Bộ giáo dục và đào tạo
Trường đại học nông nghiệp hà nội
------ ----- --000-------------
nguyễn thị thái
nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố đến bệnh viêm đường sinh dục ở lợn nái ngoại sinh sản nuôi trong trang trại và biện pháp phòng, trị bệnh viêm tử cung
luận văn thạc sĩ nông nghiệp
Chuyên ngành: thú y
Mã số: 60.62.50
Người hướng dẫn khoa học: pgs.ts. trần tiến dũng
hà nội - 2008
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và ch
91 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2770 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố đến bệnh viêm đường sinh dục ở lợn nái ngoại sinh sản nuôi trong trang trại và biện pháp phòng, trị bệnh viêm tử cung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưa hề được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thái
Lời cảm ơn
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các tập thể và cá nhân trong và ngoài trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội, khoa Sau Đại học, khoa Thú y cùng các Thầy, Cô giáo đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Hoàn thành luận văn này tôi luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình của các Thầy Cô trong Bộ môn Ngoại- Sản, đặc biệt là Thầy hướng dẫn khoa học PGS.TS. Trần Tiến Dũng đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và xây dựng luận văn.
Nhân dịp hoàn thành luận văn, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới nhà trường, các Thầy Cô giáo, các cơ quan, các chủ trang trại, gia đình cùng bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ động viên tôi trong suốt thời gian qua.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thái
Mục lục
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục chữ viết tắt vi
Danh mục các bảng vii
Danh mục biểu đồ viii
Danh mục các chữ viết tắt và ký hiệu
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
Dạng S
Dạng Smouth
Dạng R
Dạng Rough
DNA
Deoxyribonucleic acid
E. coli
Escherichia coli
FSH
Folliculo Stimuling Hormone
GnRH
Gonadotropin-Releasing Hormone
Gr-
Gram âm
Gr+
Gram dương
LH
Lutein Hormone
PGF2α
Prostglandin F 2 alpha
TB
Trung bình
TC
Tử cung
VK
Vi khuẩn
Danh mục các bảng
STT
Tên bảng
Trang
2.1. Phân biệt các thể Viêm tử cung 19
3.1. Bảng chuẩn đánh giá độ nhậy cảm của một số kháng sinh 33
4.1. Kết quả khảo sát tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục của lợn nái Yorkshire theo mùa vụ trong năm . 42
4.2. Kết quả khảo sát tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục của lợn nái Yorkshire theo điều kiện vệ sinh Thú Y. 43
4.3. Kết quả khảo sát tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục của lợn nái Yorkshire theo lứa đẻ 45
4.4. Kết quả khảo sát tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục của lợn nái Yorkshire theo phương pháp phối giống 46
4.5. Kết quả khảo sát tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục của lợn nái Yorkshire theo điều kiện đẻ 47
4.6. Tổng hợp tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục của lợn nái Yorkshire ngoại tại hai trại Thu Thuỷ và Lạc Vệ theo các yếu tố nghiên cứu. 49
4.7. Kết quả phân loại vị trí mắc bệnh viêm đường sinh dục của lợn nái theo địa phương-mùa vụ 51
4.8 . Kết quả phân loại vị trí viêm đường sinh dục của lợn nái Yorkshire theo điều kiện vệ sinh thú y 52
4.9. Kết quả phân loại vị trí mắc bệnh viêm đường sinh dục của lợn nái Yorkshire theo lứa đẻ 53
4.10. Kết quả phân loại vị trí mắc bệnh viêm đường sinh dục của lợn nái Yorkshire theo phương pháp phối giống 54
4.11. Kết quả phân loại tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục của lợn nái Yorkshire theo điều kiện đẻ 56
4.12. Tổng hợp phân loại viêm đường sinh dục của lợn nái Yorkshire tại hai trại Thu Thuỷ và Lạc Vệ theo các yếu tố 58
4.13. Kết quả xác định thành phần vi khuẩn có trong dịch âm đạo, tử cung lợn nái Yorkshire bình thường và bị viêm đường sinh dục 59
4.14. Kết quả về sự biến động số lượng các vi khuẩn phân lập được trong 1ml dịch viêm đường sinh dục so với nái khoẻ mạnh sau đẻ 60
4.15. Kết quả xác định tính mẫn cảm của các vi khuẩn phân lập được từ dịch viêm đường sinh dục của lợn nái bị viêm với một số thuốc kháng sinh và hoá học trị liệu 62
4.16. Kết quả xác định tính mẫn cảm của tập đoàn vi khuẩn có trong dịch viêm đường sinh dục của lợn nái với một số thuốc kháng sinh và hoá học trị liệu 64
4.17. Kết quả thử nghiệm phòng bệnh viêm tử cung cho lợn nái Yorkshire sinh sản 66
4.18 . Kết quả điều trị bệnh viêm nội mạc tử cung ở lợn nái Yorkshire 68
Danh mục biểu đồ
STT
Tên biểu đồ
Trang
4.1. Tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục của lợn nái Yorkshire tại trại Thu Thuỷ theo các yếu tố nghiên cứu 50
4.2. Tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục của lợn nái Yorkshire tại trại Lạc Vệ theo các yếu tố nghiên cứu 50
4.3. Kết quả thử nghiệm phòng bệnh viêm tử cung lợn nái Yorkshire 66
4.4. Kết quả điều trị bệnh viêm nội mạc tử cung ở lợn nái Yorkshire 69
1. Mở đầu
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong vài năm gần đây, chăn nuôi lợn có một vị trí quan trọng trong ngành nông nghiệp của Việt Nam: Con lợn được xếp hàng đầu trong số các vật nuôi, cung cấp phần lớn thực phẩm cho nhân dân và phân bón cho sản xuất cây trồng. Ngày nay chăn nuôi lợn còn có tầm quan trọng đặc biệt nữa là tăng kim ngạch xuất khẩu, đây cũng là nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Để cung cấp lợn giống cho nhu cầu chăn nuôi của các trang trại và các nông hộ thì việc phát triển đàn lợn nái sinh sản là việc làm cần thiết.
Tuy vậy, một trong những trở ngại lớn nhất của việc phát triển chăn nuôi lợn nái sinh sản là là dịch bệnh xảy ra còn phổ biến gây nhiều thiệt hại cho đàn lợn nái nuôi tập trung trong trang trại cũng như nuôi ở gia đình.
Một trong những bệnh làm ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái ngoại đang nuôi ở các địa phương hiện nay là bệnh viêm đường sinh dục. Bệnh viêm đường sinh dục không những làm ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh sản của lợn mẹ mà còn là một trong những nguyên nhân làm cho tỷ lệ mắc bệnh ở đàn lợn con đang trong thời gian theo mẹ tăng cao do thành phần của sữa mẹ bị thay đổi do ảnh hưởng của bệnh viêm đường sinh dục. Từ những nhận định trên cho thấy việc nghiên cứu một số yếu tố ảnh hưởng đến bệnh viêm đường sinh dục ở lợn nái ngoại sinh sản nuôi tập trung và tìm ra phương pháp phòng trị bệnh là một việc làm cần thiết.
Với mục đích góp phần nhỏ trong việc ổn định nguồn giống, nâng cao năng xuất sinh sản của đàn lợn nái đồng thời bổ sung vào các tài liệu nghiên cứu về lĩnh vực sinh sản của lợn nái chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố đến bệnh viêm đường sinh dục ở lợn nái ngoại sinh sản nuôi trong trang trại và biện pháp phòng, trị bệnh viêm tử cung”.
1.2. Mục đích của đề tài
Chúng tôi thực hiện đề tài nhằm mục đích:
- Đánh giá được một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục của lợn nái.
- Đưa ra các giải pháp phòng và điều trị bệnh viêm tử cung ở lợn nái sinh sản nuôi trong trang trại.
- Bước đầu đưa ra những khuyến cáo góp phần xây dựng quy trình phòng và điều trị bệnh viêm tử cung trong chăn nuôi lợn nái sinh sản.
1.3. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục của lợn nái sinh sản, đưa ra quy trình kỹ thuật phòng và điều trị bệnh viêm tử cung lợn nái có hiệu quả cao nhằm tăng năng suất sinh sản, ổn định nguồn giống và đạt hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi.
2. Tổng quan tài liệu
2.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục lợn cái
Trong cơ quan sinh sản, bộ phận sinh dục của lợn cái được chia thành bộ phận sinh dục bên ngoài (âm môn, âm vật, tiền đình) và bộ phận sinh dục bên trong (buồng trứng, ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo) .
Sơ đồ cấu tạo đường sinh dục lợn cái
2.1.1 Bộ phận sinh dục ngoài
2.1.1.1. Âm hộ (Vulva)
Âm hộ hay còn gọi là âm môn, nằm dưới hậu môn và ngăn cách với nó bởi vùng hồi âm. Bên ngoài có 2 môi đính với nhau ở mép trên và mép dưới. Môi âm hộ có sắc tố đen, tuyến mồ hôi, tuyến bã tiết ra chất nhờn trong và hơi dính.
2.11.2. Âm vật (Clitoris)
Âm vật có cấu tạo như dương vật nhưng thu nhỏ lại và là tạng cương của đường sinh dục cái, được dính vào phần trên khớp bán động ngồi, bị bao xung quanh bởi cơ ngồi hổng.
Âm vật được phủ bởi lớp niêm mạc có chứa các đầu mút thần kinh cảm giác, lớp thể hổng và tổ chức liên kết bao bọc gọi là mạc âm vật.
2.1.1.3. Tiền đình (Vestibulum vaginae sinusinogenitalis)
Tiền đình là giới hạn giữa âm đạo và âm môn. Trong tiền đình có màng trinh,phía trước màng trinh là âm môn, phía sau màng trinh là âm đạo.
