Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tháng 01 năm 1993, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp Trung ương Đảng khoá VII đã ban hành Nghị quyết về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình (DS - KHHGĐ) nhằm giải quyết cơ bản về vấn đề dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số của nước ta. Văn kiện Đại hội IX của Đảng cũng khẳng định: “Chính sách dân số nhằm chủ động kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sứ
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1522 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo - Quản lý đối với pháp lệnh dân số, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phân bố dân cư hợp lý với quản lý dân số và phát triển nguồn nhân lực” [13, tr.107]. Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về chính sách dân số, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh dân số (PLDS) ngày 9/1/2003, Chủ tịch nước ký Lệnh ban hành ngày 22/1/2003, tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm hành lang pháp lý cho việc tổ chức thực hiện công tác dân số; điều chỉnh thống nhất, định hướng toàn diện vấn đề dân số, bao gồm quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư, chất lượng dân số, các biện pháp thực hiện công tác dân số.
Tuy nhiên, từ khi PLDS được ban hành, năm 2003 tỷ lệ dân số của cả nước lại tăng lên rõ rệt, từ 1,32% năm 2002 lên 1,47% năm 2003, tương đương mức tăng của năm 1999. Đến năm 2004 - 2005, xu hướng tăng dân số tuy bước đầu được kiểm soát nhưng cả nước vẫn không có khả năng thực hiện chỉ tiêu giảm mức tăng dân số xuống còn 1,22% vào năm 2005 như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra. Số liệu thống kê cho thấy, ở 38 tỉnh/ thành phố trong tổng số 64 tỉnh/thành phố của cả nước, mức sinh đã tăng lên [71, tr.3]. Điều đáng lo ngại là tỷ lệ sinh con thứ ba ở các thành phố lớn, như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tăng lên khá cao so với năm trước đó. Một số cán bộ công nhân viên và thậm chí cả đảng viên cũng lợi dụng sự thiếu chặt chẽ, chưa rõ ràng trong một vài điều của PLDS để sinh con thứ ba. Điều này cho thấy, kết quả đạt được của công tác dân số chưa thực sự vững chắc, chất lượng dân số thấp, vẫn chứa đựng nhiều yếu tố tiềm ẩn dẫn đến sự bùng nổ dân số trở lại.
Trước sự gia tăng dân số như vậy, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ. Nghị quyết nhấn mạnh, thực hiện chính sách dân số, DS - KHHGĐ là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trước mắt. Mục tiêu nhanh chóng đạt mức sinh thay thế đảm bảo trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chỉ có một hoặc hai con, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức 115 - 120 triệu người vào giữa thế kỷ XXI. Đồng thời nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần và cơ cấu nhằm cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để làm tốt những điều này, đòi hỏi các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các đoàn thể xã hội phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu thực hiện PLDS và Nghị quyết 47- NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ.
Trước tiên cần tiến hành những nghiên cứu đánh giá về nhận thức, thái độ và sự thực hiện PLDS của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (CBLĐ QL) các cấp. ở mỗi địa phương, khu vực có hướng điều chỉnh và truyền thông, hướng dẫn việc thực hiện PLDS nhằm đạt tới những mục tiêu mà chương trình quốc gia về dân số, dân số - phát triển (DSPT) đã đề ra. Nghiên cứu ở từng địa bàn của mỗi tỉnh đang trở thành một nhiệm vụ cấp thiết.
Yên Bái là một tỉnh miền núi phía Bắc, từ khi Nhà nước ban hành PLDS tỉ lệ sinh con thứ 3 tăng, trong đó có nhóm cán bộ, đảng viên. Năm 2002 tỉ lệ sinh con thứ 3 ở Yên Bái là 10,55%, 2003 là 12,9% đến năm 2004 mức này là 11,6%, năm 2005 là 12% và 6 tháng đầu năm 2006 là 12,45%. Như vậy, sau ba năm thực hiện PLDS, tỷ lệ sinh con thứ ba đều cao hơn mức của năm 2002. Đây là một điều đáng lo ngại ở tỉnh Yên Bái. Do vậy, chọn đề tài về “Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo - quản lý đối với pháp lệnh dân số” là đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn, góp phần giúp các cơ quan nhà nước thực hiện thành công những mục tiêu mà chương trình dân số, DSPT của Yên Bái đã đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua, do yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn, đã có không ít các công trình nghiên cứu trên các phương diện khác nhau về DS - KHHGĐ, DSPT, sức khoẻ sinh sản (SKSS). Tuy nhiên, nghiên cứu về tác động của PLDS tới nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng dân cư nhất là của CBLĐQL thì chưa có nhiều. Mới có một số công trình nghiên cứu được tập hợp như sau:
Tác giả Lê Thi đã có 2 bài viết.
Bài viết thứ nhất “Tác động của những yếu tố tâm lý đến sự gia tăng mức sinh nhanh hiện nay” (Tạp chí Dân số và phát triển số 12/2004). Tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân khách quan dẫn đến sự gia tăng dân số trở lại. Những yếu tố tâm lý đang hiện diện trong tâm thức của người Việt Nam. Người dân nhận thức sai lầm về PLDS, trong đó có nêu lên sự tự nguyện của người dân trong việc sinh con. Từ đó bài viết đề cập giải quyết những vấn đề tâm lý không thể áp đặt thô bạo, cần phải có lý lẽ thuyết phục, những biện pháp tiến hành tế nhị, sâu sắc mới có thể thành công.
Bài thứ hai “Gia tăng dân số đột biến sẽ làm trầm trọng thêm nạn nghèo đói và sự tụt hậu của Việt Nam” (Tạp chí dân số và phát triển số 2/2005). Tác giả đề cập đến hậu quả của sự gia tăng dân số dẫn đến đói nghèo khiến các chi phí cho y tế, giáo dục, văn hoá của Nhà nước không đáp ứng nổi. Tuy nhiên, đói nghèo do nhiều nguyên nhân nhưng vấn đề cơ bản chính là gia đình nghèo đông con. Vì vậy, cả xã hội phải tham gia công tác kế hoạch hoá trong việc sinh đẻ của các gia đình.
Tác giả Nguyễn Quỳnh Anh cũng có bài viết: “Pháp lệnh dân số nâng cao trách nhiệm của công dân, gia đình và xã hội” (Tạp chí Cộng sản số 27/ 2003). Tác giả đề cập đến một số quy định trong PLDS, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân về DS - KHHGĐ. Trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số.
Tác giả Nguyễn Thị Vũ Thành, Lê Cự Linh cũng đã có bài viết: “Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến sinh con thứ 3 trở lên ở Hà Nội” (Tạp chí dân số và phát triển số 6/2005). Tác giả chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến việc sinh con thứ 3. Trong đó nghiên cứu cho thấy một bộ phận các cặp vợ chồng đã hiểu sai, hoặc cố ý làm sai PLDS.
Bên cạnh đó còn có luận văn thạc sỹ Xã hội học của Nguyễn Hữu Cường (2005) về đề tài “Cán bộ các ban Đảng với việc thực hiện các chủ trương, chính sách dân số - phát triển/sức khoẻ sinh sản”, đã đi sâu phân tích, đánh giá, dự báo về xu hướng biến đổi và đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao nhận thức, thái độ và sự tham gia tích cực, có hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức các ban Đảng vào công tác xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách DSPT/SKSS.
Nghiên cứu “Đánh giá thái độ của các nhóm đối tượng đối với các qui định của chính sách DS - KHHGĐ” do TS. Nguyễn Đức Mạnh và các cộng sự thực hiện vào năm 2005 cũng đã chỉ rõ thực trạng nhận thức và thái độ của các nhóm đối tượng đối với một số quy định của chính sách DS - KHHGĐ và PLDS như: các quy định về tuổi kết hôn; về quy mô gia đình; về khoảng cách giữa các lần sinh; về không phân biệt giới tính; cấm lựa chọn giới tính thai nhi qua siêu âm; các quy định về sử dụng các biện pháp tránh thai; khám thai đối với phụ nữ mang thai; nạo phá thai, về phòng tránh các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/ADIS; các quy định giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản vị thành niên. Trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm góp phần bổ sung, sửa đổi hoàn thiện chính sách phù hợp với yêu cầu công tác DS - KHHGĐ trong thời gian tới.
Ngoài ra, khi tìm hiểu về nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ đảng viên với chính sách dân số đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập ở những góc độ khác nhau. Tuy những nghiên cứu này được thực hiện vào thời điểm trước PLDS nhưng chúng đã cung cấp những nội dung, phương hướng, cách thức tiếp cận với vấn đề mà luận văn này đang hướng tới. Có thể kể tới một số công trình nghiên cứu sau: Đề tài nghiên cứu khoa học về “Nhận thức, thái độ và thực hiện của đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và tổ chức đảng đối với Nghị quyết về chính sách DS - KHHGĐ” do TS. Đào Trọng Cảng và cộng sự tiến hành năm 1994 - 1995; “Thực trạng nhận thức và chỉ đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, sau 2 năm thực hiện Nghị quyết TW4 của Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ” do GS. Chung á và cộng sự tiến hành năm 1993 - 1995. Các nghiên cứu này đã khẳng định vai trò quan trọng của các cấp uỷ Đảng và CBLĐQL trong việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác DS - KHHGĐ. Những vấn đề liên quan đến nhận thức, thái độ và hành vi lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chương trình dân số, DS - KHHGĐ của CBLĐQL các cấp cũng đã được đề cập. Trên cơ sở này mà đề xuất một số khuyến nghị có giá trị thiết thực như: Nhanh chóng trang bị những kiến thức cơ bản và cần thiết về DS - KHHGĐ cho CBLĐQL ở các cấp; nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý này. Tăng cường đầu tư kinh phí và trang thiết bị cho các địa phương để thực hiện công tác DS - KHHGĐ.
Năm 1997, PGS.TS. Nguyễn Hữu Tri đã thực hiện đề tài“Đánh giá nhận thức và vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện chính sách DS - KHHGĐ”. Đề tài đã tiến hành nghiên cứu trên 20 đơn vị thuộc ba miền: Bắc, Trung và Nam. Đề tài tập trung vào việc đánh giá mức độ nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện các chính sách DS - KHHGĐ. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị cụ thể nhằm nâng cao vai trò và nhận thức của cán bộ quản lý hành chính nhà nước đối với các vấn đề liên quan đến DS - KHHGĐ.
Năm 1999, nghiên cứu của Hoàng Xuân Trường, TS. Nguyễn Phương Hồng đã tiến hành “Khảo sát, đánh giá vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và cán bộ chủ chốt các cấp trong việc thực hiện Nghị quyết TW4 (Khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ ở nước ta”. Nghiên cứu này đã chỉ ra thực trạng lãnh đạo của các tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể xã hội ở tỉnh, huyện và cơ sở trong việc thực hiện Nghị quyết TW4 (Khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ. Qua đó đề xuất và khuyến nghị, các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của tổ chức đảng và cán bộ chủ chốt với công tác DS - KHHGĐ.
Năm 2001, trong khuôn khổ dự án VIE/97/P16 do Trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội thuộc Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương đã tiến hành đề tài: “Nghiên cứu nhận thức, thái độ và sự tham gia của các nhà lãnh đạo, quản lý và chuyên gia các cấp trong việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách dân số - SKSS và phát triển”. Công trình này đề cập đến nhận thức, thái độ và hoạt động tuyên truyền vận động với sự tham gia của các nhà lãnh đạo, quản lý, các chuyên gia, những người có uy tín trong cộng đồng trong hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách, chương trình DSPT/SKSS. Trên cơ sở đó đề xuất các khuyến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thông tin, tuyên truyền về các chủ trương, chính sách, chiến lược DSPT/SKSS.
Có thể thấy rằng, các nghiên cứu về nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL với dân số, DSPT/SKSS là khá phong phú. Các nghiên cứu đã góp phần làm rõ thực trạng nguyên nhân, xu hướng biến chuyển trong nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL với công tác dân số, DS - KHHGĐ và DSPT trong thời gian qua. Song đến nay vẫn chưa có những công trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn diện và sâu sắc tác động của PLDS với nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng dân cư nhất là của nhóm CBLĐQL các cấp. ở địa phương như Yên Bái, các công trình nghiên cứu như vậy càng hiếm hơn. Do vậy, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài "Nhận thức, thái độ và hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số" làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ xã hội học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Luận văn tập trung vào làm rõ thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL ở tỉnh Yên Bái đối với PLDS, trên cơ sở này đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn chỉnh PLDS và các văn bản có liên quan, nâng cao hiệu lực và hiệu quả việc thực hiện PLDS.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được các mục tiêu trên luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản sau:
- Xác định và làm rõ một số khái niệm đặt cơ cở cho việc nghiên cứu như: nhận thức, thái độ, hành vi, PLDS, CBLĐQL.
