BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-----------------------------------
Nguyễn Thị Thanh Thảo
NHU CẦU TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP CỦA
HỌC SINH LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỈNH KIÊN GIANG
Chuyên ngành : Tâm lý học
Mã số : 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRƯƠNG CÔNG THANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Nghề nghiệp là phương tiện để đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần của con người. Ng
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2435 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hề
nghiệp vững vàng sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Để thành công trong cuộc đời,
trong sự nghiệp, con người cần phải biết lựa chọn cho mình một nghề phù hợp nhất. Đặc biệt, nghề
nghiệp càng quan trọng đối với thế hệ trẻ, bởi họ chính là chủ nhân tương lai của đất nước. Nhân tố con
người luôn đóng một vai trò quyết định cho sự phát triển, vì vậy một xã hội hiện đại rất cần những con
người có nghề nghiệp chuyên môn vững vàng cho sự phát triển của đất nước.
Trong bối cảnh chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế, công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay,
để chọn được cho mình một công việc ổn định và phù hợp để sinh sống và phát triển là một việc không
dễ. Trên thực tế, hiện tượng có rất nhiều người phải thất nghiệp hay phải làm việc không đúng với
chuyên môn là khá phổ biến, họ thấy khó khăn trong việc đáp ứng những yêu cầu của nghề đặt ra,
không cảm thấy hứng thú và muốn gắn bó với nghề nghiệp mà mình đã chọn. Điều này đã gây nên sự
lãng phí nhân lực rất lớn và phân bố nhân lực không hợp lý.
Tư vấn hướng nghiệp được xem là một vấn đề nóng hiện nay, nhất là trong trường phổ thông.
Khi được định hướng đúng đắn về nghề, con người sẽ yên tâm với nghề mình đã lựa chọn, có thái độ
chủ động, tích cực học tập, rèn luyện để có thể hoạt động tốt lĩnh vực nghề nghiệp trong tương lai. Nếu
chọn được đúng nghề phù hợp, con người càng có nhiều cơ hội để thành đạt sau này. Nói cách khác, tư
vấn hướng nghiệp giúp cho thanh thiếu niên chọn nghề một cách có cơ sở, giúp họ có được nhận thức
đúng đắn hơn về nghề nghiệp, phát huy tối đa năng lực sáng tạo, nâng cao chất lượng cuộc sống, phù
hợp với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của xã hội, tránh
lãng phí về đào tạo và sử dụng lao động hợp lý, góp phần vào việc phát triển kinh tế, xã hội bền vững
của đất nước. Nhìn tổng quát về công tác tư vấn hướng nghiệp hiện nay thì vấn đề này còn nhiều nội
dung chưa được quan tâm hoặc chưa làm đến nơi đến chốn. Thường thì chỉ khi gần đến kỳ thi tuyển
sinh hàng năm, các trường đại học, cao đẳng và trung cấp mới kết hợp với các cơ quan truyền thông,
các tổ chức chính trị-xã hội để tổ chức đi tư vấn tuyển sinh ở các trường trung học phổ thông (THPT).
Điều này chỉ mới cung cấp được một số thông tin cơ bản về trường thi, khối thi, điểm chuẩn, nguyện
vọng…, chưa đủ cơ sở để giúp các em học sinh có những quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn
nghề nghiệp tương lai. Sự hiểu biết về nghề nghiệp mà các em chọn cũng như những yêu cầu của nghề
và sự đáp ứng yêu cầu của bản thân đối với nghề còn rất hạn chế. Điều này đã làm cho các em có
những suy nghĩ sai lệch trong việc định hướng nghề nghiệp tương lai. Chính vì vậy học sinh rất cần
được sự định hướng đúng, được tư vấn rõ ràng và đầy đủ trong việc hướng nghiệp.
Kiên Giang cũng nằm trong thực trạng chung đó; là một tỉnh vùng sâu ven biển thuộc Đồng
bằng sông Cửu Long, chính vì vậy việc tiếp cận thông tin nghề nghiệp cũng như các hoạt động tư vấn
hướng nghiệp dành cho học sinh rất khó khăn. Trong khi đó, nhu cầu cần được tư vấn của học sinh là
rất cao, các em luôn tìm đến thầy cô, các đoàn thể cũng như các tổ chức khác có liên quan để được giải
đáp mọi thắc mắc về nghề nghiệp mà các em sẽ chọn. Tuy nhiên, hiện tượng học sinh gặp nhiều khó
khăn trong việc chọn trường, chọn nghề luôn xảy ra; đa số các em đều có mong muốn được vào các
trường Đại học hoặc Cao đẳng để có một nghề nghiệp nhất định. Thế nhưng sự hiểu biết của các em về
nghề nghiệp mà các em chọn thì rất mơ hồ và hạn chế. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình
học tập và nghề nghiệp của các em sau này. Có những em theo đuổi ngành học của mình cho đến khi đi
thực tập thì mới phát hiện mình không thích hợp với nghề nghiệp đã chọn; sinh viên ra trường làm việc
trái với ngành nghề chuyên môn hoặc không thể xin được việc ngày càng nhiều. Tình hình trên có
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Do các em thiếu các thông tin cần thiết nên chọn nghề
chưa phù hợp với thị trường lao động, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Về mặt chủ quan, nhìn
chung, đa số học sinh có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp, nhưng nhu cầu này còn phiến diện, học sinh chỉ
mới quan tâm chủ yếu đến các nghề có thu nhập cao, chưa quan tâm tìm hiểu các khía cạnh khác như
năng lực, hứng thú cá nhân, những yêu cầu của nghề đối với người lao động, triển vọng phát triển của
nghề ở địa phương và nhu cầu nhân lực... Đây là những nội dung thật sự cần thiết nhưng học sinh chưa
ý thức được để có nhu cầu tư vấn. Mặt khác, trong thực tế hiện nay, các nhà trường phổ thông chỉ mới
dừng lại ở việc cung cấp thông tin tối thiểu về các ngành nghề tuyển sinh của các trường đại học, cao
đẳng, mà không hề quan tâm đến những yếu tố có liên quan khác. Một số trường có tổ chức cho học
sinh tham quan các trường đại học, hoặc các xí nghiệp, cơ sở sản xuất… nhưng hoạt động này không
nhiều, và cũng chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Do đó, khi học sinh muốn tìm hiểu thêm các vấn đề
khác có liên quan thì hầu như các nhà trường đều không đáp ứng được, hoặc chưa định hướng được
cho học sinh về những nội dung cần được tư vấn giúp các em ý thức được sự cần thiết và có nhu cầu
cần phải được tư vấn khi chọn nghề.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Nhu cầu tư vấn hướng
nghiệp của học sinh lớp 12 trung học phổ thông tỉnh Kiên Giang ”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Nêu lên được nhu cầu về những nội dung tư vấn hướng nghiệp và mức độ biểu hiện nhu cầu về
những nội dung này ở học sinh lớp 12 THPT. Đề xuất một số biện pháp giúp học sinh thấy được sự cần
thiết của tư vấn hướng nghiệp, định hướng, phát triển nhu cầu tư vấn hướng nghiệp ở học sinh khi
chọn nghề và thử nghiệm tổ chức các hoạt động tư vấn hướng nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu này của
học sinh.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU.
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT.
3.2 Khách thể nghiên cứu:
Học sinh lớp 12 THPT.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC.
Đa số học sinh lớp 12 THPT có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp, nhưng chưa xác định rõ ràng
những nội dung cần được tư vấn khi chọn nghề, dẫn đến sự sai lệch trong nhận thức về nghề, trong việc
chọn nghề và những hệ quả sau đó. Nếu có biện pháp làm thay đổi nhận thức sẽ giúp học sinh hiểu
được đầy đủ sự cần thiết phải được tư vấn, từ đó có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp rõ ràng và đầy đủ khi
chọn nghề tương lai.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
5.1 Nghiên cứu lý luận tâm lý học về nhu cầu và nhu cầu tư vấn hướng nghiệp, nhu cầu tư vấn
hướng nghiệp của học sinh lớp 12.
5.2 Nghiên cứu thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 hiện nay; mức độ
đáp ứng đối với nhu cầu này.
5.3 Đề xuất biện pháp tác động nhằm định hướng, phát triển nhu cầu tư vấn hướng nghiệp cho
học sinh; đề xuất biện pháp tổ chức hoạt động tư vấn hướng nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu này của học
sinh.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
6.1 Những cơ sở phương pháp luận nghiên cứu.
6.1.1 Quan điểm hoạt động.
Nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp dựa trên sự phân tích hoạt động sống, học tập của
học sinh trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.
6.1.2 Quan điểm hệ thống - cấu trúc.
Nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp một cách toàn diện nhiều mặt, trong nhiều mối quan
hệ với các hiện tượng tâm lý khác.
6.1.3 Quan điểm thực tiễn.
Nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp xuất phát từ thực tiễn, có ý nghĩa thực tiễn, và giúp
giải quyết được những vấn đề của thực tiễn đề ra.
6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể.
6.2.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Tham khảo các tài liệu lý luận tâm lý học, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài,
khái quát hoá, hệ thống hóa các vấn đề có liên quan để hình thành cơ sở lý luận của đề tài.
6.2.2 Phương pháp điều tra và thu thập thông tin bằng bảng hỏi.
Sử dụng các phiếu điều tra bao gồm một hệ thống câu hỏi với mục đích làm khách thể nghiên
cứu bộc lộ rõ mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp. Phiếu điều tra nhằm làm sáng tỏ thực
trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT và những nguyên nhân của thực trạng.
6.2.3 Phương pháp trò chuyện.
Là phương pháp bổ trợ cho phương pháp điều tra; thông qua phương pháp này nhằm thu thập
thêm thông tin để làm rõ thêm những nhận xét trong đề tài.
6.2.4 Phương pháp thực nghiệm: tư vấn cá nhân; tư vấn trực tiếp; tư vấn gián tiếp; tham quan
thực tế.
6.3 Phương pháp thống kê toán học:
Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 11.5 để xử lý số liệu thu được. Cách xử lý số liệu theo
phương pháp thống kê toán ứng dụng trong giáo dục học và tâm lý học.
7. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI.
7.1 Giới hạn về đối tượng : Mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp ở học sinh.
7.2 Giới hạn về khách thể : Học sinh lớp 12 THPT.
7.3 Giới hạn về địa bàn : Số liệu được thu thập trên 620 học sinh tại 7 trường THPT. Nguyễn
Trung Trực, THPT. Huỳnh Mẫn Đạt, THPT. Dân tộc Nội trú, THPT. Nguyễn Hùng Sơn, THPT. Hà
Tiên, THPT. Định An huyện Gò Quao, THPT. Châu Thành tỉnh Kiên Giang.
8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI.
8.1 Đưa ra được một thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT. tỉnh Kiên
Giang.
8.2 Cung cấp tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh
THPT. sống trong những điều kiện khó khăn ở vùng sâu, vùng xa; học sinh dân tộc ở Đồng bằng sông
Cửu Long.
8.3 Góp phần làm cơ sở cho việc tổ chức hoạt động tư vấn hướng nghiệp có hiệu quả.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Lược sử nghiên cứu vấn đề.
Tư vấn hướng nghiệp đang phát triển khá mạnh trong hệ thống giáo dục đương đại của thế giới
hiện nay, không chỉ là ở các nước phát triển như Pháp, Mỹ, Anh…. mà ở cả những nước đang phát
triển cũng rất quan tâm, trong đó có Việt Nam. Đây được xem như là một công cụ hữu hiệu mang tính
chiến lược nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục và tạo ra sự phù hợp giữa hoạt động trong nhà trường và
thị trường lao động ngoài xã hội để hướng tới việc tăng cường chức năng xã hội của các cơ sở giáo dục
trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh phát triển lành mạnh. Đồng thời, tư vấn hướng nghiệp được coi
là điều kiện không thể thiếu cho sự lựa chọn và phát triển đúng đắn nghề nghiệp của thế hệ trẻ.
1.1.1 Nghiên cứu ở nước ngoài
Hướng nghiệp xuất hiện đầu tiên ở Mỹ, bắt đầu từ năm 1850 đến 1940, gắn liền với những cá
nhân như Francis Galton, Wilheim Wundt, James Cattell, Alfred Binet, Frank Parsons, Robert Yerkes,
và E. K. Strong. Cuối những năm 1800, một hệ thống công nghiệp với quy mô lớn ra đời đã làm thay
đổi mạnh mẽ môi trường làm việc và điều kiện sống. Khu vực đô thị phát triển, cùng với tốc độ phát
triển và tập trung hoá công nghiệp đã thu hút rất nhiều người dân lao động từ các khu vực nông thôn.
Để đáp ứng được các yêu cầu của các nhà máy công nghiệp và điều kiện sống khắc nghiệt, chật chội
trong những khu nhà ổ chuột, một nhu cầu đổi mới đã xuất hiện, một vài nhà nghiên cứu bắt đầu quan
tâm đến hành vi con người, quan tâm đến các điều kiện sống và làm việc trong xã hội bị thay đổi bởi
cuộc cách mạng công nghiệp. Những điều kiện khách quan trên để phôi thai và cho ra đời một ngành
khoa học, ngành tham vấn nghề. [15]
Nước Mỹ có phòng tư vấn nghề đầu tiên trên thế giới do Frank Parsons thành lập vào năm
1908 ở Boston. Nhiệm vụ của phòng này là tư vấn cho thanh niên có nhu cầu tìm kiếm công ăn việc
làm và giúp cho họ chọn được những nghề phù hợp với năng lực, sở trường của mình, nói một cách
khác, họ giúp cho học sinh lựa chọn công việc một cách khôn ngoan, và thực hiện việc di chuyển tiếp
cận từ trường học đến công việc phù hợp.