- Màng trinh là một nếp gấp gồm 2 lá, phía trước thông với âm đạo, phía sau thông với âm hộ. Màng trinh gồm các sợi cơ đàn hồi ở giữa và do 2 lá niêm mạc gấp lại thành một nếp.
- Lỗ niệu đạo ở sau và dưới màng trinh.
- Hành tiền đình là 2 tạng cương ở 2 bên lỗ niệu đạo. Cấu tạo giống thể hổng ở bao dương vật của con đực.
Tiền đình có một số tuyến, các tuyến này xếp theo hàng chéo, hướng quay về âm vật.
2.1.2 Bộ phận sinh dục bên trong
2.1.2.1. Buồng trứng (Ovarium)
Cấu tạo Buồng trứng của lợn gồm một đôi treo ở cạnh trước dây chằng rộng, nằm trong xoang chậu. Hình dáng của buồng trứng rất đa dạng nhưng phần lớn có hình bầu dục hoặc hình ovan dẹt, không có lõm rụng trứng.
Buồng trứng của gia súc có chức năng sinh ra trứng và tiết dịch nội tiết.
Buồng trứng có hai chức năng cơ bản là tạo giao tử cái và tiết các hocmon: Estrogen, Progesterone, Oxytocin, Relaxin và Inhibin. Các hocmon này tham gia vào việc điều khiển chu kỳ sinh sản của lợn cái. Estrogen cần thiết cho sự phát triển của tử cung và hệ thống ống dẫn của tuyến vú. Progesterone do thể vàng tiết ra giúp duy trì sự mang thai do nó kích thích sự phân tiết của tử cung để nuôi dưỡng thai, ức chế sự co thắt của tử cung và phát triển nang tạo sữa của tuyến vú. Oxytoxin được tiết chủ yếu bởi phần sau của tuyến yên nhưng cũng dược tiết bởi thể vàng ở buồng trứng khi thú gần sinh, nó làm co thắt cơ tử cung trong lúc sinh đẻ và cũng làm co thắt cơ trơn tuyến vú để thải sữa. ở lợn, Relaxin do thể vàng tiết ra để gây dãn nở xương chậu, làm dãn và mềm cổ tử cung, do đó mở rộng đường sinh dục khi gần sinh. Inhibin có tác dụng ức chế sự phân tiết kích tố noãn (FSH) từ tuyến yên, do đó ức chế sự phát triển nang noãn theo chu kỳ (Trần Thị Dân, 2004)[3].
Trên buồng trứng có từ 70.000 - 100.000 noãn bào ở các giai đoạn khác nhau, tầng ngoài cùng là những noãn bào sơ cấp phân bố tương đối đều, tầng trong là những noãn bào thứ cấp đang sinh trưởng, khi noãn bao chín sẽ nổi lên bề mặt buồng trứng (Khuất Văn Dũng, 2005)[6].
Có 4 loại noãn nang trong buồng trứng: noãn namg nguyên thuỷ, noãn nang bậc một, noãn nang bậc hai, noãn nang bậc ba.
Buồng trứng của lợn hình chùm dâu, có màu hồng vân, kích thước noãn bao thành thục 0,8 -1,2 cm.
2.1.2.2. ống dẫn trứng (Oviductus)
ống dẫn trứng còn gọi là vòi Fallop, nằm ở màng treo buồng trứng. Đường kính ống dẫn trứng 0,2- 0,4 mm, được chia làm hai đoạn là ống dẫn trứng phía buồng trứng, ống dẫn trứng phía sừng tử cung.
Cấu tạo ống dẫn trứng (vòi Fallop) gồm có phễu, phần rộng và phần eo. Phễu mở ra để tiếp nhận noãn và có những sợi lông nhung để gia tăng diện tích tiếp xúc với buồng trứng khi xuất noãn. Phễu tiếp nối với phần rộng. Phần rộng chiếm khoảng 1/2 chiều dài của ống dẫn trứng, đường kính tương đối lớn và mặt trong có nhiều nếp gấp với tế bào biểu mô có lông nhỏ. Phần eo nối tiếp sừng tử cung, nó có thành dày hơn phần rộng và ít nếp gấp hơn.
Vai trò cơ bản của ống dẫn trứng là vận chuyển noãn và tinh trùng đến nơi thụ tinh trong ống dẫn trứng (1/3 phía trên ống dẫn trứng), tiết các chất để nuôi dưỡng noãn, duy trì sự sống và gia tăng khả năng thụ tinh của tinh trùng, tiết các chất nuôi dưỡng phôi trong vài ngày trước khi phôi đi vào tử cung. Nơi tiếp giáp giữa phần eo và tử cung có vai trò điều khiển sự di chuyển của tinh trùng đến phần rộng của ống dẫn trứng hoặc di chuyển của phôi vào tử cung. ở lợn, sự co thắt của nơi tiếp giáp eo - tử cung tạo thành cái cản đối với tinh trùng để không có quá nhiều tinh trùng đi đến phần rộng, nhờ đó tránh được hiện tượng nhiều tinh trùng xâm nhập noãn.
2.1.2.3. Tử cung (Uterus)
Tử cung của lợn cái gồm hai sừng, một thân và một cổ tử cung. Tử cung là nơi làm tổ của hợp tử, ở đây hợp tử phát triển được là nhờ chất dinh dưỡng từ cơ thể mẹ cung cấp thông qua lớp nội mạc tử cung. Giai đoạn đầu hợp tử sống được nhờ vào noãn hoàng, một phần dựa vào sữa mẹ thông qua cơ chế thẩm thấu. Sau này giữa mẹ và thai hình thành hệ thống nhau thai. Niêm mạc tử cung và dịch tử cung giữ vai trò quan trọng trong quá trình vận chuyển tinh trùng và trứng, tham gia điều hoà chức năng thể vàng, đảm nhận sự làm tổ, mang thai và đẻ.
Tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên bàng quang và niệu đạo trong xoang chậu, 2 sừng tử cung ở phần trước xoang chậu. Tử cung được giữ tại chỗ nhờ sự bám của âm đạo vào cổ tử cung và được giữ bởi các dây chằng.
Tử cung lợn thuộc loại tử cung sừng kép, gồm 2 sừng thông với một thân và cổ tử cung:
- Sừng tử cung dài 0,5 - 1m, hình ruột non, thông với ống dẫn trứng.
- Thân tử cung dài 3 - 5cm.
- Cổ tử cung lợn dài 10 - 18cm, có thành dày, hình trụ, có các cột thịt xếp theo kiểu cài răng lược, thông với âm đạo.
Vách tử cung gồm 3 lớp từ ngoài vào trong: lớp tương mạc, lớp cơ trơn, lớp nội mạc.
Tử cung chia thành 3 phần: Cổ tử cung, thân tử cung và sừng tử cung.
2.1.2.4. Âm đạo (Vagina)
Âm đạo là một ống tròn chứa cơ quan sinh dục đực khi giao phối, đồng thời là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ và là ống thải các chất dịch từ tử cung.
Âm đạo nối sau tử cung, trước âm hộ, đầu trước giáp cổ tử cung, đầu sau thông ra tiền đình, giữa âm đạo và tiền đình có nếp gấp niêm mạc gọi là màng trinh.
Âm đạo có cấu tạo gồm 3 lớp:
- Lớp liên kết ở ngoài.
- Lớp cơ trơn có cơ dọc bên ngoài, cơ vòng bên trong. Các lớp cơ âm đạo liên kết với các lớp cơ ở cổ tử cung.
- Lớp niêm mạc: theo Đặng Đình Tín (1986)[27], âm đạo lợn dài 10 - 12cm.
2.2. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn cái.
2.2.1. Sự thành thục về tính
Một cơ thể thành thục về tính khi bộ máy sinh dục của cơ thể đã phát triển cơ bản hoàn thiện. Dưới tác dụng của thần kinh, nội tiết, con vật xuất hiện các phản xạ về sinh dục, khi đó trên buồng trứng có noãn chín, có trứng rụng và trứng có khả năng thụ thai, tử cung cũng sẵn sàng cho thai làm tổ; biểu hiện ở bên ngoài của con vật là lông mượt, tai thính, thường xuyên chạy nhảy và nô đùa với con khác
Tuy nhiên, thành thục về tính sớm hay muộn phụ thuộc vào giống, tính biệt và các điều kiện ngoại cảnh cũng như chăm sóc nuôi dưỡng.
+ Giống
Gia súc nhỏ thường xuất hiện sự thành thục về tính sớm hơn gia súc lớn. Những giống thuần hoá sớm thì tính thành thục sớm hơn những giống thuần hoá muộn. Động vật nuôi thì thành thục sớm hơn thú rừng.
Theo một số nghiên cứu, tuổi thành thục về tính của lợn cái ngoại và lợn cái lai muộn hơn lợn cái nội thuần chủng (ỉ, Móng Cái, Mường Khương,...). Các giống lợn nội này thường có tuổi thành thục vào 4 - 5 tháng tuổi (121-158 ngày tuổi). Lợn ngoại là 6 - 8 tháng tuổi, lợn lai F1 (ngoại x nội) thường động dục lần đầu ở 6 tháng tuổi.
+ Điều kiện nuôi dưỡng, quản lý
Gia súc sống trong điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, quản lý tốt, chế độ sử dụng đúng, sức khoẻ của gia súc được đảm bảo thì tính thành thục của gia súc xuất hiện sớm và ngược lại.
+ Điều kiện ngoại cảnh
Khí hậu và nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới tuổi thành thục về tính của gia súc. Những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thường thành thục về tính sớm.
Trong điều kiện chăn thả chung giữa gia súc đực và gia súc cái cũng ảnh hưởng tới tính thành thục sớm của gia súc cái. Theo Paul Hughes và Tilton (1996)[35], nếu cho lợn cái hậu bị tiếp xúc với đực 2 lần/ ngày, với thời gian 15 - 20 phút thì 83% lợn cái (ngoài 90kg) động dục lúc 165 ngày tuổi.
