Những biện pháp cơ bản đảm bảo vốn FDI & ODA cho phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005

Mở đầu Ngày nay, hội nhập quốc tế là một vấn đề cấp thiết, một vấn đề sống còn đối với các quốc gia trên thế giới. Nhiều vấn đề nảy sinh trên quy mô toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương. Xu hướng quốc tế hoá đang diễn ra nhanh chóng và sôi động trên mọi lĩnh vực của đời sống, trong đó phải kể đến lĩnh vực kinh tế. Nhiều quốc gia, bao gồm cả các nước phát triển và các nước đang phát triển, đã đạt được những thành tựu to lớn nhờ tham g

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Những biện pháp cơ bản đảm bảo vốn FDI & ODA cho phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ia tích cực vào tiến trình hội nhập dưới các hình thức: liên kết khu vực, liên minh thuế quan, khu vực mậu dịch tự do, liên minh tiền tệ,... Trong đó, nhóm các nước NICs được biết đến như là một minh chứng cho sự vươn lên mạnh mẽ của các quốc gia vốn chỉ có một nền kinh tế nhỏ bé, lạc hậu cách đây vài thập kỷ. Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất thế giới với thu nhập bình quân đầu người 1755 USD/người(tính theo PPP-1999). Chúng ta đã tiến hành cải cách kinh tế khá chậm so với các nước trong khu vực cũng như một số nước có cùng trình độ trên thế giới. Mặc dù vậy chúng ta luôn luôn cố gắng bắt kịp xu thế thời đại. Đảng và Nhà nước đã xác định Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế chung của thế giới. Chúng ta phải nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, chủ động hội nhập quốc tế để phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới. Đặc biệt, nước ta lại nằm trong một khu vực được đánh giá là năng động nhất trên thế giới hiện nay. Để tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, chúng ta cần phải có nguồn vốn đủ lớn cho đầu tư phát triển. Vì vốn đầu tư là yếu tố không thể thiếu được trong quá trình phát triển của bất kỳ quốc gia nào, nhất là với những nước đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vốn đầu tư có thể được huy động ở trong nước hay từ nước ngoài. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, mặc dù vốn đầu tư trong nước luôn luôn giữ vai trò quyết định nhưng nguồn vốn từ nước ngoài ngày càng trở nên phổ biến và có vai trò không nhỏ. Trong đó FDI và ODA là hai nguồn vốn đầu tư nước ngoài đáng kể nhất. Trên đây là lý do em đã chọn đề tài “Những biện pháp cơ bản đảm bảo vốn FDI và ODA cho phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005” cho đề án môn học Kinh tế phát triển. Đề án này được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn TS. Phạm Ngọc Linh, giảng viên Khoa Kế hoạch và Phát triển - trường Đại học Kinh tế quốc dân. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I Một số lý luận chung về FDI và ODA I. Về nguồn vốn FDI. 1. Khái niệm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài là dạng đầu tư trực tiếp do nguồn vốn từ bên ngoài mà chủ thể của nó là tư nhân, nhà nước hay các tổ chức quốc tế (phổ biến nhất là các công ty, tập đoàn nước ngoài). Được phép của nước chủ nhà, các chủ thể này đầu tư xây dựng các cơ sở, chi nhánh tại nước đó và làm chủ toàn bộ hay từng phần các cơ sở tuỳ theo hình thức đầu tư. FDI có nhiều hình thức tổ chức khác nhau, những hình thức đầu tư phổ biến là: Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng. Doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tuỳ theo luật đầu tư của mỗi nước. Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý. Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định. FDI được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động, có thể là mua cổ phiếu để thôn tính hay sáp nhập các doanh nghiệp với nhau. 2. Tầm quan trọng của FDI. Vốn FDI đóng một vai trò vô cùng to lớn trong đời sống kinh tế quốc tế. Nó tác động tích cực tới cả nước đầu tư và nước nhận đầu tư. Đối với nước xuất khẩu vốn đầu tư: Có khả năng trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Do vậy, vốn đầu tư được sử dụng với hiệu quả cao. Giúp các chủ đầu tư nước ngoài chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu của nước sở tại. Giúp các chủ đầu tư giảm chi phí và nâng cao năng suất lao động do khai thác được nguồn nhân công với giá rẻ. Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước sở tại do xây dựng được các doanh nghiệp nằm ngay trong lòng các nước sở tại. Đối với nước nhận vốn đầu tư: FDI bổ sung nguồn vốn cho nước chủ nhà giúp bù đắp sự thiếu hụt của nguồn vốn trong nước, mở rộng tích luỹ và góp phần vào việc nâng cao tốc độ phát triển kinh tế. Hầu hết các nước, nhất là các nước đang phát triển đều có nhu cầu về vốn để thực hiện công nghiệp hoá. Thực tế cho thấy nhiều nước đang phát triển nhờ có FDI nên đã giải quyết được một phần khó khăn về vốn và đã thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá đất nước. Thông qua FDI các công ty đã chuyển giao kỹ thuật công nghệ sang các nước chủ nhà. Nhờ sự chuyển giao này mà các nước chủ nhà có thể thu được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh và năng lực marketing, đội ngũ lao động được đào tạo và bồi dưỡng về nhiều mặt. Do tác động của vốn, của khoa học công nghệ hiện đại, FDI sẽ tác động mạnh mẽ đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu lao động, cơ cấu kỹ thuật, cơ cấu sản phẩm sẽ được biến đổi theo chiều hướng tiến bộ. Nhờ có kỹ thuật và công nghệ hiện đại mà các nước chủ nhà có điều kiện khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên. FDI là một trong những hình thức hợp tác đầu tư quốc tế. Thông qua FDI, các nước chủ nhà sẽ có thêm điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Mặc dù có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, nguồn FDI không phải là không có những tác động tiêu cực. Nó chỉ có thể phát huy tác dụng tốt trong môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định, đặc biệt là nhà nước biết sử dụng và phát huy vai trò quản lý của mình. Cụ thể một số mặt hạn chế mà nguồn FDI đem lại như sau: Nguồn vốn FDI đầu tư cho nước chủ nhà song trên thực tế do chủ đầu tư quản lý trực tiếp và sử dụng theo những mục tiêu cụ thể của mình. Do vậy, nước sở tại khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ. Nếu nước sở tại không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học, dễ dẫn đến đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng. Do trình độ nước sở tại còn kém nên nhiều nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài đã lợi dụng những sơ hở trong luật pháp và trong quản lý của nước đó để lách luật, trốn thuế, tránh thuế gây tổn thất đến lợi ích của nước chủ nhà. Trong chuyển giao công nghệ nếu không làm tốt công tác thẩm định sẽ dẫn đến những hiện tượng tiêu cực như chuyển giao nhỏ giọt, từng phần, chuyển giao những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường,... Song song với hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài đôi khi còn kèm theo những hoạt động tình báo, gây rối an ninh, chính trị,... II. Tổng quan về nguồn vốn ODA. 1. Khái niệm. Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance - ODA) là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi (cho vay dài hạn, lãi suất thấp,...) của các Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, các tổ chức phi Chính phủ (NGO), các tổ chức tài chính quốc tế (như WB, IMF, ADB,...), gọi chung là các đối tác viện trợ nước ngoài, dành cho Chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ. Hỗ trợ phát triển chính thức có thể ràng buộc (phải chi tiêu ở nước cấp viện trợ) hoặc không ràng buộc (có thể chi tiêu ở bất cứ đâu) hoặc có thể ràng buộc một phần (một phần chi ở nước cấp viện trợ, phần còn lại chi ở bất kỳ nơi nào). Các hình thức của ODA : Hỗ trợ cán cân thanh toán, tức là viện trợ tài chính trực tiếp dưới