- Xác định cơ sở lý luận và những lý thuyết xã hội học cho việc nghiên cứu như lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và các lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết dân số.
- Thu thập, phân tích các tài liệu có sẵn và khảo sát xã hội học để chỉ ra thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với việc tiếp thu, thực hiện PLDS và những văn bản có liên quan.
- Xác định những yếu tố tác động đến nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS.
- Dự báo xu hướng và đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp góp phần hoàn chỉnh PLDS và nâng cao nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL trong việc cụ thể hoá và thực hiện có hiệu quả PLDS.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu:
Nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL các cấp tỉnh, huyện và cơ sở xã, phường của Yên Bái với PLDS.
* Khách thể nghiên cứu:
Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp ở tỉnh Yên Bái.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: tỉnh Yên Bái.
- Thời gian: Từ sau khi ban hành PLDS (2003) đến nay.
5. Giả thuyết nghiên cứu, hệ biến số và khung lý thuyết của luận văn
* Giả thuyết nghiên cứu:
- PLDS có điểm quy định thiếu rõ ràng nên một bộ phận CBLĐQL có nhận thức, thái độ và hành vi chưa đúng.
- Công tác truyền thông về PLDS chưa đồng bộ, thiếu nhất quán nên một bộ phận CBLĐQL quán triệt chưa cụ thể, thiếu rõ ràng nên thực hiện pháp lệnh chưa tốt.
- Nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS phụ thuộc khá nhiều vào đặc điểm cá nhân như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, dân tộc, cấp công tác và khối công tác.
* Khung lý thuyết:
Hành vi:
- Gương mẫu thực hiện.
- Tham gia tổ chức thực hiện.
- Tuyên truyền, vận động
Tuổi
Cán bộ lãnh đạo, quản lý
Giới tính
Môi trường KT -XH
Thái độ:
- ủng hộ hay không ủng hộ.
- Tích cực hay không tích cực.
Học vấn
Chính sách dân số
Dân tộc
Pháp lệnh dân số
Cấp công tác
Nhận thức:
- Nội dung PLDS.
- Trách nhiệm cá nhân đối với PLDS.
- Trách nhiệm của cơ quan đối với PLDS.
- Nghị quyết 47/ BCT.
Khối công tác
*Hệ biến số:
Đề tài đã xác định hệ thống các biến số như sau:
+ Biến số độc lập:
Đặc điểm cá nhân:
- Độ tuổi.
- Giới tính.
- Học vấn : Trung học phổ thông, trung cấp, cao đẳng trở lên.
- Dân tộc.
- Cấp công tác: Cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, phường.
- Khối công tác: Khối Đảng, khối chính quyền, khối đoàn thể, khối doanh nghiệp.
+ Biến số phụ thuộc:
Nhận thức:
- Thời điểm ra đời của PLDS.
- Pháp lệnh dân số quy định về trách nhiệm công dân.
- Những quy định của PLDS về trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị.
- Tiếp thu PLDS qua kênh truyền thông nào? hình thức nào?
- Truyền thông có gì khác biệt giữa các kênh khác nhau.
- Mức hiểu biết về Nghị quyết số 47- NQ/TW của Bộ Chính trị
Thái độ:
- Pháp lệnh dân số ra đời đúng thời điểm chưa?
- Mức độ ủng hộ của CBLĐQL đối với sự ra đời của PLDS
- Cán bộ có sẵn sàng tiếp thu tổ chức thực hiện PLDS không?
- Mức độ cần thiết ban hành Nghị quyết số 47- NQ/TW của Bộ Chính trị.
Hành vi:
- Gương mẫu thực hiện.
- Tuyên truyền vận động người khác thực hiện.
- Tham gia tổ chức chỉ đạo thực hiện: Nêu ý kiến sửa đổi, tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và đầu tư nguồn lực.
+ Biến trung gian:
Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và môi trường kinh tế xã hội.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận:
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước về dân số và chính sách DS - KHHGĐ và DSPT/SKSS.
- Dựa trên các lý thuyết xã hội học như: Lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết dân số.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Luận văn sử dụng các phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu sau:
+ Phương pháp nghiên cứu định tính:
- Phân tích tài liệu có sẵn: Thu thập và phân tích các tài liệu bao gồm: các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài; Niên giám thống kê của tỉnh; Các báo cáo về công tác DS - KHHGĐ và DSPT/SKSS của tỉnh từ năm 2002 đến nay.
- Phỏng vấn sâu 12 cuộc, trong đó CBLĐQL thuộc cơ quan đảng (3 cuộc), uỷ ban nhân dân (3 cuộc), hội đồng nhân dân (3 cuộc), tổ chức đoàn thể (3 cuộc).
+ Phương pháp nghiên cứu định lượng:
Đề tài thực hiện điều tra xã hội học 300 phiếu trưng cầu ý kiến.
+ Giới tính người trả lời :
Nam giới : 67%
Nữ giới : 33%
+ Về độ tuổi:
Dưới 30 tuổi : 15,9%
Từ 31 - 40 tuổi : 31,4%
Từ 41 - 50 tuổi : 46,2%
Trên 51 tuổi : 6,5%
+ Về dân tộc:
Kinh : 78,3%
Dân tộc thiểu số : 21,7%
+ Học vấn:
Trung học phổ thông : 6,7%
Trung cấp : 25,7%
Cao đẳng trở lên : 67,6%
+ Khối cơ quan:
Khối Đảng : 19,7%
Khối chính quyền : 54,0%
Khối đoàn thể : 17,7%
Khối doanh nghiệp : 8,6%
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* ý nghĩa lý luận:
Trên cơ sở vận dụng các lý thuyết xã hội học như lý thuyết cơ cấu chức năng, lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết dân số để phân tích và lý giải hành vi của nhóm CBLĐQL với việc giải quyết vấn đề dân số, DSPT, thực hiện PLDS. Luận văn sẽ góp phần làm rõ tính quy luật trong hành vi của CBLĐQL trong việc sinh sản và nâng cao chất lượng dân số.
* ý nghĩa thực tiễn:
- Đề tài góp phần làm rõ thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của đội ngũ CBLĐQL các cấp trong việc thực hiện PLDS ở một tỉnh miền núi phía Bắc có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Trên cơ sở này mà góp phần đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao năng lực cũng như sự tham gia tích cực, có hiệu quả của CBLĐQL vào quá trình hoàn chỉnh và thực hiện PLDS.
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, cho đội ngũ giáo viên, học viên trong hệ thống trường chính trị khi tiếp cận và tham gia tuyên truyền, thực hiện PLDS.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 10 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS
Chương 3: Một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn chỉnh và nâng cao chất lượng thực hiện PLDS
Chương 1
Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Nhận thức
Theo từ điển Tiếng Việt, nhận thức là nhận ra và biết được, hiểu được về một ai đó, một vấn đề hay một hiện tượng nào đó [36, tr. 89].
Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy, là quá trình con người nhận biết và hiểu biết thế giới khách quan. Quá trình ấy đi từ cảm giác đến tri giác, từ tri giác đến tri thức. Diễn ra ở mấy mức độ:
- Kinh nghiệm hàng ngày về các đồ vật và người khác, mang tính tự phát, thường hỗn hợp với tình cảm, thành kiến, thiếu hệ thống.
- Khoa học, các khái niệm được kiến tạo một cách chặt chẽ, có hệ thống, với ý thức về phương pháp và những bước đi của tư duy để chứng nghiệm đúng sai.
Ngày nay đa số các nhà khoa học cho rằng nhận thức là một quá trình tiếp cận, tiến đến gần chân lý, nhưng không bao giờ ngừng ở một trình độ nào vì không bao giờ nắm bắt hết toàn bộ hiện thực, phải thải loại dần những cái sai, tức không ăn khớp với hiện thực, đi hết bước này sang bước khác [84, tr.250].
Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với Pháp lệnh dân số:
Là quá trình phản ánh, thu nhận những kiến thức về PLDS. Nghiên cứu này chú trọng tới việc tìm hiểu mức độ hiểu biết của đối tượng hay khối lượng kiến thức mà đối tượng nắm được về năm ban hành và cơ quan ban hành PLDS; Hiểu biết một số quy định về nội dung trong PLDS như: Hiểu biết đối với quy định về quy mô gia đình 1-2 con; về khoảng cách giữa các lần sinh; về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình (KHHGĐ) (Điều 10); Hiểu biết đối với quy định cấm lựa chọn giới tính thai nhi; về quy định các biện pháp thực hiện KHHGĐ và về quy định các biện pháp nâng cao chất lượng dân số; Ngoài ra còn là hiểu biết về Nghị quyết 47-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ; Hiểu biết quy định về các biện pháp thực hiện công tác dân số.
1.1.2. Thái độ
Theo từ điển xã hội học, thái độ của một cá nhân đối với một đối tượng là một trong những nhân tố chính gắn với cá nhân và quyết định ứng xử của cá nhân đối với đối tượng [16, tr.443].
Chúng ta có thể hiểu thái độ là cách nghĩ, cách nhìn, cách hành động theo hướng nào đó trước một vấn đề.
Thái độ xuất phát chủ yếu từ những thông tin nhận được về các đối tượng, các sự vật, hiện tượng. Có thể là thông tin trực tiếp phát ra từ đối tượng, cũng có thể là gián tiếp do người khác cấp cho.
Thái độ của một người trước một sự kiện xã hội thông qua sự tán thành hoặc phản đối, thông qua hành vi tham gia hoặc không tham gia sự kiện đó. Thái độ của một người bị quy định bởi các yếu tố xã hội phụ thuộc vào các khuôn mẫu xã hội.
Theo từ điển Tâm lý, trước một số đối tượng nhất định như hàng hoá hoặc một ý tưởng nào (chính trị, tôn giáo, triết lý), nhiều người thường có những phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay chống đối, như đã sẵn có những cơ cấu tâm lý tạo ra định hướng cho việc ứng phó, đó là thái độ [84, tr.346].
Thái độ của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với Pháp lệnh dân số:
Là những quan điểm của đối tượng về PLDS. Nó được thông qua việc đánh giá về mức độ ủng hộ hay không ủng hộ một số quy định trong nội dung PLDS. Thái độ đối với ý nghĩa, tầm quan trọng của PLDS; Mức độ ủng hộ hay không ủng hộ việc tìm hiểu và thực hiện PLDS.
1.1.3. Hành vi
Mọi phản ứng của một cá nhân khi bị một yếu tố nào trong môi trường kích thích; các yếu tố bên ngoài và tình trạng bên trong gộp thành một tình huống và tiến trình ứng xử để thích ứng có định hướng, mục tiêu nhằm giúp chủ thể thích nghi với hoàn cảnh thì gọi là hành vi.
Theo từ điển Tiếng việt, hành vi là toàn bộ nói chung những phản ứng, cách cư xử, biểu hiện ra ngoài của một người trong hoàn cảnh cụ thể nhất định [36, tr.25].
Hành vi là sự chuyển tải nhận thức, thái độ thành việc làm cụ thể. Hành vi của con người ở mức độ cao là được học tập và có thể thay đổi bởi ảnh hưởng của những động viên hoặc kích thích thay đổi được của môi trường. Theo Max Weber, hành vi xã hội là điểm xuất phát của mọi quá trình xã hội. Theo Parsons, muốn giải thích một hiện tượng xã hội nào phải quy về những hành vi cá nhân sơ đẳng, coi như một sự kiện, một dữ kiện riêng.
Như vậy, hành vi bao giờ cũng phát triển trong hệ thống cưỡng chế ít hay nhiều rõ rệt đối với chủ thể. Tuy vậy nó cũng không phải hoàn toàn do các cơ cấu xã hội khách quan quy định. Nó là hành vi cá nhân diễn ra trong quá trình xã hội hoá, nó còn dựa vào những ý định và động cơ của chủ thể hành vi, cũng như vào những phương tiện thực hiện hành vi của chủ thể [83, tr.125].
Hành vi của cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với pháp lệnh dân số:
Là một dạng hoạt động xã hội có mục đích của nhóm xã hội - CBLĐQL gắn với sự cần thiết phải đáp ứng những nhu cầu căn bản của quá trình nhận thức về PLDS. Hành vi nghiêm túc hay gương mẫu trong việc thực hiện PLDS; tuyên truyền vận động người khác thực hiện; Tham gia tổ chức thực hiện như nêu ý kiến sửa đổi, tuyên truyền vận động, tổ chức lãnh đạo; Tham gia đầu tư nguồn lực cho việc thực hiện PLDS.
1.1.4. Cán bộ lãnh đạo, quản lý
* Cán bộ, theo nghĩa chung nhất, là khái niệm chỉ người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước. Theo nghĩa hẹp, cán bộ chỉ người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, không có chức vụ [54, tr.121].
* Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức động viên thực hiện chúng [17, tr.540]. Lãnh đạo thường nhấn mạnh đến chức năng định hướng về tư tưởng, sắp xếp về cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của một hệ thống xã hội nào đó.
* Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định [17, tr.540]. Quản lý ở một góc độ nhất định thường nhấn mạnh đến chức năng điều hành, tổ chức những công việc hoặc những hoạt động cụ thể. Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý vào khách thể quản lý, hướng khách thể quản lý đến những mục tiêu đã được xác định trước.
Lãnh đạo và quản lý là hai lĩnh vực khác nhau nhưng không hoàn toàn tách biệt mà gắn bó mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau thống nhất chặt chẽ trong hoạt động của những người có chức vụ trong hệ thống tổ chức xã hội. Không nên hiểu lãnh đạo là chức năng riêng của cơ quan Đảng, cán bộ Đảng; quản lý là chức năng riêng của cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước. Trên thực tế, không có cán bộ Đảng nào chỉ lãnh đạo về mặt chính trị mà không quản lý, không có cán bộ chính quyền nào chỉ quản lý các hoạt động kinh tế, xã hội, dân cư...mà không lãnh đạo.
Như vậy, trong luận văn sử dụng khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý là chỉ những người giữ cương vị nhất định, thường là cấp trưởng, cấp phó của các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị hiện nay.
1.1.5. Pháp lệnh dân số
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, Pháp lệnh là văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan thường trực của Quốc hội ban hành. Theo quy định (điều 91) của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) Uỷ ban thường vụ Quốc hội “ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao”. Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành và phải được công bố chậm nhất là 15 ngày. Quyền công bố pháp lệnh thuộc về Chủ tịch nước (Điều 103, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992). Theo quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, sau một thời gian thực hiện và hoàn thiện, Quốc hội sẽ xem xét để quyết định ban hành thành luật (điều 21). Điều 47 luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định trình tự xem xét, thông qua dự án pháp lệnh tại phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Sau khi pháp lệnh được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua, Chính phủ ban hành nghị định quy định chi tiết thực hiện pháp lệnh. Quyền giải thích pháp lệnh thuộc về Uỷ ban thường vụ Quốc hội [21, tr.419].
Dân số: Là tập hợp người sinh sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính (Khoản 1, điều 3 PLDS )
Pháp lệnh dân số: Là văn bản qui phạm pháp luật, là cơ sở pháp lý bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện công tác dân số và nâng cao trách nhiệm của công dân, gia đình, Nhà nước và xã hội trong công tác dân số. PLDS điều chỉnh toàn diện vấn đề dân số, bao gồm qui mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và chất lượng dân số, các biện pháp thực hiện công tác dân số.
Theo những văn bản có tính pháp quy về dân số thì:
+ Quy mô dân số: Là số người sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính tại thời điểm nhất định (Khoản 2, điều 3 PLDS). Quan niệm này cho thấy, quy mô dân số sẽ chẳng có ý nghĩa khi xét độc lập về mặt số lượng đơn thuần, nó chỉ thực sự có ý nghĩa khi so sánh chúng với nhau theo thời gian và khi xét chúng trong mối quan hệ với không gian mà con người sinh sống, nghĩa là theo quốc gia, khu vực, vùng địa lý hoặc một đơn vị hành chính. Quy mô dân số chỉ có ý nghĩa khi so sánh về tốc độ thay đổi của nó với những đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và sự phát triển nói chung của xã hội.
+ Cơ cấu dân số: Là tổng số dân được phân loại theo giới tính, độ tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc trưng khác (Khoản 3, điều 3 PLDS). Cơ cấu dân số phản ánh các đặc trưng của mỗi lớp người và của toàn bộ dân số. Các đặc trưng về giới tính, độ tuổi phản ánh về mặt nhân khẩu học; các đặc trưng về dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn phản ánh về mặt xã hội; các đặc trưng về nghề nghiệp, trình độ chuyên môn phản ánh về mặt kinh tế; các đặc trưng về giai cấp, thành phần xã hội phản ánh về mặt chính trị. Như vậy, việc phân loại tập hợp người theo các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng được hiểu chung như là cơ cấu xã hội của tập hợp người theo các đặc trưng cụ thể.
+ Chất lượng dân số: là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số (Khoản 6, điều 3 PLDS). Hiện nay có rất nhiều đặc trưng phản ánh trạng thái về thể chất, trí tuệ và tinh thần, nên việc đo lường đánh giá chất lượng dân số là rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Có thể gộp các đặc trưng thành 5 nhóm: Thu nhập và phúc lợi; sức khoẻ và dinh dưỡng; giáo dục và phát triển trí tuệ; giải trí văn hoá và tinh thần; môi trường sống.
+ Công tác dân số: Là việc quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động tác động đến quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và nâng cao chất lượng dân số (Khoản 10, điều 3 PLDS). Quan niệm này cho thấy, dân số là một tập hợp người nên mọi hoạt động kinh tế - xã hội đều tác động đến mỗi người và tập hợp người. Do đó, việc quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động dân số là hết sức cần thiết nhằm tác động và tác động có hiệu quả đến quá trình dân số để hình thành quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và chất lượng dân số phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong hiện tại và tương lai.
1.2. Một số lý thuyết xã hội học áp dụng trong nghiên cứu luận văn
1.2.1. Lý thuyết cơ cấu chức năng
Lý thuyết cơ cấu chức năng gắn liền với tên tuổi của các nhà xã hội học như Emile Durkheim, Talcott Parson, Robert Merton và nhiều nhà xã hội học khác.
Lý thuyết cơ cấu chức năng luôn nhấn mạnh đến tính liên kết chặt chẽ của các bộ phận cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng nhất định góp phần đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn định và bền vững.
Cấu trúc theo các tác giả của phương pháp tiếp cận chức năng có thể khái quát lại là kiểu quan hệ giữa con người và xã hội được định hình một cách ổn định, bền vững. Chức năng là nhu cầu, lợi ích, sự cần thiết, sự đòi hỏi, hệ quả, tác dụng mà một thành phần, bộ phận tạo ra hay thực hiện để đảm bảo sự tồn tại, vận động của cả hệ thống [23, tr.201].
Các luận điểm chính của việc tiếp cận cấu trúc chức năng đều nhấn mạnh tính cân bằng, ổn định và khả năng thích nghi của cấu trúc. Theo lý thuyết cơ cấu chức năng, một xã hội tồn tại được, phát triển là._. do các bộ phận cấu thành của nó hoạt động nhịp nhàng với nhau để đảm bảo sự cân bằng chung của cả cấu trúc; bất kỳ một sự thay đổi nào ở thành phần nào cũng kéo theo sự thay đổi ở các thành phần khác. Sự biến đổi của cấu trúc tuân theo quy luật tiến hoá, thích nghi khi môi trường sống thay đổi; sự biến đổi của cấu trúc luôn hướng tới thiết lập lại trạng thái cân bằng, ổn định [23, tr.199].
Tiếp cận chức năng hướng vào giải quyết vấn đề bản chất của cấu trúc xã hội và hệ quả của cấu trúc xã hội. Đối với bất kỳ sự kiện xã hội, hiện tượng xã hội nào, những người theo thuyết chức năng đều hướng vào việc phân tích các thành phần tạo nên cấu trúc của chúng, xem các thành phần đó có mối liên hệ với nhau như thế nào và đặc biệt xem xét quan hệ của chúng đối với nhu cầu chung của sự tồn tại, phát triển các sự kiện, hiện tượng đó. Ngoài ra lý thuyết cơ cấu chức năng còn đòi hỏi phải hướng vào tìm hiểu cơ chế hoạt động của từng thành phần để biết chúng có chức năng, tác dụng gì đối với sự tồn tại một cách cân bằng, ổn định của một cấu trúc xã hội [23, tr.199].
T. Parsons được coi như là đại biểu xuất sắc nhất đã phát triển lý thuyết cơ cấu chức năng lên mức hoàn thiện nhất hay lý thuyết cơ cấu chức năng đã được trình bày một cách có hệ thống nhất.
Về mặt lý thuyết, Parsons xem xét hệ thống trong một trục toạ độ 3 chiều: cấu trúc - chức năng - kiểm soát. Tức là hệ thống nào cũng có cấu trúc của nó, hệ thống luôn nằm trong trạng thái động vừa tự biến đổi, vừa trao đổi với môi trường xung quanh, hệ thống có khả năng điều khiển và tự điều khiển [23, tr.204].
Khi nghiên cứu cấu trúc của hành động xã hội, Parsons cho rằng cấu trúc của hành động được triển khai trên các cấp độ hệ thống khác nhau, trong đó hệ thống xã hội chỉ là một trong các hệ thống của nó. Ông cho rằng thông qua quá trình xã hội hoá cá nhân, hành động của con người hình thành và biểu hiện trên các cấp độ hệ thống từ cấp hành vi của cá thể lên cấp nhân cách, cấp xã hội và cấp văn hoá. Trong các hệ thống hành động trên (từ cấp hành vi đến cấp văn hoá) đều phải thích ứng với những vấn đề có tính chức năng, những nhu cầu của tổng thể hệ thống, đó là vấn đề thích nghi, hướng đích, thống nhất và duy trì khuôn mẫu. Các nhu cầu chức năng của hệ thống là những đòi hỏi mạnh đến mức nó buộc bộ phận nào hoạt động không đúng chức năng sẽ phải thay đổi thậm chí bị thu hẹp lại, hay phá bỏ đi hình thành bộ phận thay thế. Bộ phận nào hoạt động có hiệu quả sẽ trưởng thành, lớn mạnh.
Parsons đã đưa ra sơ đồ nổi tiếng về hệ thống chức năng xã hội, viết tắt là AGIL. Trong đó gồm bốn loại yêu cầu chức năng hợp thành: (A) thích ứng với môi trường; (G) Hướng đích - huy động các nguồn lực để đạt mục tiêu; (I) Liên kết, phối hợp các hoạt động; (L) Duy trì khuôn mẫu để tạo ra sự ổn định, trật tự [23, tr.206].
Tương ứng với sơ đồ trên, trong hệ thống xã hội, người ta có tiểu hệ thống kinh tế; tiểu hệ thống chính trị; tiểu hệ thống pháp luật và tiểu hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội được quy chuẩn thông qua các thiết chế gia đình, nhà trường, tổ chức văn hoá, tôn giáo.
Tương quan và tương tác AGIL sẽ đảm bảo trật tự, ổn định của hệ thống xã hội. Parson cho rằng các tiểu hệ thống quan hệ với nhau theo nguyên lý điều khiển học và theo nguyên lý chức năng để tạo thành một chỉnh thể toàn vẹn. Thực tế, các tiểu hệ thống trao đổi với nhau thông qua một loạt các phương tiện và công cụ xã hội.
Còn Merton cho rằng thuyết cấu trúc chức năng là sự giải thích một hiện tượng xã hội bằng cách chỉ ra hệ quả (chức năng) của nó đối với những cấu trúc mà nó là một bộ phận cấu thành. Theo ông các cấu trúc văn hoá mà cụ thể là hệ các giá trị xã hội là những yếu tố cơ bản để lý giải cơ chế hoạt động và phối hợp hoạt động của các thiết chế xã hội. Một trong những đóng góp lớn của Merton đối với lý thuyết chức năng trong xã hội học là việc phát hiện ra sự loạn chức năng còn gọi là phi chức năng hay phản chức năng. Theo ông phản chức năng là những hệ quả làm cản trở, thậm chí gây rối loạn, làm giảm khả năng tồn tại, thích ứng của cấu trúc. Điều này cho thấy hệ quả có thể là chức năng, tức là có lợi cho nhóm người này nhưng lại là phản chức năng, tức là có hại cho nhóm người kia.
Merton đã sử dụng triệt để cách phân tích chức năng luận để đưa ra lý thuyết về sự sai lệch xã hội. Ông cho rằng sự lệch chuẩn là sự không phù hợp, sự lệch pha giữa mục tiêu văn hoá và phương tiện được thiết chế hoá. Do xác định sai mục tiêu văn hoá hoặc chọn sai phương tiện mà hành động bị coi là lệch chuẩn, là sai lệch thậm chí là tội phạm. Merton đã phân biệt năm kiểu hành động thích nghi với xã hội đó là:
+ “Kiểu thoả hiệp: Khi cả mục tiêu văn hoá và phương tiện được chủ thể lựa chọn đều phù hợp với các hệ giá trị, chuẩn mực xã hội và do vậy được xã hội hoàn toàn chấp nhận.
+ Kiểu đổi mới: Đây là kiểu hành động nhằm mục tiêu đã được chấp nhận nhưng bằng những phương tiện và cách làm mà xã hội có thể chưa hay không chấp nhận.