Hiện nay, ở Mỹ đã kết hợp chặt chẽ việc tư vấn nghề với chương trình công nghệ và dạy nghề,
họ cũng đã đưa môn “Hướng dẫn chọn nghề” (Career Guidance) vào giảng dạy trong trường phổ
thông. Từ bậc trung học đến đại học đều có các cố vấn tâm lý làm việc trong trường. Công việc của họ
xuất phát từ nhu cầu lựa chọn một nghề phù hợp trong tương lai của học sinh, họ đưa ra lời khuyên cho
học sinh nên nộp đơn xin vào học trường đại học nào phù hợp với trình độ và năng khiếu học sinh.
Chương trình giáo dục THPT được cấu tạo mềm, gồm chương trình A và B. Từ khi vào học lớp 9,
người cố vấn đã chỉ cho học sinh nên học theo chương trình nào tuỳ theo nhu cầu, nguyện vọng của em
đó sau này muốn học lên đại học ngành gì hay sau khi học xong phổ thông sẽ đi làm.
Ở Pháp, năm 1948 đã xuất bản cuốn sách “Hướng dẫn chọn nghề” đề cập đến vấn đề hướng
nghiệp cho thanh niên. Để phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh, nhà trường Pháp đặt giáo dục
lao động, thủ công và nghề nghiệp bình đẳng với các loại hình hoạt động khác của nhà trường, đào tạo
“tiền nghề nghiệp” là cơ sở cho việc học tập liên tục về sau và chuẩn bị cho học sinh bước vào cuộc
sống lao động. Tháng 3/1991 các nhà tư vấn hướng nghiệp trở thành nhà tư vấn hướng nghiệp - tâm lý.
Các nhà tư vấn hướng nghiệp - tâm lý được phân về trường phổ thông và đại học là công chức nhà
nước. Toàn bộ khu vực chuyên môn do các nhà chuyên môn đảm nhiệm. Cùng với giáo viên và phụ
huynh học sinh theo thời điểm mong muốn, các nhà tư vấn hướng nghiệp tổ chức thường xuyên, liên
tục các kiểm tra hệ thống về sự phát hiện bằng các trắc nghiệm tâm lý, kiến thức để đưa ra các thông
tin xác đáng. Từ đó cho học sinh những lời khuyên nhằm tránh những thiên hướng sai lệch, hướng học
sinh vào con đường thành công đúng theo nhu cầu và nguyện vọng của học sinh.
Theo truyền thống, hệ thống trường phổ thông Đức quán triệt nguyên tắc hướng nghiệp để
chuẩn bị cho học sinh đi vào trường đào tạo nghề tuỳ theo trình độ học tập của mỗi em. Khi học sinh có
nhu cầu tìm hiểu nghề nghiệp mình muốn học thì giáo viên chủ nhiệm liên hệ với nhiều cơ sở hướng
nghiệp, với những trường dạy nghề để tư vấn cho học sinh.
Ở các nước trong khu vực Châu Á cũng có sự quan tâm đến vấn đề này. Tại trường trung học
phổ thông, dù là trường công lập hay tư thục thì ở các em bắt đầu xuất hiện nhu cầu tìm hiểu và lựa
chọn nghề nghiệp tương lai. Và việc định hướng tương lai cho học sinh đều bắt đầu từ năm lớp 10
thông qua giờ hoạt động câu lạc bộ hoặc hướng dẫn riêng cho từng em của giáo viên chủ nhiệm. Lớp
11 nhà trường mời các giảng viên ở bên ngoài như những sinh viên đã ra trường hay những lãnh đạo
các doanh nghiệp đến nói chuyện về kinh nghiệm bản thân hay hoạt động ở doanh nghiệp của họ. Lớp
12 nhà trường tổ chức cho học sinh đi tham quan để định hướng cho tương lai.
Ngoài các nội dung giáo dục bắt buộc trong chương trình dạy học, đa số các nước đều có môn
tự chọn tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh phát triển các xu hướng học lên (Academic) hoặc học một
nghề phù hợp với nhu cầu xã hội cũng như nhu cầu và điều kiện cụ thể của từng học sinh.[27]
Như vậy, việc điểm qua tình hình của một số nước trên thế giới cho ta thấy việc tư vấn hướng
nghiệp cho học sinh phổ thông là một xu thế tất yếu của thời đại. Vì vậy, hướng nghiệp đòi hỏi sự đánh
giá dựa trên kết hợp những tiêu chí về giáo dục và dự báo về nhân cách tương lai. Nhà trường cần phải
có những nhà tư vấn hướng nghiệp chuyên môn để giúp học sinh lựa chọn khoá học thích hợp với nhu
cầu, hứng thú, năng lực của học sinh (có tính đến nhu cầu của thị trường lao động), dự báo những khó
khăn trong học tập và giúp học sinh giải quyết những khó khăn đó.
1.1.2 Nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề hướng nghiệp của
học sinh THPT, trong đó có nhu cầu tư vấn hướng nghiệp.
Thực trạng công tác tư vấn hướng nghiệp được nhiều tác giả nghiên cứu như Nguyễn Viết Sự,
Hà Thị Đức, Lưu Xuân Mới... Các tác giả này đề cập đến vấn đề nội dung tư vấn hướng nghiệp còn
nghèo nàn, chưa thu hút và đáp ứng được nhu cầu cần tư vấn của học sinh THPT, những người làm
công tác tư vấn hướng nghiệp tuy nhận thức được rất rõ tầm quan trọng và sự cần thiết của công tác
này đối với học sinh nhưng họ lại thiếu thông tin và điều kiện cần thiết để làm tốt. Bên cạnh đó các tác
giả cũng nói đến các nhân tố có ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề của học sinh và họ cho rằng việc lựa
chọn nghề nghiệp phần lớn là do cá nhân học sinh quyết định (chiếm 46%), ít chịu sự tác động từ gia
đình và các giáo viên. [24]
Trong nghiên cứu của tác giả Lê khắc Thìn về vấn đề “Tìm hiểu thực trạng lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh lớp 12 và công tác hướng nghiệp ở trường THPT” cũng đã nhấn mạnh đến nguyện
vọng chọn nghề của học sinh. Do nước ta mở cửa phát triển kinh tế nhiều thành phần, hợp tác kinh tế
với nhiều nước trên thế giới, vì vậy các em có xu thế hướng vào các trường thuộc lĩnh vực kinh tế,
công nghệ tiên tiến. Như vậy, sự định hướng của học sinh vào các trường cũng phát triển theo xu thế
phát triển của xã hội. Tuy nhiên, có nhiều em chọn nghề theo rung cảm từ nhỏ, từ mẫu người lý tưởng,
có em chọn nghề theo sự vui thích của cá nhân, theo yêu cầu của cha mẹ... Do đó có thể có sự không
phù hợp giữa sở thích và nguyện vọng. Hầu hết các em đều cho rằng nghề các em thích là phù hợp sở
thích và khả năng của bản thân, hoặc yêu thích nghề vì phù hợp với nguyện vọng được xã hội coi trọng.
Có 7,38% học sinh cho biết là chưa hiểu rõ về nghề nên không biết thích cái gì. Bên cạnh đó, sự hiểu
biết của học sinh về nghề định chọn là rất ít, chưa sâu sắc, không rõ ràng, cụ thể. Những nguồn thông
tin quan trọng nhất (cha mẹ, thầy cô, các phương tiện thông tin đại chúng) để giúp cho các em có nhận
thức đúng đắn về nghề nghiệp thì chưa phát huy hết tác dụng. Vì vậy, biểu tượng về nghề nghiệp mà
học sinh định chọn không rõ ràng, phiến diện cũng là điều dễ hiểu. [31]
Tác giả Nguyễn Ngọc Minh trong công trình nghiên cứu “Nhận thức của giáo viên về tư vấn
hướng nghiệp trong nhà trường THPT” đã nêu lên được thực trạng tư vấn hướng nghiệp hiện nay trong
nhà trường THPT là hầu hết các trường THPT đều đặc cách các giáo viên kiêm nhiệm thêm công tác
này, cho nên quá trình chuẩn bị thông tin, kiến thức cho công tác tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường
của các giáo viên còn mang tính tự phát, chưa có hệ thống. Tác giả cũng nêu lên được thái độ của giáo
viên đối với vai trò của tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường: đa số các giáo viên đều nhận biết và
thông hiểu một cách thấu đáo và sâu sắc tầm quan trọng của công tác này, nhận biết được sự mong mỏi
của học sinh về một ban chuyên trách tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường để giúp các em lựa chọn
nghề nghiệp, trường thi khi các em ở những năm cuối cấp. Gần như 100% học sinh đều chọn ý kiến
mong muốn trong nhà trường có ban chuyên trách về tư vấn hướng nghiệp để giúp các em trong việc
chọn nghề.[24]
Tác giả Phạm Ngọc Anh và Đỗ Thị Hoà với công trình nghiên cứu “Nguyện vọng nghề của học
sinh phổ thông và các yếu tố ảnh hưởng đến nguyện vọng đó” - hầu hết học sinh THPT (89,4%) đều có
nguyện vọng học tiếp đại học, chỉ có một phần nhỏ các em là có nguyện vọng học nghề (4,7%) và các
yếu tố ảnh hưởng đến nguyện vọng học nghề chủ yếu phụ thuộc vào phẩm chất tâm lý, sự định hướng
của các em hoàn toàn mang tính chất chủ quan cảm tính.
Tác giả Nguyễn Ngọc Bích đã nghiên cứu động cơ chọn nghề của thanh niên học sinh, trong đó
động cơ bên trong nổi bật hơn động cơ bên ngoài. Nam thanh niên xếp động cơ chọn nghề theo thứ tự
sau:
- Khả năng của bản thân.
- Tính chất quan trọng của nghề nghiệp.
- Khả năng đáp ứng được yêu cầu của công việc.
Nữ thanh niên xếp động cơ chọn nghề theo thứ tự sau: do yêu cầu của Nhà nước, vị trí xã hội
của nghề nghiệp, thực hiện được khả năng của mình.
Theo tác giả thì sự lựa chọn ngành nghề của cả nam và nữ có sự khác nhau. Tác giả chỉ đưa ra
một số động cơ tiêu biểu có liên quan đến sự lựa chọn nghề của học sinh và đánh giá động cơ nào là
quan trọng với họ, nhưng chưa quan tâm đến vấn đề nhận thức nghề nghiệp.[5]
Trong các công trình nghiên cứu của mình về vấn đề hướng nghiệp, tác giả Phạm Tất Dong đã
xem xét một cách sâu sắc và có hệ thống về hứng thú nghề nghiệp cũng như những vấn đề cơ bản về
nội dung, phương pháp hướng nghiệp cho học sinh. Tác giả có nhận xét sau: hứng thú môn học, hứng
thú nghề nghiệp có tác dụng thúc đẩy việc lựa chọn nghề và thực hiện khả năng của mình là động cơ
mạnh nhất, quan trọng nhất trong việc lựa chọn nghề của học sinh. Hứng thú nghề nghiệp có tác dụng
thúc đẩy con người tìm tòi sáng tạo trong lao động, đi sâu vào mọi hoạt động có liên quan tới nghề
nghiệp mà mình yêu thích và hướng tới. [11]
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn nghiên cứu xu hướng nghề nghiệp của học sinh theo các chỉ số
như: Mức độ nhận thức nghề nghiệp, thái độ đối với nghề nghiệp, tính ổn định của thái độ, tác giả đã
chỉ ra đặc điểm chung trong xu hướng nghề nghiệp của học sinh THPT và một số vấn đề khác. Tác giả
còn cho biết nhận thức về nghề của học sinh biết đến chưa nhiều. Hứng thú nghề nghiệp của học sinh
hình thành môn chưa tập trung và chưa rõ nét.[33]
Tác giả Chu Văn Thảo với công trình nghiên cứu “Giải pháp quản lý nhằm đẩy mạnh công tác
tư vấn hướng nghiệp cho học sinh tại các Trung tâm KTTH-HN ở tỉnh Bắc Ninh” đã nhấn mạnh rằng
đa số học sinh trung học trước khi chọn nghề chưa hiểu hết ý nghĩa và tầm quan trọng của việc chọn
nghề có cơ sở khoa học, các em chưa hiểu rõ về nghề nghiệp, chưa đánh giá đúng năng lực bản thân.
Sự hiểu biết về nghề của các em còn đơn giản, nghèo nàn so với thế giới nghề nghiệp vô cùng phong
phú, đa dạng, thiếu thông tin về thị trường lao động đã làm các em lúng túng, khó khăn khi chọn nghề.
Nhìn chung, nhận thức của học sinh về các lĩnh vực của nghề nghiệp còn rất chung chung, đặc biệt đối
với nghề mình định chọn các em cũng mơ hồ. Các em rất cần được tư vấn hướng nghiệp trong việc lựa
chọn các hướng đi sau khi tốt nghiệp THPT. [30]
Tác giả Phan Thị Tố Oanh nghiên cứu đến vấn đề lựa chọn nghề và nhận thức nghề của học
sinh THPT, tác giả đã chỉ ra hiệu quả của việc lựa chọn nghề của học sinh phụ thuộc vào 3 yếu tố trên
cơ sở “Tam giác hướng nghiệp” đó là:
- Nhận thức về thế giới nghề
- Nhận thức về nhu cầu nghề của xã hội
- Tư vấn nghề. [25]
Hầu hết các công trình nghiên cứu trên đã nêu lên được thực trạng chọn nghề của học sinh
THPT (lý do chọn nghề, động cơ chọn nghề, nguyện vọng chọn nghề, các nhân tố ảnh hưởng đến việc
chọn nghề của học sinh, nhận thức về nghề nghiệp của học sinh), nêu lên được thực trạng tư vấn hướng
nghiệp trong nhà trường THPT hiện nay cùng với nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh ở năm học
cuối cấp. Đồng thời, các công trình nghiên cứu này cũng tổng hợp được ý kiến của học sinh với mong
muốn trong nhà trường có được ban chuyên trách về tư vấn hướng nghiệp để giúp các em trong việc
chọn nghề cho tương lai. Tuy nhiên, các tác giả chưa làm rõ những nội dung tư vấn hướng nghiệp nào
được học sinh quan tâm nhiều nhất, và mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp thể hiện trên
từng mặt nội dung cần được tư vấn. Kết quả của các công trình nghiên cứu trên sẽ là cơ sở cho các
công trình nghiên cứu tiếp theo, và cũng là cơ sở để giúp chúng tôi giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu
do đề tài đặt ra, đó là đưa ra được bức tranh thực trạng nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp
12 THPT tỉnh Kiên Giang, để từ đó đề ra biện pháp tác động nhằm thay đổi nhận thức của học sinh về
nhu cầu tư vấn hướng nghiệp và tổ chức hoạt động tư vấn hướng nghiệp để đáp ứng được nhu cầu này
hiện nay.
