ để khổi chết đói để tiếp tục làm việc cho chúng. Dưới chế độ phong kiến, giai cấp thống trị là giai cấp địa chủ chúng chiếm hữu hấu hết tư liệu sản xuất, nông dân chỉ còng một phần rất nhỏ nhưng cũng bị bóc lột, sưu cao, thuế nặng. Bọn địa chủ chiếm đoạt hầu hết sản phẩm thặng dư trong xã hội và cả một phần sản phẩm cần thiết; nên nông dân chỉ còn được hưởng một phần rất nhỏ, đời sống cơ cực thiếu thốn. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đều thuộc về giai cấp tư sản, giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất chỉ có sức lao động, phải làm thuê cho giai cấp tư sản. Do đó giai cấp tư sản là giai câp schi phối quan hệ phân phối nhằm đem lại nhiều giá trị thặng dư cho giai cấp mình. Nguyên tắc phân phối của giai cấp tư sản là (1) Ph.Ang-ghen : Chống Duyring –Nhà xuất bản Sự Thật – Hà Nội – 1971 – trang 252 theo số lượng tư sản. Nhà tư sản nào có càng nhiều tư sản thì càng có khả năng thu được nhiều giá trị thặng dư. Còn giai cấp công nhân thì chỉ được lĩnh tiền công, tức là tiền bán sức lao động. Nhưng người công nhân thường chỉ được lĩnh số tiền công dưới giá trị sức lao động đã bỏ ra. Ngoài ra người công nhân còn có thể bị lâm vào tình trạng thất nghiệp hay nửa thất nghiệp. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất quyết định tính chất xã hội chủ nghĩa của phương thức phân phối. Ở đây, người lao động nắm quyền làm chủ tư liệu sản xuất, do đó có quyền làm chủ quá trình sản xuất và phân phối. Dưới chủ nghĩa xã hội, toàn bộ sản phẩm xã hội thuộc về xã hội và được phân phối vì lợi ích của toàn xã hội. Tuy nhiên không phải toàn bộ sản phẩm xã hội đều được phân phối cho tiêu dùng cá nhân, mà trước hết nó được dùng để tái sản xuất mở rộng xã hội để phát triển xã hội, nâng cao đời sống, sau đó mới phân phối cho tiêu dung cá nhân. Sơ đồ phân phối toàn bộ sản phẩm xã hội dưới chế độ xã hội chủ nghĩa do Mác vạch ra : Phần để mở rộng các sự nghiệp phúc lợi công cộng Phần để nuôi dưỡng những người không có khả năng lao động Phần để chi phí về quản lý hành chính và quốc phòng Phần dự trữ đẻ đè phòng các biến cố bất ngờ (như chiến tranh, thiên tai…) Phần tích luỹ để tái sản xuất mở rộng Phần thay thế những tư liêu sản xuất đã hao phí trong quá trình sản xuất Phần giành cho quản lý và phúc lợi xã hội Phần giành cho tiêu dùng cá nhân Phần để tái sản xuất xã hội TỔNG SẢN PHẨM XÃ HỘI Sơ đồ phân phối toàn bộ sản phẩm xã hội do Mác vạch ra là ưu việt vì nó vừa đảm bảo cho tiêu dùng cá nhân vừa đảm bảo cho sự phát triển của xã hội. Sơ đồ của Mac khác với quan điểm của một nhà tiểu tư sản người Đức là “ phải để cho mọi người lao động được hưởng sản phẩm toàn vẹn vủa lao động ”. quan điểm trên là quan điểm phiến diện vì nếu tất cả sản phẩm xã hội đều đem phân phối hết cho tiêu dùng cá nhân thì xã hội sẽ không có điều kiện để thực hiện tái sản xuất mở rộng, do đó không thể phát triển được. Thực ra, những khoản phân chia ngoài tiêu dùng cá nhân đều là cần thiết và đều phục vụ cho nhân dân lao động. Như Mác nói : “Cái mà người sản xuất, đứng về mặt cá nhân thì bị tước mất, nhưng đứng về mặt thành viên của xã hôi thì người ấy lại lấy được một cách trực tiếp hay gián tiếp”(1) Vấn đề phân phối toàn bộ sản phẩm dưới chủ nghĩa xã hôi là một lĩnh vực rộng lớn, liên quan đến tất cả các hoạt động của xã hội xã hôi chủ nghĩa. Nó tác dộng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Nó tác động chẳng những đến đời sống mà cả đến sản xuất xã hội; nó vừa có ý nghĩa kinh tế, vùa có ý nghĩa chính trị, thể hiện tính ưu việt của chế độ chủ nghĩa xã hội so với chế độ tư bản chủ nghĩa và các chế độ khác. Nó vừa đản bảo không ngừng nâng cao năng xuất lao động xã hội và tái sản xuất