BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
----------------------------
VŨ THỊ LAN HƯƠNG
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI HỌC CỦA SÂU XANH ĐỤC QUẢ CÀ CHUA HELICOVERPA ARMIGERA HUBNER VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG TẠI AN DƯƠNG - HẢI PHÒNG
VỤ ĐÔNG XUÂN 2008 -2009
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: Bảo vệ thực vật
M· sè: 60.62.10
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. HỒ THỊ THU GIANG
HÀ NỘI - 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu k
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4650 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái của sâu xanh đục quả cà chua Helicoverpa armigera Hubner và biện pháp phòng chống tại An Dương - Hải Phòng vụ đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoa học của riêng tôi. Các số liệu và kết quả trình trong luận văn là hoàn toàn trung thực, chưa được ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác.
Hải Phòng, ngày.......tháng.......năm 2009
Tác giả
Vũ Thị Lan Hương
LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành công trình nghiên cứu này ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi nhận được sự quan tâm giúp đỡ tận tình, sát sao chu đáo của PGS.TS. Hồ Thị Thu Giang, PGS.TS.NGƯT Nguyễn Đức Khiêm, tác giả xin gửi tới thầy cô lời cảm ơn và lòng biết ơn sâu sắc nhất.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy cô Viện đào tạo sau Đại học, Bộ môn côn trùng - Khoa nông học đã quan tâm, giúp đỡ, hướng dẫn tạo điều kiện cho tôi nâng cao hiểu biết và hoàn thành luận văn.
Xin được gửi lời cảm ơn tới đồng chí Chi cục trưởng Chi cục BVTV Hải Phòng cùng toàn thể các đồng chí lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian học tập thực hiện đề tài.
Cuối cùng tác giả tỏ lòng biết ơn vô hạn tới gia đình và người thân đã khích lệ động viên trong thời gian học tập và nghiên cứu, cảm ơn những người bạn của tôi đã ủng hộ cả về tinh thần và vật chất, để tác giả hoàn thành luận văn này.
Hải Phòng, tháng..........năm 2009
Tác giả
Vũ Thị Lan Hương
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BMAT Bắt mồi ăn thịt.
BVTV Bảo vệ thực vật.
FAO Food and Agriculture Organization
Tổ chức lương thực nông nghiệp Liên hợp quốc.
GAP Good Agricultural Practic - Thực hành Nông nghiệp tốt
H.armigera Helicoverpa armigera.
H.assulta Helicoverpa assulta
HaNPV Helicoverpa armigera Nuclae Polyhydro Virus.
IPM Integrate pests management - Điều khiển dịch hại tổng hợp.
PG Pheromone giới tính.
PHI Thời gian cách ly.
RAT Rau an toàn.
S.litura Spodoptera litura.
V-BT Vi khuẩn Bacillus thuringiensis + NPV
WTO World Trade Organization
Tổ chức mậu dịch quốc tế.
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
2.1 Hiệu lực trừ sâu xanh H.armigera đục quả cà chua tại Ấn Độ năm 2003-2004 22
4.1 Thành phần sâu hại trên cây cà chua vụ đông xuân 2008- 2009 tại An Dương- Hải Phòng. 38
4.2 Tỷ lệ các họ, loài sâu hại cà chua vụ Đông xuân 2008-2009 tại An Dương- Hải Phòng 39
4.3 Diễn biến mật độ sâu khoang và sâu xanh hại cà chua vụ đông xuân 2008-2009 tại An Dương - Hải Phòng 41
4.4 Diễn biến mật độ và tỷ lệ hại của sâu xanh H.armigera trên cà chua vụ sớm và chính vụ (Đông xuân 2008-2009) tại Hồng Phong - An Dương - Hải Phòngtại 43
4.5 Mật độ trung bình của sâu xanh H.armigera ở các bộ phận trên cây cà chua vụ Đông xuân 2008-2009 tại An Dương - Hải Phòng 44
4.6 Mức độ phổ biến của sâu xanh Helicoverpa armigera trên cây trồng vụ Đông xuân 2008-2009 tại Hải Phòng 46
4.7 Vòng đời của sâu xanh Helicoverpa armigera 48
4.8 Nhịp điệu sinh sản của trưởng thành sâu xanh Helicoverpa armigera. 50
4.9 Ảnh hưởng của thức ăn khác nhau tới khả năng phát dục của sâu non sâu đục quả cà chua H. armigera Hubner 52
4.10 Hiệu lực của một số loại thuốc trừ sâu đục quả cà chua Helicoverpa armigera ở trong phòng thí nghiệm. 54
4.11 Diễn biến mật độ sâu xanh H. armigera và tỷ lệ quả bị hại (%) ở các công thức phun thuốc khác nhau 56
4.12 Mật độ trưởng thành sâu khoang và sâu xanh (H.armigera) đục quả cà chua vào bẫy PG vụ đông xuân 2008-2009 tại xã Hồng Phong - An Dương - Hải Phòng 59
4.13 Diễn biến mật độ sâu xanh H. armigera và tỷ lệ quả bị hại (%) trong thí nghiệm sử dụng bẫy PG tại Hồng Phong- An Dương- Hải Phòng vụ đông xuân 2008-2009. 61
4.14 Hạch toán kinh tế thí nghiệm sử dụng thuốc BVTV trừ sâu xanh đục quả cà chua vụ đông xuân 2008-2009 tại An Dương - Hải Phòng 62
4.15 Hiệu quả kinh tế thí nghiệm ngoài đồng của các công thức phun thuốc trừ sâu đục quả cà chua vụ đông xuân 2008-2009 tại An Dương - Hải Phòng. 63
4.16 So sánh hiệu quả kinh tế của biện pháp phòng chống sâu đục quả cà chua bằng bẫy PG vụ đông xuân 2008-2009 tại An Dương - Hải Phòng. 64
DANH MỤC CÁC HÌNH
STT
Tên hình
Trang
4.1 Vòng đời của sâu xanh Helicoverpa armigera 49
4.2 Nhịp điệu sinh sản của một ngài cái sâu xanh H.armigera đục quả cà chua nuôi trong phòng thí nghiệm 51
4.3 So sánh vòng đời và tỷ lệ chết của sâu non sâu xanh H.armigera khi cho ăn thức ăn khác nhau. 53
4.4 Hiệu lực của một số loại thuốc trừ sâu đục quả cà chua Helicoverpa armigera trong phòng thí nghiệm. 55
4.5 Diễn biến mật độ sâu xanh H.armigera ở các công thức qua các kỳ điều tra 57
4.6 Diễn biến tỷ lệ quả bị hại do sâu đục quả cà chua gây lên ở các công thức thí nghiệm. 57
4.7 Hiệu quả kinh tế của các công thức phun thuốc trừ sâu đục quả cà chua vụ đông xuân 2008-2009 tại An Dương - Hải Phòng. 63
1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Rau là cây trồng có giá trị dinh dưỡng cao, đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của mỗi người dân Việt Nam cũng như trên thế giới. Trong các loại rau thì cây cà chua có giá trị cao cả về dinh dưỡng lẫn kinh tế.
Theo FAO ( 2003) [18] diện tích trồng rau trên thế giới năm 2002 là 42.584.800ha. Năng suất 161,35 tạ/ha, sản lượng 685,06 triệu tấn, mức tiêu thụ bình quân đầu người 101,53 kg/ năm, phân bố chủ yếu tại các nước và vùng lãnh thổ như Trung quốc, Ấn Độ, Hoa Kỳ…
Cây cà chua (Lycopersicon esculentum Miller thuộc họ cà Solanaceae) có nguồn gốc từ Trung Mỹ và Nam Châu Mỹ. Cây cà chua được phát hiện vào thế kỷ XVI. [15] Về sản lượng, cà chua chiếm 1/6 sản lượng rau hàng năm trên thế giới [16]. Diện tích trồng cà chua trên thế giới trung bình 2,5 triệu ha/năm, đứng vị trí thứ 2 sau khoai tây. Mỹ đứng đầu về năng suất và sản lượng, đứng thứ 2 về năng suất là Hy Lạp, tiếp đó là Italia. Châu Á đứng thứ nhất về sản lượng, kế theo là Châu Âu [17]. Cà chua là mặt hàng xuất khẩu của nhiều nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, cà chua được trồng cách đây trên 100 năm, diện tích trồng cà chua hàng năm biến động từ 12.000 – 13.000ha. Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển với nhiều thành tựu cao là nền tảng tạo đà cho xuất khẩu. Thực hiện đề án của Bộ nông nghiệp và PTNT " Phát triển rau, quả và hoa cây cảnh thời kỳ 1999 – 2010” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Các tỉnh, thành trong cả nước đang tích cực triển khai đề án trên trong đó có thành phố Hải Phòng.
Cà chua là cây trồng có giá trị dinh dưỡng cao và mang lại hiệu quả kinh tế hơn nhiều loại cây trồng khác [17]. Trong quả cà chua chín chứa nhiều loại chất có giá trị cao như đường dễ tiêu (2- 4%) chủ yếu là Glucoza và Fructoza, các loại vitamin quan trọng cho đời sống con người như tiền Vitamin A (1- 2mg%), Vitamin B1 (0.08- 0.15 mg%), B2 (0.05- 0.07 mg%)… Ngoài ra trong quả cà chua còn chứa 2.25 - 2.5% các loại acid như: oxalic, malic, nicotinic, citric… và chứa nhiều chất khoáng như K, P, Na, Ca, Mg, Fe… là các chất có trong thành phần của máu và xương. Cà chua có nhiều tác dụng về mặt y học, với vị ngọt tính mát, giữ nhiệt, chống hạ huyết, kháng khuẩn, nhuận tràng giúp tiêu hoá tinh bột và đặc biệt chất Lycopen trong quả cà chua có tác dụng làm giảm sự phát triển của nhiều bệnh ung thư như: ung thư tiền liệt tuyến, ung thư ruột kết trực tràng và nhồi máu cơ tim... Do vậy, cà chua là nguồn nguyên liệu quan trọng cho ngành công nghiệp chế biến đóng hộp, nước giải khát, bánh mứt kẹo và là thành phần quan trọng trong việc chế biến món ăn sinh hoạt của người dân (có thể ăn sống, nấu canh, xào, làm tương cà chua…).
Theo số liệu thống kê [19] thì 5 năm trở lại đây diện tích đất gieo trồng của thành phố Hải Phòng giảm mạnh (năm 2004: 116.493,1 ha, năm 2008 là 87.182,0 ha) giảm trung bình 5.900ha/năm (chiếm 6,5% trung bình diện tích gieo trồng hàng năm), tuy nhiên giá trị sản xuất trồng trọt không ngừng tăng, từ 271,71 tỷ đồng năm 2004 lên tới 1.570,1 tỷ đồng 2008, trung bình hàng năm tăng 190% (giá trị sản xuất tăng nhanh vào năm 2007 (350%)).
Diện tích trồng rau của thành phố Hải Phòng chiếm 15-16% diện tích sản xuất nông nghiệp, trong đó cà chua chiếm từ 9-10% diện tích trồng rau các loại, nhưng giá trị kinh tế cây cà chua chiếm 30% giá trị sản xuất thu được từ cây rau và 4,1% tổng giá trị sản xuất trồng trọt của Thành phố (65 tỷ/1.570 tỷ năm 2008) [19].
Thành phần sâu bệnh hại trên cây cà chua khá đa dạng và phong phú: các loài sâu hại chính như sâu khoang (S.litura), sâu xanh ( Helicoverpa armigera Hubner), bọ phấn (Bemisia tabaci)...và một số bệnh héo xanh (Ralstonia solanacearum Smith), sương mai (Phytopthora infestans Mont de Bary) và một số bệnh virus nguy hiểm… Một trong những mối đe dọa lớn nhất trong sản xuất cà chua chế biến tại thành phố Hải Phòng là sâu xanh Helicoverpa armigera Hubner chúng gây hại lớn tới năng suất, làm giảm chất lượng quả (gây thối quả) từ đó làm giảm thu nhập cho người trồng cà chua trên địa bàn Thành phố.
Cho đến nay, thành phố Hải Phòng chưa có biện pháp nghiên cứu, quản lý hiệu quả loài sâu hại này, công tác chỉ đạo phòng chống sâu xanh Helicoverpa armigera còn gặp rất nhiều khó khăn. Để phòng trừ chúng, biện pháp hoá học đóng vai trò quan trọng, có hiệu quả, hạn chế mức độ gây hại nhanh, đơn giản và thông dụng… Tuy nhiên, việc lạm dụng thuốc hoá học phòng chống sâu hại đã làm ô nhiễm môi trường, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật tồn đọng trong nông sản quá mức cho phép, làm giảm chất lượng hàng hoá và ảnh hưởng sức khoẻ con người, đặc biệt trong dây chuyền phục vụ sản xuất của Nhà máy chế biến cà chua thành phố Hải Phòng thì dư lượng thuốc BVTV dưới mức cho phép là rất nghiêm ngặt và cần thiết.
Để chủ động phòng chống sâu đục quả cà chua, đặc biệt là sâu xanh Helicoverpa armigera Hubner và hướng dẫn nông dân sử dụng thuốc BVTV an toàn và hiệu quả trong sản xuất rau trên địa bàn TP chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái của sâu xanh đục quả cà chua Helicoverpa armigera Hubner và biện pháp phòng chống tại An Dương - Hải Phòng vụ đông xuân 2008 - 2009”
1.2. Mục đích, yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích
Trên cơ sở xác định tình hình phát sinh gây hại của sâu đục quả hại cà chua và nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh thái của của sâu xanh đục quả Helicoverpa armigera trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp phòng chống sâu đục quả có hiệu quả trong sản xuất cà chua tại thành phố Hải Phòng.
1.2.2. Yêu cầu
- Điều tra thành phần sâu hại trên cà chua vụ Đông xuân 2008 – 2009 tại An Dương - Hải Phòng.
- Điều tra diễn biến mật độ, tỷ lệ hại của sâu xanh đục quả cà chua vụ Đông xuân 2008- 2009 tại An Dương - Hải Phòng.
- Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của sâu xanh đục quả cà chua Helicoverpa armigera Hubner.
- Thử nghiệm một số biện pháp phòng chống sâu xanh Helicoverpa armigera Hubner đục quả cà chua vụ Đông xuân 2008- 2009 tại Hải Phòng.
1.3. Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Góp phần bổ sung thêm dữ liệu thông tin về đặc điểm sinh học, sinh thái của sâu xanh Helicoverpa armigra làm cơ sở cho công tác chỉ đạo phòng chống sâu hại cà chua có hiệu quả, mang lại giá trị kinh tế cao cho sản xuất cà chua, phục vụ chế biến cho Nhà máy cà chua của thành phố Hải Phòng.
- Góp phần chủ động trong công tác bảo vệ thực vật của cơ sở, sử dụng thuốc an toàn, hiệu quả, phục vụ chương trình sản xuất rau an toàn của thành phố Hải Phòng nói riêng và trên toàn quốc nói chung, xây dựng nền nông nghiệp sinh thái và bền vững.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng
+ Sâu xanh Helicoverpa armigera Hubner
+ Cây cà chua.
+ Một số loại thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học Abamectin, Emamectin, Spinosad... Bẫy pheromone ( Bẫy sâu xanh, sâu khoang).
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
1.4.2.1. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu thành phần sâu hại trên cà chua.
- Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái của sâu xanh Helicoverpa armigera Hubner.
- Đánh giá hiệu quả của các biện pháp phòng chống sâu đục quả cà chua.
1.4.2.2. Không gian
- Nội dung trong phòng: Phòng thí nghiệm Chi cục Bảo vệ thực vật Hải Phòng.
