A. Đặt vấn đề
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, đường lối để phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong đó việc phát triển nền kinh tế hàng hoá là nhiệm vụ cơ bản nhất. Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế đi lên chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp. ở một số vùng núi còn mang đậm dấu ấn của kinh tế tự nhiên. Lại trải qua nhiều năm chiến tranh, nền kinh tế nước ta không thể vươn dậy nổi một cách vững chắc, hàng hoá sản x
19 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1408 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Thực trạng & Một số giải pháp cơ bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uất ra không đủ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của người dân. Hơn thế nữa kinh tế hàng hoá ở nước ta lại có một thời gian dài hoạt động theo cơ chế của nền kinh tế tập trung chỉ huy. Do vậy việc xây dựng một quan hệ sản xuất mới tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển nhằm thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển là một việc làm tối quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội đã cho ta kết luận rằng: Nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế hàng hoá, thị trường.
Nước ta từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, mà xây dựng chủ nghĩa xã hội xét về mặt kinh tế cũng phải xây dựng nền sản xuất lớn của xã hội chủ nghĩa. Mà xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì không thể không phát triển nền kinh tế hàng hoá.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta cũng thể hiện quyết tâm phải chuyển nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sản xuất phải gắn liền với thị trường.
Xuất phát từ sự nhận thức rõ về tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam đã khiến em chọn đề tài: "Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội ở nước ta. Thực trạng và một số giải pháp cơ bản".
Mục đích của bài viết này là tìm hiểu thế nào là kinh tế hàng hoá ở Việt Nam, cơ sở khách quan để tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hoá ở Việt Nam, các giải pháp để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam.
Bằng những hiểu biết thực tế và kiến thức đã học, em hy vọng rằng bài viết này sẽ mô tả được phần nào nền kinh tế hàng hoá hiện nay ở Việt Nam để từ đó có những giải pháp thích hợp cho sự phát triển tiếp theo.
B. Giải quyết vấn đề
I. Đặc điểm của nền kinh tế hàng hoá ở Việt Nam.
1. Khái niệm - cơ sở khách quan để tồn tại và phát triển nền kinh tế hàng hoá ở Việt Nam.
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi trên thị trường.
Xét về mặt lịch sử, kinh tế hàng hoá ra đời cùng với sự ra đời của sản xuất hàng hoá. Nghĩa là khi còn người có nhu cầu về sự trao đổi sản phẩm tiêu dùng. Nền kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội gắn liền với 2 điều kiện tiền đề: Sự phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khách nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. ở nước ta những điều kiện chung của nền kinh tế hàng hoá vẫn còn nên sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá là một tất yếu khách quan:
Một là, phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi trái lại ngày càng phát triển về chiều sâu lẫn chiều rộng.
ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề mới ra đời và phát triển. Bên cạnh đó những ngành nghề cổ truyền có tiếng không chỉ trong nước mà cả trên thế giới, có tiềm năng lớn mà trước đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai một nay được khôi phục và phát triển. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia, trở thành phân công lao động trên phạm vi quốc tế.
Hai là, nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Đó là kinh tế Nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tự nhiên ở vùng núi. Hơn nữa trình độ xã hội hoá giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong cùng một thành phần kinh tế vẫn chưa đều nhau. Do vậy việc hạch toán kinh doanh, phân phối và trao đồi sản phẩm lao động tất yếu phải thông qua hình thức hàng hoá - tiền tệ để thực hiện các mối quan hệ kinh tế, đảm bảo lợi ích giữa các tổ chức kinh tế trong các thành phần với người lao động và giữa các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần với nhau.
2. Đặc điểm của nền kinh tế hàng hoá ở Việt Nam.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mọi sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đều được mua bán trên thị trường. Thị trường là một phần tất yếu và hữu cơ của toàn bộ quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Với bất kỳ một quốc gia nào, nền kinh tế hàng hoá cũng đóng một vai trò chủ đạo chi phối đáng kể vào hoạt động của nền kinh tế quốc dân. với điểm xuất phát khác nhau về trình độ kinh tế, kết cấu hạ tầng, phong tục tập quán, nền kinh tế hàng hoá của mỗi dân tộc không chỉ chứa đựng chung tính quy luật của kinh tế hàng hoá (các phạm trù, quy luật kinh tế) mà còn có cả những quan hệ, đặc thù riêng của mỗi quốc gia, dân tộc. Nước ta đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với những đặc điểm sau:
- Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế yếu kém, mang nặng tính tự cung, tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường.
- Đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên nước ta thiếu cái "cốt vật chất" của một nền kinh tế phát triển. Thực trạng của nền kinh tế được biểu hiện ở những mặt như: cơ cấu hạ tầng vật chất và xã hội thấp kém, trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiệp còn lạc hậu, kém khả năng cạnh tranh vì sản xuất phân tán, nhỏ lẻ, kỹ thuật thủ công, mang nặng tính bảo thủ trì trệ; phân công lao động chưa sâu sắc, các mối quan hệ kinh tế kém phát triển; thị trường còn sơ khai; thu nhập của người dân cư quá thấp vì vậy sức mua thấp, nhu cầu tăng chậm dẫn đến đình trệ sản xuất kinh doanh là khó tránh khỏi; thiếu đội ngũ những người có bậc thợ chuyên môn để tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới trên thế giới do đó sản phẩm làm ra kém khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như trên thế giới.
Từ năm 1986 trở về trước, mặc dù trên thực tế vẫn thừa nhận sản xuất hàng hoá, thừa nhận quan hệ hàng hoá - tiền tệ, nhưng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hoá một thành phần - thành phần xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới 2 hình thức: toàn dân và tập thể.