mở rộng xã hội chủ nghĩa, vừa đảm bảo không nghừng nâng cao đời sống của toàn nhân dân lao đông, làm cho mọi người kể cả người già, trẻ con, những người mất sức lao dộng, đều được đảm bảo đồi sống; nó góp phần cải tạo những người lười biếng, bọn lưu manh, ăn bám trỏ thành những người lao động, ngăn chặn sự phục hồi của giai cấp bóc lột; nó ảnh hưởng tới việc củng cố, bảo vệ và phát triển vững mạnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Về vấn đề phân phối cho tiêu dùng cá nhân người lao động thì dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, phân phối theo lao dộng là quy luật kinh tế, là nguyên tắc cơ bản, áp dụng cho tất cả mọi người lao động trong xã hội. Nhưng trong xã hội xã hội chủ nghĩa, không chỉ có phân phối theo lao động dưới hình thức “tiền lương” hay “ngày công”, mà còn có phân phối thông qua các sự nghiệp phúc lợi công cộng cho tất cả các thành viên trong xã hội. Phúc lợi xã hội, một mặt hỗ trợ, bổ xung cho phân phối theo lao động, làm, cho thu nhập thực tế của người lao động tăng lên, giảm bớt một phần sự cách biệt về đời sống giữa những người lao động; mặt khác, nó là mầm mống của nguyên tắc phân phối theo nhu cầu của chủ nghĩa cộng sản. Phúc lợi xã hội chẳng những bao gồm các sự nghiệp công cộng như giáo dục, các công trình văn hoá, các cơ sỏ y tế, nhà ở vườn trẻ ……mà còn bao gồm cả việc tổ chức đời sống cho những người tàn tật mất sức lao động, những người già yếu, đặc biệt là đảm bảo việc nuôi dạy con cái của nhân dân lao động cả về vật chất và văn hoá, tinh thần, làm cho tất cả trẻ em ngày càng được nuôi dưỡng tốt, được giáo dục toàn diện. Xã hội xã hội chủ nghĩa càng phát triển thì sự nghiệp phúc lợi xã hội càng tăng thêm. Như vậy, vấn đề phân phối cho tiêu dùng trong xã hội xã hôi chủ nghĩa cũng gồm nhiều mặt; nó bao gồm toàn bộ công tác tiền lương trong các cơ sở kinh tế và cơ quan quản lý của nhà nước, chế độ phân (1) C.Mác – Ph.Ang ghen : Phê phán cương lĩnh Gôla và Ecphuya – Nhà xuất bản Sự Thật – Hà Nội – 1958 –trang 30 phối theo ngày công trong các hợp tác xã, toàn bộ sự nghiệp phúc lợi xã hội và việc tổ chức đời sống. Nó bao gồm cả một phần sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế ……Ngoài ra, chính sách giá cả, thuế má, thu mua, phân phối hàng hoá ……của nhà nước đều liên quan chặt chẽ đến việc phân phối xã hội chủ nghĩa. Tóm lại, có hiểu biết phân phối một cách đầy đủ và toàn diện như vậy - cả vấn đề phân phối toàn bộ sản phẩm xã hội cho quá trình tái sản xuất và vấn đề phân phối cho tiêu dùng cá nhân – thì mới thấy hết được tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, một chế độ phân phối “ tất cả vì tương lai hạnh phúc của con người ”. Mặt khác, có nhận thức như vậy thì trong công tác chỉ đạo và tổ chức phân phối mới không chỉ quan tâm riêng vấn đề “ tiền lương ” hay “ ngày công ” mà quan tâm đầy đủ đến các mặt khác từ việc phân công lao động, tổ chức và sử dụng lao động, đến việc tổ chức đời sống và đảm bảo sự nghiệp phúc lợi. Nước ta là đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội từ bối cảnh đất nước bị tàn phá do chiến tranh, nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn. Mặc dù, trong những năm qua đất nước đã phát triển lên những bước mới, nhưng vấn đề dặt ra cho phân phối ở nước ta vẫn là mâu thuẫn giữa yêu cầu phải tích luỹ nhanh để công nghiệp hoá - hiện đại hoá thành công với yêu cầu phải từng bước cải thiện đời sống nhân dân. 1.1.2 Phân phối theo lao động là quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội : 1.1.2.1 Phân phối theo lao động là quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội, do những cơ sở khách quan sau đây quy định : Sự xoá bỏ chế độ người