hình thức hiện vật hay hỗ trợ nhập khẩu hoặc có thể là tiền mặt. Ngoại tệ hoặc hàng hoá chuyển vào trong nước qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán có thể được chuyển hoá thành hỗ trợ ngân sách. Điều này xảy ra khi hàng hoá nhập vào nhờ hình thức này được bán ra trên thị trường trong nước, và số thu nhập bằng bản tệ được đưa vào ngân sách của Chính phủ. Tín dụng thương mại với các điều kiện ưu đãi, trên thực tế là một dạng viện trợ hàng hoá có ràng buộc. Hỗ trợ các chương trình (còn gọi là hỗ trợ phi dự án): là viện trợ khi đạt được một Hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định, mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào. Hỗ trợ dự án là hình thức chủ yếu của hỗ trợ phát triển chính thức, nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật hoặc cả hai. Các dự án phải được chuẩn bị chi tiết trước khi thực hiện: Hỗ trợ cơ bản chủ yếu để xây dựng cơ sở hạ tầng: đường xá, cầu cống, bệnh viện, trường học, mạng lưới thông tin liên lạc,... Thông thường các dự án này có kèm theo một bộ phận của viện trợ kỹ thuật dưới dạng thuê chuyên gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó, hoặc để soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho các đối tác viện trợ. Hỗ trợ kỹ thuật thường chủ yếu tập trung vào chuyển giao tri thức hoặc tăng cường cơ sở lập kế hoạch, cố vấn, nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu trước khi đầu tư. Đứng dưới góc độ vay-trả, ODA được phân chia thành những hình thức sau: Viện trợ không hoàn lại. Viện trợ hỗn hợp: gồm một phần cấp không, phần còn lại thực hiện theo hình thức vay tín dụng (có thể ưu đãi hoặc không ưu đãi). Viện trợ có hoàn lại: thực chất là vay tín dụng với điều kiện ưu đãi. 2. Vai trò của ODA trong phát triển kinh tế. Cũng như FDI, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức đem lại những lợi ích to lớn cho các nước nhận viện trợ. Cụ thể vai trò của nó thể hiện ở những điểm sau: Bổ sung vào nguồn lực khan hiếm trong nước, giúp giảm khó khăn về ngoại hối hay tiền tiết kiệm. Điều này được làm rõ hơn thông qua mô hình “hai khoảng trống”: Hầu hết các nước đang phát triển đều vấp phải tình trạng thiếu tiền tiết kiệm trong nước để đáp ứng các cơ hội đầu tư hoặc thiếu ngoại hối để trả cho nhập khẩu hàng thiết bị sản xuất và hàng trung gian cần thiết. Trong mô hình “hai khoảng trống”, người ta giả định rằng khoảng trống tiền tiết kiệm và khoảng trống ngoại hối không giống nhau về mức độ và chúng không phụ thuộc lẫn nhau (tức là không có sự thay thế nhau giữa tiền tiết kiệm và ngoại hối). Có những quốc gia khoảng trống này chiếm ưu thế, trong khi đó ở những quốc gia khác khoảng trống kia lại chiếm ưu thế. Đối với những quốc gia có khoảng trống tiết kiệm chiếm ưu thế, nguồn lực cho sản xuất trong nước không đủ để tiến hành các dự án đầu tư, trong khi ngoại hối lại dư thừa. Tuy nhiên, hầu hết các nước đang phát triển đều nằm ở khoảng trống ngoại hối. Những nước này có nguồn lực sản xuất dư thừa (chủ yếu là lao động) và toàn bộ ngoại hối được dùng để thanh toán hàng nhập khẩu. Bởi vậy, với nguồn lực sẵn có các quốc gia này sẽ có thể thực hiện được các dự án đầu tư với sự trợ giúp của các nguồn tài chính bên ngoài. Thực hiện các chương trình đầu tư quốc gia, đặc biệt là các dự án cải tạo, nâng cấp, hiện đại hoá kết cấu hạ tầng kinh tế (năng lượng, giao thông vận tải, thuỷ lợi, nông-lâm nghiệp, thông tin liên lạc) để làm nền tảng vững chắc cho ổn định và tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy đầu tư của tư nhân trong và ngoài nước. Cải thiện cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm: chất lượng giáo dục, y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình, môi trường sinh thái, dinh dưỡng, các vấn đề về xoá đói giảm nghèo, phát triển nông thôn, miền núi, cấp nước sinh hoạt,... Kèm theo các nguồn vốn là sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật. Để