- Nội dung ngoài đồng ruộng: Tiến hành điều tra ở các huyện An Dương, An Lão, Vĩnh Bảo - Hải Phòng.
1.4.2.3. Thời gian
Vụ Đông xuân 2008 – 2009.
2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Cà chua là cây trồng quan trọng trên khắp thế giới, cung cấp nhiều dinh dưỡng có giá trị cho loài người [46; 47] và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị của quốc gia.
Theo FAO, 1993 diện tích trồng cà chua trên thế giới là 2.723.000 ha, năng suất đạt 25,9 tấn/ha, sản lượng 70.623.000 tấn [8]. Trong 10 năm 1987 - 1997 năng suất và sản lượng cà chua của thế giới tăng lên gấp bội. Trong thực tế những năm gần đây giá cà chua đã tăng ở hầu hết các thị trường trên thế giới, ở Bắc Italia là 700 Euro/tấn, Tây Ban Nha 690 Euro/tấn.
Năm 2006, do ảnh hưởng của điều kiện khí hậu thời tiết, một số quốc gia xuất khẩu cà chua có tiếng trên thế giới: Hy lạp, Hoa Kỳ, các nước Châu Á... sản lượng cà chua bị giảm, đồng nghĩa với nguồn cung cấp cà chua của thế giới giảm và tạo điều kiện cho một số quốc gia tăng lợi nhuận trong xuất khẩu cà chua trên thị trường thế giới, trong đó có Trung Quốc [44]. Theo số liệu thống kê của phòng thương mại Trung Quốc năm 2006 lượng cà chua xuất khẩu của nước này tăng tới 4,71% so với năm 2003 đạt 630 triệu kg. Lợi nhuận thu được từ xuất khẩu cà chua của Trung Quốc là 5,01 triệu USD, tăng 933,5% so với năm 2005, tháng 1 đến tháng 5 năm 2009 xuất khẩu cà chua của Trung Quốc tăng 10% đạt 39,5 triệu tấn nhờ nhu cầu tăng nhanh tại Hồng Kông, Việt Nam và Kazakhstan.
Theo FAO 2002, sản lượng cà chua trồng hàng năm trên thế giới ước đạt 107 triệu tấn, trong đó 72% sản lượng quả tươi được bán trên thị trường [16]. Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm được quan tâm lớn do cà chua là cây nhạy cảm với các dịch hại đặc biệt là sâu xanh đục quả H.armigera. Do yêu cầu chất lượng tiêu chuẩn quả cao, dịch hại phong phú… đã kéo theo việc sử dụng nhiều loại, nhiều lần thuốc Bảo vệ thực vật làm cho mức độ đầu tư chi phí sản xuất lớn, gây ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường và con người (Picanco et al 2001).
Cho đến nay, trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về loài sâu hại trên cà chua, đặc biệt là sâu xanh H.armigera (Singh H and Singh G (1975) [72]; cùng với các nghiên cứu trong nước (Hồ Khắc Tín, 1980) [36], (Nguyễn Đức Khiêm, 2005) [21]; (Nguyễn Thi Hai, 1996) [18]; (Nguyễn Xuân Thành, 1996) [33]; (Trần Đình Phả, 1992; 1998) [8;7]; (Nguyễn Đức Khiêm ,1999)[20]; (Nguyễn Văn Đĩnh, 2004)[11] hầu hết các tác giả đều đề cập tới các vấn đề: thành phần sâu hại chính trên cà chua là nhóm sâu đục quả, đặc biệt là sâu xanh H.armigera là loài quan trọng gây thiệt hại lớn tới năng suất cũng chất lượng quả cà chua. Các nghiên cứu cũng chỉ ra thời điểm phát sinh gây hại chủ yếu sau khi cà chua ra hoa, đậu quả và nêu lên một số đặc điểm sinh học của loài sâu hại này. Các nghiên cứu trong và ngoài nước cũng khẳng định rằng để phòng chống loài sâu xanh H.armigera không đơn giản là phun trừ bằng thuốc hoá học mà phải áp dụng các biện pháp tổng hợp IPM, thu bắt thủ công, bẫy bả chua ngọt, bẫy pheromone.. và nghiên cứu các thời điểm phun trừ có hiệu quả…
Việt Nam là quốc gia có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp thành tựu cao, đó là nền tảng tạo đà cho xuất khẩu, rau hoa quả là mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam - trị giá gần 103 tỉ USD[34]. Năm 2008, tổng diện tích rau của cả nước là 722 nghìn ha, năng suất trung bình đạt 159tạ/ha với sản lượng 11,4 triệu tấn. Sáu tháng đầu năm 2009 cả nước sản xuất gần 500 nghìn ha rau, đậu các loại, trong đó tính riêng các tỉnh phía Bắc đạt 240 tấn. Tuy nhiên, hiện nay diện tích rau an toàn (RAT) của cả nước chỉ đạt 8-8,5% tổng diện tích trồng rau. Theo số liệu thống kê đến nay các tỉnh Miền Bắc có gần 10.000ha RAT, tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Hồng: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh, Bắc Giang…Do vậy, vấn đề chất lượng RAT đang được quan tâm hàng đầu trong sản xuất hiện nay.
Việc lạm dụng thuốc hoá học để bảo vệ năng suất cây trồng nói chung và cây cà chua nói riêng đã gây lên những ảnh hưởng lớn: phá vỡ mối cân bằng sinh thái trong sinh quần, tiêu diệt và làm nghèo quần thể ký sinh, thiên địch có ích, điều quan trọng là tạo tính kháng thuốc cho sâu hại (H.armigera) kháng Pyrethroid Endosulfan ở Ấn Độ (Keshow Rajkranthi, 2002) [56]. Một thực tế cho thấy vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đang làm đau đầu các nhà quản lý và nhà khoa học nông nghiệp Việt Nam về việc chưa kiểm soát được tốt dư lượng thuốc BVTV trong các sản phẩm nông sản xuất khẩu, đặc biệt là xâm nhập thị trường tiềm năng nhưng kỹ tính như Mỹ, Nhật, Tây Âu…
Đến nay, thành phố Hải Phòng có 600ha chuyên canh rau, trong đó 1/2 diện tích trồng RAT của ngành chủ quản và 1/3 diện tích đang được giám sát chất lượng phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Tuy nhiên, việc đầu tư cho sản xuất RAT, kiểm tra giám sát chất lượng rau còn khá tốn kém, giá thành cao, đặc biệt là thói quen tiêu dùng của người dân chưa được nâng cao nên đầu ra cho sản phẩm gặp không ít khó khăn cho nhà sản xuất. Chủ trương của Thành phố và Ngành Nông nghiệp sẽ mở rộng diện tích RAT, đặc biệt là nhóm rau chất lượng để phục vụ đời sống người dân Thành phố, du lịch và xuất khẩu…
Theo kết quả số liệu phiếu điều tra 30 hộ nông dân trồng cà chua tại Thôn Minh Kha- Xã Hồng Thái - Huyện An Dương – TP Hải Phòng cho thấy đa số nông dân thường sử dụng từ 8-10 loại thuốc hoá học/vụ để hạn chế thiệt hại do loại sâu đục quả gây ra, đặc biệt là vụ cà chua xuân hè. Có 93,33% số hộ nông dân cho biết họ thường phun thuốc trừ sâu định kỳ 7-10 ngày/lần kể từ khi cây cà chua ra chùm nụ đầu; phun từ 9-12 lần thuốc hoá học trong một vụ cà chua. Trong đó 83,33% số hộ dùng thuốc BVTV theo tập quán và kinh nghiệm, chỉ có 16,67% số nông dân được điều tra phỏng vấn đã quan tâm đến độ độc của thuốc khi phun ở giai đoạn quả rộ - quả chín; có 10% số hộ đã quan tâm đến dòng thuốc trừ sâu sinh học có hiệu lực trừ sâu đục quả cà chua (Nhóm Abamectin…).
Nâng cao chất lượng rau quả, đảm bảo tốt vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm là mục tiêu lâu dài và bền vững trong chiến lược đưa sản phẩm nông sản chất lượng của Việt Nam tham gia thị trường xuất khẩu thế giới.
Những kết quả nghiên cứu về sâu hại cà chua và đặc điểm sinh học của sâu đục quả H.armigera của các tác giả bước đầu giúp cho công tác quản lý sâu hại trên cây cà chua, tuy nhiên với điều kiện sản xuất của thành phố Hải Phòng và nhu cầu phục vụ Nhà máy chế biến cà chua cô đặc trên địa bàn Thành phố thì việc phòng chống sâu xanh H.armigera có hiệu quả, đảm bảo năng suất chất lượng quả cà chua phục vụ tốt cho dây truyền sản xuất của Nhà máy, thì chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu.
Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu thành phần sâu hại chính trên cà chua, nghiên cứu đặc điểm sinh học của sâu xanh và lựa chọn các biện pháp phòng chống chúng có hiệu quả là cơ sở khoa học, đáp ứng được những đòi hỏi trong thực tế sản xuất cà chua của Thành phố thực sự là vấn đề cấp thiết hiện nay.
2.2. Những nghiên cứu nước ngoài và Việt Nam
2.2.1 Nghiên cứu về sâu hại cà chua
Theo kết quả điều tra cơ bản côn trùng miền Bắc 1967 - 1968 có 11 loài sâu hại cà chua [1] trong đó có một số loài cây gây hại quan trọng như sâu xám Agrotis ypsilon Rottemb, bọ phấn Bemisia mysicae Kuwayana, sâu xanh Helicoverpa armigera Hubner, sâu khoang Spodoptera litura (Fabr), dế mèn lớn và dế dũi...
Năm 1974 - 1976 kết quả điều tra cơ bản côn trùng toàn Miền bắc một lần nữa cho thấy có 13 - 14 loài sâu hại phổ biến trên cà chua, một trong những loài gây hại nghiêm trọng cho cây cà chua là sâu xanh đục quả H.armigera Hubner (Hồ Khắc Tín, 1980) [36].
Theo Hoàng Anh Cung (1990-1995) trên cà chua có 5 loài sâu hại chính: Sâu xám (Agrotis ypsilon Rott), Bọ phấn (Bemisia tabaci), sâu khoang (Sopodoptera litura), sâu xanh (Helicoverpa armigera), bọ trĩ (Thripidae); trong đó chỉ có 2 loài sâu đục quả là sâu xanh và sâu khoang xuất hiện và gây hại thường xuyên hơn trong cả 3 vụ cà chua: sớm, chính vụ và vụ muộn[10].
Theo FAO 2002, khi nghiên cứu về sâu hại cà chua xác định có 5 loài gây hại chính cần có biện pháp quản lý hiệu quả đó là sâu xám, sâu xanh đục quả, bọ phấn, giòi đục lá và rệp bột sọc Ferrisia virgata [16].
Nguyễn Văn Đĩnh và Cs, (2003) [12] đã nhận xét tại Nương Lỗ - Đông Anh - Hà Nội trên cà chua vụ xuân 2003 có 18 loài sâu và 2 loài nhện hại, trong đó gây hại nặng nhất vẫn là nhóm sâu đục quả, chúng xuất hiện nhiều khi cây ra hoa và càng về cuối vụ càng bị hại nặng, trong đó sâu xanh H. armigera là loài gây hại nặng nhất. Các tác giả cho rằng cả 3 loài sâu đục quả đều xuất hiện và gây hại trên cà chua ở cả hai vụ thu đông và xuân hè, tuy nhiên chúng gây hại nặng hơn cả ở vụ xuân hè 2003. Trong vụ thu đông sâu khoang Spodoptera litura gây hại chủ yếu, sang vụ xuân hè chúng xuất hiện và gây hại ít hơn, gây hại nặng hơn cả là sâu xanh Helicovecpa assulta. Nhóm nghiên cứu cũng chỉ rõ rằng mật độ của sâu H. assulta luôn cao hơn sâu xanh H. armigera, điều đó giúp chúng ta chủ động hơn trong biện pháp phòng chống chúng ở các thời vụ trồng cà chua khác nhau.
Lương Thị Kiểm, (2003) cho biết thành phần sâu hại cà chua tại Đông Anh- Hà Nội cho biết trong 7 loài sâu hại chính thì nhóm sâu đục quả (sâu xanh H.armigera, sâu xanh H.assulta, và sâu khoang S.litura) xuất hiện và gây hại, làm ảnh hưởng lớn tới năng suất cà chua vụ xuân hè 2003 [22].
Tỷ lệ và mật độ giữa 3 loài trong nhóm sâu đục quả biến động trong các vụ trồng cà chua. Ở vụ đông sâu khoang gây hại nặng nhất, sau đó đến sâu xanh H.armigera và hại nhẹ nhất là sâu H.assulta [1].
Mai Phú Quý và Vũ Thị Chi, (2005) khi nghiên cứu về đa dạng côn trùng trong sinh quần rau quả cho thấy trên cà chua có các loài sâu gây hại chính như: Rệp Aphis fabae Scopoli, Aulacorthum solani (Kalf), bọ phấn Bemisia myricae Kuway, sâu xanh H.armigera Hubner, sâu khoang S.litura. Chúng gây hại nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất và chất lượng cây cà chua[30]. Nguyễn Đức Khiêm, 2005 [21] đã nhận xét các loài sâu hại chính trên cà chua nguy hiểm nhất là nhóm sâu đục quả (sâu xanh H.armigera, sâu xanh H.assulta, sâu khoang S.litura), chúng gây hại nghiêm trọng tới năng suất chất lượng cây trồng này.
Nguyễn Kim Chiến, 2005 cho biết vụ xuân hè 2004 - 2005 trên giống cà chua PT18 trồng tại Viện nghiên cứu rau quả - Gia Lâm - Hà Nội có 3 loài sâu hại chính là bọ phấn, rầy xanh Empoasca sp và sâu xanh H.armigera [4].
Từ kết quả của những nghiên cứu trên ta thấy, tuy số loài gây hại chính trên cà chua ở từng vùng địa lý khác nhau có khác nhau nhưng nhóm sâu đục quả vẫn là đối tượng gây hại nguy hiểm và gây thiệt hại nghiêm trọng nhất cho các vùng trồng rau trên thế giới [33]; [78]; [83]; [1]; [78]; [21].
2.2.2. Những nghiên cứu về sâu xanh Helicoverpa armigera Hubner ống
Theo Peason 1958, Fitt 1985 thì H.armigera là loài dịch hại cây trồng nông nghiệp chủ yếu ở rất nhiều khu vực trên thế giới như: Châu Mỹ, Ấn Độ, Đông Nam Á, Trung Đông, Đông Âu, Phía Đông và phía Bắc Australia, New Zealand và rất nhiều đảo phía Đông Thái Bình Dương [79].
Trên thế giới H.armigera gây hại trên 60 loại ký chủ là cây trồng sản xuất và 67 ký chủ hoang dại (Reed and Pawar 1982).
Trưởng thành sâu xanh H.armigera Hubner là loài sâu hại chủ yếu được phân bố ở rất nhiều vùng trên thế giới (Peorson, 1958, Fitt 1989). Sâu non của chúng tấn công nhiều loại cây trồng sản xuất và cây hoang dại. Trước những năm 1994, tại Nhật Bản mật độ của loài sâu hại này nhìn chung là thấp, thiệt hại cho cây trồng là không đáng kể, nhưng đến năm 1994 (Yoshimatsu, 1994) đã công bố sâu xanh H.armigera Hubner bùng phát mật độ thành dịch ở một số vùng ở Miền tây Nhật Bản[80].