bóc lột người, sự thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã đem lại quyền làm chủ tập thể về tư liệu sản xuất của nhân dân lao động. Cơ sở duy nhất quyết định địa vị và phúc lợi của con người trong xã hội chỉ có thể là lao động. Cho nên, việc phân phối vật phẩm tiêu dùng nhất hiết phải vì lợi ích của mọi thành viên làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Dưới chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, năng xuất lao động tăng lên không ngừng, nhưng sản phẩm xã hội làm ra vẫn chưa được rồi dào để phân phối thoả nhu cầu. Vì vậy, đối với người có sức lao động, phân phối theo lao động là sự tất yếu để phát triển sản xuất, chuẩn bị mọi điều kiện tiến lên thực hiện nguyên tắc phân phôi theo nhu cầu. Xã hội xã hôi chủ nghĩa được xây dựng trên nền của xã hội cũ, nó chưa phải là một xã hội phát triển trên những cơ sở riêng của nó, cho nên còn tồn tại những dấu vết của xã hội cũ : - Còn sự khác nhau giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa lao động lành nghề và không lành nghề, giữa lao động kỹ thuật và lao động giản đơn ……Những sự khác nhau đó dẫn đến năng xuất lao động khác nhau và kết quả lao động cũng khác nhau. - Lao động chưa trở thành nhu cầu bậc nhất của con người;đối với rất nhiều người, nó còn là phương tiện để sinh sống. Do đó, thái độ đối với lao động và hưởng thụ có sự khác nhau, trong khi có những người chăm chỉ lao động thì có một số người khcs thì lười biếng, ỷ lại, làm việc với thái độ làm thuê, uể oải, thậm chí một số người muốn làm ít hưởng nhiều. Trong những điều kiện kinh tế và xã hội khách quan đó, thì việc phân phối theo lao động là tất yếu, là quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Quy luật phân phối theo lao động là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội, vì nó thực hiện vì lợi ích của người lao động, nó kết hợp chặt chẽ lợi ích cuảe toàn xã hội với lợi ích cá nhân của người lao động. Do đó phân phối theo lao động là động lực thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển mạnh mẽ và góp phần giáo dục tinh thần lao động xã hội chủ nghĩa cho mọi người lao động. Muốn thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động, cần phải gắn liền nó với việc tổ chức lao động sản xuất, tổ chức đời sống xã hội, đồng thời phải đề ra việc “ xã hội và nhà nước phải kiểm tra thật nghiêm ngặt mức độ lao động và mức độ tiêu dùng ”(1) của những người lao động; và nguyên tắcc phân phối xã hội chủ nghĩa phải được tuân thủ, chống tệ tham ô, tư lợi, chống thói lười biếng. Khi kiểm tra việc tham gia lao động của mỗi người, xã hội và nhà nước phải tính đến sự khác nhau về trình độ lành nghề của những sản xuất, phải quy định tiêu chuẩn và chế độ lao động để đảm bảo sao cho người làm việc nhiều ưởng nhiều, người làm việc ít hưởng ít. Những người nào iều kiện và khả năng lao động mà không chịu thực hiện nghã vụ lao động thì không được hưởng. Đối với những người đó xã hội cần phải có biện pháp buộc họ phải lao động để thực hiện nghĩa vụ với xã hội và giải quyết đời sống của mình. 1.1.2.2 Tác dụng của quy luật phân phối theo lao động : - Thúc đẩy mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với lao động, nâng cao năng suất lao động nhằm đạt hiệu quả lao động cao nhất. - Việc trả công cao hơn cho người lao động lành nghề có năng suất caco kích thích mọi người hăng hái học tật, chău dồi để trở thành những người lao động giỏi, có kỹ thuật, có trình độ cao. Nhờ đó mà thúc đẩy sản xuất phát triển đồng thời làm cho đội ngũ công nhân kỹ thuật và cán bộ lành nghề ngày càng đông đảo, tạo điều kiện xoá bỏ dần sự khác biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa lao động lành nghề và