+ Kiểu nghi thức: Đây là kiểu hành động tuân theo các thủ tục, các quy định và sử dụng các phương tiện được thừa nhận, nhưng lại không nhằm vào mục tiêu văn hoá được xã hội chấp nhận.
+ Kiểu thoái lui: Đây là kiểu hành động mà cả mục tiêu và phương tiện của nó đều không được chấp nhận.
+ Kiểu nổi loạn: Đây là kiểu hành động hướng tới mục tiêu mới được đặt ra để thay thế cho những mục tiêu cũ và sử dụng phương tiện mới thay thế cho phương tiện cũ.
Trong năm kiểu hành động này được sắp xếp trên cùng một trục ta thấy kiểu hành động thoả hiệp nằm ở cực “bình thường, đúng mực” đối lập với kiểu nổi loạn ở cực “bất thường, sai lệch”. Các kiểu hành động còn lại nằm dọc trên trục này, cụ thể sau “thoả hiệp” là “đổi mới”, tiếp đến là “nghi thức” rồi “thoái lui” và cuối cùng là “nổi loạn” [23, tr.214-215].
Merton nhấn mạnh sự khác biệt giữa các kiểu ứng xử xã hội chủ yếu là ở sự nhận thức và thái độ đánh giá của xã hội đối với từng biểu hiện của mục tiêu văn hoá và phương tiện được lựa chọn để thực hiện mục tiêu. Tiêu chuẩn để xác định mức độ đúng mực hay sai lệch của hành động phụ thuộc vào hệ quả của nó đối với xã hội. Điều này liên quan tới câu hỏi phương pháp luận của thuyết cấu trúc- chức năng mà Merton đặt ra đó là hành động xã hội có chức năng hay phản chức năng đối với những nhóm cụ thể nào [23, tr.215].
Theo hướng tiếp cận chức năng thì mọi xã hội từ bản chất nội tại của nó luôn có xu hướng tiến tới sự hài hoà và tự điều chỉnh tương tự như những cơ thể sinh học, giống như cơ thể con người là một thể thống nhất, mà các bộ phận riêng phải phục tùng những nhu cầu cụ thể của cả hệ thống. Xã hội là một hệ thống các thiết chế phụ thuộc lẫn nhau và tham gia tạo nên sự bền vững của tổng thể [37, tr.59].
áp dụng lý thuyết cơ cấu chức năng vào xem xét hệ thống tổ chức chính trị và chức năng của từng bộ phận CBLĐQL trong việc hoàn thành những nhiệm vụ chính trị, xã hội mà hệ thống đặt ra cho thấy, với PLDS CBLĐQL là người phải nghiêm túc thực hiện PLDS. Nhận thức của CBLĐ QL thế nào thì họ sẽ có thái độ, hành vi tương ứng như vậy. Tuy nhiên, hành vi của họ còn phụ thuộc vào vị thế, vai trò, những chuẩn mực văn hoá và hệ thống xã hội đã sắp xếp họ vào. Đây là cơ sở quan trọng để xem xét thái độ và hành động của CBLĐQL trong việc tổ chức thực hiện PLDS.
1.2.2. Lý thuyết hành động xã hội
Lý thuyết hành động xã hội gắn với tên tuổi nhiều nhà xã hội học, trong đó đặc biệt là M. Weber. Tiếp cận này coi hành động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ giữa con người và xã hội, đồng thời là cơ sở của đời sống xã hội của con người.
ở phương diện triết học, hành động xã hội là một hình thức hoặc cách thức giải quyết các mâu thuẫn, các vấn đề xã hội. Còn ở phương diện xã hội học, hành động xã hội được hiểu cụ thể hơn và thường gắn với các chủ thể của hành động là các cá nhân.
Một trong những khái niệm quan trọng nhất trong lý thuyết xã hội học của Max Weber là hành động xã hội. Weber đã sử dụng triệt để phương pháp luận để định nghĩa xã hội học là “khoa học giải nghĩa hành động xã hội và... tiến tới cách giải thích nhân quả về đường lối và hệ quả của hành động xã hội”[86, tr.4]. Theo quan điểm của Weber, xã hội học là khoa học có nhiệm vụ lý giải, tức là giải nghĩa, thông hiểu động cơ, ý nghĩa của hành động xã hội. Điều này cho thấy xã hội học vừa có đặc điểm tự nhiên, tức là giải thích nguyên nhân, điều kiện và hệ quả của hành động xã hội, vừa có đặc điểm của khoa học xã hội - nhân văn, tức là lý giải mục đích, nhu cầu, động cơ, ý nghĩa của hành động xã hội [12, tr.115].
Xã hội học phải là một khoa học giải thích các lý do của hành động xã hội, quá trình và tác động của chúng. Hành động có nghĩa là một thái độ của con người (tự có, hành động bên ngoài hoặc bên trong, không được phép hoặc được phép), khi và chỉ khi chủ thể gắn liền thái độ của mình với một ý nghĩa chủ quan. Hành động, cái ý nghĩa mà các tác nhân phản ảnh, có quan hệ với hành động của những người khác và diễn ra do sự định hướng của hành động này. M. Weber cho rằng xã hội học chỉ xem xét hành động chừng nào chủ thể có một ý nghĩa xác định cho những hành động của mình. Chỉ hành động như vậy mới có thể khiến nhà xã hội học quan tâm. Khái niệm hành động xã hội xác lập chỉ chừng nào chủ thể hành động gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan. Đối với M. Weber, đối tượng nghiên cứu của xã hội học là thứ hành động gắn với ý nghĩa được ám chỉ một cách chủ quan. Theo quan điểm của ông, xã hội học là khoa học về cái “hiểu” [11, tr.102-103]. Như vậy, hành động xã hội nghĩa là cơ sở của những động cơ chủ quan của cá nhân (hay nhóm) và sự định hướng đến người khác. Đây là hai điều kiện mà thiếu nó thì không thể nói đến hành động xã hội.
Trên cơ sở đó, M. Weber đã chỉ ra sự khác nhau giữa hành động xã hội và những hành vi và hoạt động khác của con người. Nói tới hành động là nói tới việc chủ thể gắn cho hành vi của mình một ý nghĩa chủ quan nào đó. Hành động, kể cả hành động thụ động và không hành động (ví dụ như hành động im lặng, hành động chờ đợi không làm gì cả) được gọi là hành động xã hội khi ý nghĩa chủ quan của nó có tính đến hành vi của người khác trong quá khứ, hiện tại hay trong tương lai; ý nghĩa chủ quan đó định hướng hành động [23, tr.177-178].
Theo quan điểm của M. Weber, không phải hành động nào cũng có tính xã hội hay đều là hành động xã hội. Những hành động nào chỉ nhằm tới các sự vật mà không tính đến hành vi của người khác thì không được gọi là hành động xã hội. Không phải tương tác nào của con người cũng là hành động xã hội. Chỉ những hoạt động nào có mục đích, chủ thể “hiểu” ý nghĩa của nó mới là “hành động xã hội” cần nghiên cứu. Theo hướng này M. Weber phân hành động xã hội thành 4 loại bao gồm:
+ “Hành động duy lý giá trị: Là hành động được thực hiện vì bản thân hành động (mục đích tự thân). Thực chất loại hành động này có thể nhằm vào những mục đích phi lý nhưng lại được thực hiện bằng những công cụ, phương tiện duy lý. Ví dụ hoạt động tín ngưỡng là một loại hành động duy lý giá trị.
+ Hành động cảm tính (xúc cảm): Là hành động do các trạng thái xúc cảm hoặc tình cảm bột phát gây ra, mà không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích mối quan hệ giữa công cụ, phương tiện và mục đích hành động. Những hành động này rất khó kiểm tra, vì nó mang tính tự phát, những hành động do cảm xúc cũng khó nghiên cứu. Ví dụ hành động của đám đông quá khích hay hành động do tức giận gây ra.
+ Hành động theo truyền thống: Là loại hành động tuân thủ những thói quen, nghi lễ, phong tục tập quán đã được truyền lại từ đời này qua đời khác như hành động theo người xưa, cổ nhân nói, hành động vì mọi người đều làm như thế cả…
+ Hành động duy lý - công cụ: Là hành động được thực hiện với sự cân nhắc, tính toán, lựa chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất. Ví dụ rõ nhất là hành động kinh tế luôn phải tính toán, lựa chọn phương pháp để đạt được năng suất, chất lượng, hiệu quả cao nhất có thể được” [23, tr.179-180].
Theo M. Weber, bốn loại hành động trên đây không tồn tại độc lập hoàn toàn với nhau mà có sự tác động và thâm nhập vào nhau. Ông coi bốn loại hình hành động này hết sức cần thiết đối với nhà nghiên cứu. Vấn đề là ở chỗ cần phải xác định được ranh giới của bốn loại hoạt động đó trong từng nền văn hoá khác nhau. Theo Weber, xã hội cấu thành từ các cá nhân với những hành động xã hội đặc trưng của họ. Tuy nhiên, trong bốn loại hành động trên, hành động duy lý - công cụ là hành động được thực hiện với sự cân nhắc, tính toán, lựa chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao cho có hiệu quả cao nhất.
Với những đặc trưng, tính chất nói trên, chúng ta có thể vận dụng thuyết hành động xã hội vào nghiên cứu nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS. ở đây, bên cạnh hành vi sinh sản của từng người cần phải xem xét hoạt động tổ chức, chỉ đạo, tuyên truyền thực hiện các chính sách dân số nhất là PLDS. Trong đó các yếu tố về chuẩn mực văn hoá, quan niệm về hạnh phúc gia đình, con cái chi phối thế nào đến hành vi sinh sản và sự tham gia tổ chức chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện PLDS của CBLĐQL là những điều cần phải chú ý.
1.2.3. Lý thuyết dân số
Quá độ dân số là lý thuyết được các nhà nhân khẩu học phương Tây đưa ra hơn nửa thế kỷ trước nhằm phân tích sự biến đổi dân số. Lý thuyết này cho rằng, sự phát triển dân số luôn tuân theo một quy luật nhất định và sự gia tăng dân số có quan hệ biện chứng với sự phát triển kinh tế - xã hội [85, tr.17]. Chính vì vậy, tiến trình phát triển dân số của các quốc gia thường phải đi qua 3 giai đoạn sau:
Giai đoạn trước quá độ có đặc trưng là mức sinh cao và ổn định còn mức chết cao và biến động. Sự không ổn định của tỷ suất tử là sự phản ánh những biến đổi trong nền kinh tế, ảnh hưởng của mùa màng và bệnh tật. Trong điều kiện kinh tế như vậy, mức sinh cũng rất cao, tư tưởng đông con nhiều cháu đã ăn sâu vào cộng đồng xã hội; Giai đoạn quá độ là thời kỳ có những biến động lớn cả về mức sinh và mức chết mà xu hướng thường gặp là mức chết giảm nhanh hơn mức sinh. Đây là giai đoạn sự gia tăng dân số bắt đầu diễn ra với tốc độ cao còn gọi là bùng nổ dân số; Giai đoạn sau quá độ có đặc trưng là mức sinh và mức chết đều thấp. Những thành tựu của khoa học và công nghệ tạo khả năng cho con người có thể kéo dài tuổi thọ, loại trừ một số dịch bệnh ra khỏi đời sống xã hội, dịch vụ sức khoẻ của con người tốt hơn và kết quả là mức chết giảm nhanh và mức sinh dần ổn định. Xã hội xuất hiện một thời kỳ “dư lợi dân số”. Trong xã hội, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động lớn (60% - 65%). Nơi nào tận dụng được tiềm năng lao động này thường đẩy nhanh được tốc độ phát triển kinh tế. Ngược lại, đây sẽ là gánh nặng về giải quyết việc làm, thất nghiệp và những phức tạp xã hội khác.
Như vậy, quá độ dân số là quá trình chuyển đổi khuôn mẫu cân bằng dân số trên cơ sở tương quan giữa tỷ suất sinh và tỷ suất chết khi nhân loại đi từ xã hội tiền công nghiệp sang xã hội công nghiệp. Nếu ở thời kỳ đầu, lý thuyết này mới chỉ ở dạng mô tả thuần tuý thì sau này nó càng được mở rộng, bổ sung và phát triển. Trên cơ sở hai yếu tố chủ đạo là mức sinh và mức chết, lý thuyết quá độ dân số đã cho thấy những khía cạnh rộng lớn và phức tạp trong việc phân tích các động thái dân số.
Vận dụng lý thuyết quá độ dân số vào việc xem xét nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL là việc hết sức cần. Bởi dựa vào lý thuyết này sẽ cho phép làm rõ cơ sở thực tiễn khoa học của quá độ dân số ở nước ta hiện nay. Những yếu tố cần thiết làm giảm mức chết và giảm mức sinh đã đạt ngưỡng để đưa ra những quyết định có tính bước ngoặt trong PLDS hay chưa? Sự chuyển biến về nhận thức, thái độ, hành vi của CBLĐQL và của cả cộng đồng dân cư đã có thể đảm bảo những giải pháp mà PLDS đưa ra được thực hiện hay chưa? Đây là vấn đề mà luận văn sẽ góp một phần làm rõ thông qua thực tế được phân tích ở phần sau, từ thực tiễn của tỉnh Yên Bái.