1.2 Cơ sở lý luận của đề tài.
1.2.1 Nhu cầu.
a. Định nghĩa.
Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu khách quan của mỗi con người trong những điều kiện nhất định
cảm thấy cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu thúc đẩy con người tích cực hoạt động
nhằm tạo nên những điều kiện, những phương tiện tương ứng để thoả mãn những đòi hỏi của mình.
Nếu nhu cầu của con người được thoả mãn đầy đủ sẽ tạo ra điều kiện cần thiết để làm cho nhân cách
phát triển toàn diện và làm phát triển toàn bộ xã hội.
Nói một cách cụ thể, nhu cầu là thuộc tính cơ bản của cá nhân. Nó có tác dụng xác định xu
hướng của cá nhân, xác định thái độ của người đó đối với hiện thực và đối với trách nhiệm của bản
thân, xét đến cùng, nó xác định lối sống và hoạt động của cá nhân.
Có nhiều định nghĩa về nhu cầu của nhiều tác giả trong và ngoài nước, nhưng trong quá trình
nghiên cứu tài liệu, tác giả cho rằng các định nghĩa sau sát và phù hợp với đề tài nghiên cứu hơn.
Theo từ điển Tâm lý học “nhu cầu là một trạng thái của cá nhân được tạo ra do cá nhân đó
thiếu những đối tượng cần cho sự tồn tại và phát triển và là nguồn gốc hoạt động của cá nhân đó”. [4]
Theo A. G. Covaliop, nhu cầu là sự cần thiết mà con người cảm thấy cần phải thoả mãn của
những điều kiện nhất định của cuộc sống và sự phát triển. [3]
Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn, khái niệm nhu cầu được phát biểu như sau “Nhu cầu là sự
đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển”.[34]
Trong đề tài này, chúng tôi chọn định nghĩa sau về nhu cầu làm cơ sở cho việc nghiên cứu
“Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển”.
b. Các đặc điểm cơ bản và hình thức biểu hiện của nhu cầu.
- Các đặc điểm.
Nhu cầu của con người có các đặc điểm cơ bản sau:
+ Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng. Khi nào nhu cầu gặp đối tượng có khả năng đáp ứng sự
thoả mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng.
+ Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thoả mãn nó quy định. Tuỳ theo
phương thức thoả mãn nào nó có thể phát triển lên hoặc thoái hoá đi hoặc thậm chí biến mất đi. Bề
rộng của nhu cầu phụ thuộc vào mức độ phát triển của con người và những điều kiện vật chất của cuộc
sống
+ Nhu cầu có tính chu kỳ, có nghĩa là nhu cầu được nảy sinh trong điều kiện nó được lặp đi lặp
lại một cách có hệ thống, do đó sẽ hình thành thói quen sử dụng một phương tiện và phương thức nhất
định để thoả mãn nhu cầu.
+ Con người điều chỉnh các nhu cầu của mình một cách có ý thức, vì vậy nhu cầu của con
người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật. Khi điều chỉnh các nhu cầu của mình, con người
không chỉ xem xét các điều kiện bên ngoài, mà còn xem xét các chuẩn mực hành vi trong xã hội. Và sự
điều chỉnh này phụ thuộc vào cấu trúc tâm lý trọn vẹn của nhân cách, vào sự được giáo dục của nhân
cách.
+ Nhu cầu của con người rất đa dạng so với nhu cầu của con vật (nhu cầu vật chất gắn liền với
sự tồn tại của cơ thể, nhu cầu tinh thần gồm có nhu cầu nhận thức, nhu cầu lao động, nhu cầu thẩm
mỹ…). [34]
- Hình thức biểu hiện của nhu cầu.
Có hai hình thức biểu hiện của nhu cầu:
+ Hình thức đầu, nhu cầu được phản ánh vào các bán cầu đại não, được ý thức và biểu hiện ra
dưới dạng một hành động có lý trí (hành động có ý chí). Đây là trường hợp tiêu biểu nhất cho con
người và có đặc điểm là quá trình thoả mãn nhu cầu tiến hành thông qua các hiểu biết và kinh nghiệm
sống. Nói cách khác, trong trường hợp này, nhu cầu của con người đã đi qua đầu óc của nó, tức là được
ý thức và biểu hiện ra trong ý chí của con người.
+ Hình thức thứ hai, biểu hiện của nhu cầu chỉ thấy có ở người trong trường hợp ngoại lệ. Nó có
đặc điểm là hành động để thực hiện ý hướng mang tính chất bồng bột hay nói đúng hơn là bột phát, ít
được ý thức.
c. Phân loại nhu cầu và đặc điểm của chúng.
Có nhiều cách để phân loại nhu cầu, nhưng thông thường người ta dựa vào đối tượng thoả mãn
của nhu cầu để chia thành nhu cầu vật chất (gồm có nhu cầu ăn, mặc, ở) và nhu cầu tinh thần (gồm có
nhu cầu nhận thức và nhu cầu thưởng thức cái đẹp). Bên cạnh đó còn có thêm một loạt nhu cầu khác
có tính chất xã hội (nhu cầu giao tiếp, lao động, hoạt động xã hội).
Theo A.G. Covaliop có các dạng nhu cầu sau:
- Nhu cầu vật chất là những nhu cầu có trước nhất, là cơ sở cho hoạt động sinh sống của con
người. Nhu cầu này hình thành trong quá trình phát triển giống loài và phát triển xã hội lịch sử của loài
người. Thoả mãn nhu cầu vật chất sẽ tạo điều kiện giải phóng nhân cách con người khỏi những thói hư
tật xấu như tham lam, ganh tị…
Nhu cầu vật chất thường chiếm ưu thế và mang hình thức xấu xa ở những người phát triển
phiến diện và thấp kém về trí tuệ, ở những người này thường không có những động cơ đẹp đẽ và cao
quí, không nghĩ đến lợi ích chung mà chỉ chú ý đến lợi ích của bản thân. Nếu nhu cầu vật chất được
thoả mãn một cách hợp lý, được phát triển một cách bình thường thì con người tìm thấy ý nghĩa trong
cuộc sống và thấy mình có ích cho tất cả mọi người.
- Nhu cầu tinh thần là những cấu thành đặc biệt, là các nhu cầu đặc trưng cho con người và chỉ
con người mới có, và nó chứng tỏ một trình độ phát triển cao của nhân cách. Nhu cầu tinh thần gồm có
nhu cầu nhận thức, khoái cảm thẩm mỹ. Nhu cầu nhận thức vừa là một nhu cầu định hướng chung (con
người cần hiểu biết cái thế giới trong đó mình sống) vừa là một nhu cầu riêng hay là một niềm say mê
hiểu biết các hiện tượng đặc biệt của hiện thức như hiện tượng vật lý, hoá học,…. Trên cơ sở nhu cầu
nhận thức sẽ hình thành nhu cầu sáng tạo khoa học với tính cách là một nhu cầu độc lập. Trong trường
hợp này nhận thức không phải là mục đích mà trở thành phương tiện để thỏa mãn nhu cầu sáng tạo.
Trong cuộc sống con người nhu cầu khoái cảm thẩm mỹ chiếm vị trí to lớn. Nhờ nó con người hướng
đến việc làm cho cuộc sống của mình đẹp lên.
Cơ chế biểu hiện của những nhu cầu tinh thần, chẳng hạn như nhu cầu nhận thức thì cơ chế sinh
lý trước nhất của nhu cầu nhận thức chính là phản xạ định hướng. Và cơ thể càng phát triển thì trong
hoạt động sống của nó, phản xạ định hướng càng ngày càng tăng cường. Tất cả mọi người đều có phản
xạ định hướng - tìm tòi không điều kiện, nhưng không phải người nào cũng có hứng thú rõ rệt đối với
việc nhận thức các hiện tượng của tự nhiên và xã hội. Chỉ trong điều kiện dạy học và giáo dục nhất
định, phản xạ tìm tòi có điều kiện mới được hình thành và củng cố. Chính phản xạ này thể hiệ._.n nhu cầu
nhận thức của con người.
Khi ta tạm ngừng thoả mãn nhu cầu nhận thức thì điều đó sẽ làm cho nhu cầu này trở nên gay
gắt hơn, có thể làm trì trệ và suy yếu nhu cầu đó. Các nhu cầu tinh thần khi được thoả mãn sẽ không
tạm thời lắng dịu xuống mà trái lại, càng tăng lên rõ rệt. Nhu cầu nhận thức vừa là một nhu cầu định
hướng chung, vừa là một nhu cầu riêng, và trên cơ sở nhu cầu nhận thức sẽ hình thành nhu cầu sáng tạo
khoa học với tính cách là một nhu cầu độc lập.
- Nhu cầu xã hội : nhu cầu có vị thế xã hội, nhu cầu được xã hội đánh giá, nhu cầu tình bạn, tình
đồng chí, tình yêu, nhu cầu hoạt động xã hội… Nhu cầu xã hội thể hiện bản chất xã hội của con người.
Một trong những nhu cầu xã hội là nhu cầu giao tiếp, nhu cầu này tạo điều kiện để hình thành
những mối liên hệ muôn màu muôn vẻ giữa người với người, đồng thời kích thích sự phát triển của
nhân cách. Bên cạnh đó, nhu cầu xã hội chủ đạo của nhân cách con người chính là nhu cầu lao động.
Nhu cầu lao động làm con người biết được niềm vui, niềm hạnh phúc khi nào người đó làm việc vì lợi
ích chung.
Người nào có những nhu cầu xã hội đặc biệt và những nhu cầu tinh thần phát triển thì người đó
sẽ thoả mãn những nhu cầu vật chất một cách hợp lý. Người đó sẽ tìm thấy ý nghĩa cuộc sống trong
hoạt động sáng tạo, làm cho con người cảm thấy hạnh phúc của cuộc sống và cảm thấy mình có ích cho
tất cả mọi người. [2]
Có một cách phân chia khác, đó là thang nhu cầu của A. Maslow. A. Maslow chia nhu cầu của
con người thành 7 nhóm nhu cầu, chúng xuất hiện từ lúc sinh và trong quá trình phát triển nhân cách
gồm có : nhu cầu sinh lý; nhu cầu được an toàn; nhu cầu được công nhận và chấp nhận; nhu cầu được
tôn trọng; nhu cầu nhận thức; nhu cầu thẩm mỹ; nhu cầu tự bộc lộ (năng lực, tài năng, các tiềm năng
sáng tạo, thể hiện bản thân).
d. Sự phát triển của nhu cầu.
Sự phát triển của nhu cầu có thể được xét ở hai phương diện, đó là phương diện xã hội lịch sử
và phương diện phát sinh cá thể. Trong quá trình phát triển lịch sử, bắt buộc phải diễn ra quá trình tăng
thêm và ngày càng phân hoá các nhu cầu. Về mặt phát triển cá thể, sự phát triển của nhu cầu bắt đầu từ
sự thoả mãn những nhu cầu tự nhiên của đứa trẻ. Ngay từ rất bé, đứa trẻ đã bộc lộ hoạt động định
hướng tìm tòi, thể hiện ở nhu cầu muốn nhận thức thế giới xung quanh. Nếu được thoả mãn thì hoạt
động này được củng cố và mở rộng thêm. Trái lại nếu không được thoả mãn, nhu cầu này sẽ bị ức chế
và tàn lụi đi.
Sự hình thành và phát triển các nhu cầu phải tuân theo một số qui tắc sau đây:
1. Nhu cầu chỉ có thể được hình thành và củng cố trong điều kiện được thoả mãn một cách có
hệ thống hay là được thực hiện một hoạt động nhất định. Điều đó làm cho cơ thể nói riêng và toàn bộ
nhân cách nói chung trở nên quen thuộc với một kiểu hoạt động nhất định. Tất cả mọi nhu cầu mới đều
được hình thành theo kiểu thói quen; cơ chế hoạt động của nó cũng vậy.
2. Nhu cầu phát triển trong điều kiện được “tái sản xuất mở rộng”. Điều đó tạo điều kiện để
những phương tiện thoả mãn nhu cầu được trở nên phong phú hơn và phát triển hơn. Nhu cầu xuất hiện
và phát triển trong quá trình hoạt động.
3. Sự tiến triển của nhu cầu sẽ dễ dàng hơn nếu hoạt động không làm trẻ kiệt quệ đi, đặc biệt là
thoạt đầu, mà trái lại tương đối dễ thực hiện vì điều đó làm cho con người có thái độ tích cực đối với
hoạt động ấy. Vì vậy, việc chuẩn bị cho trẻ hoạt động và tạo điều kiện cho trẻ có những thành công
bước đầu là một vấn đề rất quan trọng.
4. Một điều rất quan trọng để phát triển nhu cầu là sự chuyển tiếp từ hoạt động tái tạo sang hoạt
động sáng tạo. Điều đó không những làm cho con người có thái độ xúc cảm tích cực đối với hoạt động
mà hơn nữa, còn thấy rằng nó là thiên hướng cơ bản của mình.