đảm bảo tiền viện trợ được sử dụng đạt hiệu quả cao nhất, các nước cấp viện trợ còn chuyển giao nguồn nhân lực có trình độ cao sang các nước tiếp nhận nhằm tư vấn, hỗ trợ trong việc sử dụng vốn. Thực hiện các chương trình nghiên cứu tổng hợp nhằm hỗ trợ cho chính phủ sở tại hoạch định chính sách, hay cung cấp thông tin cho đầu tư tư nhân bằng các hoạt động điều tra khảo sát, đánh giá tài nguyên, hiện trạng kinh tế-kỹ thuật, xã hội, các ngành, các vùng lãnh thổ. Bên cạnh những yếu tố tích cực, nguồn vốn ODA cũng hàm chứa trong nó những vấn đề mang sắc thái kinh tế chính trị tiêu cực xuất phát từ bên cấp vốn áp đặt, hoặc từ những tác động khách quan, khó khăn của môi trường kinh tế thế giới hay chủ quan thuộc về bên nhận viện trợ. Mặt trái của nguồn vốn ODA gồm những điều căn bản sau: Nước nhận viện trợ phải đáp ứng các yêu cầu của bên cấp viện trợ. Thông thường những nước cấp viện trợ cả song phương lẫn đa phương đều sử dụng viện trợ như là một công cụ để buộc các nước đang phát triển phải thay đổi chính sách kinh tế xã hội, đối ngoại cho phù hợp với mục đích, lợi ích của bên cấp viện trợ. Cho đến nay, mặc dù bối cảnh quốc tế đã có nhiều thay đổi và số lượng các quốc gia cấp vốn chủ yếu cũng đã tăng lên, song các mục tiêu và lợi ích mà những nước cấp vốn theo đuổi dường như không thay đổi: an ninh cho hệ thống Tư bản chủ nghĩa, tuyên truyền dân chủ kiểu phương Tây, trói buộc sự phát triển của các nước thuộc thế giới thứ ba vào trong một trật tự do các trung tâm tư bản sắp đặt, khuyến khích tự do hoá kinh tế để mở đường cho tư bản quốc tế tràn vào. Sự phân biệt đối xử trong việc cấp vốn ODA. Như trên đã nói, chỉ những nước nào thoả mãn được những điều kiện do bên cấp viện trợ đưa ra mới nhận được sự tài trợ từ nguồn ODA. Do đó, các quốc gia hoặc khước từ các kiều kiện rằng buộc, hoặc có thể chế chính trị coi là thù địch thì sẽ bị nằm ngoài diện được cấp ODA. Sự phân biệt có chủ định này đã tạo nên tình trạng không đồng đều trong việc phân bổ nguồn ODA giữa các quốc gia đang phát triển và giữa các khu vực khác trên thế giới. Rủi ro do đồng tiền viện trợ tăng giá. Tác động tiêu cực này thường xảy ra đối với viện trợ song phương khi đơn vị tiền tệ của nước cấp viện trợ khác với đơn vị tiền tệ của nước nhận viện trợ tạo ra qua hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Nếu đồng tiền viện trợ tăng giá so với đồng tiền thu được từ xuất khẩu (hình thành nguồn trả nợ), nước nhận viện trợ sẽ phải trả thêm một khoản nợ bổ xung phát sinh do chênh lệch tỷ giá ở thời điểm vay và thời điểm trả nợ. Nhiều nước Châu á như Indonexia, Malaixia... vay những khoản tiền lớn thông qua hình thức ODA hay vay thương mại từ Nhật Bản, trong mấy năm trở lại đây đã phải chịu đựng hiện tượng đồng Yên tăng giá mạnh so với đồng USD và tác động tiêu cực này đã làm cho nghĩa vụ trả nợ càng thêm nặng nề. 3. Vai trò của nguồn vốn ODA trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài - kinh nghiệm từ các nước Đông Nam á. Những phân tích trên đây cho ta thấy được tầm quan trọng của nguồn vốn ODA đối với các nước đang phát triển. Cùng với FDI nó tạo nên những đóng góp tích cực trong quá trình phát triển kinh tế. Để hiểu rõ hơn vấn đề này ta cần xem xét mối tương quan giữa vốn ODA và FDI. Trong chiến lược phát triển kinh tế, điều cơ bản đối với nguồn vốn nước ngoài là cải tạo căn bản hệ thống hạ tầng kinh tế bằng nguồn vốn ODA, tạo cơ sở gia tăng nhanh nguồn FDI - nguồn vốn giúp đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và cho ngân sách, kích thích tăng trưởng, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu, mở rộng nguồn tích luỹ nội địa. Nền kinh tế có mức tăng trưởng lớn lại tác động đến việc khai thông nguồn ODA. Bởi vậy cần phải cân đối về khối lượng và cơ cấu giữa hai nguồn vốn này. Việc thiếu hụt bất cứ nguồn vốn nào cũng đều ảnh hưởng đến quá trình thu hút nguồn