H.armigera có thể hoàn thành vòng đời trên các loại cây trồng chủ yếu như bông, các loại đậu ( đậu xanh, đậu hoa, đậu pigeon), ngô, thuốc lá, đậu nành, khoai tây, cà chua, mướp tây…Chúng tấn công lá, chồi ngọn, nụ hoa, quả của một số cây trồng và có thể gây thiệt hại giảm tới 90% năng suất quả cà chua ( Vaijayanti et.al, 2005).
Khả năng gây hại của H.armigera mang tính chất toàn cầu, ước tính lên tới 7,5 tỷ USD, mặc dù lượng thuốc trừ sâu đã chi phí lên tới 2 tỷ USD. Những thiệt hại mà H.armigera gây lên cho nghề trồng cà chua trên thế giới rất nghiêm trọng.
Vic Casimero, 2000 khi nghiên cứu về chất lượng, thức ăn ở giai đoạn sâu non đã ảnh hưởng đến sức sinh sản của trưởng thành sâu xanh H.armigera.
Năm 2001 Mustapha F.A. jallow và Masaya Matsumura cho rằng sâu xanh H.armigera là loại sâu hại trên cả cây trồng ngoài đồng lẫn trong vườn ở rất nhiều vùng trên thế giới.
Khi nghiên cứu sự phát triển của ngưỡng kinh tế và hệ thống quản lý sâu hại H.armigera trên cà chua tác giả P.J.cameron, 2001 ở Newzealand khẳng định H.armigera là loại sâu hại chủ yếu trên cà chua chế biến ở Gisborne và khu vực Hawke thuộc bờ biển đông Newzealand. Ở đó, chúng gây hại trên 30% số quả khi không xử lý thuốc bảo vệ thực vật vào cuối vụ cà chua (Walker và Camerun 1990) [68].
Lange – Bronso, (1981) cho biết khả năng tỉ lệ quả bị hại do H.armigera dao động từ 2-20% ở Mỹ. Theo Walke & Camosons (1990) thì ở New Zealand, cà chua chế biến phải thu hoạch nếu tỷ lệ quả bị hỏng dưới 10% và Herman & Camerson (1993) cho rằng 5% số quả bị hỏng đó có nguyên nhân là H.armigera [68].
Năm 1994, Zalucki et al. cho biết ở vùng nội địa Australia khi tiến hành cuộc điều tra trên diện rộng đã chỉ ra hơn 26 loại cây ký chủ nữa bị sâu xanh H.armigera gây hại lớn hơn so với những nghiên cứu trước đó.
Tập tính ăn tạp, đa thực là lý do để H.armigera tồn tại và sống dai dẳng gây hại trên nhiều loại cây trồng ( Fitt, 1989) và gây khó khăn không nhỏ cho các nhà bảo vệ thực vật trên thế giới khi nghiên cứu biện pháp quản lý loài sâu hại này[79, 67, 68, 66].
Ngưỡng gây hại kinh tế của loài này có TLH là 2%, sâu xanh H.armigera là loài gây hại chính trên cây bông ở Miền Bắc Trung Quốc, lứa 2 là lứa gây hại nặng và chủ yếu trong năm[60].
Kết quả nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Bông P.B số 2 Shankarnagar- Ấn Độ cho biết: sâu xanh H.armigera gây thiệt hại mùa màng hàng năm từ 290-350 triệu USD (năm 1994). Trong 480 triệu USD chi trả cho thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp ở Ấn Độ thì có 50% chi phí cho sản xuất bông trong đó 75% (của 240 triệu USD) dùng để quản lý sâu xanh H.armigera. Trong suốt hơn một thập niên qua việc quản lý sâu hại này càng trở lên khó khăn phức tạp do khả năng kháng thuốc của chúng với hầu hết các loại thuốc sâu đang được dùng phổ biến ở đó [56].
Theo Campell and Reed (1986) sâu xanh H.armigera là loài gây hại nặng nhất trong 200 loài sâu hại đậu đỗ, thiệt hại do loài sâu này gây lên khoảng 300 triệu USD [49].
Tại Ấn Độ (Bang Punjab) sâu xanh H.armigera xuất hiện 4 lứa trong 1 năm, lứa thứ nhất vào tháng 3 trên cây đậu (checkpea), hại lứa tiếp theo từ cuối tháng 3 đến tháng 5 trên cây cà chua, lứa 4 gây hại trên ngô và cà chua từ tháng 7 đến tháng 8 [55]. Những ký chủ đầu tiên của sâu xanh H.armigera (Hubner) là các đối tượng hoa, cây cảnh sau đó là những cây trồng có giá trị kinh tế như bông, thuốc lá, cà chua, khoai tây, ngô, đậu tương, kê và các loại đậu (chickpea) và cây ăn quả, cây lâm nghiệp (Matthews M, 1991) [63]. Sâu xanh H.armigera phân bố và gây hại ở khắp các vùng trên thế giới từ Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ, đến các nước thuộc Thái Bình Dương với đặc điểm gây hại chính: là loại sâu hại đa thực, sâu non đục vào hoa, quả tạo đường hầm bên trong quả bị hại, gây khó khăn cho công tác điều tra và phòng trừ [49, 4].
2.2.3. Đặc điểm sinh học của H.armigera
Theo kết quả điều tra cơ bản côn trùng toàn Miền bắc 1967 - 1968 có 11 loài sâu hại trên cây cà chua, năm 1977 – 1978 điều tra từ các tỉnh phía Nam có 29 loài gây hại, trong đó nhóm sâu đục quả: Sâu khoang Spodoptera litura (Fabr), sâu xanh Helicoverpa armigera Hubner và sâu xanh H.assulta là các đối tượng gây hại nguy hiểm, chúng có mặt ở hầu hết các Châu lục trên thế giới và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất, chất lượng quả cà chua [1].
Theo Singh H, 1975 trưởng thành sâu xanh H.armigera phân biệt đực cái có thể dựa trên chùm lông ở chóp bụng (chỉ ngài cái mới có đặc điểm này), ngài cái có chiều rộng sải cánh 40mm, ngài đực nhỏ hơn (dài 35,4mm), cánh trước màu nâu nhạt với đường viền nhiều chấm có dấu hiệu hình thân màu sẫm ở mặt dưới của mỗi cánh trước, cánh sau có màu nhạt hơn ở đỉnh cuối mỗi cánh có 1 chấm màu sẫm [73].
Giai đoạn tiền nhộng 1-2 ngày, nhộng có dạng chùy, chiều dài 14-18mm. Nhộng mới có màu xanh vàng sau đó màu nâu sáng, giai đoạn nhộng dài 16 ngày, trên thân nhộng đốt cuối xuất hiện gai màu nâu sẫm. Nhộng già trước khi vũ hoá có màu nâu đậm.
Trứng sâu xanh có màu trắng vàng và sẫm hơn khi sắp nở, chiều dài trứng 0,5mm, rộng 0,54mm. Sâu non mới nở có màu trắng trong dài 1,3-1,6mm, dọc thân có 1 vạch vàng da cam, mạnh cứng đầu có màu nâu sẫm, sâu non đầy sức dài 35- 42mm, mặt bụng phẳng, mặt lưng lồi lên. Cơ thể sâu non có màu xanh nhợt, mỗi phía trên cơ thể sâu non có 1 sọc gẫy, bên cạnh (mặt lưng) có 1 vạch có nhiều lông màu trắng nằm rải rác. Mỗi đốt ngực có 1 đôi chân, có 3 đôi chân ngực, 4 đôi chân bụng xếp ở các đốt 3,4,5 và 10.
Ngài cái đẻ trứng đơn lẻ, giai đoạn sâu non phát triển không giống nhau cho dù cùng một trưởng thành cái đẻ ra. Giai đoạn trứng kéo dài 1-8 ngày, sâu non 14-51 ngày, nhộng 7-114 ngày, vòng đời 22-162 ngày. Ngài cái có màu vàng nâu sẫm, ngài đực có màu xám, hơi xanh sáng. Sâu non có 6 tuổi, 5 lần lột xác có khả năng tiêu diệt lẫn nhau trong quá trình nhân nuôi, sâu non đầy sức hoá nhộng, nhộng nằm trong đất.
Theo Vic Casimero, (2000) [79, 80] nghiên cứu ở Nhật Bản cho thấy sâu xanh H.armigera có 6 tuổi qua 5 lần lột xác, sâu non cũng có hiện tượng ăn thịt lẫn nhau, giai đoạn tiền nhộng sâu non đẫy sức đục lỗ và chui xuống dưới đất hoá nhộng, có thể phân biệt nhộng đực và nhộng cái theo hình dạng cơ quan sinh dục và lỗ hậu môn, khi sắp hoá trưởng thành nhộng có màu nâu đen. Ngài cái của sâu xanh H.armigera có khuynh hướng thích đẻ trứng ở gần hoa, hay bộ phận sinh sản của cây ký chủ. Bất kể thức ăn của ngài cái có nguồn gốc như thế nào thì chúng cũng đẻ trứng tập trung vào đêm thứ 1 (30% số trưởng thành) sau đó phần lớn đẻ vào đêm thứ 2 (40,0 - 45,2%) và số còn lại đẻ vào đêm thứ 3 và 4. Tất cả ngài cái cho ăn thêm bằng mật ong ở bất cứ nồng độ nào (5,10,20%) đều đẻ trứng đến lúc trước khi chết (từ đêm 1 đến đêm thứ 7)[80]; tác giả chỉ ra rằn._.g dinh dưỡng ở giai đoạn sâu non và trưởng thành của sâu xanh H.armigera có ảnh hưởng đáng kể đến độ chín muồi của ngài cái trong khả năng đẻ trứng và chất lượng sinh sản.
Ở Ấn Độ, khi nghiên cứu đặc điểm sinh thái học và quản ký sử dụng các ứng dụng công nghệ sinh học tiên tiến đối với sâu xanh H.armigera tác giả Vaijaianti nêu rõ: Trưởng thành cái của sâu xanh H.armigera đẻ trứng ngay mặt dưới của lá, hoa, quả của cây ký chủ; trứng có màu trắng vàng, đến khi sắp nở có màu vàng đậm, sâu non tuổi 1 ăn lá non các tuổi tiếp theo chúng di chuyển xuống quả và đục ăn thịt quả của cây chủ. Sâu non có 5-6 lần lột xác, thường có 6 tuổi, một sâu non sâu xanh có thể ăn hết 8 -17 quả đậu trong suốt giai đoạn phát dục của nó. Ở giai đoạn đẫy sức (tiền nhộng) sâu non tuổi 6 tự rơi xuống mặt đất, chúng chui xuống dưới mặt đất 2-6cm để vào nhộng. Trong điều kiện bình thường sâu xanh H.armigera hoàn thiện vòng đời trong khoảng thời gian 27-37 ngày [78].
Nguyễn Văn Đĩnh và Cs, (2003) [13] khi theo dõi đặc điểm sinh học của sâu xanh H.assulta cho kết quả: Giai đoạn sâu non có 6 tuổi; Ở điều kiện nhiệt độ 25oC giai đoạn này kéo dài 22,38 ± 0,5ngày; trứng 4,14 ± 0,74 ngày; nhộng 13,86+ 1,28 ngày; trưởng thành 8,00+1,59 ngày. Nếu trong điều kiện nhiệt độ 30 oC các pha phát dục của sâu H.assulta rút ngắn hơn. Thời gian phát dục của sâu xanh H.assulta nuôi trong phòng phù hợp với diễn biến gây hại ngoài đồng ruộng của chúng [13].
Trưởng thành sâu xanh giao phối từ chập tối đến sáng sớm hôm sau, sau 2-3 ngày giao phối thì đẻ trứng, trứng đẻ rải rác trên các bộ phận lá non, hoa, nụ của cây ký chủ; trung bình một ngài cái đẻ 200-300 trứng (tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường và chế độ dinh dưỡng), thời gian đẻ trứng kéo dài 16-26 ngày với 6 tuổi sâu, sâu non đẫy sức chui xuống đất và hoá nhộng cách mặt đất 2,5-17cm; giai đoạn nhộng dài 19-30 ngày. Do đặc điểm ngài cái đẻ nhiều trứng và thời gian đẻ kéo dài nên trên đồng ruộng ở giai đoạn sau khi ra hoa của cây chủ lúc nào chúng ta cũng bắt gặp sâu non, sâu xanh gây hại ở các tuổi khác nhau; tuy nhiên mật độ sâu tập trung cao vào vụ hè (tháng 5) [1].
Theo tác giả Nguyễn Thị Hai, (1996) khi nghiên cứu đặc điểm sinh học của sâu xanh trên cây bông cho thấy thời gian trứng kéo dài 2-2,5 ngày, giai đoạn sâu non 8-12 ngày và giai đoạn nhộng 10-16 ngày, trưởng thành sống 2-15 ngày [18].
Thời gian phát dục của sâu xanh phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện nhiệt độ môi trường và chất lượng thức ăn, vì vậy tuỳ theo thời vụ gieo trồng mà có các biện pháp phòng chống sâu xanh đục quả cà chua sao cho chủ động và hiệu quả; thuốc BVTV là loại vật tư nông nghiệp đặc thù tuy không sử dụng thường xuyên nhưng rất cần thiết để bảo vệ năng suất chất lượng chất lượng cây trồng [6].
Theo CAB international, 2006 [81] ở phía nam Bungari có 2-3 lứa sâu xanh H.armigera trong một năm, vào mùa đông giai đoạn nhộng nghỉ đông dưới đất, trưởng thành có thể sống 3 tuần, sau khi vũ hóa 2-6 ngày chúng bắt đầu đẻ trứng. Một ngài cái có thể đẻ 3.180 trứng (một ngày 1 ngài cái có thể đẻ 457 quả trứng) chúng chủ yếu đẻ vào ban đêm. Ở điều kiện nhiệt độ 250C trứng nở sau 3 ngày, trong điều kiện thời tiết lạnh hơn có thể sau 10-11 ngày trứng mới nở. Giai đoạn sâu non kéo dài 24-36 ngày, nếu trong điều kiện thức ăn đầy đủ thì giai đoạn phát dục này chỉ kéo dài 16-30 ngày. Ở nhiệt độ 25-260C giai đoạn sâu non dài 19-26 ngày, sâu non đẫy sức chui xuống dưới mặt đất 2-8cm, giai đoạn tiền nhộng kéo dài 1-7 ngày. Trong điều kiện bất lợi nhộng có thể nằm trong đất từ 176-221 ngày. Ở điều kiện thời tiết tháng 8 nhộng phát dục trong 8-15 ngày, tháng 9 giai đoạn này kéo dài 40 ngày. Trưởng thành sống 3 tuần [81].
Ở Miền Nam nước Pháp, trưởng thành sâu xanh H.armigera xuất hiện vào trung tuần tháng 5 và kết thúc vào tháng 10, lứa 2 xuất hiện vào giai đoạn mùa hè và lứa 3 xuất hiện vào tháng 9. Lứa 2 trong năm trưởng thành sâu xanh di chuyển từ phía Bắc xuống phía Nam nước Pháp và ở lưu vực giữa lục địa vào mùa thu. Chúng đẻ trứng trên cây ký chủ khi cây bắt đầu ra hoa[81].
Ở Iran, kết quả nghiên cứu về sâu xanh H.armigera cho thấy: Nhộng sâu xanh nằm dưới mặt đất, khi thời tiết sang tháng 5 chúng hóa trưởng thành, một ngài cái có thể đẻ từ 500-2.700 quả trứng, giai đoạn trứng kéo dài 3-4 ngày (mùa hè) có khi tới 1 tuần (mùa thu), giai đoạn sâu non kéo dài từ 14-21 ngày tùy theo mùa.