5. Nhu cầu sẽ được củng cố khi ta có ý thức về ý nghĩa xã hội của nó và ý nghĩa của nó đối với
bản thân ta. Điều đó được sự giáo dục và dư luận tập thể hỗ trợ thêm [2]
1.2.2 Tư vấn hướng nghiệp.
1.2.2.1 Hướng nghiệp.
Có nhiều khái niệm khác nhau về hướng nghiệp, nhưng để phù hợp với đề tài, chúng tôi chọn
khái niệm sau để làm cơ sở cho việc nghiên cứu:
“Hướng nghiệp là những biện pháp dựa trên cơ sở tâm lý học, y học và nhiều khoa học khác để
giúp đỡ học sinh phù hợp với yêu cầu xã hội, đồng thời thoả mãn tối đa nguyện vọng, thích hợp với
những năng lực, sở trường và điều kiện tâm lý cá nhân nhằm mục đích phân bố hợp lý và sử dụng có
hiệu quả nhất lực lượng dự trữ sẵn có của đất nước”. [35]
Có thể nói, hướng nghiệp là sự kết hợp tương đối hài hoà giữa nhu cầu của mỗi cá nhân và nhu
cầu xã hội; đặt nhiệm vụ đào tạo con người cho xã hội làm nhiệm vụ trung tâm trước tiên, đồng thời
luôn đảm bảo tính cá thể trong sự phát triển tự do của mỗi nhân cách. Mặt khác hướng nghiệp cũng đề
cập tới tính chất phức tạp của công tác hướng nghiệp, đòi hỏi phải có sự tham gia đồng bộ của nhiều bộ
phận xã hội, nhằm giải quyết hợp lý lực lượng lao động dự trữ sẵn có của đất nước.
Nói một cách cụ thể, hướng nghiệp chính là quá trình hướng dẫn chọn nghề, quá trình chuẩn bị
cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống lao động sản xuất. Đây là một hệ thống các biện pháp tác động của
gia đình, nhà trường và xã hội cùng phối hợp thực hiện, trong đó nhà trường phải nắm giữ vai trò chủ
đạo trong việc hướng dẫn thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao động ở các ngành nghề, tại những nơi mà xã
hội đang cần, đồng thời cũng phù hợp với hứng thú, năng lực của cá nhân.
1.2.2.2 Tư vấn hướng nghiệp.
a. Tư vấn.
Theo các chuyên gia hiệp hội tâm lý học Mỹ “Tư vấn tâm lý là quá trình giúp cá nhân khắc
phục những trở ngại tâm lý trong quá trình trưởng thành, khiến người ta phát triển một cách lý tưởng”.
[29]
Tổ chức tư vấn thế giới định nghĩa như sau “Tư vấn là một quá trình trợ giúp dựa trên các kỹ
năng, trong đó một người dành thời gian, sự quan tâm và sử dụng thời gian một cách có mục đích để
giúp đỡ thân chủ khai thác tình huống, xác định và triển khai các giải pháp khả thi trong thời gian cho
phép”. [29]
Người tư vấn có thể đóng vai trò như người chịu trách nhiệm tìm ra những giải pháp (R.
Schein, 1969); hay thu thập thông tin, chẩn đoán vấn đề và đề xuất giải pháp (D.J. Kurpius & J.C.
Brukbaker, 1976); hoặc là người định hướng, điều phối tiến trình giải quyết vấn đề (R. Blake & J.S.
Mouton, 1976)…
Với tác giả Trần Thị Giồng thì “Tư vấn là sự tương tác giữa nhà tư vấn và thân chủ, trong quá
trình này, nhà tư vấn sử dụng các kỹ năng chuyên môn giúp thân chủ khơi dậy tiềm năng để họ tự giải
quyết vấn đề đang gặp phải”. [26]
Nhìn chung, theo định nghĩa của các tác giả về tư vấn thì tư vấn chính là quá trình thu thập
thông tin, chẩn đoán vấn đề thân chủ đang vướng mắc, sau đó bằng những kỹ năng và kiến thức chuyên
môn giúp thân chủ tìm ra hướng giải quyết tốt nhất.
Tóm lại, tư vấn là quá trình trợ giúp của nhà tư vấn đối với thân chủ bằng cách sử dụng tối đa
những kiến thức chuyên môn và kỹ năng mà nhà tư vấn có để giúp thân chủ giải quyết những vấn đề
khó khăn đang vướng mắc. Tư vấn vừa phải có tính chuyên nghiệp, vừa phải có tính hệ thống.
b. Tư vấn hướng nghiệp.
Theo tác giả Phan Thị Tố Oanh (tr.20): Tư vấn hướng nghiệp là hệ thống biện pháp tâm lý giáo
dục nhằm đánh giá toàn bộ năng lực thể chất và trí tuệ của thanh thiếu niên, đối chiếu những năng lực
đó với những yêu cầu do nghề đặt ra với người lao động, có cân nhắc đến nhu cầu nhân lực của địa
phương, xã hội, trên cơ sở đó cho họ những lời khuyên về chọn nghề, có căn cứ khoa học, loại bỏ
những trường hợp may rủi, thiếu chín chắn khi chọn nghề nhằm mục đích giúp thanh thiếu niên nhận ra
chính mình, tạo điều kiện cho họ phát huy cao độ sở trường cũng như trong bước đường hoạt động
nghề nghiệp tương lai. [27]
Theo P.A Savin “Tư vấn nghề thực hiện chức năng liên kết giúp cho học sinh đối chiếu hứng
thú, sở thích và khả năng vốn có của mình với nhu cầu của nền kinh tế quốc dân” [26]
Theo K.K Platonov “Tư vấn nghề là hệ thống những hình thức y học và những hình thức tác
động đa dạng khác nhằm phát hiện, nhằm khám phá những khả năng tinh thần và thể lực của học sinh
trong lựa chọn nghề” [26]
Trong từ điển Tâm lý học Đức (55tr-63) “Tư vấn nghề là hoạt động tư vấn giúp các cá nhân
đặc biệt là thanh niên trong quá trình định hướng tìm chọn cũng như thay đổi nghề”
Như vậy, theo nhận định của phần đông các tác giả (trong và ngoài nước) thì mục đích của tư
vấn hướng nghiệp chính là giúp học sinh nhận biết được những đặc điểm tâm sinh lý vốn có của bản
thân và những nhu cầu của xã hội trong lựa chọn nghề. Tư vấn hướng nghiệp rất có ích cho học sinh vì
nó không chỉ đề cập đến nhân cách, mơ ước, sở thích, nguyện vọng của học sinh mà còn đề cập đến
những yếu tố khác trong bức tranh nghề nghiệp rộng lớn, từ đó giúp học sinh có thể lựa chọn được cho
mình một nghề phù hợp cho tương lai. Tư vấn hướng nghiệp giúp cho học sinh có một cái nhìn từ “bên
trong” và học sinh có cơ hội lựa chọn, an tâm, dành hết năng lực và công sức của bản thân một khi đã
chọn được một nghề thích hợp cho mình. Trên cơ sở cung cấp cho học sinh những tri thức cơ bản của
các môn học, những hiểu biết về các ngành nghề trong xã hội, tư vấn hướng nghiệp giúp học sinh nhận
thức đúng đắn hơn về nghề nghiệp mà mình định chọn. Đồng thời giúp cho các em tự đánh giá những
đặc điểm tâm sinh lý của cá nhân. Từ đó giúp cho các em có thể tự đối chiếu những đặc điểm tâm sinh
lý của mình với những yêu cầu của nghề nghiệp đòi hỏi, để các em tự xác định được nghề nghiệp tương
lai phù hợp của mình.
Từ sự phân tích nội hàm của khái niệm tư vấn hướng nghiệp nói trên; trong luận văn của mình,
chúng tôi sử dụng khái niệm sau đây làm công cụ để tiến hành việc nghiên cứu:
“Tư vấn hướng nghiệp là một hệ thống những biện pháp thích hợp nhằm đánh giá toàn bộ năng
lực thể chất và trí tuệ của thanh thiếu niên, đối chiếu những năng lực đó với những yêu cầu do nghề đặt
ra đối với người lao động, bên cạnh có cân nhắc đến nhu cầu nhân lực của thị trường lao động. Trên cơ
sở đó cho họ những lời khuyên đúng đắn về chọn nghề, có căn cứ khoa học, và loại bỏ những trường
hợp thiếu chín chắn khi chọn nghề”.
1.2.3 Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT.
1.2.3.1 Khái niệm nhu cầu tư vấn hướng nghiệp.
a. Khái niệm.
Chúng ta biết rằng, ý thức chọn nghề của học sinh THPT có một ý nghĩa nghiêm túc, trực tiếp,
và cấp bách. Chính ý thức này sẽ làm nảy sinh ở học sinh nhu cầu cần được tư vấn hướng nghiệp để
các em có cơ sở khoa học cho việc chọn cho mình một nghề phù hợp trong tương lai.
Nếu nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu của sự tồn tại và phát triển của con người nói chung thì nhu
cầu tư vấn hướng nghiệp là nhu cầu thiết yếu đối với mỗi cá nhân khi đứng trước quyết định chọn cho
mình một nghề phù hợp và hoạt động tốt ở lĩnh vực nghề đó.
Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp thuộc nhu cầu về nhận thức của con người, nhu cầu nhận thức
một lĩnh vực riêng, như vậy nhu cầu này sẽ có đầy đủ các đặc điểm chung của một nhu cầu nhận thức
nói chung, đồng thời có thêm những đặc điểm riêng của tư vấn hướng nghiệp. Từ cơ sở lý luận về nhu
cầu nói chung, nhu cầu nhận thức nói riêng, chúng tôi cho rằng “Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp là nhu
cầu cần được tư vấn về các nội dung có liên quan đến lĩnh vực nghề nghiệp và trên cơ sở đó mỗi cá
nhân có sự đối chiếu với năng lực bản thân để chọn cho mình một nghề phù hợp”.
Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp với tư cách là nhu cầu nhận thức, ngoài những đặc điểm của nhu
cầu nói chung, có những đặc điểm riêng của mình. Đối tượng của nhu cầu tư vấn hướng nghiệp là
những thông tin về nghề nghiệp (đặc điểm của nghề, yêu cầu của nghề đối với người lao động, chống
chỉ định trong nghề), hệ thống trường đào tạo nghề, nhu cầu của thị trường lao động… Nhu cầu tư vấn
hướng nghiệp được nảy sinh trong quá trình cá nhân tìm kiếm thông tin liên quan đến lĩnh vực nghề
nghiệp và trước khi quyết định chọn nghề, từ đó cá nhân sẽ tìm phương thức để thoả mãn nhu cầu này,
đó là cá nhân tìm đến các tổ chức hoặc các chuyên gia tư vấn. Đồng thời, cá nhân có xem xét những
điều kiện bên ngoài cũng như điều kiện của bản thân (sở thích, năng lực, điều kiện sức khoẻ, điều kiện
kinh tế gia đình…) để biết cách điều chỉnh nhu cầu cho phù hợp và đạt được mục đích.
Tương tự như vậy, nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT cũng mang đầy đủ
những đặc điểm của nhu cầu tư vấn hướng nghiệp nhưng lại kết hợp thêm những đặc điểm riêng của
lứa tuổi học sinh lớp 12 THPT. Đây là một nhu cầu cơ bản và mang tính thiết yếu của học sinh nhằm
để nhận biết được sự phù hợp giữa các đặc điểm tâm sinh lý và điều kiện riêng của cá nhân với hệ
thống nghề nghiệp, có tính đến nhu cầu của thị trường lao động, từ đó giúp các em có quyết định lựa
chọn nghề nghiệp tương lai đúng đắn và khoa học có dựa trên sự hỗ trợ của những nhà tư vấn hướng
nghiệp.
b. Các đặc điểm: Cũng như các loại nhu cầu về nhận thức khác, nhu cầu tư vấn hướng nghiệp
của học sinh THPT cũng có những đặc điểm về đối tượng, về điều kiện và phương thức thoả mãn nhu
cầu, về tính chu kỳ, và mang đậm bản chất xã hội-lịch sử.
Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng, và đối tượng của nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học
sinh THPT chính là những tri thức về nghề nghiệp học sinh định chọn trong tương lai mà học sinh
muốn có khi tham gia hoạt động tư vấn hướng nghiệp. Nói một cách cụ thể, đó chính là nhận thức đúng
đắn của học sinh về thế giới nghề nghiệp, về những đặc điểm tâm sinh lý của bản thân, về những điều
kiện riêng của bản thân, cũng như về nhu cầu của thị trường lao động. Từ sự nhận thức đó sẽ giúp cho
học sinh tạo lập được kỹ năng tìm kiếm và chọn lọc thông tin cần thiết, kỹ năng phân tích, đánh giá và
tự đánh giá bản thân trong mối tương quan với nghề nghiệp mà các em định chọn. Để có được sự nhận
thức đúng đắn đó, các em cần đến sự hỗ trợ của những người làm công tác tư vấn hướng nghiệp.
Điều kiện và phương thức để thoả mãn nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT thì
bản thân hoạt động tư vấn hướng nghiệp phải được tổ chức dưới nhiều hình thức tư vấn đa dạng, phong
phú và nội dung tư vấn phải đầy đủ, sâu và rộng, giải quyết được những băn khoăn, thắc mắc của các
em. Thông qua các hoạt động tư vấn hướng nghiệp nhằm giúp các em khám phá hứng thú, năng lực
bản thân, xây dựng kế hoạch nghề nghiệp, rèn luyện cho mình những kỹ năng tương ứng với nghề
nghiệp tương lai.
Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT cũng mang tính chu kỳ, có nghĩa là nhu cầu
này chỉ được hình thành và củng cố trong điều kiện được thoả mãn một cách có hệ thống. Nói một cách
khác, nhu cầu này được thể hiện ở các mức độ khác nhau theo các khối học khác nhau của học sinh, và
đòi hỏi sự thoả mãn ngày một cao hơn. Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp được củng cố tốt khi mà học sinh
có ý thức về ý nghĩa xã hội của nó, đồng thời con người ý thức được ý nghĩa của nó đối với bản thân
con người, muốn được vậy cần phải có sự hỗ trợ thêm của giáo dục và của dư luận tập thể. Ở mức độ
cao nhất để thoả mãn nhu cầu, học sinh sẽ chủ động tìm kiếm thông tin và tham gia các hoạt động tư
vấn hướng nghiệp để tự tin ra quyết định chọn lựa nghề nghiệp tương lai.
Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp mang bản chất lịch sử - xã hội bởi nó gắn liền với sự phát triển
của xã hội. Sự phát triển của xã hội đã đẩy nhanh quá trình mở rộng hệ thống ngành nghề cùng với
những yêu cầu ngày càng cao đối với người lao động đã làm cho đối tượng của nhu cầu tư vấn hướng
nghiệp ngày càng phong phú hơn, và phương thức để thoả mãn được nhu cầu cũng ngày càng đa dạng
hơn.
1.2.3.2 Đặc điểm chọn nghề của học sinh THPT.
a. Đặc điểm lứa tuổi.
Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn đầu tuổi thanh niên (14, 15 đến 17, 18 tuổi). Tuổi đầu
thanh niên là thời kỳ đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể, bắt đầu thời kỳ phát triển tương đối êm ả
về mặt sinh lý: Sự phát triển của hệ xương đã hoàn thiện. Những cơ bắp tiếp tục phát triển. Nhịp độ
tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng đã chậm lại. Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi
quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Điều này tạo
nên tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hoá hoạt động phân tích, tổng hợp… của vỏ bán cầu đại não trong
quá trình học tập và lao động.
Hoạt động của thanh niên ngày càng phong phú và phức tạp, nên vai trò xã hội và hứng thú xã
hội của thanh niên không chỉ mở rộng về số lượng và phạm vi, mà còn biến đổi cả về chất lượng. Ở
thanh niên ngày càng xuất hiện nhiều các vai trò của người lớn, và họ thực hiện các vai trò đó ngày
càng có tính độc lập và có tinh thần trách nhiệm hơn. Nhiệm vụ xã hội chủ yếu của lứa tuổi này là chọn
nghề.
Lứa tuổi học sinh THPT đã có những nét của người lớn, nhưng chưa phải là người lớn. Người
lớn bắt đầu đòi hỏi ở các em phải có tính độc lập, ý thức trách nhiệm và thái độ hợp lý… đồng thời lại
đòi hỏi ở các em phải thích ứng và phục tùng cha mẹ và giáo viên. Vị trí của thanh niên có tính chất
không xác định (ở mặt này các em được coi là người lớn, nhưng ở mặt khác lại không). Tính chất đó và
những yêu cầu đề ra cho thanh niên ở lứa tuổi này được phản ánh một cách độc đáo vào tâm lý thanh
niên.
Nội dung và tính chất của hoạt động học tập ở thanh niên học sinh khác rất nhiều so với hoạt
động học tập của thiếu niên; hoạt động học tập của thanh niên học sinh đi sâu vào những tri thức cơ
bản, những qui luật của các bộ môn khoa học. Học sinh càng trưởng thành, kinh nghiệm sống càng
phong phú, các em càng ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. Do vậy, thái độ
có ý thức của các em đối với học tập ngày càng phát triển. Các em hiểu được rằng, vốn tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo là điều kiện cần thiết để các em bước vào cuộc sống tương lai. Từ đó, nhu cầu tri thức của
các em tăng lên.
Thái độ của thanh niên học sinh đối với các môn học trở nên có lựa chọn hơn. Ở các em đã
hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Cuối bậc THPT, các em
đã xác định được cho mình một hứng thú ổn định đối với một môn học nào đó, đối với một lĩnh vực tri
thức nhất định. Hứng thú này thường liên quan với việc chọn một nghề nhất định của học sinh. Thái độ
học tập của thanh niên học sinh được thúc đẩy bởi động cơ học tập có cấu trúc khác với động cơ học
tập ở tuổi trước. Đối với học sinh THPT thì có ý nghĩa nhất là động cơ thực tiễn, động cơ nhận thức,
sau đó là ý nghĩa xã hội của môn học, rồi mới đến các động cơ cụ thể khác…
Nhưng thái độ học tập ở không ít học sinh còn có nhược điểm là, các em rất tích cực học học
một số môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình đã chọn, nhưng lại xao nhãng các môn học
khác, hoặc chỉ học để đạt điểm trung bình; hoặc một số học sinh cho rằng, mình không đủ khả năng
vào được đại học nên chỉ cần học đạt yêu cầu là được… Thái độ học tập có ý thức đã thúc đẩy sự phát
triển tính chủ định của các quá trình nhận thức và năng lực điều khiển bản thân của thanh niên học sinh
trong hoạt động học tập.
Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển các năng lực trí tuệ; tính
chủ định được phát triển mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức. Tuy nhiên, thiếu sót cơ bản trong hoạt
động tư duy của nhiều em là thiếu tính độc lập; chưa chú ý phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của
bản thân, kết luận vội vàng theo cảm tính, hoặc thiên về việc tái hiện tư tưởng của người khác, cách
luận chứng của người khác… [15,53]
Học sinh THPT đã trưởng thành như một người lớn nhưng các em chưa phải là người lớn. Mặc
dù trong nhận thức của các em đã có tính chủ định nhưng các em chưa hoàn toàn độc lập suy nghĩ mà
còn lệ thuộc vào người lớn rất nhiều. Chính vì vậy, nhận thức của các em về chọn nghề cũng như xu
hướng chọn nghề mang những nét đặc trưng riêng của lứa tuổi.
b. Nhận thức về việc chọn nghề và xu hướng chọn nghề. Yếu tố ảnh hưởng đến quá trình
chọn nghề.
- Nhận thức về việc chọn nghề và xu hướng chọn nghề.
Ở lứa tuổi học sinh THPT, nhu cầu tự ý thức được phát triển mạnh mẽ, khiến các em quan tâm
sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất nhân cách và năng lực riêng, và sự tự ý thức này xuất phát từ
yêu cầu của cuộc sống và hoạt động. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà còn
nhận thức về vị trí của mình trong xã hội, trong tương lai; và các em coi trọng những phẩm chất bên
trong. Ở lứa tuổi này, các em có thể xây dựng được thế giới quan hoàn chỉnh với tư cách là một hệ
thống quan điểm; và sự hình thành thế giới quan này được thể hiện ở tính tích cực nhận thức. Một vấn
đề quan trọng cần được nhắc đến trong thế giới quan của các em đó là việc chọn vị trí xã hội tương lai
cho bản thân và các phương thức đạt đến vị trí xã hội ấy - trước hết là việc lựa chọn nghề một cách có ý
thức, đây là công việc khẩn thiết đối với các em; các em hiểu được rằng: cuộc sống tương lai phụ thuộc
vào chỗ các em có biết lựa chọn nghề một cách đúng đắn hay không. Dù vô tâm đến đâu thì các em
cũng phải quan tâm, suy nghĩ đến việc chọn nghề. Việc quyết định chọn một nghề nào đó ở nhiều em
đã có căn cứ. Nhiều em biết so sánh đặc điểm riêng về thể chất, tâm lý, khả năng của mình với yêu cầu
của nghề nghiệp, mặc dù sự hiểu biết của các em về yêu cầu của nghề còn phiến diện, chưa đầy đủ.
Học sinh khi bắt đầu định hướng chọn nghề thì điều trước tiên đòi hỏi các em phải hiểu biết về
nghề định chọn. Tuy nhiên, hiện nay, đa số các em còn định hướng một cách phiến diện, đó là việc học
tập ở đại học, các em hướng vào các trường đại học nhiều hơn là học nghề; tâm thế này sẽ dễ có ảnh
hưởng tiêu cực đối với các em, nếu như dự định bước vào đại học của các em không thực hiện được.
Điều này cho thấy các em (vô tình hoặc cố ý) đã không chú ý đến nhu cầu của xã hội đối với các ngành
nghề khác nhau và mức độ đào tạo của các nghề trong khi quyết định đường đời cho mình. [15,68]
Xu hướng nghề nghiệp là thiên hướng chọn một nghề ổn định, và xu hướng nghề nghiệp này sẽ
thúc đẩy toàn bộ hoạt động của cá nhân để đạt kết quả như mong muốn. Thế nhưng xu hướng chọn
nghề hiện nay của học sinh thường là theo những suy nghĩ chủ quan mà không căn cứ vào năng lực, sở
trường của bản thân, cũng như nhu cầu của địa phương và xã hội. Các em lại thành kiến với một số
nghề trong xã hội, chọn nghề dựa vào dư luận xã hội và ý kiến của người khác. Chính vì không đánh
giá đúng năng lực bản thân nên lúng túng khi chọn nghề, đồng thời thiếu hiểu biết về sức khoẻ của bản
thân, không có đầy đủ thông tin chống chỉ định y học trong nghề từ đó gây nên nhiều cản trở cho các
em trong hoạt động nghề nghiệp.
- Yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chọn nghề.
Học sinh THPT chưa có sự hiểu biết đầy đủ, chính xác về thế giới nghề nghiệp nên không thể
định hướng đúng đắn về nghề mà bản thân chọn, ít nhiều bị ảnh hưởng từ một số yếu tố khách quan.
Trên thực tế, nhiều học sinh lựa chọn, định hướng nghề theo cảm tính cá nhân, bị ảnh hưởng
của cha mẹ, người thân trong gia đình, hay của thầy cô và bạn bè; sự lựa chọn thường mang tính chủ
quan, phiến diện, thiếu thực tiễn, không phù hợp với xu thế phát triển kinh tế, xã hội. Hầu hết các em
học sinh và các bậc cha mẹ đều không chú ý điều kiện phát triển của địa phương, đất nước; điều kiện
kinh tế gia đình; không đánh giá đúng năng lực bản thân, cũng như khả năng tìm việc làm sau khi ra
trường. Đồng thời, nhiều học sinh đã chọn nghề khi thấy nghề đó được xã hội ưa chuộng hay bạn bè
chọn nhiều. Cũng không ít học sinh đã chọn nghề và thi vào những trường khó trong khi năng lực bản
thân không có với suy nghĩ đơn giản là nghề đó có vẻ trí thức, được mọi người tôn trọng và có thu nhập
cao. Chính sự ảnh hưởng của những yếu tố đó đã làm nhận thức của học sinh đối với việc chọn nghề có
sự sai lệch, đồng nghĩa với việc các em không chọn được cho mình một nghề phù hợp.
1.2.3.3 Biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT.
Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT được nảy sinh khi mà các em bắt đầu nhận
thức được vị trí, vai trò của mình trong gia đình cũng như ngoài xã hội, các em đã ý thức được rằng
mình đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, khi đó ở các em hình thành những hứng thú học tập gắn
liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Biểu hiện cụ thể và rõ nét nhất nhu cầu này của học sinh THPT
chính là:
- Các em bắt đầu tìm hiểu về năng lực, sở trường của bản thân, chọn chương trình học theo
phân ban phù hợp, tập trung đầu tư cho những môn học có liên quan đến ngành nghề mà các em dự
định chọn, và tìm kiếm cho mình phương pháp học thích hợp, đặt ra những kế hoạch học tập nhằm đạt
hiệu quả cao nhất.
- Có khuynh hướng mở rộng các mối quan hệ bạn bè, người thân, quen để tìm hiểu về nghề
nghiệp tương lai mà các em định chọn.
- Chủ động tìm kiếm và chọn lọc những thông tin có liên quan đến nghề nghiệp định chọn, và
tham gia vào các hoạt động tư vấn hướng nghiệp của nhà trường và các tổ chức đoàn thể.
Khi đứng trước yêu cầu lựa chọn nghề tương lai cho bản thân, mỗi học sinh sẽ có nhận thức
khác nhau về lĩnh vực nghề nghiệp, khi đó các em sẽ có sự quan tâm khác nhau đối với từng nội dung
tư vấn khác nhau có liên quan đến nghề nghiệp định chọn, đồng thời mức độ biểu hiện nhu cầu cần tư
vấn cũng rất khác nhau. Tuy nhiên, thế giới nghề nghiệp thật rộng lớn, và con đường dẫn tới nghề
nghiệp tương lai của mỗi người là rất khác nhau. Học sinh sẽ không tránh khỏi sự hoang mang, ngỡ
ngàng trước thế giới nghề nghiệp phức tạp và đa dạng, các em không đủ tri thức và kinh nghiệm để có
cái nhìn thực tế và chính xác về tình hình xã hội cũng như trong đánh giá các điều kiện của bản thân,
khi đó các em rất dễ bị “nhiễu” bởi những dư luận xã hội. Vì vậy, các em rất cần sự hỗ trợ kịp thời từ
gia đình, nhà trường và xã hội để các em có được nhận thức đúng đắn chọn cho mình một nghề phù
hợp. Nói một cách khác, các em rất cần được tư vấn hướng nghiệp. Nếu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp
được thoả mãn sẽ càng làm cho nhu cầu này được phát triển mạnh mẽ hơn, đòi hỏi của nhu cầu ngày
càng cao hơn và chất lượng hơn.
1.2.3.4 Các tiêu chí đánh giá về mức độ biểu hiện của nhu cầu tư vấn hướng nghiệp.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh THPT, chúng tôi
đưa ra một số các tiêu chí đánh giá nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của đề tài này. Các tiêu chí này được
chia thành hai nhóm tiêu chí:
a. Nhóm các tiêu chí đánh giá mức độ hiểu biết về nghề nghiệp nói chung.
+ Tiêu chí đánh giá mức độ hiểu biết về các nội dung tư vấn (Hiểu biết về thế giới nghề nghiệp
cũng như hệ thống các trường đào tạo nghề; hiểu biết về thị trường lao động, nội dung và điều kiện lao
động; hiểu biết về những yêu cầu của nghề đối với người lao động và mức độ đáp ứng của bản thân;
hiểu biết về khả năng phát triển của nghề trong tương lai…)
+ Tiêu chí đánh giá mức độ hiểu biết về nghề nghiệp định chọn.
+ Tiêu chí đánh giá mức độ quan trọng theo từng yếu tố của thị trường lao động.
+ Tiêu chí đánh giá mức độ cần thiết của việc chuẩn bị những phẩm chất và kỹ năng chung
nhất định của nghề định chọn.
b. Nhóm các tiêu chí đánh giá mức độ biểu hiện nhu cầu tư vấn hướng nghiệp.