Lợn cái hậu bị nếu nuôi nhốt liên tục sẽ có tuổi động dục lần đầu dài hơn lợn nuôi chăn thả. Vì lợn nuôi có thời gian chăn thả sẽ tăng cường trao đổi chất, tổng hợp được sinh tố và có dịp tiếp xúc với lợn đực, nên có tuổi động dục lần đầu sớm hơn.
+ Tuổi thành thục về tính của gia súc
Thời gian xuất hiện tính thành thục với các loài, giống gia súc khác nhau là khác nhau. Sự thành thục về tính thường biểu hiện sớm hơn sự trưởng thành về thể vóc. Do đó để đảm bảo sự sinh trưởng, phát dục cơ thể mẹ tốt, đảm bảo phẩm chất giống ở thế hệ sau nên cho gia súc giao phối và sinh sản sau khi đã hoàn toàn thành thục về tính, không quá muộn sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý sinh dục bình thường của gia súc cái.
2.2.2. Chu kỳ sinh dục
* Khái niệm:
Chu kỳ sinh dục được bắt đầu từ khi gia súc đã thành thục về tính, tiếp tục xuất hiện và chấm dứt hoàn toàn khi cơ thể đã già yếu.
Từ khi thành thục về tính, những biểu hiện tính dục của lợn được diễn ra liên tục và có tính chu kỳ. Các noãn bào trên buồng trứng phát triển, lớn dần, chín và nổi cộm trên bề mặt buồng trứng gọi là nang Graaf. Khi nang Graaf vỡ, trứng rụng gọi là sự rụng trứng. Mỗi lần trứng rụng con cái có những biểu hiện ra bên ngoài gọi là động dục. Do trứng rụng có tính chu kỳ nên động dục cũng theo chu kỳ (Khuất Văn Dũng, 2005)[6].
Chu kỳ tính ở những loài khác nhau là khác nhau và ở giai đoạn đầu mới thành thục về tính thì chu kỳ chưa ổn định mà phải 2 - 3 chu kỳ tiếp theo mới ổn định. Một chu kỳ tính của lợn cái dao động trong khoảng từ 18 - 22 ngày, trung bình là 21 ngày và được chia thành 4 giai đoạn: giai đoạn trước động dục, giai đoạn động dục, giai đoạn sau động dục, giai đoạn nghỉ ngơi.
*Các giai đoạn của chu kỳ sinh dục
+ Giai đoạn trước động dục(Preoestrus)
Là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ tính, kéo dài 1 - 2 ngày, nó xuất hiện đầy đủ các hoạt động về sinh lý, tính thành thục. Đây là thời gian chuẩn bị đầy đủ cho đường sinh dục của lợn cái đón nhận tinh trùng, cũng như đảm bảo các điều kiện cho trứng và tinh trùng gặp nhau để thụ thai.
Trong giai đoạn này các noãn bao phát triển mạnh, thành thục và nổi rõ trên bề mặt buồng trứng, kích thước noãn bao thay đổi rất nhanh, đầu giai đoạn này noãn bao có đường kính là 4mm, cuối giai đoạn noãn bao có đường kính 10 - 12mm. Các tế bào vách ống dẫn trứng tăng cường sinh trưởng, số lượng lông nhung tăng, đường sinh dục bắt đầu sung huyết nhanh, hệ thống tuyến, âm đạo tăng tiết dịch nhày, niêm dịch ở cổ tử cung tiết ra làm cổ tử cung hé mở. Các noãn bao chín, tế bào trứng tách khỏi noãn bao. Tử cung co bóp mạnh, cổ tử cung mở ra, niêm dịch chảy nhiều. Con vật bắt đầu xuất hiện tính dục, âm hộ sưng lên, hơi mở có màu hồng tươi, cuối giai đoạn có dịch nhờn chảy ra. Con vật bắt đầu xuất hiện tính dục. Tất cả những biến đổi đó tạo điều kiện thuận lợi cho tinh trùng vào đường sinh dục cái để thụ tinh với tế bào trứng.
+ Giai đoạn động dục(Oestrus)
Khi gia súc đã có biểu hiện tính dục thì đây là giai đoạn tiếp theo và thường thời gian kéo dài phụ thuộc vào điều kiện tuổi,loài gia súc, giống, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, quản lý, chế độ sử dụng và tình hình sức khoẻ nói chung. Giai đoạn này các biến đổi của cơ quan sinh dục rõ nét nhất, niêm mạc âm hộ sung huyết, phù thũng rõ rệt và chuyển sang màu mận chín, niêm dịch từ âm đạo chảy ra nhiều, keo đặc hơn, nhiệt độ âm đạo tăng từ 0,3 - 0,7oC, pH hạ hơn trước. Giai đoạn này chia lam hai pha: Trước chịu đực: con vật biểu hiện tính hưng phấn cao độ, đứng ngồi không yên, phá chuồng, ăn uống giảm, hoặc bỏ ăn, kêu rống trong trạng thái ngẩn ngơ, thích nhảy lên lưng con khác hoặc để con khác nhảy lên lưng mình. Chịu đực: ở giai đoạn này, lợn thích gần đực, khi gần đực thì luôn đứng ở tư thế sẵn sàng chịu đực, đuôi cong lên và lệch sang một bên, 2 chân sau dạng ra và hơi khụy xuống sẵn sàng chịu đực.
Nếu ở giai đoạn này, tế bào trứng gặp tinh trùng và xảy ra quá trình thụ tinh tạo thành hợp tử thì chu kỳ sinh dục ngừng lại, gia súc cái ở vào giai đoạn có thai, đến khi đẻ xong một thời gian nhất định tuỳ loài gia súc thì chu kỳ sinh dục mới lại bắt đầu. Nếu không xảy ra quá trình trên thì lợn cái sẽ chuyển sang giai đoạn tiếp theo của chu kỳ tính.
+ Giai đoạn sau động dục (Postoestrus)
Trong giai đoạn này toàn bộ cơ thể nói chung và cơ quan sinh dục nói riêng dần trở lại trạng thái sinh lý bình thường. Trên buồng trứng, thể hồng chuyển thành thể vàng, đường kính lên tới 7 - 8 mm và bắt đầu tiết Progesterone. Progesterone tác động lên hệ thần kinh trung ương và tuyến yên, lên trung khu sinh dục, làm thay đổi tính hưng phấn thần kinh, con vật dần chuyển sang trạng thái yên tĩnh, chịu khó ăn uống hơn. Niêm mạc trong đường sinh dục như âm đạo, tử cung, ống dẫn trứng cũng ngừng tăng sinh, các tuyến ở tử cung, tử cung cũng không tiết niêm dịch, các tế bào biểu mô dần dần bị sừng hoá, các biểu mô ở tầng nhầy bong ra, biểu mô hoá sừng trong âm đạo long dần ra để trở lại trạng thái bình thường, cổ tử cung đóng lại.
* Giai đoạn nghỉ ngơi(Di,an-Oestrus)
Giai đoạn này kéo dài nhất, bắt đầu từ ngày thứ tư sau khi rụng trứng mà không được thụ tinh và kết thúc khi thể vàng tiêu huỷ. Đây là giai đoạn con vật hoàn toàn yên tĩnh, cơ quan sinh dục hoạt động trở lại trạng thái sinh lý bình thường, trong buồng trứng thể vàng bắt đầu teo đi, noãn bao bắt đầu phát dục nhưng chưa nổi rõ trên bề mặt buồng trứng. Toàn bộ cơ quan sinh dục dần xuất hiện những biến đổi chuẩn bị cho chu kỳ sinh dục tiếp theo.
Trong chăn nuôi lợn nái sinh sản, nắm được chu kỳ tính và các giai đoạn của quá trình động dục sẽ giúp cho người chăn nuôi có chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc cho phù hợp và phối giống kịp thời, đúng thời điểm, từ đó góp phần nâng cao năng suất sinh sản của lợn nái.
2.2.3 Quá trình thụ tinh (fertilization)
Khi gia súc đã thành thục về tính thì những biểu hiện về sinh dục của con đực và con cái ngày càng mạnh mẽ. Quá trình thụ tinh xảy ra khi tế bào trứng gặp tinh trùng, tạo ra một sự kết hợp phức tạp giữa hai loại tế bào sinh dục đực và tế bào sinh dục cái. Có hai hình thức thụ tinh là thụ tinh trực tiếp và thụ tinh nhân tạo. Thụ tinh trực tiếp là quá trình giao phối giữa gia súc đực và gia súc cái, tinh dịch của con đực đi vào đường sinh dục con cái để tế bào trứng và tinh trùng kết hợp với nhau ở 1/3 phía trên ống dẫn trứng tạo ra một tế bào mới là hợp tử. Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002)[5] thụ tinh trực tiếp là quá trình giao phối giữa gia súc đực và gia súc cái, tinh dịch của con đực đi vào đường sinh dục con cái. Thụ tinh nhân tạo là trường hợp dùng tinh dịch của con đực đã pha loãng bơm vào đường sinh dục con cái để tinh trùng kết hợp với trứng tạo thành hợp tử. Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002)[5] trong chăn nuôi, phương pháp thụ tinh nhân tạo đã cải tạo được giống gia súc, giảm số đầu giống vật nuôi, nâng cao hiệu suất sử dụng đực giống, có thể thương mại hoá tinh dịch, bảo tồn quỹ gen, phòng các bệnh truyền lây qua tiếp xúc. Đây là biện pháp kỹ thuật hữu hiệu để thúc đẩy nghành chăn nuôi phát triển, nó có những lợi ích kinh tế kỹ thuật to lớn, tuy nhiên nó là con dao hai lưỡi nếu công tác thú y kém.
2.2.4. Sinh lý quá trình đẻ ở gia súc cái
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002)[5], gia súc cái mang thai trong một thời gian nhất định tùy từng loài gia súc, khi bào thai phát triển đầy đủ, dưới tác động của hệ thống thần kinh - thể dịch, con mẹ sẽ xuất hiện những cơn rặn để đẩy bào thai, nhau thai và các sản phẩm trung gian ra ngoài, quá trình này gọi là quá trình sinh đẻ.