Ở phía Bắc Iran, sâu xanh được coi là loài sâu hại quan trọng và nguy hiểm trên cây bông, chúng xuất hiện và gây hại từ 4-6 lứa trong năm.
Kết quả nghiên cứu ở Miền Nam Châu phi cho thấy: Một trưởng thành cái sâu H.armigera có thể đẻ trung bình 730 quả trứng (cao nhất là 1.600 quả), có đêm chúng đẻ tới 480 trứng. Sâu xanh H.armigera có tập tính đẻ trứng vào giai đoạn trước khi cây ký chủ ra hoa. Ở điều kiện nhiệt độ 22,50C giai đoạn trứng 3 ngày, sâu non 14 ngày; nếu trong điều kiện nhiệt độ 170C giai đoạn trứng dài 9 ngày, sâu non kéo dài tới 51 ngày. Nếu thức ăn đầy đủ giai đoạn sâu non sẽ phát dục nhanh hơn. Sâu non đẫy sức hóa nhộng, nhộng nằm dưới mặt đất 3-15cm, tùy theo điều kiện nhiệt độ mà giai đoạn nhộng có thể dài từ 12-57 ngày.
2.2.4. Những nghiên cứu về biện pháp phòng chống sâu xanh H.armigera Hubner
Với đặc tính sinh học và khả năng gây hại của chúng thì sâu xanh H.armigera là mối đe dọa nguy hiểm cho sản xuất Nông nghiệp trên thế giới. Đã có rất nhiều nghiên cứu về biện pháp phòng chống loài sâu này có hiệu quả bảo vệ năng suất và chất lượng cây trồng.
Theo M.C Picanco [61] và một số tác giả khác (Dent 2000; Pedio 2002) thì họ đã áp dụng biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) thay thế các biện pháp cổ truyền (thuốc hóa học). Việc lựa chọn biện pháp này chủ yếu dựa vào các thông số xã hội, sinh thái, kinh tế và kỹ thuật.
Imenes et. Al, (1992) cho biết khi áp dụng IPM trừ sâu xanh H.armigera thì mật độ sâu giảm tới 93,4%, tăng kẻ thù tự nhiên, sinh vật có ích mà vẫn bảo vệ được năng suất cây trồng [61].
Sikora et. Al, (2002) cũng kết luận rằng việc áp dụng biện pháp IPM trong quản lý sâu xanh đục quả cà chua giảm được 134,32USD/ha so với biện pháp quản lý sâu hại cổ truyền. Nghiên cứu của Gusmao et al, 2000 và Ito et al, 2005; Parra and Zucchi, 2004 cũng chỉ ra rằng nhóm thuốc Parathion- Methyel và phosphat hữu cơ làm giảm lượng lớn mật độ của ong mắt đỏ (Ong ký sinh trứng sâu xanh H.armigera). Việc sử dụng thuốc hóa học độc hại trừ sâu xanh là nguyên nhân tiềm ẩn của việc quản lý sinh thái học gia tăng [61].
Kết quả nghiên cứu của Lidu ở miền Bắc Trung Quốc (2002) cho thấy rằng tìm hiểu động lực học năng lượng của sâu xanh H.armigera có ý nghĩa lớn trong việc quản lý chúng. Đó là sự phản ánh tổng hợp mật độ sâu, tỷ lệ tử vong và giá trị calo của loài này [60].
Theo Wu and Wong 1984, do đặc tính gây hại của loài, nên sâu xanh khi gây hại tốn nhiều calo hơn so với các loài sâu ăn lá thông thường khác, vì chúng phải tìm kiếm hoa và quả (thức ăn ưa thích) của ký chủ vất vả hơn. Vì vậy, việc phòng chống loài sâu này phải chủ dộng để hạn chế thấp nhất thiệt hại do chúng gây ra [82].
Theo nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu bông Ấn Độ, (2002) [39] cho biết sâu xanh H.armigera có khả năng kháng với các nhóm thuốc Fenvalerat, Cyper-methrin, Quinalphos và Endosulphan sau 6 năm nghiên cứu (1993-1999). Khi xử lý Endosulphan 10.0Ug thì tỷ lệ sống sót của sâu xanh tăng theo mùa từ 10% tháng 9 (1993) lên tới 80% vào tháng 3 (1994).
Theo tác tác giả Kranthi, 2001 [57] thì sâu xanh H.armigera kháng với Quinalphos thấp hơn trên khắp nước Ấn Độ, chúng kháng cao gấp 10-15 lần ở phía Nam Maharashtra và Andhra Pradesh. Tỷ lệ sống sót trung bình trong suốt các mùa của sâu xanh là 19% trong 4 năm nghiên cứu (1995-1999). Khả năng kháng thuốc của sâu xanh H.armigera làm giảm hiệu lực của thuốc hóa học, nên việc sử dụng thuốc trừ sâu vào thời điểm sâu mẫn cảm cao để có sự thay đổi lớn hơn về chuỗi gen kháng thể. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hạn chế sử dụng liên tục một nhóm thuốc có nghĩa là phải luân phiên thuốc trong quản lý phòng chống sâu xanh H.armigera gây hại cây trồng [80].
Ở Ấn Độ, để hạn chế sử dụng nhóm thuốc Cacbamate và Endosulphan có thể chống chéo với Photphas hữu cơ nên việc luân phiên sử dụng thuốc trừ sâu xanh H.armigera hiệu quả là vấn đề cần quan tâm hiện nay.
Theo Kranthi, 2000 [50] chỉ ra rằng sâu non, sâu xanh H.armigera ở Ấn Độ hoàn toàn mẫn cảm với loại thuốc có hoạt chất Spinosad đã được đăng ký sử dụng trong những năm gần đây, hoạt chất này có hiệu quả với cả giai đoạn nhộng trong đất của sâu xanh H.armigera. Họ đã sử dụng hoạt chất Spinosad để thay thế Endosulphan trừ sâu xanh H.armigera vào đầu vụ mùa ở Ấn Độ.
Một tập quán cố hữu trong sản xuất của nông dân Ấn Độ là việc sử dụng lượng lớn nhóm phosphat hữu cơ để khống chế hàng loạt sâu hại đầu mùa bông, những ứng dụng này đã làm ảnh hưởng tới cân bằng sinh thái giữa dịch hại và thiên dịch - kẻ thù tự nhiên. Kranthi, 2002 đã chỉ ra rằng để bảo vệ kẻ thù tự nhiên, giữ cân bằng sinh thái thì việc phun đúng thời điểm sâu non sâu xanh H.armigera còn nhỏ tuổi hoặc xử lý hạt giống bằng Imidacloprid và Cacbonsulphat có hiệu quả hạn chế khả năng gây hại của chúng. Ngoài ra, có thể sử dụng virus nhân đa diện NPV hoặc các hoạt chất có nguồn gốc từ thực vật Neem để hỗ trợ hoặc thay thế các loại thuốc hoá học trừ sâu xanh có hiệu quả. Chiến lược sử dụng thay thế dần các loài thuốc trừ sâu xanh H.armigera đang được tiến hành triệt để và có hiệu quả trong những năm gần đây trong sản xuất nông nghiệp ở Ấn Độ [80, 57, 58].
Dẫn theo CAB International, 2006 [46] khi nghiên cứu khả năng kháng nhóm thuốc Pyrethroid của sâu xanh H.armigera có thể thảo luận chi tiết theo 3 con đường: Phân giải chất độc bằng sự pha trộn hoạt tính của các hoá chất, sự nhạy cảm của thần kinh và quá trình xâm nhập từ từ của thuốc. Sự phân giải của thuốc chậm chạp ở các bộ phận của cây (gốc cây, cuống lá...) và chất hỗ trợ khác, với mức độ chuyển hoá trung bình đó có thể sử dụng Pyrethroid có hiệu quả cao và hiệu lực kéo dài trong mật độ quần thể sâu xanh H.armigera, đó là vấn đề mấu chốt trong kỹ thuật phòng chống loài sâu hại này.
Theo Barkat Hussain et. al, (2007) [46] cho biết H.armigera là loài sâu hại nguy hiểm ở Ấn Độ, có rất nhiều thử nghiệm đã được tiến hành nhằm quản lý loài sâu hại này bằng phương pháp sinh thái học, tuy nhiên phương pháp này tỏ ra không có hiệu quả vì sâu non gây hại bằng cách chúng đục và sống ở trong quả cà chua - khó phòng chống. H.armigera được coi là loài dịch hại lớn trong số các loài dịch hại trên cây trồng ở Ấn Độ trong suốt thập niên qua. Nông dân, các tổ chức bảo vệ thực vật và chính phủ Ấn Độ đã tỏ ra lúng túng trong việc quản lý loài sâu hại này, họ cũng đã áp dụng biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp IPM, sử dụng màng phủ bao bọc tán lá và qủa ( Dotkhite et. al, 1992, Sharma et. Al, 1993) và nghiên cứu cụ thể đã được tiến hành: Xác định hiệu lực trừ sâu xanh của 6 loại thuốc hoá học sau 2 năm nghiên cứu (2003 - 2004), kết quả được ghi lại ở bảng sau:
Từ dữ liệu trên cho ta thấy thí nghiệm cho hiệu quả trừ sâu xanh H.armigera cao nhất khi sử dụng Imidacloprid ở liều lượng 0,03 gai, cả 6 công thức đều có hiệu quả cao hơn so với đối chứng, tỷ lệ thiệt hại (%) có thể bù được ở 4 công thức đầu đều trên 30% năng suất. Kết quả này phù hợp với kết quả của Ulaganathan và Gupta, 2004 và Laveka et al 2004 [59], khi cho rằng phương pháp xử lý Imidacloprid có hiệu quả cao trong phòng chống H.armigera.[52] Do đặc tính tác động của thuốc nhanh và khả năng gây độc cho động vật còn thấp, tồn tại lẫn trên bề mặt xử lý nên có hiệu lực cao trừ sâu xanh đục quả H.armigera trên cà chua (Misha 1986, singh và singh 1990, Bhatt at. el 2002) [59].
Bảng 2.1 : Hiệu lực trừ sâu xanh H.armigera đục quả cà chua tại Ấn Độ năm 2003-2004
Công
thức
Tên thuốc
Tên hoạt chất
G(ai)
Tỷ lệ quả bị hại (%)
Mật độ sâu non
(con/ cây)
Năng suất
(kg/ha)
Bù đắp năng suất
(%)
2003
2004
2003
2004
2003
2004
2003
2004
I
Courage
Imidacloprid 17,8%SL
0.03
8,65
6,80
0,83
0,5
28.000
32.000
46,43
46.87
II
Decis
Deltamethrin 1,8 EC
0,01
10,20
8,90
0,87
0,7
26.667
29.333
43,75
42,04
III
Mavrick
Fluvalinate 25% EC
0,01
11,58
10,14
0,90
0,8
24.000
26.578
37,5
36,03
IV
Magafen
fenvalerate 28% EC
0,03
11,94
11,29
0,93
0,9
23.567
24.356
36,35
30,20
V
Kohiban
Cholrpyriphos 20% EC
0,05
13,47
12,80
1,00
1,0
18,667
18,667
19,64
8,93
VI
Sholay
Endosulfan 35% EC
0,07
14,07
14,50
1,17
1,2
17,334
18,667
13,46
8,93
VII
Đ/C
-
-
19,65
17,09
1,70
1,5
15.000
17.000
13,46
8,93
Theo King and Jackson, (1989) thì việc áp dụng biện pháp sinh học để quản lý sâu H.armigera đang được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới: Miền Nam Châu phi, Indonesia, New zealand, Australia... Cụ thể là sử dụng ong mắt đỏ loài Trichogramma prestionsum và loài T.perkinsi (từ Mỹ) ong ký sinh Cotesia kazak và Hyposoter didymator (từ Châu Âu) và đặc biệt là việc sử dụng các chủng vi khuẩn BT (Bacillus thuringiensis) và virus nhân đa diện HaNPV (Helicovecpa armigera nuclear polyhedrosis virus) đã được áp dụng đạt nhiều thành công trong thực tế sản xuất [81].
Việc sử dụng hoá học trên diện rộng trừ sâu xanh H.armigera gần đây đã trở thành biện pháp không thể thiếu trong công tác bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp, điều đó đã dẫn đến khả năng kháng thuốc của H.armigera với nhóm Organchlorine, Cacbamate, Oraganophosphates và Pyrethroid ở rất nhiều quốc gia ( Mecaffery, 1998) [64].
Theo Ahmad et al, 1995 [45] thì khả năng kháng Pyrethroid và Organophosphates của sâu xanh H.armigera rất phổ biến trên cây bông trồng ở khu vực gần đây, thuốc trừ sâu được coi là chìa khoá để quản lý sâu xanh H.armigera của hầu hết các hệ thống cây trồng trên toàn thế giới. (Yang et. al, 2005)[56]. Do vậy, sâu hại đã tạo ra áp lực cho việc lựa chọn thuốc hoá học khi dùng. Khả năng kháng thuốc của H.armigera với phần lớn các nhóm hoá chất đã được chứng minh bằng nhiều tư liệu nghiên cứu từ Australia, Châu Á, Châu Âu và một số khu vực ở Châu Mỹ ( Geenning et. al 1999; Armis et. al 1992. Forrester et al 2001; Torres - Vila et al 2002, Bues and Boudinhou 2003)[62]. Thuốc trừ sâu nhóm Pyrethroid (Cyper methrin, esfenvalerate và fenpropathrin) tạo khả năng kháng của sâu xanh H.armigera cao hơn so với nhóm thuốc thế hệ mới (Spinosad, Abamectin và Indoxacarb). Hiệu quả trừ sâu của nhóm thuốc thế hệ mới cao hơn các thuốc nhóm Pyrethroid và cao nhất là hoạt chất Abamectin. Nghiên cứu cũng chỉ ra kết quả quan trọng là việc luân phiên các hoạt chất Abamectin, Spinosad và Indoxacarb với Pyrethroid để trừ H.armigera làm giảm khả năng kháng thuốc của loài sâu này với nhóm Pyrethroid để trừ H.armigera và hạn chế khả năng gây hại của chúng (Sayyed and Wright 2004)[62].
Những nghiên cứu trên các loài sâu bộ cánh vẩy đã giúp chúng ta giải thích sự tương tác giữa Pheromone và mùi hương dẫn dụ của thực vật. Điều đó đặc biệt đúng với loài Heliothine - chúng có cơ quan thần kinh cảm nhận và tiếp nhận mùi và quá trình xử lý ở cấp độ ngoại biên và cấp độ trung tâm (Berg et. al 2002; Mustaparta 2002; Straridenetal 2002,2003; Skiri et. al 2004).
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của Phenylaxetade và (Z)-3- hexenyl axetat trên phản xạ của ngài đực với Pheromone giới tính nhân tạo của sâu xanh(H.armigera ) tác giả Olivia L.K kết luận rằng: Trên các thửa ruộng thí nghiệm ở Úc thì hiệu quả sử dụng bẫy Sex Pheromone thu bắt được nhiều trưởng thành đực hơn so với các loại bẫy khác. Có thể một lượng lớn nơron cảm nhận đặc trưng với từng thành phần cấu tạo của Pheromone trong các loại tế bào cảm giác có ở râu của trưởng thành H.armigera (Mustapparta, 2002). Nghiên cứu này chỉ ra định hướng mới cho công tác quản lý H.armigera bằng Pheromone giới tính triển vọng trong tương lai với mục đích dẫn dụ ngài đực, hạn chế khả năng sinh sản của ngài cái, làm giảm mật độ của chúng trong sinh quần và khu vực phân bố.