lao động không lành nghề. - Phân phối theo laô động có tác dụng giáo dục và đấu tranh chống những tàn dư của xã hội cũ như lười biếng, làm ẩu….loại trừ những kẻ muốn ngồi không ăn bám, củng cố kỷ luật lao động và làm cho mọi người dần dần “ do thói quen lao động cho tập thể mà làm và do ý thức (đã trỏ thành thói quen ) tự giác thấy cần phải làm vì lợi ích công cộng - một thứ lao động đã trở thành nhu cầu của một cơ thể lành mạnh ” (2) Do tất cả những tác dụng nói trên, quy luật phân phối theo lao động khuyến khích cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động xã hội, làm cho nền kinh tế phát triển, sán xuất ra nhiều của cải vật chất làm giàu cho tổ quốc và nâng cao đời sống nhân dân. Như vậy, phân phối theo lao động là quy luật khin tế chung của chủ nghĩa xã hội. Nó phản ánh mối liên hệ giữa chế độ công hưu về tư liệu sản xuất với việc phân (1) V.I Lenin:Tuyển tập-quyển II- phần I –Nhà xuất bản Sự Thật – Hà Nội –1960 –trang 259 (2) V.I Lenin : Toàn tập - tập 30 – Nhà xuất bản Sự Thật – Hà Nội – 1968 –trang 661 phối sản phẩm tiêu dùng cá nhân trong điều kiện sản phẩm chưa dồi dào và xã hội còn mang nhiều tàn tích của xã hội cũ. Nó phản ánh sự nhất trí giữa lợi ích tập thể và lượi ích cá nhân. Vì vậy, xã hội chủ nghĩa xã hội muốn phát triển thì trong việc phân phối tiêu dùng các nhân của người lao động phải nhất tuân thủ quy luật này. Nếu phân phối theo lối bình quân hoặc là phân phối theo nhu cầu khi chưa đạt tới việc của cải dồi dào, thì đều là thoát ly trình độ sản xuất của xã hội, do đó sẽ ảnh hưởng đến sản xuất, làm chậm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Nếu so sánh phương thức phân phối theo lao động với phương thức phân phối của chủ nghĩa tư bản và các xã hội trước đó thì phương thức phân phối theo lao động là bình đẳng và hợp lý nhất, tuy chưa phải là bình đẳng hoàn toàn. Bởi vì, ở xã hội xã hội chủ nghĩa mới chỉ xoá bỏ được chế độ người bóc lột người và tạo được quyền bình đẳng đối với việc sở hữu tư liệu sản xuất. Mọi người có nghĩa vụ và quyền lao động bình đẳng, được hưởng một nguyên tắc trả công thống nhất đó là trả công theo lao động. Nhưng so với chủ nghĩa cộng sản với nguyên tắc phân phối theo nhu cầu, thì nguyên tắc phân phối theo lao động của chủ nghĩa xã hội vẫn chưa hoàn toàn bình đẳng. Vì, trên thực tế sức khoẻ của người lao động cùng hoàn cảnh gia đình của họ khác nhau, nên trong đời sống vẫn còn những mặt không bình đẳng chỉ khi đến xã hội cộng sản , khi lực lượng sản xuất đã phát triển rất cao, tạo ra nguồn của cải vật chất dồi dào, khi trình độ giác ngộ cộng sản chủ nghĩa và thói quen lao động của con người được nâng cao, thì mới có thể thực hiện được việc phân phối theo nhu cầu. Đòi hỏi có được sự bình đẳng hoàn toàn về tiêu dùng trong xã hội chủ nghĩa xã hội là điều không tưởng, thoat ly các điều kiện kinh tế và xã hội cụ thể. Có hai sai lầm phổ biến khi phân phối theo lao động mà chúng ta cần quán triệt đe chống sai lầm đó là : - Chủ nghĩa bình quân trong việc trả công lao động, vì nó sẽ dẫn đế sự phân phối không công bằng, xoá bỏ mọi nguyên tắc về lợi ích vật chất, chỉ có lợi cho những kẻ lười biếng và cuối cùng có hại cho sản xuất. - Khuynh hướng đòi mở rộng quá mức khoảng cách giữa các bậc lương, thang lương một cách không có căn cứ, đòi hỏi sự ưu đãi đặc biệt cho một số người. 