vốn còn lại và tác động không tốt đến quá trình tăng trưởng kinh tế. Điều này đã được chứng minh qua thực tế phát triển của các nước Đông Nam á. Sau chiến tranh thế giới thứ II các nước Đông Nam á đều thiếu vốn để phát triển. Trong tình hình đó một số nước đã tranh thủ nguồn viện trợ Mỹ, Nhật Bản, EU để nhanh chóng vươn lên trở thành các nước công nghiệp phát triển như các nước NICs, và một số nước trong khối ASEAN. Nguồn vốn ODA của Mỹ, Nhật Bản và một số nước khác chủ yếu được đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng của các nước Đông Nam á. Có thể nhận thấy tác dụng của nguồn vốn này ở chỗ cơ sở hạ tầng của các nước Đông Nam á đã được cải thiện rõ rệt như Singapo, Thái Lan, Malaixia, Indonexia... Nhờ cơ sở hạ tầng phát triển mà các nước này có được những điều kiện thuận lợi trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. ở một số nước, điển hình là Philipin do sử dụng không có hiệu quả vốn ODA của nước ngoài nên cơ sở hạ tầng chưa phát triển như thiếu điện, thông tin liên lạc còn kém... Vì thế nước ngoài đánh giá Philipin là nơi có môi trường đầu tư kém và họ đầu tư rất ít vào nước này. Tình trạng cơ sở hạ tầng thấp kém còn có ở Lào, Việt Nam, Campuchia, Mianma. Có thời kỳ những nước này không tranh thủ được vốn ODA của nước ngoài, cũng có thời kỳ thu hút được ODA nhưng sử dụng không có hiệu quả. Do đó những nước này đã không tranh thủ được đáng kể nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên hơn một thập kỷ qua, các nước này lần lượt thực hiện chính sách mở cửa nên đã khởi sắc trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Điển hình là Philipin và Việt Nam đã vừa tranh thủ vốn trong nước và vốn ODA tích cực nâng cấp cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tóm lại, hai nguồn vốn này phải có một mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau và theo một tỷ lệ tối ưu. Nếu chúng ta không vay được vốn ODA đủ mức cần thiết để hiện đại hoá cơ sở hạ tầng-xã hội thì khó có thể thu hút và “hấp thụ” một cách có hiệu quả nguồn vốn FDI. Ngược lại nếu chỉ tập trung tìm kiếm các nguồn ODA, mà không thu hút các nguồn vốn FDI thì sẽ không đủ thu nhập để chính phủ trả nợ ODA. III. Sự cần thiết huy động vốn FDI và ODA ở Việt Nam. Đối với nước ta, nhu cầu về vốn để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá là rất lớn. Mặc dù hơn 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta khá cao (bình quân 6%/năm), lại không bị tác động mạnh bởi cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực như các nước khác, nền kinh tế đã có những bước phát triển vượt bậc, nhưng hiện tại ta vẫn là nước bị tụt hậu khá xa so với các nước phát triển cũng như so với nhiều nước đang phát triển trong khu vực. Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, thu nhập bình quân đầu người thấp, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội yếu kém, tích luỹ nội bộ nền kinh tế thấp, cơ cấu kinh tế lạc hậu, về cơ bản vẫn là một nước nông-công nghiệp với gần 80% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Từ lý thuyết mô hình hai khoảng trống đem áp dụng vào nước ta thì thấy chúng ta thiếu ngoại hối một cách trầm trọng (luôn trong tình trạng nhập siêu). Về tiết kiệm, mặc dù ta có một nguồn lực dồi dào song lại không có điều kiện sử dụng nguồn lực ấy vì thiếu vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị máy móc, áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến,... Nguồn vốn trong nước chỉ có thể đáp ứng được 2/3 nhu cầu vốn cho phát triển, còn lại ta phải huy động từ các nguồn ở bên ngoài. Trong đó ODA và FDI là hai nguồn vốn quan trọng hàng đầu. Đảng ta đã xác định Việt Nam trong quá trình trở thành một nước công nghiệp phải có những bước đi tuần tự hợp với quy luật phát triển, đồng thời tranh thủ thời cơ thuận lợi “đi tắt, đón đầu” trong những ngành, lĩnh vực cho phép nhằm bắt kịp xu thế của thời đại. Một trong những thời cơ đó là việc tận dụng những lợi thế của hai nguồn vốn ODA và FDI. Chúng không chỉ giúp ta thoả mãn nhu cầu về vốn đầu tư mà kèm theo đó còn là sự du nhập của khoa học công nghệ hiện đại, của trình độ quản lý tiên tiến, của những đỉnh cao tri thức nhân loại. Chương II Thực trạng vốn FDI và ODA tại Việt Nam trong những năm vừa qua I. Tình hình huy động vốn nước ngoài. 