Khi nghiên cứu hiệu lực của chế phẩm HaNPV 1.15×107 Obs/ml trừ sâu xanh H.armigera đục quả cà chua Moore D.S và cộng sự cho thấy có thể tiết kiệm được 399USD/ha so với công thức đối chứng không xử lý 11trừ sâu xanh [65].
Những kết quả nghiên cứu trên đã chỉ ra mhiều triển vọng cho việc quản lý sâu xanh trong sản xuất nông nghiệp trong đó ưu tiên biện pháp phòng trừ tổng hợp IPM, biện pháp sinh học ( Pheromone giới tính (PG), thuốc trừ sâu có nguồn gốc sinh học: Spinosad, Abamectin, Emamectin…) và biện pháp luân phiên thuốc khi phải can thiệp bằng các loại thuốc hoá học Những năm gần đây, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đang trở thành vấn đề quan tâm của toàn xã hội, tình trạng sử dụng thuốc BVTV của người dân không tuân thủ theo đúng và quản lý dịch hại tổng hợp IPM cộng đồng đã và đang xảy ra ở nhiều vùng chuyên canh rau trên toàn quốc. Theo số liệu thống kê của Cục BVTV tháng 6/2006 thì có tới 70% số hộ nông dân phun từ 8-12 lần thuốc BVTV cho một vụ rau. Kết quả thanh tra diện rộng năm 2002, trong 6.840 hộ sản xuất rau có 2,2% số hộ sử dụng thuốc cấm; 3,0% không đảm bảo thời gian cách ly (PHI); 1,8% dùng thuốc ngoài danh mục; 14,9% sử dụng thuốc không đúng kỹ thuật và 12,6% số hộ phun thuốc nhiều lần/vụ sản xuất. Từ thực trạng đó đã có rất nhiều nghiên cứu ứng dụng các biện pháp trong phòng chống dịch hại tổng hợp, trong đó có biện pháp phòng chống sâu xanh đục quả cà chua H.armigera mang lại hiệu quả cao.
Biện pháp sinh học đã đạt những thành tựu đáng kể, ngay từ những năm của thập kỷ 80 thế kỷ trước các nhà khoa học của Viện BVTV đã nghiên cứu, ứng dụng và sản xuất chế phẩm sinh học NPV trừ sâu xanh H.armigera có hiệu quả, sử dụng trên diện rộng ở các tỉnh Sơn La, TP Hà Nội, tỉnh Đồng Nai, tỉnh Sông Bé, tỉnh Ninh Thuận… bảo vệ năng suất cây trồng [43].
Tác giả Ngô Trung Sơn, (1991)[32] nghiên cứu sử dụng chế phẩm NPV trừ sâu xanh H.armigera đã kết luận: loại sâu này rất mẫn cảm với NPV đặc biệt là sâu non tuổi nhỏ, biểu hiện ở tỷ lệ chết cao hơn, thời gian ủ bệnh ngắn hơn. Vì vậy, cần chủ động phòng trừ sâu xanh H.armigera ở giai đoạn sâu non tuổi nhỏ mang lại hiệu quả cao về kinh tế và môi trường.
Theo tác giả Nguyễn Văn Tuất, (2005) nghiên cứu ứng dụng chế phẩm NPV trừ sâu xanh H.armigera đục quả cà chua tại Hoài Đức (Hà Tây) và Tiên Phong (Vĩnh Phúc) hiệu lực trừ sâu của chế phẩm đạt 57,7%, kết quả đó đáng ghi nhận [39].
Hoàng Thị Việt và Cs, (2000) [42] đánh giá hiệu lực trừ sâu khoang (S.litura) và sâu xanh (H.armigera) trong phòng thí nghiệm của các chế phẩm sinh học NPV ở các nồng độ virus khác nhau cho kết quả: Hiệu lực của thuốc đạt 100% ở 9 ngày sau phun (NSP) đối với sâu khoang; 100% 6NSP đối với sâu xanh. Với hỗn hợp V-BT (Vi khuẩn Bacillus thuringiensis + NPV) thì hiệu lực trừ sâu xanh ở 4-5 NSP đạt từ 65-100%.
Theo tác giả Vũ Văn Độ, (2005) khi nghiên cứu thí nghiệm phòng trừ sâu xanh H.armigera của chế phẩm dầu Neem và BT hiệu lực trừ sâu ở 6NSP đạt từ 55-80% và 75-95% ở các nồng độ phối trộn khác nhau. Do vậy, việc sử dụng chế phẩm sinh học trừ sâu xanh có ý nghĩa lớn trong công tác BVTV hiện nay[14].
Phạm Hữu Nhượng, (1999) khi so sánh hiệu quả của thuốc hoá học và chế phẩm sinh học (BT, NPV) trừ sâu non bộ cánh vẩy (sâu xanh, sâu khoang, sâu keo da láng...) trên cây đậu năm 1998 tại ĐăcLắc cho thấy: Ở ruộng sử dụng chế phẩm sinh học có mật độ sâu hại thấp hơn ruộng phun thuốc hoá học; đặc biệt là thành phần và mật độ các loài BMAT (nhện, bọ rùa, bọ xít hoa...) rất cao [26].
Cho nên việc sử dụng chế phẩm sinh học trừ sâu xanh (H.armigera) không những tạo điều kiện gia tăng quần thể thiên địch, hạn chế sâu hại, giảm chi phí BVTV mà còn ổn định năng suất cây trồng và thân thiện với môi trường...
Có rất nhiều các công trình nghiên cứu về các biện pháp phòng chống sâu xanh hại cà chua như: Sử dụng đặc tính dẫn dụ của cây cà Solanum viarum (Dunal) (Nguyễn Kim Chiến,2005)[33], sử dụng ong mắt đỏ (Trichogramma spp) [4], bẫy bả chua ngọt, và các biện pháp canh tác (Nguyễn Minh Tuyên, 1995) áp dụng vào sản xuất đạt kết quả tốt.
Ngoài ra, một số nghiên cứu khác còn sử dụng bẫy Pheromone giới tính (PG) để phòng chống sâu xanh H.armigera. Dựa trên đặc điểm chuyên tính cao với sâu hại, an toàn với môi trường, sức khoẻ người sản xuất và nông sản phẩm, PG được coi là công cụ có hiệu quả cao trong công tác quản lý sâu hại cây trồng. Biện pháp này đang được Viện BVTV triển khai phối kết hợp với các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc...sử dụng rộng rãi trên rau.p
Pheromone được khẳng định đầu tiên vào năm 1950 trên tằm. Đến năm 1959 (9 năm sau) mới xác định được thành phần hoá học Pheromone của tằm và mới đặt tên chính thức là Pheromone giới tính. Năm 1960, các nhà khoa học bắt đầu tổng hợp được pheromone của tằm. Pheromone chính thức được xác định như một tín hiệu hoá học và là phương tiện giao tiếp giữa cá thể đực và cái ở cách xa nhau trên đồng ruộng. Từ 1961 - 1966, đã nhận biết và tổng hợp được pheromone của 5 loài sâu hại, gồm tằm, sâu róm thông, bọ hà, sâu ăn lá và sâu đục quả táo. Đến 1967, ý tưởng sử dụng pheromone trong quản lý dịch hại cây trồng mới chính thức bắt đầu với kết quả dùng pheromone để phòng trừ sâu róm thông ở các nước Bắc Âu (Rất trẻ so với thuốc hoá học, thảo mộc, các tác nhân sinh học, chất điều hoà sinh trởng,…). Đến nay, đã tổng hợp đợc gần 5.000 loại Pheromone các sâu hại [37] (Lê Văn Trịnh, 2009).
Theo Lê Văn Trịnh qua các năm 2001-2004 nghiên cứu, sử dụng bẫy PG trừ sâu xanh đục quả cà chua thu được số lượng trưởng thành vào bẫy trung bình/ ngày/bẫy là 139,2 con, trong đó cao nhất có ngày 462 con/bẫy, và thấp nhất là 23con/bẫy/ngày. Hiệu lực của PG kéo dài từ 22,1-24,3 ngày, do vậy một vụ rau có thể thay từ 2-3 lần bẫy PG để phòng trừ một số đối tượng sâu hại này[35].
Khi sử dụng PG phòng chống sâu khoang (S.litura), sâu xanh (H.armigera) có thể giảm 4-5 lần sử dụng thuốc hoá học, tiết kiệm được 20.000đ/ha/vụ. Tuy số tiền tiết kiệm đó không lớn nhưng nó mang ý nghĩa sinh thái và môi trường, góp phần đảm bảo chất lượng nông sản phẩm và sức khoẻ người lao động.
Đến nay PG được sử dụng phổ cập như một biện pháp quan trọng trong hệ thống quản lý dịch hại IPM trên cây trồng ở nước ta. Tuy hiệu quả kinh tế thu được chưa cao nhưng nó mang lại hiệu quả xã hội không nhỏ, đảm bảo sức khoẻ cho người sản xuất và người tiêu dùng, đóng vai trò quan trọng trong xu thế hội nhập WTO hiện nay, mở rộng và phát triển sản xuất nông nghiệp an toàn và bền vững.
Ở Việt Nam, để phòng chống sâu hại cà chua thì biện pháp chính vẫn là sử dụng thuốc hoá học, biện pháp này được nông dân áp dụng một cách rộng rãi và hiệu quả. Thuốc BVTV là một loại vật tư nông nghiệp đặc thù, tuy không dùng thường xuyên nhưng rất cần thiết để bảo vệ năng suất cây trồng.
Theo Phạm Bình Quyền, (1999) những năm trở lại đây chủng loại và số lượng thuốc BVTV trên đồng ruộng ở nước ta tăng nhanh: Năm 1980 có 10.000 tấn/năm; 1990 tăng gấp 2 lần và đến năm 1998 lên tới 40.973 tấn/năm [69].
Thuốc hoá học không những làm ảnh hưởng đến sức khoẻ con người, côn trùng có ích, BMAT… mà còn làm xuất hiện trở lại một số loài dịch hại trở lên mạnh mẽ hơn, gây lên tính kháng thuốc của nhiều loài dịch hại, đặc biệt là sâu tơ hại cải bắp và sâu xanh (H.armigera) hại bông, cà chua...
Kết quả khảo sát năm 2000-2001 tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trên các loại rau thu mua ngoài chợ: rau cải, rau muống. đậu đũa, cà chua, chè... có nhiều mẫu rau vượt mức dư lượng tối đa cho phép (MRL): dưa chuột 10%, cải 41,2%, chè khô vượt tới 56,9%... Các loại thuốc có dư lượng trên rau chủ yếu thuộc các nhóm lân hữu cơ và cúc tổng hợp (chiếm trên 50% các nhóm thuốc phát hiện có dư lượng trên rau)[6].
Theo Phạm Minh Sang, qua 4 năm (1999-2002) nghiên cứu và phân tích thì thực trạng sử dụng thuốc BVTV trên rau, quả đáng báo động. Năm 2000, trong 19 mẫu cà chua đem phân tích thì có 15,8 mẫu vượt mức MRLs, chủ yếu là các nhóm chlo hữu cơ (Endosulphan), lân hữu cơ (Dimethoate), Cacbamate (Fenobucarb) và cúc tổng hợp (Cypermethrin, Fenvalerate)[77].
Tại thành phố Hải Phòng, những năm gần đây theo thống kê của Sở y tế mặc dù không có vụ ngộ độc cấp tính nào đáng lo ngại do dư lượng thuốc BVTV trong nông sản gây ra, song theo số liệu điều tra của Chi cục BVTV Hải Phòng về tình hình sử dụng thuốc BVTV tại một số vùng trồng rau đáng báo động. Thuốc BVTV được nông dân sử dụng chủ yếu là nhóm lân hữu cơ và nhóm Carbamate chiếm 70-80%, có vùng sử dụng tới 85%. Số lần phun thuốc BVTV trung bình 5-7 lần/đợt rau; vụ xuân hè và hè thu nông dân dùng tới 8-10 lần/đợt rau. Số hộ nông dân tự ý tăng nồng độ, liều lượng thuốc lên 1,5-2 lần (chiếm 52%). Dùng thuốc ngoài danh mục, thuốc hạn chế sử dụng trên rau chiếm 8% số hộ. Đặc biệt, nông dân phun thuốc và thu hoạch sản phẩm không đảm bảo thời gian cách ly (PHI), 1-3 ngày sau phun đã thu hái (đậu đỗ, dưa chuột, mướp đắng…) đó là những nguyên nhân chính gây ra các vụ ngộ cấp hoặc mãn tính trên địa bàn thành phố [3].
Vì vậy, để đảm bảo sản xuất nông nghiệp bền vững vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, sức khoẻ cộng đồng và môi trường sinh thái thì việc sử dụng thuốc hoá học trừ sâu xanh (H.armigera) đục quả cà chua một cách chọn lọc là rất cần thiết trong sản xuất hiện nay.
Tác giả Nguyễn Văn Đĩnh [13] nghiên cứu thí nghiệm thuốc BVTV trừ sâu xanh hại cà chua vụ Xuân hè 2003 tại Đông Anh -Hà Nội cho thấy: Trong 7 loại thuốc bố trí thí nghiệm có 3 loại là thuốc trừ sâu có nguồn gốc sinh học (Tập Kỳ, Delfin, Xentary), kết quả 1,3,5 ngày sau phun (NSP) thuốc sinh học cho hiệu quả thấp hơn thuốc hoá học, nhưng 10 NSP thì thuốc sinh học có hiệu quả tương đương thuốc hoá học. Việc sử dụng thuốc sinh học trừ sâu xanh H.armigera đục quả cà chua vừa có hiệu lực trừ sâu cao, vừa đảm bảo chất lượng quả lại an toàn với môi trường.
Theo Đỗ Thị Phương Lan, (2007) thí nghiệm các loại thuốc Midanix 60WP, Army 10EC, Cyper kill 5EC trừ sâu xanh (H.armigera) vào giai đoạn ra hoa đậu quả của cây đậu tương (lúc có mật độ sâu xanh cao) thì 6NSP hiệu lực của thuốc Midanix 60WP đạt cao nhất (85,94%), các thuốc còn lại có hiệu lực 50-57% [23].
Nguyễn Kim Chiến, (2005) [3] so sánh biện pháp trồng xen cây cà Sonanum viarum Dual và biện pháp hoá học để hạn chế sâu xanh hại cà chua cho kết quả: Ở công thức trồng xen cây cà Sonanum viarum cùng với phun thuốc Xentary có tỷ lệ quả bị hại thấp nhất của cả 3 lần xử lý (7,95-11,77%), công thức phun Xentary có tỷ lệ quả hại 15,56-17,67%. So với đối chứng Xentary 35WG là thuốc sinh học có hiệu lực trừ sâu xanh H.armigera có hiệu quả, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, được triển khai sử dụng rộng rãi trong quản lý sâu hại trên nhiều vùng sản xuất RAT hiện nay.
3. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Địa điểm, thời gian và vật liệu nghiên cứu
3.1.1. Địa điểm nghiên cứu đề tài
- Vùng chuyên canh cà chua An Dương - Hải phòng.
- Phòng Thí nghiệm Chi cục BVTV Hải Phòng.
- Bộ môn Côn trùng Khoa Nông học - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
3.1.2. Thời gian nghiên cứu đề tài
Từ tháng 11/2008 đến tháng 4/2009.
3.1.3. Vật liệu nghiên cứu
+ Cây cà chua, quả cà chua, đường, mật ong...
+ Bút, vở ghi, nhật ký thời tiết, đĩa petri, hộp, lồng nuôi sâu, giấy bản, bút lông, panh...
+ Nhiệt kế ẩm, nhiệt kế khô, cốc đong, đũa thuỷ tinh, túi nilon, ống nghiệm, bông, cân điện tử...