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về chính sách dân số và pháp lệnh dân số
1.3.1. Quan điểm chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam về chính sách dân số
Do sớm nhận thức được tác động to lớn của dân số đến sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và đời sống của từng gia đình, của mỗi cá nhân nói riêng, nên từ đầu thập niên 1960 đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc hoạch định và thực thi chính sách dân số quốc gia, nhằm giảm mức sinh, mức chết, nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân cư hợp lý. Chính sách dân số hướng tới giảm sinh ở Việt Nam ra đời cách đây hơn 40 năm được đánh dấu bằng Quyết định 216/CP ngày 26/12/1961 của Hội đồng Chính phủ. Tại thời điểm này, chính sách dân số được thể hiện thông qua cuộc vận động về “hướng dẫn sinh đẻ” và sau đó “sinh đẻ có kế hoạch” hay kế hoạch hoá gia đình. Điều đó chứng tỏ Nhà nước ta đã sớm ý thức được tầm quan trọng của việc kiểm soát mức sinh, kiềm chế sự bùng nổ dân số. Tuy nhiên, chính sách dân số trong giai đoạn đầu tiên còn gặp nhiều khó khăn trong cả nhận thức lẫn kinh nghiệm tổ chức thực hiện. Công tác tuyên truyền, vận động và giáo dục, thuyết phục chưa được coi trọng đúng mức, các nguồn lực của xã hội chưa được huy động đầy đủ, lại chưa cung cấp thuận tiện và đa dạng các dịch vụ KHHGĐ. Hàng chục năm, công tác DS - KHHGĐ đạt kết quả còn rất khiêm tốn. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm còn ở mức cao (trên 3%). Chất lượng dân số, vì nhiều lý do còn rất thấp.
Công tác DS - KHHGĐ tiếp tục được triển khai trong phạm vi cả nước với mục đích đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch thông qua các văn bản quan trọng của Chính phủ, tại Đại hội lần thứ IV, lần thứ V và lần thứ VI của Đảng. Công tác DS - KHHGĐ được xác định có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước. Mục tiêu cuộc vận động là đẻ ít (2 đến 3 con), đẻ muộn (từ 22 tuổi trở lên) và đẻ thưa (cách nhau từ 3 - 5 năm). Mục tiêu cụ thể được xác định tại đại hội IV (1976) là “đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch, kiên quyết giảm dần tốc độ gia tăng dân số hàng năm, phấn đấu đến năm 1980, tỷ lệ tăng dân số là trên 2% một ít”; tại Đại hội V (1982) Đảng xác định: “giảm tốc độ tăng dân số bình quân của cả nước từ 2,4% hàng năm xuống còn 1,7% vào năm 1985”; tại Đại hội VI (năm 1986) “giảm tỷ lệ phát triển dân số từ 2,2% hiện nay xuống 1,7% vào năm 1990” [67, tr.10]. Trong giai đoạn này, Chính phủ đã có chỉ thị cho các cấp, các ngành phải tham gia công tác dân số nhưng thực tế chỉ có ngành y tế, phụ nữ và công đoàn trực tiếp thực hiện. Các cấp uỷ đảng, chính quyền chưa thấy rõ trách nhiệm của mình trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo công tác DS - KHHGĐ, nhiều CBLĐQL vẫn coi đây là công tác của ngành y tế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, phần chính sách dân số và việc làm chỉ rõ: “Thực hiện đồng bộ chiến lược ổn định dân số trên cả ba mặt: quy mô dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân số; giảm tỷ lệ phát triển dân số mỗi năm khoảng 0,4 - 0,6%o và coi giảm tốc độ tăng dân số là một quốc sách” [85, tr.346].
Để tổ chức triển khai các chủ trương, chính sách về dân số, bộ máy tổ chức thực hiện công tác DS - KHHGĐ cũng dần được hoàn thiện. Ngày 19/6/1991, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định số 193-HĐBT về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và chế độ làm việc của Uỷ ban quốc gia DS - KHHGĐ; Quyết định số 315-QĐ của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược truyền thông DS - KHHGĐ.
Từ sự đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, nhận thức ngày càng rõ hơn về sức ép gay gắt của sự gia tăng dân số quá nhanh đối với sự phát triển đất nước, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá VII) đã ban hành Nghị quyết chuyên đề số 04-NQ/TW ngày 14/1/1993 về chính sách DS - KHHGĐ. Đây là Nghị quyết Trung ương đầu tiên đề cập sâu sắc và toàn diện về công tác DS - KHHGĐ, nó tạo ra bước ngoặt quan trọng đối với công tác dân số ở Việt Nam. Nghị quyết này đã đề ra 5 quan điểm cơ bản sau:
(1)Công tác DS - KHHGĐ là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của nước ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã hội; (2) Giải pháp cơ bản để thực hiện công tác DS - KHHGĐ là vận động, tuyên truyền và giáo dục, gắn liền với đưa dịch vụ KHHGĐ đến tận người dân, có chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho người chấp nhận gia đình ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng nhân dân thực hiện KHHGĐ;(3) Đầu tư cho công tác DS - KHHGĐ là đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp. Nhà nước cần tăng mức chi ngân sách cho công tác DS - KHHGĐ, đồng thời động viên sự đóng góp của cộng đồng và tranh thủ sự viện trợ của quốc tế;(4) Huy động lực lượng của toàn xã hội tham gia công tác DS - KHHGĐ, đồng thời phải có bộ máy chuyên trách đủ mạnh để quản lý theo chương trình mục tiêu, bảo đảm cho các nguồn lực nói trên được sử dụng có hiệu quả và đến tận người dân;(5) Để đạt được mục tiêu trong thời gian tương đối ngắn, điều có ý nghĩa quyết định là Đảng và chính quyền các cấp phải lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác DS - KHHGĐ theo chương trình [67, tr.12-13].
Sau đó, trong quyết định số 270/TTg (1993), Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược DS - KHHGĐ đến năm 2000. Đây là chiến lược DS - KHHGĐ đầu tiên, đánh dấu bước chuyển biến rất quan trọng trong việc hoàn thiện chính sách dân số của Việt Nam.
Để tăng cường triển khai công tác DS - KHHGĐ, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị số 50- CT/TW, ngày 6/3/1995 về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ.
Mục tiêu của chính sách dân số là: Thực hiện gia đình ít con, khoẻ mạnh, tạo điều kiện để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc”. Mục tiêu cụ thể là : “Mỗi gia đình chỉ có một hoặc hai con, để tới năm 2015 bình quân trong toàn xã hội mỗi gia đình có 2 con, tiến tới ổn định quy mô dân số từ giữa thế kỷ thứ 21. Tập trung mọi nỗ lực nhằm tạo chuyển biến rõ rệt ngay trong thập kỷ 90 này”.
Đến nay, Đảng và Nhà nước ta không chỉ tập trung giải quyết vấn đề quy mô dân số mà phải giải quyết đồng bộ, từng bước, có trọng điểm các vấn đề về cơ cấu dân số, phân bố dân cư và chất lượng dân số. Đảng và Nhà nước đã liên tiếp ra nhiều chỉ thị, nghị quyết như Quyết định số 147/2000/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010; Chỉ thị số 10/2001/CT-TTg về việc triển khai thực hiện Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010; Nghị định số 94/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em; Nghị định số 12/2003/NĐ-CP về sinh con theo phương pháp khoa học. Tiếp theo, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị số 10/2001/CT-TTg ngày 4/5/2001 nhằm cụ thể hoá việc thực hiện Chiến lược DS - KHHGĐ trong giai đoạn 2001 - 2005 với mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là “Duy trì vững chắc xu thế giảm sinh để đạt mức sinh thay thế bình quân trong toàn quốc chậm nhất vào năm 2005, ở vùng sâu, vùng xa và vùng nghèo chậm nhất vào năm 2010 để quy mô dân số, cơ cấu dân số và phân bố dân cư phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội vào năm 2010” [73, tr.2]. Tuy nhiên, những chỉ tiêu này, đến nay đã không đạt được. Lý do: sau khi Uỷ ban Thường vụ quốc hội ban hành PLDS (9/1/2003), một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân không hiểu hết những quy định của nó. Do vậy, nhiều người đã sinh thêm con thứ ba. Tỷ lệ dân số tự nhiên ở nhiều tỉnh, thành phố lại gia tăng. Cụ thể, năm 2003 mức tăng tự nhiên của dân số Việt Nam là 1,47%, tăng 0,15% so với mức 1,32% của năm 2002, tỷ lệ tăng dân số năm 2004 là 1,4% và năm 2005 là 1,38% [29, tr.1]. Trước tình hình trên, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã ban hành Nghị quyết số 47- NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ. Nghị quyết 47- NQ/TW của Bộ Chính trị xác định hai mục tiêu cơ bản là:
Nhanh chóng đạt mức sinh thay thế (trung bình mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ có hai con), tiến tới ổn định quy mô dân số nước ta ở mức 115-120 triệu người vào giữa thế kỷ XXI” và “Nâng cao chất lượng dân số Việt Nam về thể chất, trí tuệ, tinh thần, cơ cấu nhằm đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước [30, tr.3].
Vấn đề đặt ra là vì sao khi PLDS ra đời và có hiệu lực trên thực tế, tỷ lệ sinh con thứ ba lại gia tăng. Xem xét điều này phải hết sức căn cứ vào nội dung, cách trình bày và vận động của xã hội với văn bản pháp lý quan trọng này.
1.3.2. Pháp lệnh dân số của Việt Nam năm 2003
Pháp lệnh dân số được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 9/1/2003 số 06/2003/PL-UBTVQH11, là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong lĩnh vực dân số, là những quy định khung, định hướng để điều chỉnh toàn diện vấn đề dân số, bao gồm quy mô dân số, cơ cấu dân số, chất lượng dân số, phân bố dân cư, các biện pháp thực hiện công tác dân số, quản lý nhà nước về dân số. Pháp lệnh dân số được ban hành nhằm quán triệt quan điểm của Đảng tại NQTW4 (Khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ và thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX.
Pháp lệnh dân số được xây dựng phù hợp với các công ước, điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập, trong đó có Chương trình hành động quốc tế về DSPT mà nội dung cần đặc biệt chú ý là quyền con người, quyền sinh sản và quyền phát triển toàn diện. Pháp lệnh dân số đặt con người vào vị trí trung tâm là động lực của sự phát triển. PLDS bảo đảm quyền chủ động, tự nguyện của mỗi công dân trong việc phát triển toàn diện bản thân phù hợp với yêu cầu của sự phát triển đất nước. Pháp lệnh dân số bao gồm phần mở đầu, 7 chương và 40 điều. Trong nội dung PLDS có một số quy định cụ thể như sau:
* Quy định nguyên tắc của công tác dân số.
Nguyên tắc của công tác dân số là: (1) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực dân số phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, chất lượng cuộc sống của cá nhân, gia đình và toàn xã hội; (2) Bảo đảm việc chủ động, tự nguyện, bình đẳng của mỗi cá nhân, gia đình trong kiểm soát sinh sản, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, lựa chọn nơi cư trú và thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số; (3) Kết hợp giữa quyền và lợi ích của cá nhân, gia đình với lợi ích của cộng đồng và toàn xã hội, thực hiện quy mô gia đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững (Điều 2 PLDS).
Đây là 3 nguyên tắc nhằm bảo đảm sự chủ động của cả đối tượng thi hành và chủ thể tham gia công tác tổ chức thực hiện Pháp lệnh và chính sách dân số. PLDS cũng đã quán triệt đường lối, chính sách của Đảng về công tác dân số, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp, tạo điều kiện để giải quyết vấn đề dân số gắn với phát triển.
* Quy định về thực hiện kế hoạch hoá gia đình.
PLDS quy định “Kế hoạch hoá gia đình là nỗ lực của mỗi gia đình, của nhà nước, xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ động, tự nguyện quyết định số con và khoảng cách giữa các lần sinh nhằm bảo vệ sức khoẻ, nuôi dạy con có trách nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình”(Khoản 9, điều 3 PLDS). Xét về bản chất, KHHGĐ không phải là mục đích tự thân mà là kết quả vận động của gia đình, nhà nước, xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng có đủ kiến thức, sự hiểu biết và quyết định một cách có trách nhiệm khi thực hiện quyền sinh sản. Vì vậy, PLDS quy định “Kế hoạch hoá gia đình là biện pháp chủ yếu để điều chỉnh mức sinh góp phần bảo đảm cuộc sống no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”(Khoản 1, điều 9).