Khi gần đẻ con cái sẽ có các triệu chứng biểu hiện: trước khi đẻ 1 - 2 tuần, nút niêm dịch ở cổ tử cung, đường sinh dục lỏng, sánh dính và chảy ra ngoài. Trước khi đẻ 1 - 2 ngày, cơ quan sinh dục bên ngoài bắt đầu có những thay đổi: âm môn phù to, nhão ra và sung huyết nhẹ, đầu núm vú to, bầu vú căng to, sữa bắt đầu tiết.
ở lợn, sữa đầu là một trong những chỉ tiêu quan trọng để xác định gia súc đẻ:
+ Trước khi đẻ 3 ngày, hàng vú giữa vắt ra nước trong.
+ Trước khi đẻ 1 ngày, hàng vú giữa vắt được sữa đầu.
+ Trước khi đẻ 1/2 ngày, hàng vú trước vắt được sữa đầu.
+ Trước khi đẻ 2 - 3h, hàng vú sau vắt được sữa đầu.
Cơ chế đẻ: đẻ là một quá trình sinh lý phức tạp chịu sự điều hòa của cơ chế thần kinh - thể dịch, với sự tham gia tác động cơ giới của thai đã thành thục.
- Về mặt cơ giới: thai trong tử cung cơ thể mẹ sinh trưởng và phát triển một cách tối đa. ở thời kỳ cuối, thai to tiếp giáp với tử cung, thai chèn ép xoang bụng, đè mạnh vào cơ quan sinh dục, ép chặt mạch máu và đám rối thần kinh hông - khum, làm kích thích truyền về thần kinh trung ương, điều tiết hormone gây đẻ. Mặt khác, thai chèn ép, co đạp vào tử cung làm kích thích tử cung co bóp, sự co bóp tăng theo thời gian, kể cả cường độ và tần số, dẫn đến tử cung mở và thai thoát ra ngoài.
- Nội tiết: trong thời gian mang thai, thể vàng và nhau thai cùng tiết ra Progesterone, hàm lượng Progesterone trong máu tăng tạo nên trạng thái an thai. Đến kỳ chửa cuối, thể vàng teo dần và mất hẳn nên lượng Progesterone giảm (chỉ còn 0,22%). Đồng thời tuyến yên tiết Oxytocin, nhau thai tăng tiết Relaxin làm giãn dây chằng xương chậu và mở cổ tử cung, tăng tiết Oestrogen làm tăng độ mẫn cảm của cổ tử cung với Oxytocin trước khi đẻ.
- Biến đổi quan hệ giữa cơ thể mẹ và bào thai: khi thai đã thành thục thì quan hệ sinh lý giữa mẹ và nhau thai không còn cần thiết nữa, lúc này thai đã trở thành như một ngoại vật trong tử cung nên được đưa ra ngoài bằng động tác đẻ.
Thời gian đẻ kéo dài hay ngắn tùy từng loài gia súc, ở lợn thường từ 2 - 6h, nó được tính từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn đến khi bào thai cuối cùng ra ngoài.
2.3. Bệnh viêm đường sinh dục ở lợn nái
2.3.1. Viêm âm môn, tiền đình và âm đạo
Nguyên nhân chính gây viêm âm môn, tiền đình, âm đạo theo tác giả Athur , (1964)[30] là do bào thai hay những sai sót kỹ thuật đỡ đẻ. Khi lợn đẻ khó, phải can thiệp bằng tay hay dụng cụ không phù hợp, không đảm bảo vô trùng, gây tổn thương và nhiễm trùng niêm mạc âm môn, tiền đình, âm đạo hoặc sử dụng các thuốc điều trị bệnh ở tử cung, âm đạo không đúng, kích thích quá mạnh làm niêm mạc âm đạo, âm môn, tiền đình bị viêm. Ngoài ra bệnh có thể do bị sẩy thai, thai thối rữa trong tử cung, âm đạo lộn ra ngoài hoặc do sát nhau.
Biểu hiện của bệnh là lúc đầu niêm mạc bị viêm xung huyết nhẹ, có nhiều dịch thẩm xuất. Kiểm tra âm đạo bằng mỏ vịt, con vật không có phản xạ đau, không có triệu chứng toàn thân. Con vật rằn vặt, đi đái rắt. Từ âm đạo thải ra nhiều dịch viêm lẫn tổ chức hoại tử mầu trắng.
Hậu quả để lại là niêm mạc âm đạo sẹo hoá, nhăn nhúm, lòng âm đạo bị hẹp ảnh hưởng đến quá trình phối giống và sinh sản lần sau.
2.3.2. Viêm tử cung
* Nguyên nhân
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002)[5], viêm tử cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình viêm phá huỷ các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái.
Theo các tác giả Đào Trọng Đạt và cộng sự (2000)[7], bệnh viêm tử cung ở lợn nái thường do các nguyên nhân sau:
- Công tác phối giống không đúng kỹ thuật, nhất là phối giống bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được vô trùng khi phối giống có thể đưa vi khuẩn từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm.
- Lợn nái phối giống trực tiếp, lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo truyền sang cho lợn khoẻ.
- Lợn nái đẻ khó phải can thiệp bằng thủ thuật gây tổn thương niêm mạc tử cung, vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm trùng, viêm tử cung kế phát.
- Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để cũng dẫn đến viêm tử cung.
- Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như: sẩy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao… gây viêm.
- Do vệ sinh chuồng đẻ, vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ không sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm nhập vào gây viêm.
Ngoài các nguyên nhân kể trên viêm tử cung còn có thể là biến chứng nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian động đực (vì lúc đó cổ tử cung mở), vi khuẩn xâm nhập vào tử cung theo đường máu và viêm tử cung là một trong những triệu chứng lâm sàng chung (Theo Lê Văn Năm và cộng sự, 1997)[12].
Theo Madec và Neva (1995)[32], bệnh viêm tử cung và các bệnh ở đường tiết niệu có mối quan hệ với nhau, vi khuẩn trong nước tiểu cũng phát triển trong âm đạo và việc gây nhiễm ngược lên tử cung là rất dễ xảy ra.
Nhiễm khuẩn tử cung qua đường máu là do vi khuẩn sinh trưởng ở một cơ quan nào đó có kèm theo bại huyết, do vậy có trường hợp lợn hậu bị chưa phối nhưng đã bị viêm tử cung.
* Hậu quả
Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh dục của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát triển của lợn con.
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002)[5] và Trần Thị Dân (2004)[3] khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả chính sau:
- Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sẩy thai.
Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của Progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám chặt vào tử cung.
Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết nhiều Prostaglandin, PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng bằng cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái hoá các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị phá huỷ, không tiết Progesterone nữa, do đó hàm lượng Progesterone trong máu sẽ giảm làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng nên gia súc cái có chửa dễ bị sẩy thai.
Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng Progesterone giảm nên khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó bào thai nhận được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát triển kém hoặc chết lưu.
- Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy.
Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt của vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích thích tố tạo sữa Prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng sữa giảm, thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi cọc.
- Lợn nái bị viêm tử cung mạn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại.
Nếu tử cung bị viêm mạn tính thì sự phân tiết PGF2α giảm, do đó thể vàng vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục tiết Progesterone.
Progesterone ức chế thuỳ trước tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự phát triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại được và không thải trứng được.
Th._.eo F.Madec và C.Neva (1995)[32], ảnh hưởng rõ nhất trên lâm sàng mà người chăn nuôi và bác sỹ thú y nhận thấy ở lợn viêm tử cung lúc sinh đẻ là: chảy mủ ở âm hộ, sốt, bỏ ăn. Mặt khác, các quá trình bệnh lý xảy ra lúc sinh đẻ ảnh hưởng rất lớn tới năng suất sinh sản của lợn nái sau này. Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử cung là một trong các nguyên nhân dẫn đến hội chứng MMA, từ đó làm cho tỷ lệ lợn con nuôi sống thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn ảnh hưởng tới hoạt động của buồng trứng.
* Các thể viêm tử cung
Theo Đặng Đình Tín (1986)[27], bệnh viêm tử cung được chia làm 3 thể: viêm nội mạc tử cung, viêm cơ tử cung, viêm tương mạc tử cung.
- Viêm nội mạc tử cung (Endometritis)
Trong quá trình gia súc đẻ, nhất là những trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay hoặc dụng cụ, niêm mạc tử cung bị sây sát, tổn thương, vi khuẩn xâm nhập và phát triển gây viêm nội mạc tử cung.Theo Nguyễn Văn Thanh (1999)[18] đây là một trong các nguyên nhân làm giảm khả năng sinh sản của gia súc cái, nó cũng là thể bệnh phổ biến và chiếm tỷ lệ cao trong các bệnh của viêm tử cung. Khi niêm mạc tử cung bị tổn thương các vi khuẩn Streptococcus, Staphylococcus, E.coli, Salmonella, C.Pyogenes, Bruccella, roi trùng Trichomonas Foetus… xâm nhập và tác động lên lớp niêm mạc gây viêm.
Theo Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2000)[13], bệnh viêm nội mạc tử cung có thể chia 2 loại:
+ Viêm nội mạc tử cung thể cata cấp tính có mủ, chỉ gây tổn thương ở niêm mạc tử cung.
+ Viêm nội mạc tử cung thể màng giả, tổ chức niêm mạc đã bị hoại tử, tổn thương lan sâu xuống dưới tầng cơ của tử cung và chuyển thành viêm hoại tử.