+ Một số thuốc bảo vệ thực vật trừ sâu đục quả cà chua( Ghi bổ sung các tên thuốc đã dùng trong TN).
+ Bẫy PG của Hàn Quốc trên sâu khoang, sâu xanh H.armigera.
3.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Điều tra thành phần sâu hại chính trên cà chua vụ đông xuân 2008-2009 tại An Dương - Hải Phòng
Tiến hành điều tra theo phương pháp tự do, không cố định điểm dùng vợt, bắt bằng tay những loài sâu hại có trên cây cà chua, đem về phòng thí nghiệm để phân loại, xác định mức độ phổ biến qua các tháng và các giai đoạn sinh trưởng của cây cà chua.
3.2.2. Điều tra diễn biến mật độ và tỷ lệ hại của sâu đục quả cà chua
- Tại vùng chuyên canh rau (cà chua) tại An Dương - Hải Phòng, chọn cố định 3 ruộng có các yếu tố tương đối đồng đều đại diện cho các giống cà chua, các thời vụ tiến hành điều tra.
+ Điều tra định kỳ 7 ngày/1 lần. Điều tra theo phương pháp 5 điểm chéo góc, mỗi điểm 1 m2 , tại điểm điều tra quan sát kỹ các bộ phận của cây: thân, lá, búp, nụ, hoa, quả và gốc cây. Theo dõi triệu chứng sâu hại để xác định tỷ lệ bị hại, đếm số lượng sâu hại ở các điểm (1 m2) điều tra ( ở tất cả các pha phát dục trưởng thành - trứng - sâu non…).
3.2.3. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của sâu xanh
Sâu non sâu xanh (H.armigera) được thu bắt ở ngoài đồng về phòng thí nghiệm, nuôi trong hộp bằng thức ăn không nhiễm thuốc (quả cà chua xanh), nuôi cho đến khi trưởng thành đẻ trứng.
Ghi chép ngày trứng được đẻ và theo dõi thời gian phát dục pha trứng , sau khi trứng nở tiến hành tách từng cá thể theo phương pháp nuôi cá thể (1con/hộp), tối thiểu 30 con một lần theo dõi cho vào hộp nhựa có lót giấy bản, thả thức ăn vào hộp, hàng ngày thay thức ăn và vệ sinh hộp nuôi sâu vào một giờ cố định. Theo dõi thời gian phát dục của pha sâu non, tỷ lệ sâu chết qua các tuổi. ghi chép nhiệt độ, ẩm độ trong thời gian nghiên cứu.
+ Khi sâu non vào nhộng, tiến hành ghép cặp nhộng (1 đực + 1 cái) vào hộp chứa đất để trong lồng nuôi sâu có trồng cây cà chua (giai đoạn ra nụ - hoa), theo dõi thời gian phát dục của pha nhộng .
+ Thời gian sống và sức sinh sản của trưởng thành: Trưởng thành sau khi vũ hoá ghép đôi riêng từng cặp để trong lồng lưới và cung cấp cho ăn thêm bằng mật ong hoặc nước đường (5%) hàng ngày quan sát đếm số trứng được đẻ ra và thời gian sống của trưởng thành.
3.2.4. Thí nghiệm đánh giá hiệu quả của thuốc trừ sâu xanh đục quả cà chua trong phòng thí nghiệm
Bố trí thí nghiệm 4 công thức với 3 lần nhắc lại, mỗi mỗi lần nhắc lại là 10 sâu non tuổi 1, 2, thuốc được phun lên thức ăn, sau đó thả sâu vào hộp có chứa thức ăn đã dính thuốc. Xác định số sâu chết sau 12, 24, 36, 48 giờ xử lý thuốc.
+ Công thức 1: Silsau 4.0 EC nồng độ 0.067%
+ Công thức 2: Succcess 25 SC nồng độ 0,133%
+ Công thức 3: Etimex 2.6 EC nồng độ 0,067%
+ Công thức 4: Tập kỳ 1.8 EC nồng độ 0,005%
+ Công thức 5: Đối chứng không phun
3.2.5. Thí nghiệm phòng chống sâu xanh đục quả cà chua ngoài đồng
a.Thí ngh._.c phòng chống chúng có hiệu quả.
2- Thành phố và ngành Nông nghiệp & PTNT quy hoạch vùng sản xuất RAT sao cho hợp lý, đặc biệt là cây cà chua để chủ động hơn trong việc bố trí thời vụ và công tác BVTV, khuyến cáo sử dụng bẫy Pheromone, phun thuốc tập trung, ngâm dầm diệt nhộng sâu xanh, sâu xám…).
3- Sử dụng các thuốc có nguồn gốc sinh học, PHI ngắn thuộc nhóm Abamectin, Emamectin, Spinosad…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
Bộ giáo dục và đào tạo (2004), Giáo trình côn trùng chuyên khoa, Sâu hại cà chua T.113- Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Bộ nông nghịêp và phát triển nông thôn – Tiêu chuẩn ngành 10 TCN 982: 2006 BVTV- Phương pháp điều tra phát hiện sinh vật hại cây trồng.
Chi cục Bảo vệ thực vật Hải Phòng (2006), “Ứng dụng phương pháp phân tích nhanh GT-Test kit để kiểm tra dư lượng thuốc BVTV nhóm lân hữu cơ và Carbamate trên rau tại Hải Phòng” Đề tài nghiên cứu khoa học và triển khai thực nghiệm- năm 2006.
Nguyễn Kim Chiến “Nghiên cứu đặc tính dẫn dụ của cây cà Solanum viarum (Dunal), đối với sâu xanh Helicoverpa armigera (Hubner), hại cà chua và ứng dụng dùng trong việc hạn chế sâu xanh tại Hà Nội và phụ cận” - Luận văn thạc sĩ khoa học nông nghiệp - Hà Nội.
Cục BVTV (2007), Báo cáo kết quả công tác vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2007 và thực hiện chỉ thị số 2630 củ Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Cục BVTV (2006), Quản lý thuốc BVTV trong sản suất RAT theo hướng GAP - 6/2006.
Cục BVTV (2008), Hội nghị toàn quốc công tác BVTV năm 2007, kế hoạch công tác năm 2008.
Tạ Thu Cúc (2000), Giáo trình cây rau, Nhà xuất bản Nông nghiệp – Hà Nội.
Cục thống kê Hải Phòng (2008), Kết quả trồng trọt 2004 – 2008.
Hoàng Anh Cung và cs (1995), “Nghiên cứu sử dụng hợp lý thuốc BVTV trên rau và áp dụng trong sản xuất,,. Tuyển tập công trình nghiên cứu BVTV (1990-1995)- Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Nguyễn Văn Đĩnh (2004), Các giải pháp giảm thiểu thuốc BVTV trong sản xuất rau hiẹn nay - Báo cáo khoa học Hội nghị khoa học kỹ thuật BVTV toàn quốc lần thứ II, Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Nguyễn Văn Đĩnh, Ngô Thị Xuyên và Nguyễn Thị Kim Oanh (2003), “Nghiên cứu tình hình sản xuất và thành phần sâu bệnh hại cà chua ở Lương Nỗ- Đông Anh- Hà Nội.
Nguyễn Văn Đĩnh, Nguyễn Thị Kim Oanh (2003), “Nghiên cứu phòng chống sâu xanh đục quả cà chua Heliothis assulta ở Lương Lỗ - Đông Anh,, Tạp chí BVTV số 4/2003, p3-8.
Vũ Văn Độ & CS (2005), “Hiệu quả gây chết của chế phẩm phối trộn giữa dầu Neem và BT với sâu xanh (Helicoverpa armigera), và sâu tơ (Pluttella xyllostella)” - Báo cáo khoa học Hội nghị côn trùng toàn quốc lần thứ 5- Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Phạm Tiến Dũng (2008), Bài giảng phương pháp thí nghiệm và xử lý thống kê sinh học, Khoa Nông học Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội.
FAO (2002), Các loài sâu hại cà chua chính.
FAO (2004), Quản lý dịch hại tổng hợp trên cây cà chua, .
Nguyễn Thị Hai (1996), Luận án phó tiến sĩ khoa học Nông nghiệp.
Hà Quang Hùng (1998)- Phòng trừ tổng hợp dịch hại cây trồng Nông nghiệp – (Giáo trình giảng dạy sau Đại học), Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
Nguyễn Đức Khiêm (1999), “Tình hình sâu hại các giống ngô lai tại Hà Nội,, Tạp chí BVTV số 5/1995; P.10-13.
Nguyễn Đức Khiêm (2005), Giáo trình Côn trùng chuyên khoa – Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội.
Lương Thị Kiểm (2003), “ Nghiên cứu phòng chống ruồi đục lá Liriomyza sativia trong chương trình quản lý cây cà chua tổng hợp (ICM), tại Đông Anh - Hà Nội vụ xuân hè 2003”- Luận văn thạc sỹ khoa học Nông nghiệp- Trường Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội.
Đỗ Thị Phương Lan (2007), “ Nghiên cứu thành phần sâu hại đậu tương và biện pháp hoá học phòng chống sâu ăn lá, sâu đục quả chính, thuộc bộ cánh vẩy (Lepidoptera), vụ đông 2006 và vụ xuân 2007 tại Gia Lâm - Hà Nội” - Luận văn thạc sỹ nông nghiệp.
Đỗ Thị Mơ (2008), Bài giảng tin học ứng dụng (dùng cho cao học), Bộ môn công nghệ phần mềm - Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội.
Nguyễn Thị Tuyết Năm (2005), “ Thành phần sâu hại bí xanh, đặc điểm phát sinh phát triển của bọ trĩ hại bí xanh tại HTX Tằng My- Đông Anh - Hà Nội vụ xuân hè 2005” Luận văn thạc sỹ Nông nghiệp.
Phạm Hữu Nhượng và CS (1999), “Kết quả bước đầu về mô hình quản lý dịch hại trên cây đậu vụ 1/1998 tại ĐăcLăc,, Tạp chí BVTV số 1/1999; p.5-8.
Nguyễn Trần Oánh (2007), Nguyễn Văn Viên, Bùi Trọng Thuỷ Giáo trình sử dụng thuốc BVTV, Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội.
Trần Đình Phả (1998), Luận án Tiến sỹ khoa học nông nghiệp "NC công nghệ nuôi nhân hàng loạt 1 số côn trùng họ ngài đêm Noctuidae (Bộ cánh vẩy - Lipidoptera), bằng thức ăn nhân tạo trong phòng thí nghiệm 1998”.
Trần Đình Phả , Trương Thanh Giản, Monastyrsky A.L & CTV (1992), “Kết quả nghiên cứu năm 1990 - 1991 về nhân nuôi hàng loạt sâu xanh H.armigera bằng thức ăn nhân tạo”. Tạp chí chuyên ngành BVTV, số 131, 5-1993; p.19-22.
Mai Phú Quý, Vũ Thị Chi - Về tính đa dạng côn trùng trong sinh quần rau quả - Hội nghị côn trùng học toàn quốc lần thứ 5 – Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Sang Phạm Minh và CS (2003), “Dư lượng thuốc BVTV trong rau quả tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh (1999-2002), thực trạng và giải pháp”. Một số ứng dụng BVTV vào sản xuất Nông nghiệp 1998-2002. Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Ngô Trung Sơn, “Sự mẫn cảm của các lứa tuổi sâu xanh hại bông (H.armigera), đối với NPV”- Tạp chí nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm số 10, p.459-460. NXBNN.
Nguyễn Xuân Thành (1996), “Sâu hại bông đay và thiên địch của chúng ở VN”- Nhà xuất bản Nông nghiệp 1996 -Trang 49-57.
Thiên nhiên.net 13-5-2007- Kiểm soát dư lượng hoá chất BVTV- Con đường bền vững cho xuất khẩu nông sản tại Việt Nam.
Lê Văn Trịnhvà CS, 2005 – Nghiên cứu sở dụng Pheromone giới tính côn trùng trong quản lý cây trồng Nông nghiệp. Báo cáo Hội nghị Côn trùng học toàn quốc lần thứ 5. Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Hồ Khắc Tín (1980), - Giáo trình côn trùng nông nghiệp II- Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Lê Văn Trịnh (2009), “Nghiên cứu sử dụng PG côn trùng trong công tác phòng chống sâu hại” - Bài giảng Bồi dưỡng nghiệp vụ sau Đại học, tháng 6 năm 2009- Viện Sau Đại học - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
Từ điển bách khoa BVTV (1996), Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội.
Nguyễn Văn Tuất (2005), “Kết quả nghiên cứu BVTV phục vụ sản xuất Nông nghiệp thời kỳ đổi mới” – Khoa học công nghệ nông nghiệp và phát triển nông thôn 20 năm đổi mới, tập 1: Trồng trọt và BVTV- NXB chính trị quốc gia, p.299-303.
Nguyễn Đức Tùng (2008), “Thành phần sâu hại rau ngổ, đặc điểm sinh học và diễn biến mật độ của sâu bướm giáp (Junonnia atlites Johanssen), trên rau ngổ vụ 2006 tại Gia Lâm- Hà Nội” – Báo cáo khoa học Hội nghị côn trùng toàn quốc lần thứ 6. NXBNN.
Nguyễn Minh Tuyên và Nguyễn Thơ (1995), “Một số kết quả về đặc tính sinh học của sâu xanh hại bông”. Kết quả nghiên cứu khoa học Quyển VII. (Viện khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam), trang 199-201.
Hoàng Thị Việt và CS (2000), “Kết quả nghiên cứu sản xuất và sử dụng chế phẩm hỗn hợp NPV, V-BT trừ sâu hại rau 1996-1999” ; Tuyển tập công trình nghiên cứu BVTV 1996-2000- Nhà xuất bản Nông nghiệp, p. 205-211.
Hoàng Thị Việt, 1994- “Một số nghiên cứu sử dụng NPV trừ sâu xanh H.armigera Hubner trên thuốc lá” - Tạp chí chuyên ngành BVTV số 2/1994- NXBNN.
Www.rauhoaquaVietNam.vn - Giá trị xuất khẩu cà chua của Trung Quốc tăng mạnh - tin ngày 12/3/2007.
II.Tài liệu tiếng Anh
Ahmad M, Arif MI, Ahmadz, 1995 " Insecticide resistance in Helicoverpa as migera. Entomol. 88, 771 – 776.
B. Hussain and Sheikh Bila “Efficacy of different Insectides on tomato Fruit Bore H.armigera,, - Regional Agriculter, Research Station, Leh, India.
Baratova L.A, Grebenschchi KV.NI, Shish K.V.A.V, Kcostri Radavs ky J.L, JarvekylgL. ScrarmaM. (1992), " The torography of the surface of PVx, tritium planigraphy and immunologycal analylis Journal of Geneal Virology,, 72 (2): 299 235.
Bereks R.(1976), Potato virusX, Descriptions of plant virus, No4, Common wealth Mycologycal Institute and Association of Applied Biologist, Kew, Surrey, England.
Campel W.v.and Reed, W.(1986), “Food legume Improvement for Asian Farming sys tems, limits Imposed by Biological factorr” P. 54-56).
Chen, W.S and F.I chang (1990), “Ecological studies on tomato fruit worm and its control,, Research Bull. Taiwan. DAIS.24: 21-34).
FAO, 2000 Data static.
Harrell E.A.etal, Amachine to manipu - late corm earworm eggs in a mass rearing program, J. Econo Entomol, 1970, V63, p 1362 - 1363).
Hem, Saxena, Sachan T.N, “Record of new host of Helicoverpa armigera Hubner, Indian Journal of Entomology, 1994, 56 (4), P.437 - 438).