Điều 7 - PLDS quy định nghiêm cấm các hành vi như: “Cản trở, cưỡng bức việc thực hiện KHHGĐ; Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức; Sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, cung cấp phương tiện tránh thai giả, không bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng, quá hạn sử dụng, chưa được phép lưu hành; Di cư và cư trú trái pháp luật; Tuyên truyền phổ biến hoặc đưa ra những thông tin có nội dung trái với chính sách dân số, truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, có ảnh hưởng xấu đến công tác dân số và đời sống xã hội; Nhân bản vô tính người”.
Quy định này thể hiện tính lôgíc, nhất quán của chính sách dân số. Việc thực hiện KHHGĐ chủ động, tự nguyện để mỗi cặp vợ chồng, cá nhân quyết định một cách có trách nhiệm về số con, thời gian sinh con và khoảng cách giữa các lần sinh nhằm bảo vệ sức khoẻ, nuôi dạy con có trách nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình. Đồng thời, để bảo đảm quyền của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc lựa chọn, sử dụng biện pháp tránh thai phù hợp với điều kiện kinh tế, sức khoẻ, tâm lý và các điều kiện khác, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân trong việc thực hiện KHHGĐ. Đó là yêu cầu, là biện pháp trong việc thực hiện KHHGĐ, không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được cản trở, cưỡng bức việc thực hiện KHHGĐ. Bất cứ hành vi nào gây cản trở, cưỡng bức việc thực hiện KHHGĐ đều bị coi là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý theo đúng pháp luật.
Khoản 2, điều 9 PLDS cũng quy định các biện pháp của KHHGĐ bao gồm: Tuyên truyền, tư vấn, giúp đỡ bảo đảm để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ động, tự nguyện thực hiện KHHGĐ; Cung cấp các dịch vụ KHHGĐ bảo đảm chất lượng, thuận tiện, an toàn và đến tận người dân; Khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần, thực hiện các chính sách bảo hiểm để tạo động lực thúc đẩy việc thực hiện KHHGĐ sâu rộng trong nhân dân”. Trong quy định này mỗi cá cặp vợ chồng, cá nhân chủ động, tự nguyện thực hiện quyền, nghĩa vụ về KHHGĐ phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện cụ thể của mỗi cá nhân, gia đình thì phải thực hiện đồng bộ ba biện pháp tuyên truyền, vận động, tư vấn, cung cấp dịch vụ và khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần.
* Quy định về chất lượng dân số.
PLDS quy định “Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số”(Khoản 6, điều 3 PLDS); “Nâng cao chất lượng dân số là chính sách cơ bản của nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước”(Khoản 1, điều 20).
Quy định này khẳng định quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Do vậy, việc nâng cao chất lượng dân số là mục đích cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Với cách tiếp cận có tính hệ thống, nhân văn, coi con người là trung tâm, là m._.ững yếu tố quan trọng đầu tiên làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS.
Thực tế, trong thời gian qua, khi chưa có Nghị định 104/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của PLDS, công tác tuyên truyền vận động để thực hiện PLDS ở Yên Bái còn những biểu hiện lúng túng do chính điểm 10, khoản 1, điểm a và một số điểm khác còn thiếu rõ ràng, có mâu thuẫn. Hơn nữa, một số cấp, ngành trong tỉnh chưa có sự phối hợp đồng bộ trong việc tuyên truyền và tổ chức thực hiện trong từng cơ quan các đơn vị. Nhận thức của một bộ phận cán bộ và nhân dân về PLDS chưa đầy đủ, thậm chí có phần sai lệch. Công tác thông tin giáo dục tuyên truyền còn hạn chế về nội dung và hình thức, chưa phù hợp với một số đối tượng, chưa tập trung vào nhóm đối tượng có nguy cơ cao làm tăng mức sinh trở lại như đối tượng sinh con một bề là gái, các cặp vợ chồng người dân tộc thiểu số…
ý kiến trao đổi sau đây với lãnh đạo Hội đồng nhân dân cho thấy rõ điều này:
“Theo tôi công tác truyền thông của chúng ta có phần sơ hở, bất cập, chủ quan với những thành công đã đạt được, chưa đi vào thực chất và tác động vào nơi sâu xa của phong tục tập quán muốn sinh con trai để “nối dõi tông đường”, tâm lý “đông con nhiều phúc”PVS, LĐ Hội đồng nhân dân tỉnh).
Đặc biệt, khi ban hành PLDS do lúng túng trong giải thích quy định về quyền chưa gắn liền với trách nhiệm của công dân nên một số CBLĐQL còn hiểu và tuyên truyền thiên lệch chỉ nói đến quyền mà không gắn liền với nghĩa vụ công dân. Điều này đưa đến nhận thức sai lầm, suy diễn là quyền đồng nghĩa với thoải mái, tự do, không hạn chế trong sinh sản. Tất cả đã tạo ra nhận thức, thái độ và hành vi sai trong cả cộng đồng và CBLĐQL về việc thực hiện PLDS.
ý kiến một cán bộ lãnh đạo phường sau đây cho thấy điều này:
“Từ khi PLDS ban hành, tôi nghĩ là Nhà nước cho các cặp vợ chồng tự quyết định số con nên vợ chồng tôi quyết định sinh con thứ 3 và hy vọng đó là con trai”. (PVS, LĐ phường, phường Đồng Tâm, thành phố Yên Bái).
Hơn nữa, sự bất cập lúng túng của chính các cơ quan chức năng và cơ quan truyền thông, nhất là truyền thông đại chúng trong giải thích một số quy định được ghi trong PLDS đã làm cho việc thực hiện các điều khoản của Pháp lệnh càng khó khăn. Ngay cả ở các cơ quan Trung ương, sự thiếu nhất quán trong giải thích về điều 10, khoản 1, điểm a đã làm cho các cơ quan chức năng và truyền thông ở cấp tỉnh, huyện và cơ sở xã, phường càng lúng túng hơn. Điều này đã được phản ánh phần nào qua số liệu điều tra được tổng hợp sau đây:
Bảng 2.12: Đánh giá của CBLĐQL về sự nhất quán trong tuyên truyền của các phương tiện truyền thông về PLDS
Đơn vị tính: %
Mức đánh giá
Khối Đảng
Khối chính quyền
Khối đoàn thể
Khối doanh nghiệp
Có
72,9
78,4
54,7
69,2
Không
6,8
9,9
30,2
23,1
Không rõ
20,3
11,7
15,1
7,7
Bảng số liệu trên cho thấy, dù có đa phần CBLĐQL đánh giá là tuyên truyền về PLDS đã là nhất quán, không mâu thuẫn. Nhưng tỷ lệ cao nhất đánh giá cũng mới chỉ là 78,4% ý kiến cán bộ của khối chính quyền, 72,9% khối đảng, 69,2% khối doanh nghiệp và 54,7% khối đoàn thể. Trong khi đó, còn 30,2% ý kiến của cán bộ khối đoàn thể, 23,1% khối doanh nghiệp, 9,9% khối chính quyền và 6,8% ý kiến cán bộ khối đảng cho là việc tuyên truyền về PLDS chưa nhất quán, thiếu đồng bộ. Phải chăng đây là một trong những lý do khiến cho PLDS thực hiện còn chậm và nhiều khó khăn. Thực tế này một lần nữa yêu cầu các nhà hoạch định chính sách cần phải rút kinh nghiệm để mỗi khi nhận thức hoặc tuyên truyền thực hiện một văn bản pháp lý nào đó phải hết sức thận trọng trong từ ngữ, câu văn, kết cấu của văn bản phải thật lôgíc, chuẩn xác. Chỉ như vậy, việc thực hiện PLDS mới đạt hiệu quả tốt.
Vấn đề đặt ra, CBLĐQL tiếp cận và quán triệt những nội dung của PLDS qua những nguồn thông tin nào? Nguồn thông tin nào đem lại hiểu biết cho CBLĐQL nhiều nhất? Số liệu tổng hợp được từ khảo sát cho thấy, nguồn thông tin về PLDS mà CBLĐQL các cấp có thể tiếp cận là tương đối phong phú. Trong đó, phải kể đến một số nguồn thông tin như: đài; báo; tivi; hội họp; tập huấn (xem biểu 2.6).
Biểu 2.7: Nguồn cung cấp thông tin về PLDS cho CBLĐQL
Biểu số liệu trên cho thấy, đa số CBLĐQL đã tiếp cận thông tin về PLDS chủ yếu từ các phương tiện truyền thông đại chúng như đài, ti vi, báo. Trong đó, đài, ti vi được CBLĐQL đánh giá cao nhất (81%), báo chí (79,3%). Hội họp và tập huấn tuy là những kênh thông tin đáng lý đưa lại nhiều thông tin hữu ích nhất cho CBLĐQL, song lại chính CBLĐQL được hỏi đánh giá không cao - chỉ 45,7% và 41,7%. Đây là điều cần phải chú ý để rút kinh nghiệm cho sự quán triệt, triển khai những văn bản có tính pháp lý về sau. Bởi lẽ, thông thường, văn bản pháp lý của Đảng, Nhà nước thường đến với CBLĐQL tốt nhất qua hội họp và qua lớp tập huấn. Đây là những hình thức quán triệt có hiệu quả cao.
Tóm lại, chính nhờ công tác thông tin truyền thông mà nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL về PLDS đã có chuyển biến căn bản. Song vì những lý do khác nhau như: Văn bản Pháp lệnh có chỗ chưa rõ ràng, tuyên truyền chưa nhất quán, phổ biến qua hội họp, tập huấn chưa nhiều khiến cho CBLĐQL quán triệt chưa sâu, hiểu chưa hết. Một số CBLĐQL có thái độ và hành vi thực hiện PLDS chưa rõ ràng, còn hạn chế.
2.5.2. Công tác tổ chức lãnh đạo của cơ quan chức năng
PLDS có được cán bộ các cấp nhận thức rõ hay không, thái độ có tích cực hay không và hành vi thực hiện có tốt hay không phụ thuộc khá nhiều vào việc các cơ quan chức năng tuyên truyền, tổ chức, chỉ đạo như thế nào.
Thực tế, trong một số năm qua, việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số của cấp uỷ, chính quyền ở nhiều địa phương cơ sở chưa thực sự được chú trọng. Mặc dù, PLDS ban hành từ tháng 1/2003 nhưng Nghị định 104/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của PLDS mãi tới tháng 9/2003 mới được ban hành. Do vậy, một bộ phận CBLĐQL chậm tiếp cận với Pháp lệnh, không hiểu rõ Pháp lệnh nên thái độ và hành vi chưa tích cực.
ở Yên Bái, việc quán triệt và thực hiện PLDS chậm trễ còn liên quan đến quá trình sát nhập và ổn định tổ chức của Uỷ ban DS - KHHGĐ và Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ của tỉnh. Quá trình hợp nhất kéo dài, biên chế không ổn định khiến cho nhiều Uỷ ban dân số huyện và ban dân số xã, phường lúng túng trong tổ chức, thực hiện nhiệm vụ thường xuyên về DS - KHHGĐ lẫn triển khai thực hiện PLDS. Hơn nữa, sau sát nhập, khối lượng công việc của nhiều cán bộ thuộc UBDSGĐ&TE tỉnh tăng lên trong khi lương và trợ cấp không tăng. Những yếu tố này phần nào tác động đến nhiệt tình công tác của một số cán bộ của UBDSGĐ&TE tỉnh trong một thời gian. Đây chính là một trong những yếu tố ít nhiều tác động đến việc triển khai thực hiện PLDS của đội ngũ CBLĐQL các cấp.
Để làm rõ những tác động của các cơ quan chức năng trong thực hiện PLDS, điều tra còn hướng tới làm rõ trách nhiệm thực hiện PLDS của đội ngũ CBLĐQL. Thực tế, PLDS đã quy định khá rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân và vai trò của các cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội trong thực hiện PLDS. Nhưng kết quả điều tra cho số liệu tổng hợp sau:
Bảng 2.13: Trách nhiệm của các chủ thể trong việc thực hiện PLDS
Đơn vị tính: %
Trách nhiệm
Số lượng
Tỷ lệ %
Nghĩa vụ của từng công dân
263
87,3
Trách nhiệm của cơ quan chức năng như y tế, dân số
184
61,3
Trách nhiệm của các tổ chức Đảng
97
32,3
Trách nhiệm của các tổ chức chính quyền
122
40,7
Trách nhiệm của các đoàn thể
147
49,0
Bảng số liệu trên cho thấy, phần đông CBLĐQL trả lời cho rằng, thực hiện PLDS là trách nhiệm của từng công dân chiếm tỷ lệ cao nhất 87,3%. Đây là một nhận thức đúng đắn, thực hiện PLDS là trách nhiệm của mọi công dân, không phải riêng tổ chức hay cá nhân nào.