1.1.3 Những hình thức phân phối theo lao động : 1.1.3.1 Tiền lương dưới chế độ xã hội chủ nghĩa : a. Bản chất của tiền lương : Tiền lương dưới chế độ xã hội chủ nghĩa về bản chất khác hẳn với tiền lương dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, vì : - Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, người lao động làm chủ tư liệu sản xuất, sức lao động không còn là hàng hoá nữa. Người lao động làm cho bản thân và cho xã hội cho nên tiền lương là một phần trong thu nhập quốc dân đem phân phối cho người lao động theo số lượng và chất lượng lao động mà họ đóng góp cho xã hội. Nó phản ánh quan hệ phân phối sản phẩm giữa toàn thể xã hội với từng người lao động, biểu hiệ quyền làm chủ tập thể trong lĩnh vực phân phối, phản ánh tính chất tốt đẹp của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa: khác với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa coi tiền là giá cả hay giá trị của sức lao động. - Dưới chế độ tư bản tiền lương là công cụ bóc lột và chia rẽ giai cấp công nhân. Trái lại, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa tiền lương có tác dụng khuyến khích người lao động nâng cao trình độ nghề nghiệp và có thái độ lao động đúng đắn. Nhà nước xã hội chủ nghĩa căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ kinh tế của từng thời kỳ mà có kế hoạch hoá quỹ lương làm một công cụ kinh tế quan trọng để phân phối sắp xếp các lao động giữa các ngành và các vùng sản xuất, thích hợp với yêu cầu phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng xuất lao động xã hội. Vậy, công tác chính trị và kinh tế quan trọng của nhà nước nhằm phục vụ quyền lợi của nhân dân lao động. - Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động. Nhưng đời sống của người lao động không chỉ do tiền lương quyết định. Cùng với tiền lương, các quỹ phúc lợi xã hội cũng đem lai cho họ thu nhập dưới nhiều hình thức khác nhau; và mức thu nhập này ngày càng nhiều lên đi đôi với sự tăng lên của tiền lương trên cơ sở sản xuất phát triển. Như vậy, dưới chế độ chủ nghĩa xã hội, thu nhập của công nhân viên chức bao gồm tiền lương cá nhân và những khoản thu nhập do các quỹ phúc lợi xã hội đem lại. Nó khác hẳn chế độ tư bản chủ nghĩa với một chế độ tiền lương không những bị giới hạn ở giá trị sức lao động, mà còn bị các khoản thuế khoá, phạt, giá cả đắt đỏ bòn rút thêm. Cho nên dưới chế độ tư bản, người lao động không có thêm thu nhập nào khác, mà còn bị bòn rút bằng nhiều cách. - Tiền lương dưới chế độ tư bản cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào giá trị sức lao động và kết quả của quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân. Trái lại, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, giới hạn của tiền lương là trình độ phát triển của sản xuất và mức đóng góp của từng người lao động. Tiền lương nói riêng và thu nhập nói chung của người lao động có xu hướng ngày càng tăng lên, phản ánh sự hoạt động của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội.Theo đà phát triển của sản xuất, tất cả những người lao động đều có việc làm, do đó thu nhập của các gia đình dần dần tăng lên. Trình độ văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ của người lao động không ngừng được nâng cao hơn, trên cơ sở đó, tiền lương và tiền thưởng của họ ngày càng nhiều hơn. Nhà nước xã hội chủ nghĩa lại thi hành các chính sách ổn định vật giá, từng bước giảm giá bán lẻ vật phẩm tiêu dùng để tăng sức mua của đồng tiền. b. Các hình thức tiền lương : -Tiền lương theo thời gian áp dụng cho những công việc không tính cụ thể đước lao động hao phí, không tính cụ thể được sản phẩm làm ra như đối với cán bộ kỹ thuật, công nhân sửa chữa, cán bộ quản lý, Để tăng cường tác dụng kích thích lao động của tiền lương theo thời gian, có xí nghiệp đã áp dụng chế độ chia tiền lương theo thời gian thành hai phần :lương cố định ( bằng 70% lương chính ) và lương biến động. Hình thức tiền lương này đã có tác dụng gắn lợi ích của người lao động với kết quả sản xuất kinh doanh cuối cùng của đơn vị mình. - Tiền lương theo