- Tiêu chí đánh giá mức độ quan tâm đến hoạt động tư vấn hướng nghiệp.
- Tiêu chí đánh giá mức độ ảnh hưởng của một số nhân tố đến lựa chọn nghề của học sinh.
- Tiêu chí đánh giá mức độ quan trọng của từng nội dung tư vấn.
- Tiêu chí đánh giá mức độ cần thiết của sự hiểu biết về thị trường lao động khi quyết định
chọn nghề.
- Tiêu chí đánh giá mức độ hài lòng đối với các tổ chức tư vấn trong việc đáp ứng nhu cầu tư
vấn hướng nghiệp của học sinh.
1.3 Một số nội dung của hoạt động tư vấn hướng nghiệp.
1.3.1 Các hình thức tư vấn hướng nghiệp.
1) Tư vấn thông tin hướng dẫn: nhằm giới thiệu nghề, nhóm nghề mà thanh thiếu niên định
chọn qua các bản mô tả nghề. Ở đây, người cán bộ tư vấn sẽ giới thiệu về những yêu cầu do nhóm nghề
đề ra đối với những phẩm chất cá nhân của con người, đồng thời chỉ ra con đường để đạt được nghề
nghiệp và triển vọng nâng cao tay nghề.
2) Tư vấn chẩn đoán trên cơ sở nghiên cứu và đo đạc nhân cách con người một cách toàn diện
được thực hiện bằng các test như: tìm hiểu hứng thú xu hướng nghề; tìm hiểu kiểu thần kinh khí chất;
trắc nghiệm tư duy; trắc nghiệm trí nhớ; trắc nghiệm trí tưởng tượng không gian; trắc nghiệm chú ý;
trắc nghiệm khả năng giao tiếp; trắc nghiệm khả năng kinh doanh... để tìm hiểu hứng thú, thiên hướng,
năng lực và những phẩm chất nghề chuyên biệt của con người. Mục đích của tư vấn chẩn đoán là xác
định trong những lĩnh vực hoạt động nào con người có thể lao động thành công nhất, tức là đem lại lợi
ích tối đa cho xã hội, đồng thời cũng đem lại niềm vui và sự hài lòng cho bản thân người lao động.
3) Tư vấn y học: người làm tư vấn đo đạc các chỉ số tâm sinh lý như thị giác, thính giác, xúc
giác, sự phối hợp cảm giác vận động, sự phối hợp hành động. Nếu như người được tư vấn mắc một
trong những bệnh thuộc loại chống chỉ định của nghề thì người cán bộ tư vấn sẽ khuyên nên chọn một
nghề khác gần gũi với thiên hướng và hứng thú, đồng thời phù hợp với trạng thái sức khoẻ của người
đó. Chẳng hạn, những người rối loạn sắc giác sẽ không được chọn những ngành nghề giao thông vận
tải, thông tin tín hiệu...
4) Tư vấn hiệu chỉnh: được tiến hành trong trường hợp ý định nghề nghiệp của con người không
phù hợp với khả năng và năng lực thực tế của họ. Trong trường hợp này, kế hoạch nghề nghiệp của cá
nhân cần được xem xét và uốn nắn lại cho phù hợp với tình hình. Ví dụ: trên cơ sở những cứ liệu thu
được khi nghiên cứu nhân cách con người, cán bộ tư vấn sẽ khuyên thanh thiếu niên nên chọn một
nghề khác, phù hợp với những đặc điểm tâm sinh lý của mình hơn.
Ngoài ra, người ta có thể chia tư vấn hướng nghiệp thành 2 loại: tư vấn sơ bộ và tư vấn chuyên
sâu
1) Tư vấn sơ bộ: loại này đơn giản có thể thực hiện ở nhiều trường vì không đòi._.o điều kiện về cơ sở vật chất,
kinh phí cho công tác này. Sở Giáo dục có thể căn cứ vào tình hình thực tế riêng của nền giáo dục tỉnh
nhà mà có thể đưa ra những quy định riêng về chế độ, chính sách dành cho những người làm công tác
tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông. Đồng thời có sự chỉ đạo kịp thời, sâu sát đối với mặt
công tác này.
Mặt khác, Sở Giáo dục cần bố trí được ít nhất một chuyên viên có chuyên môn về công tác tư
vấn hướng nghiệp để theo dõi mặt công tác này như các bộ môn khác. Song song đó, nên có một bộ
phận để làm công tác kiểm tra, đánh giá đối với công tác tư vấn hướng nghiệp ở các trường THPT. Có
các chế độ động viên, khen thưởng kịp thời đến các giáo viên làm tốt công tác tư vấn hướng nghiệp cho
học sinh.
Sở Giáo dục có thể phát hành rộng rãi tờ tin giáo dục theo định kỳ hàng tháng để những người
làm công tác giáo dục, các giáo viên, học sinh và phụ huynh có thể tiếp cận và nắm bắt được tình hình
giáo dục của tỉnh nhà, trong đó ngoài những thông tin giáo dục còn có chuyên mục về tư vấn hướng
nghiệp (do chuyên viên tâm lý hoặc các chuyên gia giáo dục đảm trách) để tư vấn cho học sinh các vấn
đề có liên quan về hướng nghiệp.
2.2. Đối với nhà trường phổ thông.
Mỗi nhà trường phổ thông cần có một chuyên gia tâm lý về tư vấn hướng nghiệp để kịp thời
giúp đỡ học sinh trong việc chọn nghề. Hiện tại, nếu chưa có biên chế dành cho người làm công tác tư
vấn hướng nghiệp thì cần phải linh động có kế hoạch bồi dưỡng cho những giáo viên được đặc cách
làm công tác này để làm công tác tư vấn cho trường. Hoặc có cơ chế tuyển hợp đồng dài hạn hoặc đội
ngũ cộng tác viên nhằm khắc phục tình trạng thiếu người làm công tác này (là các chuyên gia tâm lý)
Có thể sử dụng văn phòng Đoàn trường kết hợp làm phòng tư vấn và đưa cán bộ Đoàn chuyên
trách và bán chuyên trách thường xuyên tham gia tập huấn về tư vấn hướng nghiệp để làm công tác tư
vấn cho học sinh. Theo định kỳ có thể mời chuyên gia tâm lý về tư vấn hướng nghiệp tổ chức các buổi
nói chuyện chuyên đề dành cho học sinh. Hoặc nhà trường mời cán bộ, chuyên viên các ngành chuyên
môn đến trường giới thiệu với học sinh về ngành nghề, chuyên ngành...
Tạo điều kiện cho các giáo viên làm công tác tư vấn hướng nghiệp đi tham quan thực tế ở
những địa phương đất nước phát triển làm tốt công tác tư vấn hướng nghiệp.
Tổ chức cho học sinh tham quan các trường đại học, các xí nghiệp, các cơ sở sản xuất... để học
sinh có thể hiểu rõ hơn ngành nghề mà các em định chọn.
Có sự phối hợp với gia đình trong việc định hướng nghề nghiệp tương lai cho học sinh, có sự
thông tin hai chiều giữa nhà trường và gia đình về học sinh.
Trong khi chờ đợi cơ chế, mỗi nhà trường phổ thông cần có sự chủ động cũng như tạo điều
kiện thuận lợi về mọi mặt cho công tác này. Bên cạnh việc phải có một đội ngũ giáo viên phụ trách thì
việc đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất để làm tốt công tác này cũng là điều cần quan tâm. Nên có một
bộ tư liệu giới thiệu về nghề nghiệp, giới thiệu về những yêu cầu của nghề đối với người lao động, xây
dựng hoạ đồ nghề nghiệp để học sinh có điều kiện tìm hiểu các nghề trong xã hội nhằm định hướng
được nghề nghiệp thích hợp.
2.3. Đối với gia đình.
Các bậc cha mẹ cần tôn trọng sở thích nguyện vọng phù hợp với khả năng của học sinh, không
nên áp đặt mà chỉ nên định hướng dựa trên cơ sở năng lực sở thích của học sinh. Thường xuyên trao
đổi, trò chuyện để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng, năng khiếu, xu hướng nghề nghiệp của học sinh, kết
hợp với nhà trường để tư vấn hướng nghiệp cho các em được tốt. Đồng thời, trong quá trình tư vấn cho
học sinh, cần cân nhắc học sinh giữa khả năng, sở thích của các em phải phù hợp với điều kiện riêng
của gia đình và nhu cầu của thị trường lao động tại địa phương và ngoài xã hội.
2.4. Đối với các tổ chức đoàn thể.
Công tác Đoàn trường học cần quan tâm, chú ý và phối hợp tổ chức nhiều hoạt động, sân chơi
thiết thực có liên quan đến nghề nghiệp và làm tốt công tác tư vấn mùa thi, tư vấn hướng nghiệp cho
các em học sinh THPT.
Hướng dẫn các chi đoàn đưa các nội dung sinh hoạt hướng nghiệp vào các kế hoạch hoạt động
ngoại khoá.
Tổ chức nhiều lớp tập huấn theo định kỳ về tư vấn hướng nghiệp dành cho cán bộ Đoàn
trường học, hỗ trợ các Đoàn trường trong việc thực hiện công tác này.
Thông tin về “Tuổi trẻ lập thân, lập nghiệp” cho học sinh. Định kỳ hàng năm có thể tổ chức
các ngày hội hướng nghiệp hoặc ngày hội việc làm, thu hút đông đảo thanh niên, học sinh, sinh viên
tham gia và tìm hiểu về các ngành nghề hiện có của tỉnh.
Luôn là cầu nối tốt nhất giữa Hội Doanh nghiệp trẻ trong tỉnh với các nhà trường THPT nhằm
giúp đỡ học sinh tìm hiểu thêm các kiến thức về nghề nghiệp và cung cấp kịp thời thông tin nhu cầu xã
hội đang cần đối với các ngành nghề.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Danh Ánh (2003), Những nẻo đường lập nghiệp, Nxb Lao động xã hội.
2. A. G. Covaliov (1971), Tâm lý học cá nhân (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. A. G. Covaliov (1981), Tâm lý học đại cương, M.,.
4. A.V. Petrovski, M.G. Iarosepski (1990), Từ điển tâm lý học. M.,.
5. Nguyễn Ngọc Bích (1979), Động cơ chọn nghề của thanh thiếu niên, Luận án Phó Tiến sĩ.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Tài liệu tập huấn Đổi mới phương pháp giáo dục hướng nghiệp, Hà
Nội. (Lưu hành nội bộ).
7. Climov E.A., (1971), Nay đi học, mai làm gì? ĐHSP I, Hà Nội.
8. Phạm Tất Dong (chủ biên) (2002), Hoạt động giáo dục hướng nghiệp (Sách giáo khoa thí điểm),
Nhà xuất bản Giáo dục.
9. Phạm Tất Dong (chủ biên) (1990), Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông, Hà Nội.
10. Phạm Tất Dong, Quan điểm giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ thông Việt Nam theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội IX.
11. Phạm Tất Dong, Định hướng hoạt động lao động, hướng nghiệp phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước từ 1991-2000.
12. Phạm Tất Dong (1989), Giúp bạn chọn nghề, Nhà xuất bản Giáo dục.
13. Nguyễn Hữu Dũng (2005), Thị trường lao động và định hướng nghề nghiệp cho thanh niên, NXB
Lao động Xã hội.
14. Golomxtoc A.F (1969), Nhà trường và sự lựa chọn nghề nghiệp, M.,.
15. Đỗ Thị Lệ Hằng, Lịch sử phát triển và các mô hình tham vấn hướng nghiệp trên thế giới, Tạp chí
Tâm lý học số 6/2010.
16. Holland J.L. (1985), Lựa chọn nghề nghiệp: Lý thuyết về tính cách nghề nghiệp và môi trường lao
động.
17. Nguyễn Văn Hộ (1998), Cơ sở sư phạm của công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông, NXB.
Giáo dục.
18. PGS. TS. Nguyễn Văn Hộ, Một số cơ sở lý luận về công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ
thông.
19. PGS. Lê Văn Hồng (chủ biên) (1998), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Nhà xuất bản
Giáo dục.
20. Phạm Mạnh Hùng (2006), Giáo trình Chuyên đề tâm lý học nghề nghiệp, Nhà xuất bản Hà nội.
21. Đặng Thị Thanh Huyền (2001), Giáo dục phổ thông với phát triển chất lượng nguồn nhân lực -
Những bài học thực tiễn từ Nhật Bản, NXB. KHXH. Hà nội.
22. John Arnold (2004), Tâm lý học lao động (Work psychology), Nhà xuất bản Prentice Hall.
23. K.K. Platonop, Tâm lý học lao động.
24. Kasina MP (chủ biên) (1979), Chuẩn bị cho học sinh bước vào cuộc sống và lao động, M. ,.
25. Phùng Đình Mẫn (chủ biên) (2004), Một số vấn đề cơ bản về hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở
trường Trung học Phổ thông, Nhà xuất bản Giáo dục.
26. Nguyễn Ngọc Minh (2007), Nhận thức của giáo viên về tư vấn hướng nghiệp trong nhà trường
trung học phổ thông, Luận văn thạc sĩ.
27. Phan Thị Tố Oanh (1996), Nghiên cứu nhận thức nghề và lựa chọn nghề của học sinh THPT, Luận
án tiến sĩ.
28. Platonop. K.K.(1972), Những vấn đề về năng lực, M, NXB Khoa học.
29. Nguyễn Thơ Sinh (2006), Tư vấn tâm lý căn bản, Nhà xuất bản Lao động.
30. Chu Văn Thảo (2006). Giải pháp quản lý nhằm đẩy mạnh công tác tư vấn hướng nghiệp cho học
sinh tại các Trung tâm KTTH-HN ở tỉnh Bắc Ninh.
31. Lê Khắc Thìn (1996), Tìm hiểu thực trạng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh lớp 12 và công tác
hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông, Luận văn thạc sĩ.