Hill, D. S 1983 Heliothing zea (Boddie), pp.367. In. Agricultural Insect Pests of the Tropic and their control. Cambridge University press.
Jaglan M.S.,S. Khokhar, M.S Malil and R.singh (1997), “Evalualion of neem (Azadirachta india A.juss), extracts agai nst amarican bocl, Helicoverpa asminger (Hubner)” .J.Agric. Food chem. 45: 3262 – 3268.
Keshowraj Kranthi “In - season changes in Resistance to Insecticides in Helicovepa asmigera in India” - 2002.
Kranthi, K.R, D.R Jadhav, RR.Wanjari, S.Shaker Ali and D.Russell. 2001 “Cacbamate and organophosphate resitane in cotton pests in India, 1995 to 1999” Bull entomol.Res.91: 37-46).
Kranthi, K.R, S.shaki ali and S.K Banajee, 2000 “Baseline toxicity of Spinosad on the cotton bollworm H.armigera (Hub), in India,, resitant pest manage. Newsl .11: 9-12.
Lavekar, R.C, SM. Telang, OP Sharma and K.S.Rathod (2004), Efficacy of pesticides against field insect pests of Pet cotton. Ann Plant Prot. Sci 428 – 431.
Lidu et.al “ Using population energetics to evaluate potential damage to cotton by the cotton bollworm H.armigera (Lepidoptera Noctuidae”)- in North China.
M.C Picanco, L.Bacce, A.L.B Crespo. M.M.M Miranda and Julio C. Martins (2007), "Effect of integrated pest manage ment practices on tomoti production and conser vaturn of natural enemies,, 2007.
M.Razaq etal "Effect of rotational use of insecticides on pyrethroids resisdance in H.armigera (Lepidoptera:Noctuidae), -J.Appl. Entomol 131(7), 460-465 (2007).
Matthews, M.(1991), “Classification of the Helionthinae”. Bullentin the Natural Recources Institute No44. Natural Recources Institute Chatham, UK.
Mccaffery AR, 1998. Ressis tance to insecticides in heliothine Lepidoptera. a global view. Philos . Trans. R.Soc. Lond. B. 353, 1735 – 1750.
Moore S.D et al, 2002 “Evalution of H.armigera Nucleopolyhedro virus (HaNPV), for control of H.armigera on citrus in South Africa”. Biocontrol Science and techology.Vol.14.239-250.
Mustapha F.A.Jallow & et. al - " In flucnce of tempera ture one the rate of development of Helicoverpa armigera Hubner (Lepidoptera: Noctuidae). Japan 2001p. 427 - 430.
Olivia L. Kvedaras et.al. “Effects of phenylacetal dehyde and (Z), -3 - hexenyl a cetake on male response to synthetic sex pheromonr in H.armigera (Hubnee), (Lepicloptera: Noctuidae”), Australia 2007).
P.J.cameron et.al " Development of Economic Th.ressholds and Monitoring system for Helicoverpa armigera ( Lepicloptera: Noctuidue), in tomatoes, New zealand - 2001.
Pham Binh Quyen, Ha Quang Hung, Tran Ngoc Lan (1999)- The effect of pestisides on Natural enemies of rice insect pest (Vegatable insect pest), in Viet Nam. Biological control in IPM for controlling insect pest of crops in Japan and VietNam, Proceeding of the 2nd joit workshop in Agronomy 27-29 July. Ogasnized by HaNoi Agri. Univ. and HAU- JICA- ERCB Project office, 53-59.
Roome 1975, Wardaugh et al 1980, Alvarado - Rodriguer etal 1982, Fisemp org và Zalucki 1990.
Roome 1975, Wardaugh et. al 1980, Alvarado - Rodriguer et al 1982, Fisemp org và Zalucki 1990.
Singh H and shingh G Biological studies of Heliothis asmigera in Punjab, Indian Journal of Entomology 37:154-164,1975); Dicanco & Marquini, 1999, Gueedes etal.1994; Letteat al 1995, picanco et al 1995; Imenes etal 1992, Miranda et al 1998.
Torres-Villa, L.M., M.Rodrigues - Moonlia and A.lacasa (1996), “An unusual behavior in Helicoverpa armigera Hubner (Lepidoptera; Noctuidae): Pupotion inside tomato fruit,,. J.inecit Behav. 9:1981-1984.
Từ điển bách khoa BVTV, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 1996
Ulaganathan, P and G.P Gupta, 2004."Effect of spray Schedules on the control of bollworm complex of american cotton,,pest. Ores. J; 16: 23 – 27.
Vaijayanti A.Tamhane et al (2005), Helicoverpa armigera: Ecology and control using Novel Biotechonogycal Approaches-2005, India.
Vaijayanti A.Tamhane et.al “Helicoverpa armigera: Ecology and control novel Biotechnological Approaches India” - 2005.
Vic Casimero et.al “ Effect of larval diet on the survival and development of larvae in cotton bollworm, H.armigera Hubner (Lepidoptera: Noctuidae), Japan 1999.
Vic Casimero, Fusao Nakasuji and Kenji. Fujisaky – “ The influences of larval and adult food quality on the calling rate and precalling periode of females of the cotton bollworm, Helicoverpa armigera Hubner (Lepidoptera: Noctuidae),, - Okayama University – Japan.
W.w.w cabicompenbium.org/cpc- CAB International, 2006.
Wu, K.J and P.Y.Wong (1984), Respirastion of Heliothis armigera Acta Entomol Sinica 29(2), 149-157 (in Chinese with English summary).
Www. exten - to. Hawaii. Edu. “Helicoverpa zae Boddie - coru Earworm, tomato Fruit worm,,.
Yang E, Yang Y, Wu S, Wu Y (2005), "Relative contribution of detoxifying enzymes to pyrethroid resistance in a resistant strain of H.armigera,, . J. Appl. Entomol. 129, 521-525.
PHỤ LỤC
SƠ ĐỒ THÍ NGHIỆM NGOÀI ĐỒNG
CTI.
CTII
CTIII
CTIV
CTIV
CTI
CTII
CTIII
CTIII
CTIV
CTI
CTII
KẾT QUẢ XỬ LÝ THỐNG KÊ
KẾT QUẢ XỬ LÝ THÍ NGHIỆM TRỪ SÂU ĐỤC QUẢ CÀ CHUA TRONG PHÒNG THÍ NGHIỆM
CHI CỤC BVTV HP2008-2009
---------------------------------------------------------------- PAGE 1
VARIATE V003 12H SP
LN SOURCE OF VARIATION DF SUMS OF MEAN F RATIO PROB ER
SQUARES SQUARES LN
=============================================================================
1 CT$ 3 4320.73 1440.24 582.69 0.000 3
2 NL$ 2 .166559E-04 .832795E-05 0.00 1.000 3
* RESIDUAL 6 14.8302 2.47169
-----------------------------------------------------------------------------
* TOTAL (CORRECTED) 11 4335.56 394.141
-----------------------------------------------------------------------------
BALANCED ANOVA FOR VARIATE 24H SP FILE SXCC 2/12/** 5:22
---------------------------------------------------------------- PAGE 2
VARIATE V004 24H SP
LN SOURCE OF VARIATION DF SUMS OF MEAN F RATIO PROB ER
SQUARES SQUARES LN
=============================================================================
1 CT$ 3 3232.76 1077.59 387.68 0.000 3
2 NL$ 2 5.54447 2.77223 1.00 0.425 3
* RESIDUAL 6 16.6775 2.77959
-----------------------------------------------------------------------------
* TOTAL (CORRECTED) 11 3254.98 295.907
-----------------------------------------------------------------------------
BALANCED ANOVA FOR VARIATE 36H SP FILE SXCC 2/12/** 5:22
---------------------------------------------------------------- PAGE 3
VARIATE V005 36H SP
LN SOURCE OF VARIATION DF SUMS OF MEAN F RATIO PROB ER
SQUARES SQUARES LN
=============================================================================
1 CT$ 3 4424.45 1474.82 ****** 0.000 3
2 NL$ 2 .800489E-13 .400244E-13 0.00 1.000 3
* RESIDUAL 6 .120604E-03 .201007E-04
-----------------------------------------------------------------------------
* TOTAL (CORRECTED) 11 4424.45 402.223
-----------------------------------------------------------------------------
BALANCED ANOVA FOR VARIATE 48H SP FILE SXCC 2/12/** 5:22
---------------------------------------------------------------- PAGE 4
VARIATE V006 48H SP
LN SOURCE OF VARIATION DF SUMS OF MEAN F RATIO PROB ER
SQUARES SQUARES LN
=============================================================================
1 CT$ 3 1109.25 369.749 492.99 0.000 3
2 NL$ 2 1.50000 .750000 1.00 0.424 3
* RESIDUAL 6 4.50010 .750016
-----------------------------------------------------------------------------
* TOTAL (CORRECTED) 11 1115.25 101.386
-----------------------------------------------------------------------------
TABLE OF MEANS FOR FACTORIAL EFFECTS FILE SXCC 2/12/** 5:22
---------------------------------------------------------------- PAGE 5
MEANS FOR EFFECT CT$
-------------------------------------------------------------------------------
CT$ NOS 12H SP 24H SP 36H SP 48H SP
1 3 73.3300 81.1100 100.000 100.000
2 3 36.6700 51.1100 66.6700 82.3300
3 3 21.1100 36.6700 46.6700 73.3300
4 3 45.5567 64.4433 76.6700 86.6700
SE(N= 3) 0.907688 0.962564 0.258848E-02 0.500005
5%LSD 6DF 3.13984 3.32966 0.895396E-02 1.72960
-------------------------------------------------------------------------------
MEANS FOR EFFECT NL$
-------------------------------------------------------------------------------
NL$ NOS 12H SP 24H SP 36H SP 48H SP
1 4 44.1675 58.3350 72.5025 85.8325
2 4 44.1675 57.5000 72.5025 85.8325
3 4 44.1650 59.1650 72.5025 85.0825
SE(N= 4) 0.786081 0.833605 0.224169E-02 0.433017
5%LSD 6DF 2.71918 2.88357 0.775436E-02 1.49788
------------------------------------------------------------------------------
ANALYSIS OF VARIANCE SUMMARY TABLE FILE SXCC 2/12/** 5:22
---------------------------------------------------------------- PAGE 6
F-PROBABLIITY VALUES FOR EACH EFFECT IN THE MODEL. SECTION - 1
VARIATE GRAND MEAN STANDARD DEVIATION C OF V |CT$ |NL$ |
(N= 12) -------------------- SD/MEAN | | |
NO. BASED ON BASED ON % | | |
OBS. TOTAL SS RESID SS | | |
12H SP 12 44.167 19.853 1.5722 3.6 0.0000 0.9999
24H SP 12 58.333 17.202 1.6672 2.9 0.0000 0.4245
36H SP 12 72.502 20.055 0.44834E-02 0.0 0.0000 1.0000
48H SP 12 85.582 10.069 0.86603 1.0 0.0000 0.4237
SỐ LIỆU KHÍ TƯỢNG THUỶ VĂN KHU VỰC ĐÔNG BẮC
(TRẠM KHÍ TƯỢNG THUỶ VĂN PHÙ LIỄN - KIẾN AN - HẢI PHÒNG)
Tháng 10 năm 2008
Ngày
Nhiệt độ trung bình (độ C)
Nhiệt độ thấp nhất (độ C)
Nhiệt độ cao nhất (độ C)
Độ ẩm (%)
Lượng mưa (mm)
Bốc hơi (mm)
Ánh sáng (giờ)
1/10/2008
26.3
23.5
30.4
93
0
3.2
4.3
2/10/2008
26.5
23.5
31.5
88
0
2.4
3.4
3/10/2008
27.1
24.8
31.2
89
0
1.7
4.5
4/10/2008
27.3
25
31.8
88
8.2
1.7
2.2
5/10/2008
26.1
23.1
30.2
90
0
1.8
3.6
6/10/2008
26.1
23
31
83
0
3
8.4
7/10/2008
26.1
22.6
30.5
83
0
1.8
7.8
8/10/2008
25.6
22.7
30
86
0
2.5
6.5
9/10/2008
26.1
23
30.3
87
0
2.2
4.9
10/10/2008
26.8
23.8
32
86
0
2.5
7.3
11/10/2008
27.2
23.8
31.7
84
0
2.6
4.6
12/10/2008