- Viêm cơ tử cung (Myometritis Puerperalis)
Viêm cơ tử cung thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung thể màng giả. Theo Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2000)[13]. Niêm mạc tử cung bị thấm dịch thẩm xuất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu vào tổ chức làm niêm mạc bị phân giải, thối rữa gây tổn thương cho mạch quản và lâm ba quản, từ đó làm lớp cơ và một ít lớp tương mạc của tử cung bị hoại tử. Nếu bệnh nặng, can thiệp chậm có thể dẫn tới nhiễm trùng toàn thân, huyết nhiễm trùng hoặc huyết nhiễm mủ. Có khi do lớp cơ và lớp tương mạc của tử cung bị phân giải mà tử cung bị thủng hoặc tử cung bị hoại tử từng đám to.
Lợn nái bị bệnh này thường biểu hiện triệu chứng toàn thân rõ: thân nhiệt tăng cao, mệt mỏi, ủ rũ, ăn uống giảm, lượng sữa giảm hoặc mất hẳn. Mép âm đạo tím thẫm, niêm mạc âm đạo khô, nóng màu đỏ thẫm. Gia súc biểu hiện trạng thái đau đớn, rặn liên tục. Từ cơ quan sinh dục luôn thải ra ngoài hỗn dịch màu đỏ nâu, lợn cợn mủ và những mảnh tổ chức thối rữa nên có mùi tanh, thối. Con vật thường kế phát viêm vú, có khi viêm phúc mạc, ảnh hưởng đến quá trình thụ thai và sinh đẻ lần sau. Có trường hợp điều trị khỏi nhưng gia súc vô sinh.
- Viêm tương mạc tử cung (Perimetritis Puerperali)
Viêm tương mạc tử cung thường kế phát từ viêm cơ tử cung (Đặng Đình Tín (1986))[27],. Thể viêm này thường cấp tính cục bộ, toàn thân xuất hiện những triệu chứng điển hình và nặng. Lúc đầu lớp tương mạc tử cung có màu hồng, sau chuyển sang đỏ sẫm, sần sùi mất tính trơn bóng. Sau đó các tế bào bị hoại tử và bong ra, dịch thẩm xuất tăng tiết. Nếu bị viêm nặng, nhất là viêm có mủ, lớp tương mạc có thể dính với các tổ chức xung quanh gây nên tình trạng viêm mô tử cung (thể Parametritis), thành tử cung dày lên, có thể kế phát viêm phúc mạc.
Lợn nái biểu hiện triệu chứng toàn thân: Nhiệt độ tăng cao, mạch nhanh, con vật ủ rũ, mệt mỏi, uể oải, đại tiểu tiện khó khăn, ăn uống kém hoặc bỏ ăn. Lượng sữa rất ít hoặc mất hẳn, thường kế phát viêm vú. Con vật luôn biểu hiện trạng thái đau đớn, khó chịu, lưng và đuôi cong, rặn liên tục. Từ âm hộ thải ra ngoài rất nhiều hỗn dịch lẫn mủ và tổ chức hoại tử, có màu nâu và mùi thối khắm. Khi kích thích vào thành bụng thấy con vật có phản xạ đau rõ hơn, rặn nhanh hơn, từ âm hộ dịch chảy ra nhiều hơn.Trường hợp một số vùng của tương mạc đã dính với các bộ phận xung quanh thì có thể phát hiện được trạng thái thay đổi về vị trí và hình dáng của tử cung, có khi không tìm thấy một hoặc cả hai buồng trứng. Nếu điều trị không kịp thời sẽ chuyển thành viêm mãn tính, tương mạc đã dính với các bộ phận xung quanh thì quá trình thụ tinh và sinh đẻ lần sau sẽ gặp nhiều khó khăn. Thể viêm này thường kế phát bệnh viêm phúc mạc, bại huyết, huyết nhiễm mủ và dẫn đến tình trạng mất khả năng sinh sản.
Bảng 2.1. Phân biệt các thể Viêm tử cung
Các thể viêm
Triệu chứng
Viêm nội mạc
tử cung
Viêm cơ
tử cung
Viêm tương mạc
tử cung
Sốt
Sốt nhẹ
Sốt cao
Sốt rất cao
Dịch viêm
Màu
Trắng xám, trắng sữa
Hồng, nâu đỏ
Nâu rỉ sắt
Mùi
Tanh
Tanh thối
Thối khắm
Phản ứng đau
Đau nhẹ
Đau rõ
Đau rất rõ
Phản ứng co cơ tử cung
Giảm
Rất yếu
Mất hẳn
Phản xạ ăn
Bỏ ăn một phần hoặc hoàn toàn
Bỏ ăn hoàn toàn
Bỏ ăn hoàn toàn
2.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến bệnh viêm đường sinh dục ở lợn nái
2.4.1. Mùa vụ
Khí hậu Việt Nam bao gồm bốn mùa với các đặc tính thời tiết khác nhau là Xuân – Hạ - Thu - Đông song thể hiện sự phân hoá rõ hơn là Xuân + Hạ và Thu+ Đông.
Trong mùa Xuân- Hạ thời tiết mưa nhiều, nhiệt độ cao, độ ẩm trong không khí cao là điều kiện thuận lợi để các vi sinh vật gây bệnh phát triển. Nhiệt độ cao làm cho khả năng thu nhận thức ăn giảm, sức khỏe, sức đề kháng của con vật cũng giảm sút nên tỷ lệ mắc bệnh của lợn nái rất cao, đặc biệt là các bệnh ở đường sinh dục.
Ngược lại, thời tiết trong giai đoạn Thu - Đông thì nhiệt độ không khí mát mẻ làm sức đề kháng con vật được nâng cao, mặt khác có những thời điểm nhiệt độ hạ xuống rất thấp gây sự bất lợi cho các vi khuẩn gây bệnh phát triển. Chính vì vậy tỷ lệ bệnh viêm đường sinh dục trong hai thời điểm khác nhau có sự khác nhau rõ rệt.
2.4.2. Vệ sinh thú y
Công tác vệ sinh thú y đối với lợn nái là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến bệnh viêm đường sinh dục. Vệ sinh thú y bao gồm vệ sinh môi trường và vệ sinh trong quá trình sinh sản.Vệ sinh thú y tốt được đánh giá bởi các yếu tố : Vệ sinh môi trường bao gồm : Rửa máng ăn hàng ngày, hót phân liên tục, rửa chuồng hai lần một ngày, phun thuốc sát trùng định kỳ một tuần một lần hay lợn cùng ra, cùng vào trong một dãy chuồng... Vệ sinh trong quá trình sinh sản bao gồm : Vệ sinh con đực, con cái trong quá trình thụ tinh, vệ sinh khai thác tinh, nước pha và dụng cụ pha tinh, dụng cụ phối, bộ phận sinh dục con đực, con cái, vệ sinh trước và sau đẻ ...Tất cả những yếu tố trên ảnh hưởng không nhỏ đến tỷ lệ mắc bệnh đường sinh dục của lợn nái.
2.4.3. Lứa đẻ
Bệnh viêm đường sinh dục của lợn nái bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các lứa đẻ khác nhau. Lợn cái ở lứa đẻ thứ nhất, thứ 2 thường có tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục cao hơn các lứa sau do lợn chưa thuần, xương chậu chưa thích nghi, hoocmon sinh sản chưa hoàn thiện nên phải can thiệp nhiều dẫn đến xây sát đường sinh dục, mặt khác đề kháng chưa tốt nên dễ nhiễm khuẩn do can thiệp...Từ lứa thứ 3 đến lứa thứ 5 lợn nái có sức đề kháng tốt hơn, quá trình sinh đẻ dễ dàng hơn, quá trình phối giống dễ dàng hơn, lợn đã thích nghi nên tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục ít hơn. Từ lứa thứ 6 trở đi lợn nái có sức đề kháng giảm, sức rặn yếu, sự co bóp của tử cung cũng giảm thời gian đóng kín cổ tử cung cũng chậm hơn, do đó tạo điều kiện thuân lợi cho vi khuẩn xâm nhập qua cổ tử cung gây viêm. Mặt khác do đã khai thác nhiều, sức đề kháng kém, các hoạt động sinh dục giảm vì vậy việc can thiệp vào quá trình sinh sản lại cần thiết dẫn đến bệnh viêm đường sinh dục lại tăng lên.
2.4.4. Phương pháp phối giống
Phương pháp phối giống cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc bệnh đường sinh dục, có 2 phương pháp phối giống là phương pháp nhẩy trực tiếp và thụ tinh nhân tạo.
Theo Lee và cộng sự (1995)[34] , tỷ lệ thụ thai của lợn thụ tinh nhân tạo và nhảy trực tiếp là 92,3 và 94,4% nhưng thực tế cho thấy phối giống nhảy trực tiếp có tỷ lệ mắc bệnh đường sinh dục thấp hơn phương pháp thụ tinh nhân tạo. Sở dĩ là do thụ tinh nhảy trực tiếp là phương pháp tự nhiên tác động cơ học rất ít đến bộ phận sinh dục con nái còn thụ tinh nhân tạo dễ gây sây sát do đưa dụng cụ phối vào con nái, con nái di chuyển trong khi phối gây sây sát niêm mạc đường sinh dục...
2.4.5. Quá trình đẻ
Lợn đẻ bình thường sẽ làm khả năng nhiễm bệnh đường sinh dục thấp hơn can thiệp, tuy nhiên thời gian đẻ kéo dài và có một số ca đẻ chưa ra hết thai dẫn tới chết mẹ. Từ đó các trường hợp lợn đẻ lâu các công nhân đều dùng tay móc thai nhằm rút ngắn thời gian sổ thai và kiểm tra hết thai hay chưa. Theo các tác giả Đặng Đình Tín(1986)[27], Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2000) [13] cho rằng phương pháp đỡ đẻ thô bạo, không đúng kỹ thuật là nguyên nhân chính gây bệnh viêm tử cung. Đặc biệt các trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay và dụng cụ.