1. FDI trong phát triển kinh tế Việt Nam. a) Tình hình chung. Đại hội IX của Đảng đã nêu ra một thành phần kinh tế mới, đó là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đảng chủ trương tạo mọi điều kiện để thành phần kinh tế này “phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm”.* Trích: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb chính trị quốc gia-tr 99. Lý do đưa ra nhận định quan trọng này chính là sự phát triển mạnh mẽ của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta trong thời gian vừa qua. Môi trường đầu tư không ngừng được cải thiện khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu chú ý nhiều đến Việt Nam. Những lợi thế mà chúng ta có được là một môi trường kinh tế xã hội ổn định; nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú; nguồn lao động dồi dào với cơ cấu trẻ, năng động; một thị trường tiêu thụ tiềm năng lớn với dân số lên đến con số 80 triệu; môi trường kinh tế vĩ mô không ngừng được cải thiện tạo sự ổn định, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, môi trường pháp lý là yếu tố giành được nhiều sự quan tâm nhất trong giai đoạn vừa qua. Nhà nước ta đã ban hành luật đầu tư nước ngoài từ năm 1987. Qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung, đến năm 1996 một cuộc cải cách của bộ luật này đã đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài những điều khoản cũ, Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 còn ban hành một số điều khoản mới hoàn toàn với chủ trương đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, có tính pháp lý cao. Cùng với Luật, một loạt các văn bản hướng dẫn được ban hành giúp các nhà đầu tư trong và ngoài nước nắm bắt được nội dung, tư tưởng của Luật. Một số điểm chính của Luật tạo sức hút mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư: Người nước ngoài dù ở bất cứ quốc gia nào, có tư cách pháp nhân đều có thể đầu tư vào Việt Nam. Về phía Việt Nam, mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia vào quan hệ đầu tư nước ngoài, ngoài ra còn có các chủ thể mới như bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu. Các hình thức đầu tư gồm: Doanh nghiệp liên doanh, Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được toàn quyền quyết định phương hướng, chiến lược sản xuất kinh doanh, hoạt động độc lập, tự chủ trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể mở rộng chi nhánh ở ngoài các tỉnh, thành phố trực thuộc TW, nơi mà các doanh nghiệp đăng ký đặt trụ sở. Những doanh nghiệp này được phép mở tài khoản ở nước ngoài. Trước đây việc mở tài khoản chỉ được phép thực hiện tại các ngân hàng ở Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn ưu đãi sẽ được giảm thuế suất thuế lợi tức 10, 15, 20%, được miễn giảm 50% thuế lợi tức với thời gian tối đa tới 8 năm. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được tự do tuyển dụng lao động nhưng phải ưu tiên người Việt Nam. Các chính sách có tính chất ưu đãi thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh Luật đầu tư nước ngoài còn có một loạt các nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, luật thuế,... tựu trung đều có tư tưởng tạo dựng môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Nội dung tập trung chủ yếu vào các điểm sau: Đơn giản hoá thủ tục cấp phép, rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư, đổi mới việc cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài, thủ tục xuất nhập cảnh, thủ tục hải quan,... Giảm bớt chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp, từng bước thực hiện chính sách một giá như giá dịch vụ cung cấp nước, điện, lắp đặt điện thoại,... Ban hành các chính sách thuế có tính chất ưu đãi như thuế đất, thuế thu nhập, hoàn vốn đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; giảm và bỏ bớt một số loại phí. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 150 nước, quan hệ đầu tư với gần 70 nước trên thế giới. Từ chỗ có vai trò không đáng kể trong nền kinh tế Việt Nam, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã có vai trò quan trọng và phát triển năng động, đóng góp gần 1/4 vốn đầu tư toàn xã hội, trên 35% tổng giá trị sản lượng công nghiệp, hơn 25% giá trị xuất khẩu của cả nước, thu hút trên 400 000 lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp. Chưa bao giờ hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam lại được tiến hành một cách sôi động như trong thời gian qua. Cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 1996-2000 như sau: * Nguồn: Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu nghị quyết ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Cụ thể vốn FDI của các năm là 22700 tỷ đồng vào năm 1996, năm 1997 là 30300 tỷ, 1998 là 24300 tỷ, 1999 là 18900 tỷ, năm 2000(sơ bộ) là 22400 tỷ (số liệu thống kê mới nhất cho biết vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 2000 đạt khoảng 30180 tỷ đồng).** Thời bào tài chính Việt Nam. Số 44(785), ngày 12-4-2002. * Như vậy, do chính sách mở cửa còn nhiều hạn chế nên FDI có chiều hướng giảm trong năm 1998 và 1999. Chỉ sau khi Chính phủ thực hiện việc tháo gỡ những ràng buộc áp đặt cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ban hành những chính sách ưu đãi, vốn FDI mới có dấu hiệu hồi phục vào năm 2000. Sự hồi phục bước đầu là rất khả quan, cho thấy một dấu hiệu nguồn vốn FDI sẽ tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian tới. Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam dưới 3 hình thức chủ yếu: Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (chiếm khoảng 30% tổng số dự án), doanh nghiệp liên doanh (chiếm gần 60%), hợp đồng hợp tác kinh doanh (chiếm 10%). Ngoài ra còn có các hình thức BOT, BT, BTO. So với các nước khác trong khu vực như Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Trung Quốc, Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam hấp dẫn hơn vì nó cho phép sở hữu 100% vốn nước ngoài trong nhiều khu vực kinh tế. Hơn nữa, luật này còn bảo vệ các nhà đầu tư khỏi sự chiếm đoạt và quốc hữu hoá tài sản, cho phép các nhà đầu tư chuyển vốn và lợi nhuận về nước một cách dễ dàng, tỷ lệ vốn của phía nước ngoài trong liên doanh không cứng nhắc và có nhiều ưu đãi về thuế. Thêm vào đó, sự khác biệt giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước đã và đang từng bước được xoá bỏ. Bởi vậy trong thời gian gần đây các nhà đầu tư nước ngoài có xu thế xin thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhiều hơn trước. Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài đã cảm thấy yên tâm và tự tin hơn khi đầu tư độc lập vào Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo hình thức đầu tư 1988-30/6/2001. Hình thức đầu tư Số dự án còn hiệu lực Vốn đầu tư đăng ký (triệu USD) Vốn đầu tư thực hiện (triệu USD) Tỷ trọng (%) Liên doanh 1042 21192 9942 57,91 100% vốn nước ngoài 1560 11193 5176 30,58 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 130 3796 2648 10,37 BOT 4 415 37 1,14 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư. Giai đoạn 1996-2000 Việt Nam có quan hệ đầu tư với hơn 60 nước, chủ yếu là các quốc gia Châu á. Lượng vốn đầu tư của các quốc gia này chiếm tới 70% tổng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong đó các nước ASEAN chiếm khoảng 21%. Những quốc gia đứng đầu trong đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông. So với một số nước trong khu vực như Campuchia, Lào, Myanmar