26.2
23.2
30.5
85
0
2.7
1.5
13/10/2008
24.7
22
27.7
80
0
3.3
0.8
14/10/2008
22.7
20
22.6
87
8.5
2.9
0
15/10/2008
23.5
21
26.6
90
0.2
1.6
0
16/10/2008
25.8
22.2
31
85
0
2.2
7.8
17/10/2008
26.7
22.6
32
83
0
3.3
8.1
18/10/2008
26.1
23.2
30.2
85
0
0
2.7
19/10/2008
26.3
24.8
30
86
0
2
0.7
20/10/2008
26.5
23.8
30.5
87
0
3
6.4
21/10/2008
25.9
22.8
30.5
90
4.5
2.4
6.5
22/10/2008
26.8
23.5
31.5
90
2.4
1.8
10
23/10/2008
27.3
24.7
32
89
0
2.2
9.2
24/10/2008
25.9
21.8
31.2
89
0
2.2
8.9
25/10/2008
26.2
23
29.8
86
0
2.1
6.9
26/10/2008
25.9
24.4
29
91
0.1
1.6
1.6
27/10/2008
26.6
23.5
31.3
86
0
2.1
7.6
28/10/2008
25
23.6
28.2
83
0
2.5
7.6
29/10/2008
25
22.8
27.8
92
5
1.1
1
30/10/2008
25.6
23.6
28.2
93
0
1.9
0
31/10/2008
26.8
25.4
29
93
1
2
3.3
Tháng 11 năm 2008
Ngày
Nhiệt độ trung bình (độ C)
Nhiệt độ thấp nhất (độ C)
Nhiệt độ cao nhất (độ C)
Độ ẩm (%)
Lượng mưa (mm)
Bốc hơi (mm)
Ánh sáng (giờ)
1/11/2008
26
24.5
27.9
97
25.4
0.6
0.3
2/11/2008
24.8
22.3
26.7
98
9.6
0.3
0.5
3/11/2008
21.1
19.3
24.2
95
2.8
0.7
1.8
4/11/2008
21.4
20.5
23.4
95
0
1.3
0
5/11/2008
24.1
21.5
29
93
0
0.7
2.5
6/11/2008
24.5
23
27
96
7.3
0.8
2.1
7/11/2008
24.5
22
28.4
94
2.6
0.8
2.3
8/11/2008
20.5
27.5
25
86
8.7
1.9
4.1
9/11/2008
20.4
14.7
25
71
0
4.9
9.7
10/11/2008
20.1
16.3
24
74
0
4.7
9.6
11/11/2008
19.9
15.5
25.6
74
0
3.3
8.5
12/11/2008
20.2
16.3
25.7
74
0
3.7
9.4
13/11/2008
21
16.7
26.3
74
0
3.5
9.3
14/11/2008
21
16.2
26.5
80
0
3.2
7.3
15/11/2008
22.3
19.6
26
82
0
2.3
4
16/11/2008
23.6
21.3
28
88
0
1.7
4.3
17/11/2008
23.8
21.2
29
87
0
2.2
5.1
18/11/2008
22.2
20
25.3
87
0
1.9
2.1
19/11/2008
19.2
17.4
22.2
78
0
3.2
6.3
20/11/2008
18.2
15
23
74
0
3.2
6.3
21/11/2008
18.3
16.5
19.6
81
0
1.9
0
22/11/2008
20.4
17.4
25
83
0
1.8
0.5
23/11/2008
22
19
26.5
88
0
1.6
2.4
24/11/2008
20.6
17.2
25.6
77
0
3.2
8.1
25/11/2008
20.6
16.3
25.2
77
0
2.8
2.8
26/11/2008
21.4
19
26.3
75
0
3.7
8.2
27/11/2008
21.3
19.7
24
63
0
5.9
7.3
28/11/2008
18.4
15
23
66
0
4.8
9.4
29/11/2008
16.9
11.8
22.4
66
0
5.2
9.6
30/11/2008
18
12.8
24.7
64
0
5.5
9.6
Tháng 12 năm 2008
Ngày
Nhiệt độ trung bình (độ C)
Nhiệt độ thấp nhất (độ C)
Nhiệt độ cao nhất (độ C)
Độ ẩm (%)
Lượng mưa (mm)
Bốc hơi (mm)
Ánh sáng (giờ)
1/12/2008
18.4
13.5
24.4
71
0
4.8
9.2
2/12/2008
18.7
14.1
25.5
76
0
3.2
9.6
3/12/2008
19.8
16.3
24.7
81
0
2.9
8
4/12/2008
21.4
17.6
26.5
93
0
2.9
7
5/12/2008
19.6
17.6
22.2
73
0
3.6
7.3
6/12/2008
17.1
14.4
19.8
71
0
3.2
2.6
7/12/2008
17.5
15.6
21
71
0
3.5
2.9
8/12/2008
17.4
14.8
21.7
71
0
2.3
6.5
9/12/2008
17.2
12.7
22.7
74
0
1
8.6
10/12/2008
19.2
15
24.5
83
0
2.6
8.4
11/12/2008
19.5
15.3
24
82
0
2.2
8.5
12/12/2008
20
16.8
25.3
83
0
2.8
8.7
13/12/2008
20.2
16.8
26
85
0
2.6
4.9
14/12/2008
20.4
17.6
24.7
80
0
3.1
5.1
15/12/2008
18.4
15
23
80
0
2.7
5.4
16/12/2008
17.9
14.2
23.3
79
0
2.8
6.4
17/12/2008
18.3
15.4
24
82
0
2.3
6.7
18/12/2008
17.8
15
25
79
0
3.6
7.8
19/12/2008
19.2
14.3
25.6
69
0
4.6
7.1
20/12/2008
20.2
16.8
24.7
76
0
3.2
2.4
21/12/2008
20.6
18.3
24.6
92
0
1.1
0.5
22/12/2008
20.4
17.4
24.3
83
0
2.2
1.3
23/12/2008
14.4
12.8
15.6
80
0
2.1
0
24/12/2008
13.7
11.8
16.6
84
0
1.7
0
25/12/2008
15.5
13
20.5
82
0
1.8
1.2
26/12/2008
16.1
14.5
18.4
87
0.1
1.1
0
27/12/2008
15.8
15.1
16.3
99
27.7
0.1
0
28/12/2008
17.6
16.2
19.5
100
5.2
0.1
0
29/12/2008
19.4
17.4
23
93
0
0.8
2
30/12/2008
17.5
15.9
19.6
96
1.6
0.8
0
31/12/2008
15.1
13.2
18.3
74
0
2.5
0
Tháng 01 năm 2009
Ngày
Nhiệt độ trung bình (độ C)
Nhiệt độ thấp nhất (độ C)
Nhiệt độ cao nhất (độ C)
Độ ẩm (%)
Lượng mưa (mm)
Bốc hơi (mm)
Ánh sáng (giờ)
1/1/2009
15.4
13.6
18.5
77
0
2.9
1.4
2/1/2009
15.4
12
19
75
0
3.7
2.1
3/1/2009
16
13.6
19
74
0
2.6
0.5
4/1/2009
16.4
14
21.3
78
0
1.8
2.5
5/1/2009
18.1
15.1
23.5
87
0
1.4
2.6
6/1/2009
19.4
16.8
24
87
0
1.6
7.2
7/1/2009
17.5
15
20.2
86
0
1.3
0.8
8/1/2009
14.8
13.6
16.7
81
0
2.3
0
9/1/2009
14.6
12
18.4
64
0
4.1
4.9
10/1/2009
14.4
10.8
19.6
52
0
4.8
9.7
11/1/2009
14.5
10.5
20.3
59
0
4.2
9.3
12/1/2009
15.2
10
21
65
0
4.1
9
13/1/2009
14.9
11.5
20
59
0
4.4
8.5
14/1/2009
14.2
10.5
19.5
68
0
3.4
8.1
15/1/2009
14.6
11
20.4
66
0
3.9
8.6
16/1/2009
15.5
11.9
21.2
74
0
3.8
9
17/1/2009
16.6
13
22.3
82
0
2.5
3.4
18/1/2009
17.7
16.2
21.5
93
0
1.7
0.5
19/1/2009
18.8
16.2
24.5
94
0
1
6.3
20/1/2009
19.1
16.5
24.3
94
0
1.1
1.8
21/1/2009
20.2
17.9
26.2
91
0
1.1
7.5
22/1/2009
17.1
15.5
20.1
90
0
1.8
0.9
23/1/2009
17.5
16.2
20.8
89
0
2
0
24/1/2009
12
10
11.7
88
0.5
1.7
0
25/1/2009
11.1
9.3
14.4
84
0
1.1
0
26/1/2009
11.2
10
12.5
92
1.2
0.7
0
27/1/2009
12.3
9.8
18
80
0
3
4.2
28/1/2009
13.5
11.6
16
86
0
1.7
0
29/1/2009
14.2
12.6
16.7
92
0.9
0.8
0
30/1/2009
16.4
12.8
23.1
88
0
2
7.9
31/1/2009
16.7
13.3
21.7
86
0
2.3
8.7
Tháng 02 năm 2009
Ngày
Nhiệt độ trung bình (độ C)
Nhiệt độ thấp nhất (độ C)
Nhiệt độ cao nhất (độ C)
Độ ẩm (%)
Lượng mưa (mm)
Bốc hơi (mm)
Ánh sáng (giờ)
1/2/2009
16.2
14.5
18
94
0.2
0.7
0
2/2/2009
18.3
16.4
23.1
93
0
1.3
1.6
3/2/2009
18.9
16.3
24.6
93
0
1.2
5.2
4/2/2009
18.7
16
22.8
95
0
0.7
3.4
5/2/2009
18.8
16.5
23.7
94
0
0.9
2
6/2/2009
19.3
15.7
25
91
0
1.5
9
7/2/2009
19.3
16.4
24
90
0
2.1
6.7
8/2/2009
19
16.9
23.8
93
0
1.2
1.8
9/2/2009
19.5
16.5
24
92
0
1.2
1
10/2/2009
20.7
17.1
26.5
92
0
1.5
5.9
11/2/2009
20.8
17.8
26
93
0
1.4
9.8
12/2/2009
20.7
19
23.3
95
0
1.7
0.4
13/2/2009
23.1
20.5
29.5
93
0
1
9.5
14/2/2009
23
20.8
27.5
92
0
1.5
9
15/2/2009
22.2
20.5
25.3
96
0
1.2
0.3
16/2/2009
23.2
21.7
26.5
93
0
1.1
2.4
17/2/2009
23
21
27.3
93
0
2.4
4.1
18/2/2009
22
20.6
25.3
94
0
0.9
0.8
19/2/2009
22
20.5
25
96
0
0.7
0
20/2/2009
21.8
20
24
95
0.1
0.8
0.1
21/2/2009
18.8
17
20.5
98
1.1
0.3
0
22/2/2009
21.5
20.2
22.2
99
0.2
0
0
23/2/2009
22.8
21.6
24.3
96
0
0.7
0
24/2/2009
23.8
22.2
27.7
93
0
1.1
6.5
25/2/2009
23.3
22.7
24.3
95
0.2
0.6
0
26/2/2009
23.6
22.2
26
93
0
1.3
0.3
27/2/2009
23.9
22
28.2
90
3.7
1.9
2.1
28/2/2009
21.9
21
24.5
97
1.8
0.6
0
Tháng 3 năm 2009
Ngày
Nhiệt độ trung bình (độ C)
Nhiệt độ thấp nhất (độ C)
Nhiệt độ cao nhất (độ C)
Độ ẩm (%)
Lượng mưa (mm)
Bốc hơi (mm)
Ánh sáng (giờ)
1/3/2009
19.3
18.4
20
97
1.1
0.4
0
2/3/2009
16.3
15
17
100
6.6
0
0
3/3/2009
16.1
14.5
17.7
100
1.9
0.2
0
4/3/2009
17
17
18.8
100
3.4
0.1
0
5/3/2009
19.5
7.5
21.5
100
3.4
0
0
6/3/2009
16.1
14.7
17.5
94
0.3
0.5
0
7/3/2009
15.4
14.1
17
90
0
1.6
0
8/3/2009
16.6
14.7
20.2
91
0
0.9
0
9/3/2009
18.1
14.5
23.1
91
1.4
2.1
1.7
10/3/2009
18.8
16.8
21.5
91
18.1
7.4
1.7
11/3/2009
20.1
18.8
22
100
1.3
0.3
0
12/3/2009
22.2
21.6
22.6
99
1.6
0.2
0
13/3/2009
21.5
21.5
24.5
89
22.3
1
0
14/3/2009
16.1
12.4
21
66
0
5.3
7.1
15/3/2009
16.8
12.7
22
76
0
3.2
7.4
16/3/2009
18.8
16.5
22.5
92
0
1.1
0.1
17/3/2009
20.4
19.2
23.2
96
0
0.5
0
18/3/2009
21.4
20
23.4
98
0
0.4
0
19/3/2009
22.5
20.8
26.5
97
0
0.4
0.4
20/3/2009
22.3
21.7
23.5
98
1.4
0.5
0
21/3/2009
23.7
21.5
28
97
0.3
0.3
4
22/3/2009
23.2
22.6
24.5
98
0
0.6
0
23/3/2009
24
22.5
27.6
96
0
1
1.5
24/3/2009
23.9
22.8
25.8
96
0
0.5
0
25/3/2009
21.5
19.2
23.3
95
31.1
0.7
0
26/3/2009
19.9
18.7
22
97
0.3
0.3
0
27/3/2009
22.8
19.9
29.5
93
0.1
0.8
6
28/3/2009
23.9
21.4
30.1
93
0
1.5
7.8
29/3/2009
24.1
22.6
28.6
89
0
1.5
4.2
30/3/2009
21.5
19.8
23
88
0.2
1.9
0
31/3/2009
18.6
17.3
20.4
95
0.1
0.6
0
Tháng 4 năm 2009
Ngày
Nhiệt độ trung bình (độ C)
Nhiệt độ thấp nhất (độ C)
Nhiệt độ cao nhất (độ C)
Độ ẩm (%)
Lượng mưa (mm)
Bốc hơi (mm)
Ánh sáng (giờ)
1/4/2009
17.4
15.5
18.3
99
19.2
0.6
0
2/4/2009
17.1
15.8
18.2
100
13
0
0
3/4/2009
19.5
17.6
22.8
99
1.3
0.4
0
4/4/2009
22.8
20.8
27.5
96
4.2
0.6
3.4
5/4/2009
21.4
18
26.2
98
50.4
0.2
0.4
6/4/2009
18.8
16.5
22.5
89
0
1
2.3
7/4/2009
19.8
17.6
25.4
90
0
2.6
5.9
8/4/2009
20.8
18.8
24.8
94
0
0.8
0.6
9/4/2009
22
20.8
25.2
96
2.8
0.8
0.3
10/4/2009
22.2
21.3
24.3
97
6.9
0.4
0
11/4/2009
23
21.6
26.5
95
0
0.4
0
12/4/2009
22.9
21.5
26.7
97
0.1
1.2
1.5
13/4/2009
24.6
22.8
28.8
95
0
0.7
4.4
14/4/2009
24.7
21
30
92
21.2
1
5.1
15/4/2009
24.1
22.7
27
96
3.3
0.3
1.4
16/4/2009
25.5
23
31.6
93
0
1.1
6.9
17/4/2009
24.8
23
28.3
92
0
1.8
4.3
18/4/2009
25.6
24
28.8
93
0
1
3.2
19/4/2009
27.8
24.2
35.5
89
0
1.5
8.8
20/4/2009
27
23.8
32
82
0
3.2
6.5
21/4/2009
25.8
22.7
31
79
0
3
8.1
22/4/2009
25.9
23.4
30
85
0
2.6
8.5
23/4/2009
25.4
23.9
29
94
0.8
1.1
1.6
24/4/2009
26.5
25
29.2
94
0
1.1
2.8
25/4/2009
23.3
20.2
25
94
37.5
0.6
0.7
26/4/2009
23.7
21
28.1
78
0
2.6
9.1
27/4/2009
23.1
20.2
27.6
88
0
2.6
9.1
28/4/2009
23.2
22.2
25
91
0
1
0
29/4/2009
22.8
22.2
23.7
96
36.6
0.9
0
30/4/2009
23.4
21.6
27
92
3.1
1.1
3.2
Tháng 5 năm 2009
Ngày
Nhiệt độ trung bình (độ C)
Nhiệt độ thấp nhất (độ C)
Nhiệt độ cao nhất (độ C)
Độ ẩm (%)
Lượng mưa (mm)
Bốc hơi (mm)
Ánh sáng (giờ)
1/5/2009
24.5
22.9
27.6
85
0
1.5
7.7
2/5/2009
24.5
21.5
29.5
84
0
2.9
8.2
3/5/2009
24.5
21.6
30
83
0.3
1.9
5.5
4/5/2009
24.6
21.4
30
85
0
2.6
8.5
5/5/2009
24.9
22.8
29
83
0
1.9
7.2
6/5/2009
24.2
22.8
27
88
0
2.3
0.2
7/5/2009
24.5
23.2
26.7
91
0
2
0
8/5/2009
23.8
23
24.8
97
19.4
0.5
0
9/5/2009
23.9
22.8
25.3
97
12.4
0.4
0
10/5/2009
24.8
23.7
23.7
96
2.5
1.2
0
11/5/2009
26.1
24.6
29.5
92
0
1.5
6.7
12/5/2009
26.6
24.4
30.3
89
0
1.8
9.3
13/5/2009
26.8
24.7
61.2
89
0
1.7
10.2
14/5/2009
26.9
24.5
30.7
87
0
2.3
10.4
15/5/2009
26.3
24.9
29.8
91
6.4
1.4
5.3
16/5/2009
25.9
24.7
29.2
95
10.7
0.8
2.6
17/5/2009
27.1
25.2
31
93
3.1
1.9
4.3
18/5/2009
26.2
23
28
94
1.2
0.9
0.5
19/5/2009
26.5
23
30.3
89
3.9
1.9
7
20/5/2009
26.3
24.8
29
92
7.1
1.5
3
21/5/2009
25.5
23
29.2
87
0
1.3
6.7
22/5/2009
25.4
22.2
29.3
91
17.4
1.2
2.2
23/5/2009
26.9
24
31.7
86
0
2.6
8.1
24/5/2009
27.4
24.2
32
83
0
2.1
3.3
25/5/2009
26.8
24
31
88
2.4
1.7
8.5
26/5/2009
27.3
24.6
30.7
88
0
1.3
5.8
27/5/2009
27.4
25
31.7
89
7.6
2.2
7.7
28/5/2009
27.6
26.1
30.5
93
0
0.7
2.6
29/5/2009
23.4
21
23
96
15.2
0.7
0
30/5/2009
24.4
21.3
28.7
81
0
2.2
7.5
31/5/2009
26.4
23.2
30.3
82
0
2
7.2
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHBVTV09034.doc