2.5. Tình hình nghiên cứu bệnh viêm đường sinh dục ở lợn nái trên thế giới và Việt Nam
2.5.1. Trên thế giới
Hiện nay, ngành chăn nuôi lợn trên thế giới đang rất phát triển, các nước không ngừng đầu tư cải tạo chất lượng đàn giống và áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi. Tuy nhiên vấn đề hạn chế bệnh sinh sản là một vấn đề tất yếu cần phải giải quyết, đặc biệt là bệnh viêm đường sinh dục. Đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu về bệnh viêm đường sinh dục và đã đưa ra các kết luận giúp cho người chăn nuôi lợn nái sinh sản hạn chế được bệnh này. Tuy vậy, tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục trên đàn lợn nái sinh sản vẫn rất cao.
Theo Sobko và GaDenKo (1987)[29], nguyên nhân của bệnh viêm đường sinh dục là do đường sinh dục bị tổn thương, do hiện tượng sát nhau. Bệnh phát triển là do nuôi dưỡng không đủ chất, do đưa vào đường sinh dục những dụng cụ, những chất kích thích đẻ, chúng phá hủy hoặc làm kết tủa chất nhày ở bộ máy sinh dục.
Theo Madec và Neva (1995)[32], hiện tượng viêm đường sinh dục âm ỉ kéo dài đặc biệt là viêm tử cung từ lứa đẻ trước đến lần động dục tiếp theo có thể giải thích nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ, từ đó làm giảm năng suất sinh sản. Ông cũng cho biết, khi tiến hành nghiên cứu trên đàn lợn nái ở xứ Brơ-ta-nhơ (Pháp) năm 1991 thì phát hiện thấy 15% số lợn nái bị viêm tử cung.
Theo trang web www.Science direct.com ở Anh người ta đo nhiệt độ lợn nái sau đẻ và đưa ra biện pháp phòng trị cho bất cứ lợn nái nào có nhiệt độ lớn hơn 39,5oC.
ở Cuba, các bác sỹ thú y sử dụng dung dịch Lugol 0,5% điều trị viêm tử cung đạt kết quả cao và dùng thuốc Neometrina đặt trong tử cung đạt kết quả điều trị cao.
Theo Popkov (Liên Xô) đã sử dụng phương pháp tiêm các kháng sinh sau vào màng treo tử cung của lợn nái bị viêm tử cung đạt kết quả điều trị cao:
- Streptomycin 0,25g
- Penicilline 500.000 UI
- Dung dịch MgSO4 1% 40 ml + VTMC.
2.5.2. Tại Việt Nam
Ngành chăn nuôi lợn ở Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ, số lượng đầu lợn tăng lên không ngừng, song song với nó tình hình dịch bệnh cũng tăng, đặc biệt là bệnh sinh sản. Trong khi đó, người chăn nuôi chưa được trang bị đầy đủ các kiến thức cần thiết nên năng suất chăn nuôi chưa cao. Mặt khác, các công trình nghiên cứu về bệnh sinh sản, đặc biệt là bệnh viêm đường sinh dục còn rất ít, do đó tỷ lệ lợn nái mắc bệnh đang ngày càng gia tăng.
Theo Nguyễn Văn Thanh (2003)[19], tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm tử cung là tương đối cao, bệnh thường tập trung ở đàn lợn nái đẻ lứa đầu hoặc đã đẻ nhiều lứa, khi thử nghiệm điều trị tác giả nhận thấy dùng PGF2α liều 25mg tiêm dưới da kết hợp với dung dịch Lugol 0,1% thụt cho kết quả điều trị cao.
Theo Lê Xuân Cương (1986)[2], lợn nái chậm sinh sản do nhiều nguyên nhân, trong đó tổn thương bệnh lý sinh dục chiếm tỷ lệ đáng kể. Đặc biệt các lợn nái đẻ khó cần áp dụng các thủ thuật ngoại khoa thì niêm mạc đường sinh dục rất dễ bị tổn thương và dẫn tới viêm.
Theo Phạm Chí Thành và cộng sự (1997)[20], sử dụng Rivanol 1%, dung dịch Lugol 0,5%, kháng sinh để điều trị viêm tử cung cho kết quả cao.
2.6. Một số vi khuẩn thường gặp ở dịch tử cung âm đạo của lợn nái
2.6.1. Salmonella
* Đặc tính hình thái và tính chất bắt màu
Salmonella là loại vi khuẩn có kích thước 0,4 - 0,6 x 1 - 3 lần không hình thành nha bào và giáp mô. Bắt màu gram âm. Đa số các loài Salmonella đều có khả năng di động mạnh do có từ 7 - 12 lông xung quanh thân. Khi nhuộm vi khuẩn bắt màu toàn thân hoặc hơi đậm ở hai đầu (Nguyễn Như Thanh và cộng sự (1997 )[17].
* Đặc tính nuôi cấy
Salmonella là vi khuẩn vừa hiếu khí vừa yếm khí, phát triển tốt ở nhiệt độ 37oC, pH = 7,2 - 7,6.
- Môi trường nước thịt: ở 37oC sau 24 giờ, vi khuẩn mọc làm đục đều môi truờng, nuôi lâu có lắng cặn ở đáy, bề mặt có màng mỏng, lắc có vẩn như mây bay, có mùi tanh của nước dãi.
- Môi trường thạch thường: ở 37oC sau 24 giờ, vi khuẩn mọc thành khuẩn lạc tròn, trong, sáng hoặc xám, nhẵn bóng, hơi lồi ở giữa, đường kính 1 - 1,5mm.
- Môi trường Brilliant green agar: khuẩn lạc dạng S màu đỏ.
* Sức đề kháng
Vi khuẩn Salmonella bị diệt ở 60oC sau 1 giờ, ở 70oC sau 20 phút; dung dịch NaOH 4%, HgCl2 1%, Formon 2% tiêu diệt sau 20 phút.
2.6.2. Escherichia coli (E.Coli)
* Đặc điểm hình thái và tính chất bắt màu
Vi khuẩn E.coli là trực khuẩn hình gậy kích thước 2 - 3 x 0,6 lần. Trong cơ thể có hình cầu trực khuẩn đứng riêng lẻ, đôi khi xếp thành chuỗi ngắn. Phần lớn các E.coli đều có lông, có khả năng di động, vi khuẩn E.coli không sinh nha bào có thể có giáp mô, bắt màu gram âm (Nguyễn Như Thanh và cộng sự 1997)[17], Nguyễn Vĩnh Phước(1974)[14].
* Đặc tính nuôi cấy
E.coli là trực khuẩn yếm khí hoặc hiếu khí tuỳ tiện, nhiệt độ thích hợp 37oC, pH = 7,2 - 7,4.
- Môi trường nước thịt: phát triển tốt, môi truờng rất đục, có cặn màu tro trắng lắng xuống đáy, đôi khi có màng màu xám nhạt trên mặt môi trường, môi trường có mùi phân thối.
- Môi trường thạch thường: sau 24 giờ hình thành những khuẩn lạc tròn, uớt không trong suốt, màu tro trắng nhạt, hơi lồi đường kính 2 - 3mm.
- Môi truờng Macconkey: khuẩn lạc dạng S màu đỏ.
- Môi truờng Brilliant green agar: khuẩn lạc dạng S có màu vàng chanh.
* Sức đề kháng
Trực khuẩn E.coli bị diệt ở 60oC trong vòng 15 - 30 phút, HgCl2 1%, Formol 2%, acid Phenic diệt vi khuẩn sau 5 phút, ngoài môi trường các chủng độc có thể tồn tại tới 4 tháng.
2.6.3. Staphylococcus
* Đặc tính hình thái và tính chất bắt màu
Staphylococcus là loại cầu khuẩn (Gr+), đường kính từ 0,7 – 1 và không sinh nha bào và thường không có vỏ, không có lông, không di động. Trong bệnh phẩm, tụ cầu thường xếp thành từng đôi, chụm lại từng đám nhỏ hình chùm nho. Trong canh khuẩn chúng cũng thường xếp lại từng đám hình chùm nho. Môi trường lỏng các vi khuẩn đứng riêng lẻ thành từng đám nhỏ hoặc từng chuỗi ngắn Nguyễn Như Thanh và cộng sự 1997)[17].
* Đặc tính nuôi cấy
Staphylococcus là loại hiếu khí tuỳ tiện, nhiệt độ thích hợp 32 – 37oC, pH thích hợp từ 7,2 - 7,6.
- Môi trường nước thịt: ở 37oC sau 24 giờ nuôi cấy, đục đều, có lắng cặn ở đáy ống, cặn có màu trắng hay màu vàng nhạt, có màng mỏng trên mặt môi trường.
- Môi trường thạch thường: sau khi cấy 24 giờ, vi khuẩn hình thành khuẩn lạc tương đối to dạng S (Smouth) mặt khuẩn lạc hơi ướt, bờ đều nhẵn, mặt lồi đường kính từ 2 - 4 mm. Tuỳ vào màu sắc khuẩn lạc mà người ta chia ra các loại sau:
+ Tụ cầu có khuẩn lạc màu vàng thẫm (S. aureus) có khả năng gây bệnh cho động vật. Màu vàng thẫm là do sự biến màu của chất Caroten. Màu vàng thẫm thấy rõ nhất trong môi trường có chứa tinh bột hoặc acid béo bay hơi (huyết thanh) (Nguyễn Như Thanh và cộng sự 1997)[17].
+ Tụ cầu trắng (S. albus) và tụ cầu vàng chanh (S. citreus) không có khả năng gây bệnh (Nguyễn Như Thanh và cộng sự 1997)[17].
- Môi trường thạch máu: S. aureus gây dung huyết mạnh do có men Haemolysin, với vòng dung huyết kép gồm phần dung huyết hoàn toàn ở trong và vòng dung huyết một phần ở phía ngoài trên thạch máu.