Tuy nhiên, các cơ quan đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội phải tham gia triển khai thực hiện công tác này. Song cơ quan có chức năng chính yếu nhất - ngành y tế, dân số mới được 61,3% ý kiến được họ đồng tình. Các tổ chức chính quyền được 40,7%; đoàn thể được 49% và cơ quan Đảng chỉ được 32,3% ý kiến đồng ý. Những số liệu này cho thấy, PLDS dù ban hành đã 3 năm, tuyên truyền, vận động thực hiện đã nhiều nhưng đến nay vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị còn chưa được đánh giá cao. Điều này phần nào đó, đánh giá vai trò, tác động thực tế của đội ngũ CBLĐQL trong việc thực hiện PLDS còn chưa thực sự cao.
Chương 3
một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn chỉnhvà nâng cao chất lượng thực hiện pháp lệnh dân số
3.1. Một số giải pháp
Xuất phát từ các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về công tác dân số, DSPT/SKSS; xuất phát từ thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL đối với PLDS ở tỉnh Yên Bái, để hoàn thiện và nâng cao chất lượng việc thực hiện PLDS cần chú ý thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
3.1.1. Rà soát lại toàn bộ những quy định đã đưa ra trong PLDS; những điều khoản nào chưa phù hợp, không rõ ràng, khó thực hiện thì sửa đổi cho phù hợp. Trong đó về nguyên tắc phải thực hiện việc kết hợp giữa quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân trong việc sinh sản.
Về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng và cá nhân trong việc thực hiện KHHGĐ, phải sửa lại điều 10, khoản 1, điểm a cho phù hợp để mọi người hiểu một cách thống nhất, tránh hiểu lầm. Cụ thể phải sửa điều khoản theo hướng: “Mỗi cặp vợ chồng và cá nhân có quyền quyết định thời gian sinh con, nhưng số con phải phù hợp với mục tiêu chính sách dân số gia đình ít con, từ 1 - 2 con”.
Sửa đổi điều 10 gắn chặt với việc quy định giữa quyền của mỗi công dân được ghi trong PLDS với việc thực hiện nghĩa vụ công dân được ghi trong các luật khác đặc biệt Luật công chức. Trong đó có quy định mỗi cặp vợ chồng chỉ được sinh một hoặc hai con để đảm bảo nuôi con khoẻ, dạy con ngoan.
3.1.2. Đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục, truyền thông nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện PLDS. Trong đó, ngoài việc tiếp tục các chương trình truyền thông qua ti vi, đài, báo, tạp chí, internet, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền qua việc mở các lớp tập huấn ngắn ngày hoặc phổ biến nội dung PLDS qua các cuộc họp chuyên đề hoặc họp thường kỳ của các cơ quan đoàn thể, tổ chức trong hệ thống chính trị. Làm sao tuyệt đại đa số CBLĐQL các cấp tiếp thu, quán triệt được những nội dung cơ bản của PLDS cùng những văn bản khác như Nghị quyết 47-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ; Nghị định 104/2003/NĐ-CP ngày 16/9/2003 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của PLDS. Làm sao để CBLĐQL hiểu thống nhất về các quy định trong PLDS, xác định quyết tâm tham gia tổ chức và gương mẫu thực hiện. ở đây vấn đề cần phải đặc biệt quan tâm là vấn đề quyền và nghĩa vụ trong sinh sản.
3.1.3. Với những CBLĐQL đã sinh con thứ ba trở lên sau khi có PLDS, cần tuyên truyền, vận động để họ có thể trình bày công khai những suy nghĩ của mình trước quần chúng nhân dân nơi sinh sống về những yếu tố tác động để họ đưa ra quyết định sinh thêm con. Trên cơ sở này mà rút kinh nghiệm cho chính bản thân người đã sinh con thứ ba trở lên, đồng thời lấy đó làm bài học để giáo dục, thuyết phục những cán bộ đang có ý muốn sinh con thứ 3. ở đây quan điểm về giới cần được lấy làm cơ sở cho việc tuyên truyền giáo dục và đấu tranh chống những quan niệm sai lầm như: trọng nam khinh nữ, đông con nhiều phúc đang còn tồn tại trong một bộ phận CBLĐQL và nhân dân.
Với những cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ đảng viên chủ chốt xác định chính xác đã lợi dụng sự thiếu rõ ràng trong PLDS để sinh con thứ ba thì phải căn cứ mức độ cố tình mà xử lý kỷ luật Đảng để lấy làm bài học giáo dục chung cho CBLĐQL. Tất nhiên phải chú ý CBLĐQL người dân tộc ít người hoặc có theo tôn giáo tín ngưỡng nào đó để đưa ra quyết định xử lý phù hợp.
3.1.4. Nhận thức, thái độ và hành vi là một quá trình. Quá trình này diễn ra trong những nhóm người có học vấn, có mức sống, có vị thế xã hội khác nhau thì khác nhau. Do đó, tuyên truyền vận động, quán triệt PLDS cho CBLĐQL ở một tỉnh có đồng bào dân tộc sinh sống như Yên Bái phải chú ý đến những đặc trưng này. Cụ thể, trong phổ biến quán triệt lại tinh thần, nội dung của PLDS và những văn bản hướng dẫn khác phải tuỳ theo đặc điểm từng nhóm cán bộ về độ tuổi, nghề nghiệp, vị thế xã hội, trình độ học vấn, dân tộc, tôn giáo, thạo tiếng kinh hay không…để mở những lớp tập huấn, họp chuyên đề hoặc họp lồng ghép nội dung tuyên truyền, quán triệt PLDS cho phù hợp.
Với những dân tộc ít người của vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, ngoài đội ngũ cán bộ hiện có trong hệ thống các cơ quan chức năng về dân số và hệ thống chính trị, cần chú ý những già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng để tuyên truyền vận động về PLDS. Chuyển biến về nhận thức, thái độ của họ sẽ có tác động tích cực đến cộng đồng.
3.1.5. Kinh nghiệm từ thực tiễn tuyên truyền vận động thực hiện PLDS những năm vừa qua cho thấy, một trong những khó khăn trở ngại cho việc làm chuyển biến nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL và cộng đồng trong thực hiện PLDS chính là sự thiếu nhất quán trong việc hiểu và tổ chức tuyên truyền PLDS của các cơ quan chức năng là hệ thống truyền thông đại chúng. Do vậy, để thống nhất cần tổ chức một hội nghị cán bộ các cơ quan có chức năng chính trong việc thực hiện PLDS như: UBDSGĐ&TE, Sở y tế, Sở lao động thương binh và xã hội, Sở giáo dục, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên…và các cơ quan truyền thông đại chúng như: Đài phát thanh truyền hình, báo chí…để thống nhất quan điểm, thống nhất thái độ, thống nhất cách giải thích với từng nội dung của PLDS. Tránh tình trạng không nhất quán, thiếu rõ ràng như đã từng xảy ra.
3.2. Một số khuyến nghị
3.2.1. Với các cấp uỷ đảng
Để thực hiện tốt hơn PLDS, ở những tỉnh thành mà tỷ lệ tăng dân số tự nhiên và tỷ lệ sinh con thứ ba tăng sau PLDS. Tỉnh uỷ cần ra một thông tư yêu cầu các cấp uỷ Đảng quan tâm đến việc quán triệt lại cho cán bộ, đảng viên để họ hiểu đúng và có trách nhiệm cao trong tổ chức, thực hiện PLDS. Trước hết, cần quán triệt và thực hiện nghiêm Nghị quyết 47-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ. Sau nữa, cần thông qua một hội nghị giao ban thường kỳ của cấp uỷ để giới thiệu nội dung PLDS cần quán triệt. Từ đây mà chỉ đạo các cấp uỷ cơ sở lãnh đạo việc tổ chức, triển khai tiếp tục thực hiện PLDS.
3.2.2. Với các cơ quan quyền lực Nhà nước
- Quốc hội: Cần thông qua các đại biểu quốc hội của tỉnh mà góp phần thúc đẩy việc sửa chữa, bổ sung, hoàn chỉnh PLDS, đặc biệt điều 10, khoản 1, điểm a. Hoặc nâng PLDS thành Luật dân số, trong đó có điều khoản trên.
- Hội đồng nhân dân: Cần có kế hoạch chất vấn và thông qua chương trình tuyên truyền, vận động và tổ chức thực hiện pháp lệnh dân số. Hội đồng nhân dân cần rà soát những văn bản có tính pháp luật liên quan. Hoàn chỉnh những văn bản này chuẩn xác hoá kế hoạch thực hiện, trên cơ sở đó mà quyết định phân bố các nguồn lực hợp lý cho từng hoạt động của chương trình. Đây là cơ sở để hội đồng nhân dân kiểm tra giám sát việc thực hiện chương trình dân số và PLDS có hiệu quả.
- Uỷ ban nhân dân: Phát huy vai trò nòng cốt của UBDSGĐ&TE, Uỷ ban nhân dân tỉnh cần chỉ đạo xây dựng một kế hoạch cụ thể cho việc tuyên truyền vận động, thực hiện PLDS và chương trình dân số quốc gia tại tỉnh. Kế hoạch này phải đảm bảo được sự rõ ràng, nhất quán các quan điểm chỉ đạo, các vấn đề cơ bản cần thực hiện, cách thức thực hiện và cả những điều kiện đảm bảo khác.
Kế hoạch cần cụ thể hoá ở từng cấp cho phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội, văn hoá có tính đặc thù của từng vùng nhất là vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc.
3.2.3. Với các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội
Tuỳ chức năng nhiệm vụ của mỗi tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội mà huy động tham gia tổ chức thực hiện PLDS khác nhau. Song để thực hiện tốt PLDS, mỗi tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội cần có kế hoạch cụ thể tuyên truyền, quán triệt cho cán bộ và quần chúng trong tổ chức mình hiểu một cách rõ nhất tinh thần và nội dung của Pháp lệnh nhất là với những vấn đề nhạy cảm. Trên cơ sở này mà thuyết phục, thực hiện tốt.
UBDSGĐ&TE phải là hạt nhân gắn kết hoạt động của tất cả các cơ quan đoàn thể xã hội này, đảm bảo tính mục đích và hiệu quả cho toàn bộ chương trình thực hiện PLDS mà các cơ quan quyền lực nhà nước đã thống nhất thông qua.
3.2.4. Với bản thân cán bộ lãnh đạo, quản lý
Cần nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ và đảng viên trước Đảng, trước nhân dân, gương mẫu quán triệt và vận động mỗi thành viên trong gia đình, dòng tộc, thôn xóm, cụm dân phố mà mình đang sống thực hiện nghiêm PLDS. Bản thân không được sinh con thứ ba trở lên. Những người đã vi phạm phải kiểm điểm trước đảng và trước quần chúng.
ở những nơi có cán bộ, đảng viên vi phạm nhiều, cấp uỷ Đảng phải có thảo luận chuyên đề về thực hiện nghiêm PLDS. Trên cơ sở này mà ra nghị quyết nhằm chấn chỉnh lại việc thực hiện Pháp lệnh, đưa việc thực hiện PLDS theo đúng yêu cầu đã đặt ra.
Kết luận
Khảo sát, đánh giá về nhận thức, thái độ và hành vi của CBLĐQL ở tỉnh Yên Bái đối với PLDS cho thấy, phần đông CBLĐQL đã tiếp thu, quán triệt khá tốt những quy định của PLDS. Thái độ của CBLĐQL đã hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng và những quy định cơ bản của PLDS. Do đó họ có thái độ hành vi đúng trong thực hiện và tuyên truyền thực hiện PLDS. Tuy nhiên PLDS còn một số điểm chưa rõ ràng. Quy định quyền và nghĩa vụ chưa gắn kết chặt chẽ với nhau, do vậy một bộ phận CBLĐQL còn hiểu lầm hoặc cố ý hiểu lầm. Hậu quả là tỷ lệ sinh con thứ ba tăng và tỷ lệ tăng dân số tự nhiên lại có nguy cơ tái bùng phát. Đây là vấn đề cần rút kinh nghiệm trong việc soạn thảo các văn bản có tính pháp quy để làm sao khi ban hành văn bản mọi người đều hiểu một cách thống nhất. Các cơ quan truyền thông nhất quán tuyên truyền theo cùng một hướng với cùng một tư tưởng, quan điểm, nội dung các quy định mà văn bản đã đưa ra. Đây là cơ sở quan trọng để CBLĐQL thống nhất ra hành động trong thực hiện.