sản phẩm là hình thức tiền lương phổ biến nhất trong khu vực kinh tế thuộc sở hữu toàn dân. Tiền lương tính theo sản phẩm được xây dựng trên cơ sở định mức sản xuất trung bình tiên tiến mà số đông những người sản xuất có thể thực hiện được. Cho nên lương sản phẩm là hình thức tiền lương có tác dụng kích thích công nhân quan tâm sử dụng đầy đủ và hợp lý máy móc thiết bị, nguyên liệu, thời gian lao động, cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức lao động để tăng năng xuất lao động. Lương sản phẩm áp dụng cho cá nhân và cho cả tập thể như ca, kíp, tổ sản xuất tuỳ theo điều kiện cụ thể của lao động. Chúng ta cần phân biệt tiền lương trả theo sản phẩm cá nhân và tiền lương trả theo sản phẩm cho tập thể. Hình thức tiền lương theo sản phẩm cho cá nhân : tiền lương của người lao động phụ thuộc trực tiếp vào số lượng sản phẩm người đó làm ra. Còn trong hình thức tiền lương theo sản phẩm cho tập thể :tiền lương phụ thuộc vào tổng số sản phẩm do lao động của tập thể đó sản xuất ra. Tiền lương của tập thể được phân phối cho các thành viên trong đơn vị đó tuỳ thuộc vào bậc lương của từng người và thời gian lao động của người đó. Tiền lương khoán là một hình thức biến dạng của tiền lương tính theo sán phẩm cho tập thể. Nó được quy định căn cứ vào những định mức có sẵn đối với công việc cần làm. Để thực sự đem lại hiệu quả kinh tế người tá khoán cho tập thể theo sản phẩm cuối cùng của đơn vị đó. Ngoài ra, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa còn áp dụng hình thức tiền lương luỹ tiến tính theo sản phẩm để trả lương cao hơn theo luỹ tiến đối với những sản phẩm vượt tiêu chuẩn và hình thức tiền lương tính theo sản phẩm có thưởng, dùng một khoản tiền nhất định để thưởng cho những việc như tiết kiệ nguyên liệu, hạ giá thành sản phẩm, giảm tỉ lệ phế phẩm, cải tiến chất lượng sản phẩm…. Để thực hiện tốt chế độ trả lương theo sản phẩm, cần phải đặc biệt quan tâm làm tố công tác định mức lao động và xác định đúng đắn cấp bậc công việc để tính đơn giá trả lương được chính xác. Định mức lao động là quy định thời gian cần thiết để hoàn thành một công việc nào đó ( tiêu chuẩn về thời gian ), hoặc quy định số lượng sán phẩm sản xuất trong một đơn vị thời gian ( tiêu chuẩn về định mức sản lương ). Các định mức này được quy định dựa trên những căn cứ khoa học kỹ thuật, phù hợp với trình độ kỹ thuật, trình độ tổ chức và kinh nghiệm tiên tiến. Trong công tác quản lý xí nghiệp xã hội chủ nghĩa, định mức lao động có vị trí rất quan trọng. Có định mức lao động chính xác mới có căn cứ vững chắc để lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch kỹ thuật và kế toán của xí nghiệp, đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động, phát huy tác dụng kích thích sản xuất và đạt hiệu quả kinh tế thiết thực của chế độ trả lương theo sản phẩm. Đi đôi với định mức theo lao động, phải thực hiện việc xác định cấp bậc công việc. Định mức lao động và cấp bậc công việc là hai nhân tố cơ bản để tính đơn giá trả lương. Cấp bậc công việc xác dịnh mức độ phức tạp trong công việc của công nhân. Trả lương theo sản phẩm phải theo đơn giá, trả lương được tính theo cấp bậc công việc, định mức lao độnh, chứ không phải tính theo cấp bậc công nhân làm công việc đó. Do đó muốn có đơn giá trả lương đúng đắn, ngoài việc có định mức lao động tốt, phải xác định đúng đắn mức độ công việc. Để trả lương đúng cho các loại ngành nghề khác nhau và cho những loại người sản xuất khác nhau, còn phải áp dụng chế độ tiền lương nhiều bậc. Chế độ tiền lương nhiều bậc được xây dựng đúng đắn làm cho tiền lương có tác dụng kích thích người lao động tăng năng xuất và khiến cho họ quan tâm hơn đến kết quả lao động và