- Môi trường thạch Sapman: môi trường dùng để phân lập, xác định độc lực của tụ cầu. Nếu tụ cầu có khả năng lên men đường mannit sinh ra acid làm pH = 6,8 môi trường chuyển từ màu hồng sang mầu thẫm. Tụ cầu không gây bệnh, không lên men đường mannit, môi trường giữ nguyên màu hồng.
- Môi trường gelatin: vi khuẩn có men gelatilaza làm tan chảy gelatin thành hình phễu.
2.6.4. Streptococcus
* Đặc tính hình thái và tính chất bắt màu
Streptococcus là những vi khuẩn hình cầu hoặc hình bầu dục, khuẩn lạc đường kính khoảng 1mm, đôi khi có vỏ bọc. Bắt màu (Gr+), không di động. Vi khuẩn đứng thành chuỗi dài, chiều dài của mỗi chuỗi từ 2 - 12 đơn vị hoặc hơn tuỳ thuộc vào điều kiện môi trường (Nguyễn Như Thanh và cộng sự(1997)[17].
* Đặc tính nuôi cấy
Vi khuẩn thích hợp ở môi trường có nhiệt độ 37oC và pH = 7,2 - 7,6. Sống hiếu khí tuỳ tiện. Nếu môi trường có thêm máu, huyết thanh hay carborhydrat có khả năng phân giải nhanh hơn.
- Môi trường nước thịt: vi khuẩn hình thành hạt hoặc những sợi bông rồi lắng xuống đáy ống. Vì vậy sau 24 giờ nuôi cấy, môi trường trong, đáy ống có cặn.
- Môi trường thạch thường: vi khuẩn hình thành khuẩn lạc dạng S, khuẩn lạc nhỏ tròn, lồi, bóng, màu hơi xám. Khi làm tiêu bản liên cầu không xếp thành chuỗi dài mà thường hình thành chuỗi ngắn.
- Môi trường thạch máu: khuẩn lạc có đường kính khoảng 1mm, gây dung huyết. Trên môi trường này đặc điểm dung huyết khác nhau giữa các loại Streptococcus phụ thuộc loại pepton sử dụng trong môi trường cơ bản,
2.7. Thuốc kháng sinh trong phòng và điều trị bệnh sinh sản
Theo Lê Thị Ngọc Diệp, 1999)[4], Hoàng Tích Huyền và cộng sự, 2001[10]. “Kháng sinh là chất do vi nấm hoặc do vi khuẩn tạo ra, hoặc bán tổng hợp, có khi là chất tổng hợp có tác dụng điều trị đặc hiệu với liều rất thấp do ức chế một số quá trình sống của vi sinh vật”, kháng sinh được phân loại theo nguồn gốc, theo hoạt phổ kháng khuẩn, theo mức độ tác dụng, theo cấu trúc hoá học. Trong đó cách phân loại theo cấu trúc hoá học được sử dụng rộng rãi nhất vì hoạt phổ, mức độ, cơ chế tác dụng và cấu trúc hoá học gắn bó chặt chẽ với nhau. Với cơ sở này, kháng sinh được phân làm các nhóm sau:
- Nhóm β-lactamin: trong cấu trúc hoá học của nhóm này có một liên kết β-lactamin. Liên kết này rất yếu, dễ bị đứt bởi men penicillinaza và từ đó hoạt tính kháng sinh cũng giảm theo. Cơ chế tác động của các kháng sinh thuộc nhóm này là ức chế tổng hợp vách tế bào vi khuẩn. Nhóm này được chia nhỏ thành 2 phân nhóm chính là: Penicilline và Cephalosporin (Hoàng Tích Huyền, 1997)[9], (Hoàng Thị Kim Huyền và cộng sự, 2001)[11].
- Nhóm Aminoglycozis (Aminozid): trong cấu trúc phân tử của kháng sinh thuộc nhóm này có đường đính theo nhóm amin. Kích thước phân tử của nhóm này khá lớn do đó khó hấp thu qua niêm mạc ruột vào máu. Bởi vậy khi cho uống có tác dụng điều trị bệnh nhiễm trùng đường ruột rất tốt nhưng nhiễm trùng máu hoặc các bộ phận khác trong cơ thể thì phải tiêm. Tác động của các kháng sinh thuộc nhóm này là ức chế quá trình tổng hợp Protein của vi sinh vật do chúng gắn chặt với tiểu phần 30s của Riboxom.
- Nhóm Chloramphenicol: là loại kháng sinh có hoạt phổ rộng, tác động trên cả vi khuẩn Gram (-) và Gram (+), Ricketsia, Mycoplasma. Cơ chế tác dụng của kháng sinh thuộc nhóm này là ức chế quá trình tổng hợp Protein của cơ thể thông qua việc gắn chặt với tiểu phần 50s của Riboxom ở tế bào vi khuẩn. Hiện nay các kháng sinh thuộc nhóm này đã bị hạn chế sử dụng, một số bị cấm sử dụng do có khả năng gắn cả vào tiểu phần 70s của Riboxom ở trẻ sơ sinh gây còi cọc chậm lớn, suy tuỷ không hồi phục ở gia súc non.
- Nhóm Tetracycline: là những chất có cấu tạo 4 vòng benzen chỉ khác nhau ở các gốc gắn vào vòng. Cơ chế tác dụng của chúng là ức chế quá trình tổng hợp Protein của vi sinh vật thông qua việc gắn vào tiểu phần 30s của Riboxom. Thuốc có hoạt phổ kháng khuẩn rộng nhưng khá độc với gan, thận và thần kinh do có ái lực cao với các kim loại có hoá trị II, III gây còi cọc, chậm lớn ở gia súc non.
- Nhóm polipeptide: trong phân tử của chúng có nhiều liên kết peptid. Cơ chế tác dụng của kháng sinh thuộc nhóm này là tác động lên màng tế bào vi khuẩn, làm thay đổi tính thấm của màng, từ đó phá huỷ chức năng hàng rào bảo vệ của màng tế bào vi khuẩn. Hoạt phổ kháng khuẩn rộng, tuy nhiên khi sử dụng cần đề phòng độc với thận và suy hô hấp (Hoàng Tích Huyền và cộng sự, 2001)[11].
- Nhóm Macrolide: là những chất đại phân tử, trong cấu trúc có một vòng lacton lớn, được tổng hợp từ các chủng Streptomyces khác nhau. Cơ chế tác dụng của nhóm này tương tự như cơ chế tác dụng của kháng sinh thuộc nhóm Chloramphenicol. Nhóm này đối kháng với nhóm β – lactamin nhưng lại hiệp đồng với nhóm Tetracycine.
- Nhóm Sulfamid: là những hợp chất tổng hợp có tính kháng khuẩn cao, là dẫn xuất của Sulphonamide. Cơ chế tác động của nhóm này là cạnh tranh hoá học do cấu trúc hoá học và kích thước phân tử của chúng gần giống với PABA, do đó cạnh tranh với PABA ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp acid forlic (chất cần thiết cho quá trình phát triển của vi khuẩn). Nhóm này đối kháng với Novocain, tham gia vào phản ứng Axetyl hoá khi cho uống cho nên dễ gây sỏi thận.
- Nhóm Quinolon: là những kháng sinh có hoạt phổ rất rộng, tác động trên tất cả các loại vi khuẩn, Ricketsia, Mycoplasma, ít bị kháng thuốc. Cơ chế tác động của nhóm này bao gồm:
+ ức chế enzim DNA - gyase: Enzim DNA-gyase là enzim tham gia vào quá trình tổng hợp nên các acit nhân DNA của vi khuẩn. Do đó đích tác dụng của thuốc là DNA-gyase. Nhiễm sắc thể của vi khuẩn là hình vòng tròn gồm 2 chuỗi DNA xoắn kép. Tuỳ theo điều kiện phát triển của vi khuẩn mà DNA có thể tồn tại ở hai dạng: dạng xoắn kép hoặc dạng thả lỏng.
Trong quá trình sinh sản và phát triển của vi khuẩn có sự sao chép và nhân lên của nhiễm sắc thể kèm theo sự sao chép có sửa chữa của DNA được thực hiện bởi các enzim toprosomerase (các enzim này làm nhiệm vụ cắt tạm thời các chuỗi DNA rồi sau đó tự đóng lại). Tuỳ theo vị trí cắt của 1 hay 2 mảnh DNA mà người ta chia các toprosomerase thành toprosomerase I và toprosomerase II. Enzim DNA-gyrase là một toprosomerase II. Cấu trúc của DNA - gyrase gồm Gyr - A và phần Gyr-B). Các phần đơn vị A làm nhiệm vụ cắt tạm thời các mảnh DNA trong giai đoạn đầu và nối chúng lại ở giai đoạn cuối sau khi nhiễm sắc thể đã được nhân đôi. Các phần đơn vị B làm nhiệm vụ tách riêng các mảnh và xoắn vòng lại. Gyrase là mục tiêu hấp dẫn của các quinolon hay nói chính xác hơn đích tác dụng của quinolon là gyrase. Chúng gắn vào các phòng đơn vị A của các gyrase làm cho các enzim không thực hiện được nhiệm vụ của mình. Tức là hai mảnh DNA khi đã bị cắt ra thì không gắn lại được. Do vậy mà DNA ở trong tế bào dưới dạng những đoạn riêng lẻ. Như vậy dưới tác dụng của thuốc sự sao chép và nhân lên của các DNA bị ức chế.
+ Cơ chế tạo Chelat: trong công thức phân tử của thuốc có chứa β -Cetomic nên các Quinolon có thể tạo Chelat với các cation hoá trị II (Mg++, Cu++ và đặc biệt là Fe++). Do đó các liên kết kim loại (metal-protein) sẽ là mục tiêu tiềm tàng thu hút các Quinolon. Các thuốc có Chelat tương ứng với phức hợp đẳng phân tử tích điện dương (những phức hợp 1/1, tức một phân tử thuốc kết hợp với một kim loại hoá trị II) sẽ có tác dụng diệt khuẩn. Còn thuốc có Chelat tương ứng với phức hợp trung hoà (phức hợp 2/1, tức là 2 phân tử thuốc kết hợp với một phân tử kim loại hoá trị II) thì không có tác dụng diệt khuẩn (Huỳnh Thị Kim Thoa, 1996)[24].