nước ta có sức hút đầu tư nước ngoài mạnh hơn do có quy định cả hình thức đầu tư Hợp đồng hợp tác kinh doanh(BCC) và các hình thức BOT, BT, BTO. Điều này cho phép các nhà đầu tư có nhiều sự lựa chọn hơn. Để hiểu rõ hơn tình hình hoạt động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, ta xem xét các số liệu sau: Số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép. Năm Số dự án Vốn đăng ký (triệu USD) Tổng số Trong đó vốn pháp định 1996 345 4649,1 2334,4 1997 275 3897 1805,6 1998 311 1568 693,3 1999 354 1985,2 1513,7 Vốn đầu tư thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Năm Tổng số(triệu USD) Chia ra Vốn từ nước ngoài Vốn của Việt Nam 1996 2837 2447 390 1997 3032 2768 264 1998 2189 2062 127 1999 2153 1945 208 Nguồn: Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Tr 101. b) Những đóng góp của FDI vào quá trình phát triển kinh tế. Tuy không ổn định trong thời gian qua do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực, nhưng hoạt động đầu tư nước ngoài vẫn đem lại những hiệu quả nhất định. Về tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu. Tỷ trọng của khu vực đầu tư nước ngoài trong GDP tăng từ 6,4% năm 1994 lên 8,6% năm 1997 và xấp xỉ 9,2% năm 1998. Tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường từ 15-20%, cao hơn tốc độ tăng trưởng công nghiệp. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 52 triệu USD năm 1991 lên 1990 triệu USD năm 1998, xấp xỉ 40 lần. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thường cao hơn nhiều lần tốc độ tăng trung bình chung của cả nước. Về lao động. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã thu hút trên 400.000 lao động vào làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất,... và góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng chục vạn lao động gián tiếp khác, giảm bớt được áp lực của vấn đề thất nghiệp hiện đang nổi cộm, cơ cấu lại nguồn lao động theo hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động công nghiệp và dịch vụ. Ngoài ra, người lao động làm việc trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài còn có cơ hội được đào tạo nâng cao trình độ, tay nghề. Về công nghệ kỹ thuật. Nhiều công nghệ kỹ thuật tiên tiến đã được chuyển giao và đưa vào hoạt động thông qua các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Trong đó thể hiện rõ nhất là các thiết bị và kỹ thuật trong ngành bưu chính viễn thông, công nghệ lắp ráp và chế tạo ô tô, kỹ thuật điện tử, tin học, công nghệ thăm dò khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp hoá chất. Các ngành nghề, lĩnh vực được đầu tư công nghệ hiện đại hoạt động với năng suất cao, góp phần vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Cùng với công nghệ kỹ thuật mới được du nhập vào nước ta, hoạt động chuyển giao phương thức quản lý hiện đại, trình độ cao cũng được tiến hành. Vì thế năng lực và trình độ của cán bộ quản lý Việt Nam được nâng lên đáng kể. Về tình hình thu nộp Ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn từ 1988 đến 1998, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã đóng góp cho ngân sách Nhà nước khoảng 64.852 tỷ đồng, chiếm 19% tổng số thu về thuế và phí của ngân sách Nhà nước, cụ thể như sau: Thu từ lĩnh vực dầu khí: số thu nộp ngân sách từ lĩnh vực dầu khí chiếm tới 70,6% số thu của cả khu vực FDI, đạt 45.780 tỷ đồng (số liệu của giai đoạn 1998 trở về trước), trong đó 35,7% là thuế tài nguyên, 33,7% là thuế lợi tức, 1,1% thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, 29,5% là lãi bên Việt Nam được chia nộp ngân sách. Thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác: Số thu từ các doanh nghiệp này tăng với tốc độ 1995 - 85%, 1996 - 42%, 1997 – 46%, 1998 – 7,9%. Trong giai đoạn 1997-1998 mặc dù bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực nh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0213.doc
Tài liệu liên quan