32. Trần Trọng Thủy (1997), Tâm lý học lao động, Tài liệu dùng cho học viên cao học.
33. Nguyễn Quang Uẩn (1989), Tâm lý học xã hội với sự nghiệp đổi mới đất nước, Hà Nội.
34. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) (1998), Tâm lý học đại cương, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà
Nội.
35. Viện Khoa học Giáo dục (1984), Hoạt động hướng nghiệp trong trường phổ thông (tập thể biên
soạn), NXB. Giáo dục.
PHỤ LỤC 1
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN LẦN I
Nhằm tìm hiểu nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh lớp 12 THPT tỉnh Kiên Giang, để từ
đó có thể giúp các em có nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn trong việc chọn nghề nghiệp tương lai,
mời các em tham gia đóng góp ý kiến của mình bằng cách trả lời đầy đủ các câu hỏi sau:
Họ tên: …………………………………… Giới tính ................ Dân tộc................
Lớp: ....... Trường: ……………………………………..............................................
Học lực trung bình học kỳ I: …………………………………………………………
Trình độ học vấn của cha:………… Nghề nghiệp: .....................................................
Trình độ học vấn của mẹ:………… Nghề nghiệp: .....................................................
Câu 1: Hiện tại em đang học lớp 12, vậy em có dự định gì cho tương lai? (một lựa chọn,
khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)
1. Tiếp tục học Đại học, Cao đẳng, THCN
2. Học nghề
3. Đi làm ngay
4. Vừa học nghề vừa làm việc
5. Làm kinh tế tại gia đình
6. Chưa có dự định
7. Dự định khác (ghi cụ thể) : .…………………………………………...
Câu 2: Em có dự định chọn cho mình một nghề cụ thể nào hay chưa? (một lựa chọn, khoanh
tròn số thứ tự mà các em chọn)
1. Đã lựa chọn (ghi cụ thể tên nghề sẽ chọn : …………………………… )
2. Chưa lựa chọn
Câu 3: Những yếu tố nào là lý do chính để em quyết định chọn nghề? (chọn 4 yếu tố quan trọng
nhất và khoanh tròn số thứ tự các yếu tố đã chọn)
1. Vì có thu nhập cao
2. Vì phù hợp với năng lực bản thân
3. Vì sở thích, đam mê
4. Vì nghề đang được ưa chuộng
5. Vì bạn bè chọn nhiều
6. Vì dễ xin việc
7. Theo nhu cầu thực tế xã hội.
8. Theo cảm tính.
9. Theo truyền thống gia đình.
10. Theo điều kiện kinh tế gia đình.
11. Theo điều kiện sức khỏe, tâm lý.
12. Lý do khác (ghi cụ thể): ………………………………………….
Câu 4: Em có dự định chọn cho mình một nghề từ khi nào? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ
tự mà các em chọn)
1. Lớp 10
2. Lớp 11
3. Lớp 12
4. Trước đó.
Câu 5: Khi lựa chọn nghề cho bản thân, em nghĩ mình đã hiểu biết đầy đủ về nghề nghiệp đã
chọn hay chưa? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)
1. Hoàn toàn chưa biết gì.
2. Hiểu biết rất ít.
3. Tương đối hiểu biết.
4. Hiểu rất rõ về nghề đã chọn.
Câu 6: Khi lựa chọn cho mình một nghề cụ thể, em có cần sự tư vấn, góp ý của người khác
không? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)
1. Có
2. Thỉnh thoảng
3. Không
Câu 7: Em có quan tâm đến tư vấn hướng nghiệp (tại các trung tâm, điểm tư vấn hoặc hoạt
động tư vấn tại trường; không phải ý kiến của gia đình, bạn bè, người thân) trước khi lựa chọn
nghề nghiệp hay không? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)
1. Rất quan tâm.
2. Tương đối quan tâm
3. Ít quan tâm.
4. Không quan tâm.
Câu 8: Khi lựa chọn nghề cho bản thân, các đối tượng có ảnh hưởng đến lựa chọn của em
như thế nào? (Đánh dấu x để cho điểm các yếu tố. Trong đó: 1 là không ảnh hưởng; 2 là ít ảnh
hưởng; 3 là tương đối ảnh hưởng; 4 là có ảnh hưởng; 5 là ảnh hưởng nhiều nhất)
STT Đối tượng ảnh hưởng 1 2 3 4 5
1 Gia đình
2 Thầy cô
3 Bạn bè
4 Các chuyên gia, tư vấn viên
5 Các phương tiện thông tin đại chúng
6 Đối tượng khác:…………………………….
Câu 9: Khi cần tư vấn để lựa chọn một ngành học hợp lý thì em thấy cần được tư vấn những
nội dung nào? (chọn 3 yếu tố quan trọng nhất và khoanh tròn vào số thứ tự các yếu tố đã chọn)
1. Điểm thi tuyển của các năm trước.
2. Tỷ lệ chọi của ngành ở các năm trước.
3. Khả năng có việc làm sau khi ra trường.
4. Cơ hội có thể học cao hơn.
5. Mức lương bình quân của việc làm sau khi ra trường.
6. Uy tín của cơ sở đào tạo.
7. Địa vị xã hội của nghề.
8. Yếu tố khác (ghi rõ): …………………………………………………………
Câu 10: Mức độ quan trọng của các nội dung cần được tư vấn như thế nào? (Đánh dấu x để
cho điểm các yếu tố. Trong đó: 1 là không quan trọng; 2 là ít quan trọng; 3 là tương đối quan trọng; 4
là quan trọng; 5 là rất quan trọng)
STT Yếu tố 1 2 3 4 5
1 Điểm thi tuyển của các năm trước
2 Tỷ lệ chọi của các năm trước
3 Khả năng có việc làm sau khi ra trường
4 Cơ hội có thể học cao hơn
5 Mức lương bình quân
6 Uy tín của cơ sở đào tạo
7 Địa vị xã hội của nghề
8 Yếu tố khác (ghi rõ)……………….
Câu 11: Những yếu tố sau quan trọng như thế nào đối với em khi lựa chọn cho mình một
nghề trong tương lai? (Đánh dấu x để cho điểm các yếu tố. Trong đó: 1 là không quan trọng; 2 là ít
quan trọng; 3 là tương đối quan trọng; 4 là quan trọng; 5 là rất quan trọng)
STT Yếu tố 1 2 3 4 5
1 Phù hợp với năng lực của bản thân
2 Nghề có địa vị trong xã hội
3 Phù hợp với sức khỏe bản thân
4 Có nhiều bạn lựa chọn nghề đó
5 Có thu nhập cao
6 Công việc không ràng buộc về thời gian
7 Phù hợp sở thích cá nhân
8 Dễ xin việc
9 Theo nhu cầu thực tế xã hội
10 Phù hợp với điều kiện kinh tế gia đình
11 Phù hợp với điều kiện sức khoẻ, tâm lý
12 Theo truyền thống gia đình
13 Yếu tố khác:………………………
Câu 12: Khi lựa chọn nghề cho bản thân, em thường gặp khó khăn gì? (khoanh tròn vào số thứ
tự mà các em chọn, chọn 3 yếu tố)
1. Nghề phù hợp sở thích nhưng không phù hợp năng lực của bản thân.
2. Nghề phù hợp sở thích và năng lực nhưng gia đình không đồng ý.
3. Nghề phù hợp sở thích và năng lực nhưng thu nhập thấp.
4. Nghề phù hợp sở thích và năng lực nhưng khả năng có việc làm thấp.
5. Nghề phù hợp sở thích và năng lực nhưng không có địa vị trong xã hội.
6. Nghề phù hợp sở thích và năng lực nhưng không đảm bảo đủ sức khỏe.
7. Nghề phù hợp sở thích và năng lực nhưng hướng phát triển không cao.
8. Khó khăn khác:…………………………………………………………
9. Khó khăn khác:…………………………………………………………
Câu 13: Theo em, để chọn cho mình một nghề phù hợp thì sự hiểu biết về thị trường lao động
cần thiết như thế nào? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)
1. Không cần thiết.
2. Ít cần thiết.
3. Tương đối cần thiết.
4. Cần thiết.
5. Rất cần thiết.
Câu 14: Khi lựa chọn cho mình một nghề, em có tìm hiểu về thị trường lao động đối với
ngành đó không? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)
1. Có
2. Có nhưng chưa kỹ.
3. Không.
Câu 15: Khi lựa chọn nghề, theo em những yếu tố sau của thị trường lao động quan trọng
như thế nào? (Đánh dấu x để cho điểm các yếu tố. Trong đó: 1 là không quan trọng; 2 là ít quan
trọng; 3 là tương đối quan trọng; 4 là quan trọng; 5 là rất quan trọng)
STT Yếu tố 1 2 3 4 5
1
Nhu cầu hiện nay của thị trường lao động nói chung đối
với nghề đó.
2
Khả năng đáp ứng của các cơ sở đào tạo đối với nghề
đó thời điểm hiện tại.
3
Định hướng, chính sách phát triển trọng điểm của nhà
nước.
4 Nhu cầu hiện nay của địa phương nơi mình đang sống.
5 Mức lương trung bình của nghề đó trên thị trường.
6 Điều kiện làm việc nói chung của nghề.
7 Hướng phát triển của nghề đối với bản thân.
8 Yếu tố khác:………..
Câu 16: Những người góp ý kiến cho em chọn nghề (bao gồm gia đình, bạn bè, thầy cô, người
quen, các tư vấn viên…) có tư vấn cho em về thị trường lao động khi lựa chọn nghề hay không?
(một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)
1. Có.
2. Có nhưng còn rất chung chung.
3. Không.
Câu 17: Em thường tìm hiểu về thị trường lao động từ những nguồn thông tin nào là chính?
(chọn 3 nguồn thông tin mà em thấy quan trọng nhất và khoanh tròn vào số thứ tự)
1. Gia đình.
2. Thầy cô
3. Bạn bè.
4. Các phương tiện thông tin đại chúng.
5. Các chuyên gia, tư vấn viên.
6. Từ các sinh viên trong các chương trình thanh niên tình nguyện hay hướng nghiệp.
7. Từ các buổi tọa đàm, giao lưu với doanh nghiệp.
8. Từ nguồn khác:…………………………………………………………………...
Câu 18: Đối với nghề định chọn, em có biết những yêu cầu của nghề (phẩm chất, kỹ năng…)
đối với người lao động hay không? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)
1. Có
2. Có nhưng còn chung chung
3. Không
Câu 19: Theo em, bên cạnh việc tìm hiểu ngành học mà mình chọn, thì việc chuẩn bị cho
mình những phẩm chất và kỹ năng chung nhất định là quan trọng như thế nào? (một lựa chọn,
khoanh tròn số thứ tự mà các em chọn)
1. Không cần thiết.
2. Ít cần thiết.
3. Tương đối cần thiết.
4. Cần thiết.
5. Rất cần thiết.
Câu 20: Các đối tượng đóng góp ý kiến để em chọn nghề nghiệp có tư vấn được cho em về các
phẩm chất, kỹ năng cần có của nghề đó hay không? (một lựa chọn, khoanh tròn số thứ tự mà các em
chọn)
1. Có
2. Có nhưng còn chung chung.
3. Không
Câu 21: Mức độ hài lòng của em về các hoạt động tư vấn trong thời gian qua như thế nào?
(Đánh dấu x để cho điểm các yếu tố. Trong đó:1 là rất không hài lòng; 2 là không hài lòng; 3 là khá
hài lòng; 4 là hài lòng; 5 là rất hài lòng)
STT Tổ chức 1 2 3 4 5
1 Hoạt động tư vấn của trường
2 Hoạt động tư vấn của các phương tiện truyền thông.
3 Hoạt động tư vấn của các tổ chức đoàn thể.
4 Toạ đàm với các doanh nghiệp
PHỤ LỤC 2
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN LẦN II
Nhằm tìm hiểu xu hướng, cũng như mức độ quan trọng, và sự cần thiết của tư vấn hướng nghiệp
đối với việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai của các em học sinh lớp 12 THPT tỉnh Kiên Giang, để từ
đó có thể điều chỉnh và đề ra các biện pháp cho hoạt động tư vấn hướng nghiệp tại các trường THPT,
mời các em tham gia đóng góp ý kiến của mình bằng cách trả lời đầy đủ các câu hỏi sau :
Họ tên: ……………………………………. Giới tính ................ Dân tộc....................
Lớp: ............. Trường: ……………………………………...............................................
Học lực trung bình học kỳ I: ……………………………………………………………
Ngành học đã đăng ký trong hồ sơ dự thi ĐH, CĐ: ……………………………………
Câu 1: Khi đưa ra quyết định trên em đã căn cứ vào đâu? (Chọn 3 yếu tố và khoanh tròn vào số
thứ tự các yếu tố đã chọn)
1. Có thu nhập cao.
2. Phù hợp năng lực bản thân.
3. Phù hợp sở thích, đam mê.
4. Nghề đang được ưa chuộng.
5. Theo xu hướng của bạn bè.
6. Dễ xin việc.
7. Nhu cầu thực tế của xã hội.
8. Theo cảm tính.
9. Theo truyền thống gia đình.
10. Điều kiện kinh tế gia đình.
11. Khả năng về sức khỏe, tâm lý.
12. Yếu tố khác:…………………………………………………………………….
Câu 2: Mức độ quan tâm của em đến tư vấn hướng nghiệp trước khi lựa chọn nghề nghiệp ?
(Một lựa chọn, khoanh tròn vào số thứ tự của yếu tố đã chọn)
5. Không quan tâm.
6. Ít quan tâm.