trình độ lành nghề của mình. Chế độ tiền lương nhiều bậc phải được kết hợp với các hình thức tiền lương thì mới phát huy đầy đủ tác dụng của tiền lương nhằm nâng cao năng xuất lao động xã hội, đấy mạnh sản xuất phát triển. Ngoài ra còn phải chú ý đến chế độ tiền thưởng, tiền thưởng thực chất là khoản tiền bổ xung nhằm thực hiện đầy đủ hơn nguyên tắc phân phối theo lao động. Chế độ tiêng thưởng là một trong những biện pháp khuyến khích bằng lợi ích vật chất, có bổ xung thêm những chỗ thiếu xót trong hình thức trả lương theo thời gian và trả lương theo sản phẩm, nhằm động viên mọi người phát huy tích cực, sáng tạo trong sản xuất và công tác, để nâng cao năng xuất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu, hạ giá thành sản phẩm. Chế độ tiền thưởng có nhiều hình thức như: thưởng về chất lượng sản phẩm ( giảm tỉ lệ hỏng hay tăng số lượng sản phẩm có chất lượng cao ), thưởng về hoàn thành nhiệm vụ có chất lượng cao, thưởng về tiết kiệm nguyên vật liệu ….Hình thức tiền lương phải được vận dụng đúng đắn để phục vụ nhiệm vụ kinh tế và chính trị từng thời kỳ do đảng đề ra. c. Tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế : Chúng ta cần phải phân biệt tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế. Tiền lương danh nghĩa là khoản tiền lương nhận được bằng tiền. Tiền lương thực tế là khoản tư liệu sinh hoạt mà người lao động nhận được khi dùng tiền lương để mua sắm tư liệu sinh hoạt phục vụ cho đời sống của bản thân và gia đình. Mối quan hệ giữa tiền lương thực tế với tiền lương danh nghĩa và giá cả hàng hoá ở công thức sau : Chỉ số tiền lương thực tế = Chỉ số tiền lương danh nghĩa /chỉ số giá cả tiêu dùng Vì vậy, tiền lương thực tế phụ thuộc vào quy mô của tiền lương danh nghĩa, mức giá cả của các vật phẩm tiêu dùng của nhân dân. Tiền lương danh nhĩa càng cao và giá cả vật phẩm tiêu dùng càng thấp thì tiền lương thực tế càng cao và ngược lại. Điều cần chú ý là tiền lương thực tế chưa phải là toàn bộ thu nhập thực tế của công nhân viên chức mà họ còn có những khoản khác trích từ quỹ tiêu dùng xã hội đem lại. 1.1.3.2 Tiền công lao động trong các hợp tác xã nông nhiệp : Do đặc điểm của nền kinh tế nông nghiệp tập thể, trong các hợp tác xã nông nghiệp đã hình thành một hình thức đặc biệt trong việc trả công lao động. Trong hợp tác xã nông nghiệp, quỹ phân phối lao động được chia đều cho tổng số ngày công, mỗi xã viên được hưởng nhiều hay ít tuỳ theo số ngày công đã làm cho hợp tác xã. Vật phẩm tiêu dùng làm ra trong các hợp tác xã nông nghiệp là thuộc sỡ hữu tập thể của những người lao động trong hợp tác xã đó, nên các quỹ phân phối là do tổng thu nhập bằng tiền và hiện vật của hợp tác xã đó. Ngày công là thước đo mức hao phí lao động của xã viên. Ngày công được dùng để xác định phần được chia của mỗi xã viên trong quỹ phân phối cho lao động của hợp tác xã. Trong hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có nhiều loại công việc khác nhau, đòi hỏi trình độ thành thạo và mức độ hao phí khác nhau. Do đó, việc quy định các hình thức lao động cụ thể thành một đơn vị đo lường lao độnh thống nhất là một vấn đề cần thiết đối với hợp tác xã. Để làm việc này, cần tiến hành định mức, xếp bậc các công việc khác nhau trong hợp tác xã, cần căn cứ vào điều kiện lao động, yêu cầu kỹ thuật, tính chất công việc khác nhau mà quy định mức độ mỗi loại công việc khác nhau phải đạt trong một ngày công. Do đó, ngày công không phải là một ngày lao động. Tuỳ theo trình độ lao động và sự cố gắng của từng người mà trong một ngày công lao động có thể đạt ít hơn hay nhiều hơn ngày công. Việc trả công cho xã viên căn cứ vào số lượng ngày công đã dạt được trong một thời gian sản xuất nhất định ( thuờng là một vụ ). Nhưng khác với chế dộ tiền lương, giá trị ngày công trong hợp tác xã nông nghiệp không xác địng trước được, mà phải dựa vào thu hoạch thực tế sau mỗi vụ. Tuỳ theo tình hình thu hoạch của từng vụ và từng năm mà giá trị ngày công giữa các hợp tác xã và giữa các năm trong hợp tác xã có sự cao thấp khác nhau. Sản xuất nông nghiệp của hợp tác xã càng phát triển thì giá trị ngày công càng cao, đời sống của nông dân tập thể càng được cải thiện. Nhưng thu nhập và đời sông của nông dân tập thể không phải chỉ do ngày công. Mỗi hộ xã viên thường có ba nguồn thu nhập : thu nhập bằng ngày công, thu nhập từ kinh tế phụ gia đình và thu nhập từ phúc lợi công cộng do quỹ tiêu dùng của hợp tác xã đài thọ, trong đó nguồn thu nhập từ ngày công là quan trọng nhất. Trong thời kỳ đầu, nguồn thu nhập từ kinh tế phụ gia đình cũng rất quan trọng; và khi sản xuất hợp tác xã càng phát triển thì nguồn thu nhập về phúc lợi xã hội do nhà nước và hợp tác xã mang lại cho nông dân ngày càng quan trọng, ngày càng phát triển. Trả công theo chế độ ngày công đã xoá bỏ tình trạng bất bình đẳng lâu đời về kinh tế giữa nam và nữ, giữa trẻ và già; trong đó cách trả công hợp lý nhất trong điều kiện sản xuất còn thấp. Nhưng do phần trả công mà người xã viên hợp tác xã được lĩnh dưới hình thức hiện vật là chủ yếu và một phần bằng tiền. Đó là, do trình độ phát triển sản xuất chưa cao, kinh tế hàng hoá chưa phát triển. Nên trả công theo chế độ nagỳ công mang tính chất không ổn định, phần nào làm cho người xã viên không yên tâm và phấn khởi sản xuất. Do đó để đảm bảo tốt hơn nữa quan hệ làm chủ tập thể của công nhân và nông dân tập thể về kinh tế trên phạm vi toàn bộ xã hội, hình thức trả công trong hợp tác xã ngày càng phải nhích dần đến hình thức phân phối theo lao động trong khu vực kinh tế quốc doanh. Với đà phát triển của xã hội, của sản xuất, với trình độ làm chủ tập thể được nâng lên về mọi mặt trong hợp tác xã, với trình độ quản lý khá hơn như hiện nay chúng ta phải cố gắng thanh toán cho xã viên hoàn toàn bằng tiền. Nếu có thể thì thanh toán theo hình thức tiền lương. Trong hợp tác xã nông nghiệp, ngoài việc áp dụng hình thức trả công theo thời gian ( ngày công ) còn có hình thức trả công theo sản phẩm . Trả công theo sản phẩm dùng để trả cho số lượng sản phẩm sản xuất ra. Ngoài ra còn hình thức khoán, có hai loại khoán chủ yếu là : khoán việc và khoán sản phẩm. Tuỳ theo đặc điểm của từng loại cây trồng, vật nuôi , của các ngành nghề khác nhau trong hợp tác xã mà vận dụng hình thức này hoặc hình thức khác hoặc áp dụng đồng thời cả hai hình thức khoán để bổ xung cho nhau. Nhưng qua thực tế thì chúng ta thấy hình thức khoán sản phẩm là một hình thức khoán khoa học, hợp lý và tiên nhất cho từng đơn vị sản xuất và mỗi người lao động. Để hình thức khoán thực sự là động lực phát triển của sản xuất thì chúng ta phải xác định chính xác mức khoán và thưởng phạt công minh. Mức khoán chính xác là mức khoán vừa đảm bảo lợi ích của hợp tác xã và lợi ích của người lao động, vừa nâng cao thu nhập của xã viên bằng cách tăng sản lượng và tăng giá trị ngày công là chủ yếu đồng thời có thu nhập bổ xung bằng hình thức thưởng vượt mức khoán. 1.1.3.3 Lợi nhuận trong các xí nghiệp xã hội chủ nghĩa : Lợi nhuận là hính thức biểu hiện thu nhập thuần tuý của các xí nghiệp xã hội chủ nghĩa. Lợi nhuận dưới chủ nghĩa xã hội là một phần lao động thặng dư do những người lao động sản xuất sáng tạo ra cho xã hội và được sử dụng vào việc tích luỹmở rộng sản xuất để thoả mãn nhu cầu cần thiết theo quy định của nhà nước. Khối lượng lợi nhuận của xí nghiệp phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV008.doc
Tài liệu liên quan