Cũng như các sinh vật khác, vi khuẩn cũng có khả năng thích nghi với điều kiện sống. Chính vì thế, việc sử dụng kháng sinh kéo dài và không đúng cách đã tạo cho vi khuẩn có khả năng kháng thuốc. Theo Nguyễn Vĩnh Phước (1974)[14] một cá thể hoặc một nòi vi khuẩn nhất định nào đó được gọi là đề kháng với thuốc nếu nó có thể sống và phát triển được trong một môi trường có nồng độ kháng sinh cao hơn nồng độ ức chế sinh sản và phát triển của phần lớn những cá thể khác hoặc những nòi khác trong cùng một canh khuẩn.
Để hạn chế sự kháng thuốc cần thực hiện theo các biện pháp sau:
- Chỉ dùng kháng sinh điều trị khi biết chắc chắn bị nhiễm khuẩn. Cần cân nhắc kỹ khi điều trị dự phòng hay phối hợp kháng sinh.
- Chọn kháng sinh theo kết quả kháng sinh đồ, đặc biệt ưu tiên các kháng sinh có phổ hẹp, đặc hiệu.
- Chọn kháng sinh có khả năng khuyếch tán tốt nhất vào điểm nhiễm khuẩn: chú ý đặc điểm dược động học của thuốc.
- Phối hợp kháng sinh hợp lý, đặc biệt ở những bệnh kéo dài.
- Giám sát liên tục tình hình kháng thuốc của vi khuẩn và thông báo kịp thời.
- Đề cao biện pháp khử khuẩn và vô khuẩn. Khi đã phát hiện được vi khuẩn kháng thuốc phải dừng ngay thuốc đang điều trị và những thuốc có cùng cơ chế, cùng đích tác dụng. Chú ý tuyệt đối không được tự ý tăng liều điều trị khi thấy bệnh không khỏi (Bùi Thị Tho, 2003)[22].
Theo Lê Thị Ngọc Diệp (1999)[4] để phát huy hết tác dụng của kháng sinh trong điều trị, hạn chế các tác hại của thuốc, ngăn cản hiện tượng kháng thuốc cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc sau:
- Chỉ sử dụng kháng sinh khi có kết luận chắc chắn là nhiễm khuẩn hoặc khi có kết quả làm kháng sinh đồ. Đối với mầm bệnh đã biết thì nên dùng các kháng sinh có hiệu lực nhất, ít độc và có phổ tác dụng hợp lý.
- Lựa chọn đúng thuốc, đúng bệnh, dùng liều cao ngay từ đầu, tránh dùng liều thấp hay tăng dần vì dễ gây lên hiện tượng quen thuốc, kháng thuốc.
- Dùng thuốc kháng sinh càng sớm càng tốt lúc vi khuẩn đang ở giai đoạn phát triển và chịu tác dụng của thuốc nhiều nhất.
- Chọn đường đưa thuốc thích hợp, đúng liều lượng, liệu trình để luôn giữ nồng độ thuốc ổn định trong cơ thể. Nếu cần thiết phải thay thuốc khác.
- Nên phối hợp thuốc khi điều trị để làm tăng khả năng diệt khuẩn, hạn chế hiện tượng kháng thuốc.
- Trong thời gian dùng thuốc nên kết hợp điều trị bổ sung các loại vitamin, thuốc bổ và điều chỉnh khẩu phần ăn hợp lý nhằm nâng cao sức đề kháng cho cơ thể.
3. đối tượng, địa điểm, nội dung, nguyên liệu
và phương pháp nghiên cứu
3.1. Đối tượng, địa điểm nghiên cứu
Đối tượng và địa điểm nghiên cứu của đề tài là:
- Đàn lợn nái ngoại giống Yorkshire đang trong giai đoạn sinh sản nuôi tại trang trại Thu Thuỷ thuộc huyện Chương Mỹ – Hà Nội và trại Lạc Vệ thuộc huyện Thuận Thành - Bắc Ninh. đàn lợn được nuôi dưỡng , phòng bệnh theo đúng quy trình chăn nuôi lợn nái sinh sản.
3.2. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Khảo sát, nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố đến tỷ lệ mắc bệnh viêm đường sinh dục lợn nái Yorkshire.
3.2.2 Khảo sát, nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố tới vị trí mắc bệnh trên đường sinh dục lợn nái Yorkshire.
3.2.3. Xét nghiệm vi khuẩn học trong dịch viêm đường sinh dục của lợn nái
+ Xác định thành phần và số lượng các loại vi khuẩn trong dịch đường sinh dục ở lợn nái sinh sản bình thường và lợn nái bị mắc bệnh viêm đường sinh dục.
+ Làm kháng sinh đồ xác định tính mẫn cảm với các loại vi khuẩn có trong dịch viêm đường sinh dục.
3.2.4 Thử nghiệm phòng và điều trị bệnh viêm tử cung lợn nái.
3.3. Nguyên liệu nghiên cứu
3.3.1. Các môi trường nuôi cấy và phân lập vi khuẩn
* Các môi trường phổ thông:
- Môi trường nước thịt: dùng để nuôi cấy mẫu xét nghiệm ngay từ đầu.
- Môi trường thạch thường: dùng để kiểm tra khuẩn lạc và làm kháng sinh đồ.
* Các môi trường chuyên dụng dùng trong phân lập và giám định vi khuẩn
- Môi trường Sapman: dùng để phân lập và xác định độc lực của cầu khuẩn.
- Môi trường Brilliant Green agar: dùng để phân lập vi khuần E.coli và Salmonella.
- Môi trường Edwards medium: dùng để phân lập vi khuẩn Streptococcus.
- Môi trường thạch máu: dùng để giữ và bảo quản vi khuẩn
3.3.2 Giấy tẩm kháng sinh
- Các mảnh giấy chuẩn đã được tẩm kháng sinh theo đúng tiêu chuẩn Quốc tế do hãng Oxoid (Anh) sản xuất.
- Các thuốc kháng sinh dùng để tẩm đều đạt tiêu chuẩn dược điển Việt Nam 1994 do phòng quản lý thuốc thú y - Cục thú y Trung ương cung cấp.
- Với mỗi loại giấy tẩm kháng sinh lại có mức độ mẫn cảm và hàm lượng kháng sinh trong từng mảnh giấy khác nhau trong bảng dưới đây:
Bảng 3.1. Bảng chuẩn đánh giá độ nhậy cảm của một số kháng sinh
Tên thuốc
Kháng sinh trong 1 mảnh giấy (μg)
Kháng thuốc Φ(mm)
Mẫn cảm
TB Φ(mm)
Rất mẫn cảm Φ(mm)
Enrofloxacin
20
Ê 16
17-22
³ 23
Tetracyclin
30
≤ 14
15-18
≥ 19
Amoxycillin
20
≤ 13
14 - 16
≥ 17
Gentamicin
10
≤ 12
13 - 14
≥ 15
Ampicillin
10
Ê 11
12 - 13
³ 14
Trimethoprim
27,75/1,25
≤ 10
11 - 15
≥ 16
Kanamycin
30
≤ 13
14-17
≥ 18
Colistin
10
≤ 8
9-10
≥ 11
Penicillin
10UI
≤ 20
21-28
≥ 29
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Xác định tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm đường sinh dục bằng phương pháp điều tra, phỏng vấn trực tiếp quản lý kỹ thuật làm tại trại, kết hợp số liệu sổ sách thống kê của phòng kỹ thuật thú y tại các trại và theo dõi trực tiếp.
3.4.2 Phân loại viêm đường sinh dục (viêm đường sinh dục ngoài, viêm tử cung) theo phương pháp điều tra, sổ sách thống kê kết hợp theo dõi trực tiếp.
3.4.3 Lấy mẫu dịch tử cung của lợn bình thường sau đẻ và lợn đang bị viêm tử cung làm xét nghiệm.
* Cách lấy mẫu dịch tử cung lợn để xét nghiệm
- Lấy mẫu dịch tử cung, âm đạo của lợn nái bình thường sau đẻ 12 -24 giờ và lợn bị viêm tử cung, âm đạo. Phân lập giám định thành phần, số lượng vi khuẩn trên các môi trường chuyên dụng theo các phương pháp vi sinh vật thường quy.
- Làm kháng sinh đồ theo phương pháp của Kirby - Bauer (1996)
- Giấy tẩm kháng sinh do hãng Oxoid (Anh) sản xuất.
- Đánh giá kết quả dựa theo tiêu chuẩn quốc tế 1996 (antibiotic susceptibility testing 1996)
+ Với lợn sau đẻ: dùng mỏ vịt (đã được sát trùng) để mở âm đạo sau đó lấy thìa sản khoa thu sản dịch tử cung cho vào ống nghiệm đã được vô trùng, mỗi lần lấy khoảng 3- 5 ml.
+ Với lợn bị viêm, dùng mỏ vịt (đã được sát trùng) mở âm đạo, sau đó lấy thìa sản khoa thu dịch tử cung cho vào ống nghiệm đã được vô trùng, mỗi lần lấy khoảng 3-5 ml.
* Bảo quản và xử lý mẫu
- Các mẫu dịch thí nghiệm sau khi lấy đựơc giữ trong tủ lạnh ở nhiệt độ 2 – 8oC trong vòng 24 giờ, đưa đến phòng xét nghiệm và tiến hành kiểm tra theo phương pháp nghiên cứu vi khuẩn học của tác giả Nguyễn Vĩnh Phước, (1978)[15] ; Phạm Kim Anh, Nguyễn Văn Quỳnh (1991)[1]; Nguyễn Văn Quỳnh, ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHTY028.doc