Trước tiên nên sửa đổi điều 10, khoản 1, điểm a, gắn quyền sinh sản với trách nhiệm, nghĩa vụ của người thực hiện hành vi sinh sản. Trên cơ sở này mà đẩy mạnh tuyên truyền và quán triệt lại cho CBLĐQL và nhân dân tinh thần và nội dung của PLDS, khuyến khích CBLĐQL gương mẫu thực hiện và vận động nhân dân cùng thực hiện nghiêm PLDS để mỗi cặp vợ chồng đảm bảo sinh một hoặc hai con, thực hiện KHHGĐ, nâng cao chất lượng dân số. Đây là cách thiết thực nhất để thực hiện chiến lược dân số Việt Nam đến năm 2010 và những mục tiêu mà Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định:
Tiếp tục kiềm chế tốc độ tăng dân số, phấn đấu đạt chỉ tiêu về dân số trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010. Chú trọng nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân cư hợp lý giữa các vùng; xây dựng các quy hoạch và chính sách thích hợp nhằm đáp ứng xu thế chuyển dịch cơ cấu dân số ở nông thôn và thành thị. Đưa công tác dân số, gia đình và trẻ em ở các cấp đi vào nền nếp, vào từng gia đình, có chiều sâu và mang tính bền vững [14, tr.215].
Danh mục tài liệu tham khảo
Nguyễn Quỳnh Anh (2003), “Pháp lệnh dân số nâng cao trách nhiệm của công dân, gia đình và xã hội”, Tạp chí Dân số và phát triển, (27), tr.50-58.
Chung á (1993 - 1995), Thực trạng nhận thức và chỉ đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý sau 2 năm thực hiện Nghị quyết IV Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ.
Chung á - Nguyễn Đình Tấn (1996), Nghiên cứu xã hội học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ban Chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ.
Ban chấp hành Đảng bộ Yên Bái (2006), Văn kiện đại biểu Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XVI.
Đào Trọng Cảng (1995), Nhận thức, thái độ và thực hiện của đảng viên là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và tổ chức đảng đối với nghị quyết về chính sách DS - KHHGĐ.
Liên Châu (2005), “Xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên, công chức sinh con thứ ba trở lên”, Báo thanh niên, (47).
Trần Thị Trung Chiến (2003), Dân số Việt Nam bên thềm thế kỷ XXI, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Cục Thống kê tỉnh Yên Bái (2005), Niên giám thống kê tỉnh Yên Bái.
Nguyễn Huy Cường (2004), Cán bộ các ban Đảng với việc thực hiện các chủ trương, chính sách dân số phát triển/sức khoẻ sinh sản, Luận án thạc sĩ xã hội học, Viện xã hội học, Hà Nội.
Bùi Quang Dũng (2004), Nhập môn lịch sử xã hội học, Nxb Khoa học xã hội.
Bùi Quang Dũng - Lê Ngọc Hùng (2005), Lịch sử xã hội học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đăng Quang Điều (2004), “Cần sớm sửa đổi pháp lệnh dân số”, Báo Lao động, (19/11).
G. Endrweit và G. Trommsdoff (2001), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Giáo trình sơ thảo nhà nước và pháp quyền Việt Nam (1986), Thời đại trước phong kiến và thời đại phong kiến, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội.
H.H. Gerth and C. Wright Mills (1958) From Max Weber: Essays in Sociology, New York, Oxford University Press.
Ngân Hằng (2004), “Pháp lệnh Dân số 2003 có sơ hở”, Báo Lao động, (21/12).
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Kỷ yếu hội thảo các vấn đề ưu tiên trong dân số và phát triển tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển bách khoa Việt Nam, Tập 3, Nxb Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
Nguyễn Thế Huệ (2004), “Vấn đề dân số và nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số nước ta”, Tạp chí Cộng sản, (9).
Lê Ngọc Hùng (2002), Lịch sử và lý thuyết xã hội học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
Mai Kỷ (2004), “Tỷ lệ phát triển dân số tăng trở lại: Nguyên nhân và giải pháp”, Báo Nhân dân, (22-23/11).
Mai Kỷ - Nguyễn Quốc Anh (2005), “Dân số tăng gấp đôi: Quá khứ và tương lai”, Báo Nhân dân cuối tuần, (10/4).
Khánh Lam - Mai Hạnh (2005), “Vi phạm nghiêm trọng Pháp lệnh dân số”, Báo Gia đình và xã hội, (159. 4/10).
Phạm Hồng Loan (2004), “Vì sao mức sinh tăng”, Tạp chí Dân số và phát triển, (11), tr. 15-16.
Vũ Minh Mão - Hoàng Xuân Hoà (2004), “Dân số và chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế”, Tạp chí Cộng sản, (9).
Nguyễn Đức Mạnh (Chủ nhiệm đề tài) (2005), Báo cáo kết quả đánh giá thái độ của các nhóm đối tượng đối với các qui định của chính sách DS - KHHGĐ.
Nghị quyết số 47-NQ/ TW ngày 22/3/2005 của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ của Ban Chấp hành Trung ương.
Nghị định số 104/2003/NĐ-CP ngày 23/9/2003 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh dân số.
Nguyễn Hồng Ngọc (2005), “Gia tăng dân số trở lại - nguyên nhân và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản, (10), tr. 65-69.
Patrick Gubry- Nguyễn Hữu Dũng- Phạm Thuý Hương, Dân số và phát triển ở Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Pháp lệnh dân số và các văn bản hướng dẫn thi hành (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phân viện Báo chí và tuyên truyền (2001), Kết quả và nhu cầu đào tạo cán bộ thông tin - giáo dục - truyền thông dân số.
Hoàng Phê (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
Nguyễn Đình Tấn (2005), Xã hội học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Nguyễn Đình Tấn - Nguyễn Văn Đoàn (2004), Dân số học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tổng cục thống kê (2002), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999.
Tổng Cục thống kê (2004), Điều tra biến động dân số và nguồn lao động 1/4/2003. Những kết quả chủ yếu, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng Cục thống kê (2005), Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình 1/4/2004. Những kết quả chủ yếu, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng cục thống kê (2002), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999.
Phạm Thắng (2003), “Phát triển dân số ở Việt Nam theo định hướng pháp lệnh dân số”, Tạp chí Dân số và phát triển, (33), tr. 55-59.
Nguyễn Thị Vũ Thành - Lê Cự Linh (2005), “Tìm hiểu một số yếu tố ảnh huởng đến sinh con thứ ba trở lên ở Hà Nội”, Tạp chí Dân số và phát triển, (6), tr. 22-28.
Lê Thi (2004), “Gia tăng dân số đột biến sẽ làm trầm trọng thêm nạn nghèo đói và sự tụt hậu của Việt Nam”, Tạp chí Dân số và phát triển, (2), tr. 25-28.
Lê Thi (2004), “Tác động của những yếu tố tâm lý đến sự gia tăng mức sinh nhanh hiện nay”, Tạp chí Dân số và phát triển, (12), tr. 6-9.
Lê Thi (2004), Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân số, văn hoá và sự phát triển bền vững, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Đinh Công Thoan (2004), “Nguyên nhân làm dân số tăng nhanh trở lại”, Tạp chí Dân số và phát triển, (10), tr. 17-20.
Lê Thị Thu - Bộ trưởng - Chủ nhiệm Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2005), “Công tác dân số, gia đình và trẻ em trong chiến luợc phát triển con người”, Báo Nhân dân, (25/12).
Trung tâm Dân số - Lao động và xã hội (1996), Các chính sách liên quan đến DS - KHHGĐ Việt Nam, Dự án VIE/93/P07.
Trung tâm Nghiên cứu dư luận xã hội (2001), Báo cáo kết quả- Nghiên cứu nhận thức, thái độ và sự tham gia của các nhà lãnh đạo, quản lý và chuyên gia các cấp trong việc hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách DS - SKSS và phát triển, Dự án- VIE/ 97/ P16.
Trung tâm nghiên cứu thông tin và tư liệu Dân số (1995) (Trung tâm DS-LĐ và XH). Tuyển chọn số liệu- Một số cuộc điều tra lớn phục vụ công tác DS - KHHGĐ (sử dụng nội bộ), Dự án MIS- P/ FP.
Trung tâm Xã hội học - Học viện Chính trị Quốc gia HCM (2003), Nhu cầu đào, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng lồng ghép các vấn đề DS - PT/SKSS cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý thuộc đối tượng đào tạo của hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (Báo cáo kết quả khảo sát).
Trung tâm từ điển ngôn ngữ (1992), Từ điển Tiếng Việt, Hà Nội.
Đặng ánh Tuyết (2005), “Biến động gia tăng dân số, thực trạng và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Dân số và phát triển, (1), tr. 7-11.
Đỗ Xuân (1998), "DS - KHHGĐ là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước", Tạp chí Xây dựng Đảng, (10).
ủy ban Quốc gia DS - KHHGĐ (1996) (NCPP), Kiểm điểm, đánh giá chính sách dân số Việt Nam (Dự án VIE/ 93/ P07), Nxb Thanh niên, Hà Nội.
Uỷ ban Quốc gia DS - KHHGĐ (1997), Đánh giá nhận thức và vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện chính sách DS - KHHGĐ, Đề tài Viện nghiên cứu hành chính.
ủy ban Quốc gia DS - KHHGĐ (1999), Khảo sát, đánh giá vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và cán bộ chủ chốt các cấp trong việc thực hiện NQTW 4 (Khoá VII) về chính sách DS - KHHGĐ ở nước ta, (Đề tài khoa học cấp bộ).
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2000), Báo cáo kết quả dự báo dân số Việt Nam 1999 - 2024, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Uỷ ban dân số - Kế hoạch hóa gia đình (2000), Nghiên cứu chính sách và giải pháp nhằm thực hiện ổn định dân số và nâng cao chất lượng dân số phục vụ phát triển kinh tế - xã hội thủ đô giai đoạn 2001 - 2010.
ủy ban DS - KHHGĐ (2000), Chiến lược dân số Việt Nam 2001- 2010, Hà Nội.
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em - Học viện Chính trị Quốc gia HCM (2003), Nghiên cứu tác động của các phương tiện thông tin đại chúng đến nhận thức, thái độ và hành vi về SKSS/KHHGĐ của nhóm dân cư trong độ tuổi sinh đẻ.
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2003), Các báo cáo đánh giá hiệu quả của dự án Dân số- sức khoẻ gia đình, Nxb Y học, Hà Nội.
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2003), Truyền thông thay đổi hành vi trong lĩnh vực dân số và chăm sóc sức khoẻ sinh sản, Nxb Y học, Hà Nội.
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2004), Chương trình hành động thực hiện các chiến lược Quốc gia về dân số, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, dinh dưỡng giai đoạn 2003- 2007, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2003), Những nội dung chủ yếu của pháp lệnh dân số, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2004), Báo cáo tổng kết công tác dân số, gia đình và trẻ em năm 2004 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2005.
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2005), Kỷ yếu kết quả nghiên cứu khoa học về dân số, gia đình và trẻ em 2002 - 2004.
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2005), Báo cáo kiểm điểm 5 năm thực hiện chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001- 2010.
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em - Trung tâm xã hội học (2005), Báo cáo kết quả khảo sát kiểm điểm thực hiện chiến luợc dân số Việt Nam 2001- 2010, Hà Nội.
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2006), Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện chính sách dân số giai đoạn 2001- 2005.
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em (2006), Báo cáo kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện chiến lược dân số Việt Nam 2001- 2010 của các tỉnh, thành phố (Giai đoạn 2001- 2004).
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em, Một số yếu tố liên quan đến chất lượng dân số Việt Nam, Mối quan hệ giữa chất lượng dân số và dịch vụ xã hội cơ bản ở nông thôn Việt Nam cuối thế kỷ thứ XX (Tập 1).
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Yên Bái (2005), Báo cáo kiểm điểm thực hiện chiến lược dân số Việt Nam của Tỉnh YB giai đoạn đầu 2001 - 2005. Phương hướng nhiệm vụ thực hiện chiến lược giai đoạn 2006 - 2010.
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Yên Bái (2002), Báo cáo công tác dân số, gia đình và trẻ em năm 2002.
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Yên Bái (2003), Báo cáo công tác dân số, gia đình và trẻ em năm 2003.
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Yên Bái (2004), Báo cáo công tác dân số, gia đình và trẻ em năm 2004.
Uỷ ban Dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Yên Bái (2005), Báo cáo công tác dân số, gia đình và trẻ em năm 2005.
UNF (2005), Tăng trưởng dân số Việt Nam. Thực trạng từ những con số, Hà Nội.
ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái (2003), Kế hoạch hành động thực hiện chiến lược quốc gia chăm sóc sức khoẻ sinh sản tỉnh Yên Bái giai đoạn 2001- 2010.
Uỷ ban Thường vụ quốc hội (2003), Pháp lệnh dân số.
Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Nguyễn Khắc Viện (1995), Từ điển Tâm lý, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Viện Xã hội học và tâm lý lãnh đạo, quản lý (2005), Giáo trình dân số và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Max Weber 1925 (1978), Economy and Society. Berkeley: University of California Press.
Nguyễn Như ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2583.doc