7. Tương đối quan tâm
8. Quan tâm
9. Rất quan tâm.
Câu 3: Các chương trình tư vấn hướng nghiệp có giải quyết được các thắc mắc, băn khoăn của
em trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp tương lai hay không? (Một lựa chọn, khoanh tròn vào số
thứ tự của yếu tố đã chọn)
1. Có
2. Có nhưng chưa sâu sắc lắm.
3. Không
Câu 4: Mức độ hài lòng của em về kết quả của các chương trình tư vấn? (Một lựa chọn, khoanh
tròn vào số thứ tự của yếu tố đã chọn)
1. Rất không hài lòng
2. Không hài lòng
3. Tương đối hài lòng.
4. Hài lòng
5. Rất hài lòng.
Câu 5: Theo em, việc thành lập phòng tư vấn hướng nghiệp tại mỗi trường THPT là cần thiết
hay không? (Một lựa chọn, khoanh tròn vào số thứ tự của yếu tố đã chọn)
1. Rất cần thiết.
2. Cần thiết.
3. Không cần thiết
4. Ý kiến khác : …………………………………………………………………
Câu 6: Ý kiến đóng góp cụ thể của em về cách thức và những nội dung cần tư vấn hướng nghiệp.
Về cách thức tổ chức họat động tư vấn:
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………
Về những nội dung cần tư vấn:
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………
……………………………
PHỤ LỤC 3
Phụ lục 3.1: Kiểm định mối tương quan giữa học lực và ngành nghề lựa chọn của học sinh (C2.2).
Case Processing Summary
Cases
Valid Missing Total
N Percent N Percent N Percent
HOC LUC * C2.2 471 76,0% 149 24,0% 620 100,0%
HOC LUC * C2.2 Crosstabulation
C2.2 Total
1 2 3 4 5 1
HOC
LUC
1 Count 16 7 11 31 32 97
% within C2.2 26,2% 12,1% 18,3% 16,2% 31,7% 20,6%
2 Count 36 32 33 87 52 240
% within C2.2 59,0% 55,2% 55,0% 45,5% 51,5% 51,0%
3 Count 9 19 16 73 17 134
% within C2.2 14,8% 32,8% 26,7% 38,2% 16,8% 28,5%
Total Count 61 58 60 191 101 471
% within C2.2 100,0% 100,0% 100,0% 100,0% 100,0% 100,0%
Chi-Square Tests
Value Df
Asymp. Sig. (2-
sided)
Pearson Chi-Square 28,874(a) 8 ,000
Likelihood Ratio 29,491 8 ,000
Linear-by-Linear
Association
,019 1 ,890
N of Valid Cases
471
a 0 cells (,0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 11,94.
Phụ lục 3.2: Kiểm định mối tương quan giữa giới tính với ngành nghề lựa chọn của học sinh.
Case Processing Summary
Cases
Valid Missing Total
N Percent N Percent N Percent
GIOI TINH * C2.2 471 76,0% 149 24,0% 620 100,0%
GIOI TINH * C2.2 Crosstabulation
C2.2 Total
1 2 3 4 5 1
GIOI
TINH
1 Count 16 19 53 49 52 189
% within C2.2 26,2% 32,8% 88,3% 25,7% 51,5% 40,1%
2 Count 45 39 7 142 49 282
% within C2.2 73,8% 67,2% 11,7% 74,3% 48,5% 59,9%
Total Count 61 58 60 191 101 471
% within C2.2 100,0% 100,0% 100,0% 100,0% 100,0% 100,0%
Chi-Square Tests
Value df
Asymp. Sig. (2-
sided)
Pearson Chi-Square 86,324(a) 4 ,000
Likelihood Ratio 90,222 4 ,000
Linear-by-Linear
Association
1,417 1 ,234
N of Valid Cases
471
a 0 cells (,0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 23,27.
Phụ lục 3.3: Kiểm định mối tương quan giữa địa bàn sinh sống với ngành nghề lựa chọn của học
sinh.
Case Processing Summary
Cases
Valid Missing Total
N Percent N Percent N Percent
TEN HUYEN * C2.2 471 76,0% 149 24,0% 620 100,0%
TEN HUYEN * C2.2 Crosstabulation
C2.2 Total
1 2 3 4 5 1
TEN
HUYEN
1 Count
21 18 9 17 15 80
% within C2.2 34,4% 31,0% 15,0% 8,9% 14,9% 17,0%
2 Count 10 2 7 23 11 53
% within C2.2 16,4% 3,4% 11,7% 12,0% 10,9% 11,3%
3 Count 5 6 2 2 3 18
% within C2.2 8,2% 10,3% 3,3% 1,0% 3,0% 3,8%
4 Count 25 32 42 149 72 320
% within C2.2 41,0% 55,2% 70,0% 78,0% 71,3% 67,9%
Total Count 61 58 60 191 101 471
% within C2.2 100,0% 100,0% 100,0% 100,0% 100,0% 100,0%
Chi-Square Tests
Value df
Asymp. Sig. (2-
sided)
Pearson Chi-Square 54,684(a) 12 ,000
Likelihood Ratio 53,201 12 ,000
Linear-by-Linear
Association
24,077 1 ,000
N of Valid Cases
471
a 4 cells (20,0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 2,22.
Phụ lục 3.4: Kiểm định mối tương quan giữa thành phần dân tộc của học sinh với ngành nghề
lựa chọn.
Case Processing Summary
Cases
Valid Missing Total
N Percent N Percent N Percent
DAN TOC * C2.2 471 76,0% 149 24,0% 620 100,0%
DAN TOC * C2.2 Crosstabulation
C2.2 Total
1 2 3 4 5 1
DAN
TOC
1 Count 39 35 54 162 83 373
% within C2.2 63,9% 60,3% 90,0% 84,8% 82,2% 79,2%
2 Count 18 16 6 14 15 69
% within C2.2 29,5% 27,6% 10,0% 7,3% 14,9% 14,6%
3 Count 4 7 0 15 3 29
% within C2.2 6,6% 12,1% ,0% 7,9% 3,0% 6,2%
Total Count 61 58 60 191 101 471
% within C2.2 100,0% 100,0% 100,0% 100,0% 100,0% 100,0%
Chi-Square Tests
Value df
Asymp. Sig. (2-
sided)
Pearson Chi-Square 39,410(a) 8 ,000
Likelihood Ratio 41,217 8 ,000
Linear-by-Linear
Association
11,117 1 ,001
N of Valid Cases
471
a 3 cells (20,0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 3,57.
Phụ lục 3.5: Kiểm định mối tương quan giữa trình độ học vấn của cha với ngành nghề lựa chọn
của học sinh.
Case Processing Summary
Cases
Valid Missing Total
N Percent N Percent N Percent
TRINH DO CHA * C2.2 311 50.2% 309 49.8% 620 100.0%
TRINH DO CHA * C2.2 Crosstabulation
C2.2 Total
1 2 3 4 5 1
TRINH DO
CHA
1 Count
10 6 2 9 13 40
% within C2.2 30.3% 14.6% 4.5% 7.5% 17.8% 12.9%
2 Count 14 14 13 40 18 99
% within C2.2 42.4% 34.1% 29.5% 33.3% 24.7% 31.8%
3 Count 8 20 17 55 30 130
% within C2.2 24.2% 48.8% 38.6% 45.8% 41.1% 41.8%
4 Count 1 1 12 16 12 42
% within C2.2 3.0% 2.4% 27.3% 13.3% 16.4% 13.5%
Total Count 33 41 44 120 73 311
% within C2.2 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Chi-Square Tests
Value df
Asymp. Sig. (2-
sided)
Pearson Chi-Square 33.447(a) 12 .001
Likelihood Ratio 34.498 12 .001
Linear-by-Linear
Association
7.748 1 .005
N of Valid Cases
311
a 2 cells (10.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 4.24.
Phụ lục 3.6: Kiểm định mối tương quan giữa trình độ học vấn của mẹ với ngành nghề lựa chọn
của học sinh.
Case Processing Summary
Cases
Valid Missing Total
N Percent N Percent N Percent
TRINH DO ME * C2.2 306 49.4% 314 50.6% 620 100.0%
TRINH DO ME * C2.2 Crosstabulation
C2.2 Total
1 2 3 4 5 1
TRINH
DO ME
1 Count 14 8 2 15 15 54
% within C2.2 37.8% 20.5% 5.1% 12.4% 21.4% 17.6%
2 Count 15 15 16 55 23 124
% within C2.2 40.5% 38.5% 41.0% 45.5% 32.9% 40.5%
3 Count 7 16 17 44 22 106
% within C2.2 18.9% 41.0% 43.6% 36.4% 31.4% 34.6%
4 Count 1 0 4 7 10 22
% within C2.2 2.7% .0% 10.3% 5.8% 14.3% 7.2%
Total Count 37 39 39 121 70 306
% within C2.2 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Chi-Square Tests
Value df
Asymp. Sig. (2-
sided)
Pearson Chi-Square 30.332(a) 12 .002
Likelihood Ratio 32.205 12 .001
Linear-by-Linear
Association
7.491 1 .006
N of Valid Cases
306
a 3 cells (15.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 2.66.
Phụ lục 3.7: Kiểm định mối tương quan giữa nghề nghiệp của cha với ngành nghề lựa chọn của
học sinh.
Case Processing Summary
Cases
Valid Missing Total
N Percent N Percent N Percent
NGHE NGHIEP
CHA * C2.2 471 76.0% 149 24.0% 620 100.0%
NGHE NGHIEP CHA * C2.2 Crosstabulation
C2.2 Total
1 2 3 4 5 1
NGHE
NGHIEP
CHA
Count
0 0 0 1 0 1
% within C2.2 .0% .0% .0% .5% .0% .2%
1 Count 31 30 15 33 37 146
% within C2.2 50.8% 51.7% 25.0% 17.3% 36.6% 31.0%
2 Count 7 2 8 22 1 40
% within C2.2 11.5% 3.4% 13.3% 11.5% 1.0% 8.5%
3 Count 5 10 8 53 15 91
% within C2.2 8.2% 17.2% 13.3% 27.7% 14.9% 19.3%
4 Count 7 11 18 48 31 115
% within C2.2 11.5% 19.0% 30.0% 25.1% 30.7% 24.4%
5 Count 11 5 11 34 17 78
% within C2.2 18.0% 8.6% 18.3% 17.8% 16.8% 16.6%
Total Count 61 58 60 191 101 471
% within C2.2 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Chi-Square Tests
Value df
Asymp. Sig. (2-
sided)
Pearson Chi-Square 66.477(a) 20 .000
Likelihood Ratio 72.429 20 .000
N of Valid Cases 471
a 6 cells (20.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is .12.
Phụ lục 3.8: Kiểm định mối tương quan giữa nghề nghiệp của mẹ với ngành nghề lựa chọn của
học sinh.
Case Processing Summary
Cases
Valid Missing Total
N Percent N Percent N Percent
NGHE NGHIEP ME * C2.2 471 76.0% 149 24.0% 620 100.0%
NGHE NGHIEP ME * C2.2 Crosstabulation
C2.2 Total
1 2 3 4 5 1
NGHE
NGHIEP
ME
Count
0 0 0 1 0 1
% within C2.2 .0% .0% .0% .5% .0% .2%
1 Count 29 25 11 22 29 116
% within C2.2 47.5% 43.1% 18.3% 11.5% 28.7% 24.6%
3 Count 8 11 5 51 10 85
% within C2.2 13.1% 19.0% 8.3% 26.7% 9.9% 18.0%
4 Count 4 5 9 24 21 63
% within C2.2 6.6% 8.6% 15.0% 12.6% 20.8% 13.4%
5 Count 20 17 35 93 41 206
% within C2.2 32.8% 29.3% 58.3% 48.7% 40.6% 43.7%
Total Count 61 58 60 191 101 471
% within C2.2 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Chi-Square Tests
Value df
Asymp. Sig. (2-
sided)
Pearson Chi-Square 69.234(a) 16 .000
Likelihood Ratio 69.478 16 .000
N of Valid Cases 471
a 5 cells (20.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is .12.
Kết quả ở bảng trên mất nhóm nghề số 2 của mẹ (ngư nghiệp) là do nhóm nghề này chiếm một tỉ
lệ rất thấp, không đáng kể (0,2%)
Phụ lục 3.9: Đánh giá các nguồn tư vấn về thị trường lao động
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid 1 233 37.6 37.6 37.6
2 361 58.2 58.2 95.8
3 26 4.2 4.2 100.0
Total 620 100.0 100.0
Phụ lục 3.10: Mức độ hiểu biết về yêu cầu của nghề đối với người lao động
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid 1 279 45.0 45.0 45.0
2 297 47.9 47.9 92.9
3 44 7.1 7.1 100.0
Total 620 100.0 100.0
Phụ lục 3.11: Đánh giá sự tư vấn về phẩm chất, kỹ năng của nghề
Frequency Percent Valid Percent
Cumulative
Percent
Valid 1 244 39.4 39.4 39.4
2 305 49.2 49.2 88.5
3 71 11.5 11.5 100.0
Total 620 100.0 100.0
PHỤ LỤC 4
TÀI LIỆU DÙNG TRONG THỰC NGHIỆM
1. Văn bản của UBND tỉnh Kiên Giang, Định hướng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang giai
đoạn 2010 - 2015.
2. Văn bản của Sở Giáo dục & Đào tạo, Định hướng phát triển giáo dục tỉnh Kiên Giang giai đoạn
2010 - 2015.
3. Văn bản của UBND tỉnh Kiên Giang, Danh mục ngành nghề ưu tiên đào tạo và thu hút nguồn nhân
lực chất lượng cao phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang.
4. Nhiều tác giả, Tôi chọn nghề (Tủ sách hướng nghiệp), Nhà xuất bản Kim Đồng
5. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (2009), Tài liệu tập huấn cán bộ Đoàn về nghề nghiệp, việc
làm, Hà Nội.
6. Nhiều tác giả, Chọn nghề - chọn tương lai (tập 1,2), Nhà xuất bản Trẻ
7. Quý Long, Chọn nghề, Nhà xuất bản Đồng Nai.
8. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hướng nghiệp và chọn nghề, Nhà xuất bản Kim Đồng.
9. Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Cẩm nang chọn nghề và việc làm, Nhà xuất bản Kim Đồng.
10. Cẩm nang hướng nghiệp Đại học Hoa Sen.
11. Danh mục ngành, chuyên ngành tuyển sinh 2010 Đại học Cần Thơ
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5545.pdf