Với tên gọi "Kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa" về thực chất là kiểu kinh tế chỉ huy, đã làm cho các phạm trù của kinh tế hàng hoá vốn sống động mền dẻo như giá trị, giá cả, lợi nhuận... bị hình thức hoá đến cao độ. Mục đích hoạt động kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp không phải vì lợi nhuận như vốn có của kinh tế hàng hoá mà là tuân thủ một cách nghiêm ngặt hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh được phát ra từ một trung tâm.
Các quy luật kinh tế hàng hoá hoặc do ý chí chủ quan bị "thu hẹp phạm vi hoạt động" xem như "không hợp pháp" hoặc có thừa nhận cũng chỉ đóng vai trò hết sức thứ kém trong sự vận động của nền kinh tế. Các loại hàng hoá đặc biệt hoặc phi hàng hoá, các loại thị trường có tổ chức, có kế hoạch chi phối các lĩnh vực quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất xã hội. Đối lập với kinh tế có kế hoạch đó được coi là kinh tế thị trường tự do, bấp hợp pháp.
Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần. Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần đó là do còn nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
Đại hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định, các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa và kinh tế tư bản nhà nước. Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của của chế thị trường ở nước ta là nguồn lực to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, lạc hậu, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách Nhà nước hẹn hẹp.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc "phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường công tác quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội". Để hạn chế và khắc phục được hậu quả của mặt trái kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền, giáo dục và các công cụ khác.
Nền kinh tế phát triển theo hướng mở rộng quan hệ với nước ngoài. Kinh tế "khép kín" thường gắn liền với sản xuất nhỏ, với tình trạng "bế quan toả cảng" tự cung tự cấp và nền kinh tế "chỉ huy". Nhìn chung, đó là một nền kinh tế kém phát triển, bảo thủ trì trệ. Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá đã làm phá vỡ các mối quan hệ kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín. Đặc biệt là đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa, sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá đã làm cho thị trường dân tộc hoạt động gắn bó với thị trường thế giới. Chính sự giao lưu và các mối liên hệ kinh tế được mở rộng ra nước ngoài đã làm cho nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa có những bước phát triển nhanh chóng.
Mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài là tất yếu vì sản xuất và trao đổi hàng hoá tất yếu vượt xuất và trao đổi hàng hoá tất yếu vượt khỏi phạm vi quốc gia mang tính chất quốc tế, đồng thời đó cũng là tất yếu của sự phát triển nhu cầu.
Biệt lập trong sự phát triển kinh tế tất yếu dẫn tới đói nghèo. Do đó việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài dưới nhiều dạng khác nhau đối với nước ta như là một tất yếu trong sự phát triển, khi trình độ khoa học kỹ thuật thế giới cho phép đáp ứng nhu cầu cả về sản xuất lẫn tiêu dùng. Thông qua mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên trong. Điều đó tạo điều kiện cho quá trình phát triển rút ngắn ở nước ta. Việc mở cửa nền kinh tế đòi hỏi phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, đảm bảo chủ quyền và cùng có lợi.
Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua bản chất và vai trò quản lý của Nhà nước.
Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải quyết hết các vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống kinh tế- xã hội đặt ra. Đó chính là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, phân hoá bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như những hiện tượng xã hội khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở những mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp đểu có tác động ngược trở lại, làm cản trở sự phát triển "bình thường" của một xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Vì vậy sự tác động của Nhà nước - một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khác quan vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế -xã hội. Thiếu sự "can thiệp" của Nhà nước vào kinh tế để cho nền kinh tế thị trường tự do hoạt động, thì việc điều hành nền kinh tế nước ta sẽ không thể có hiệu quả.
Sự quản lý của Nhà nước ta đối với nền kinh tế hàng hoá được thực hiện bằng luật pháp và và các công cụ vĩ mô khác. Nhà nước sử dụng những công cụ đó để quản lý các hoạt động kinh tế làm cho nền kinh tế lành mạnh hơn, giảm bớt các thăng trầm, đột biến xấu trên con đường phát triển của nó, khắc phục được tình trạng phân hoá bất bình đẳng, bảo vệ được tài nguyên môi trường của đất nước. Như vậy, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta là một sự vận động được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường - "Bàn tay vô hình" và sự quản lý của Nhà nước - "Bàn tay hữu hình".
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của nền kinh tế hàng hoá cũng như những đặc điểm cơ bản của nó, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá ở Việt Nam phát triển.
II. Các giải pháp phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam
Tại hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành TW khoá VI Đảng ta dã xác định rõ "Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH". Tới Đại hội VII qua thực tiễn 5 năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định " Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Tổng kết 10 năm đổi mới, tại Đại hội Đảng lần thứ VIII Đảng ta lại một lần nữa khẳng định " Tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN" . Nhất quán với những quan điểm này Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra những giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta.
Như đã biết cơ sở tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hứu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định. Vì vậy để phát triển kinh tế thị trường trước hết phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu trong nền kinh tế. Đối với nước ta, quá trình đa dạng hoá được thể hiện bằng việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII đã chỉ ra. Đó là phát triển kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tư nhân và kinh tế Nhà nước.
Đối với kinh tế nhà nước. Đây là thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta. Vai trò này được thể hiện ở chỗ nó chi phối được các thành phần khác làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc điểm, đặc tính của nó. Thành phần kinh tế nhà nước phải mở đường, dẫn dắt cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, trong những năm tới cần thiết phải củng cố lại hệ thống kinh tế Nhà nước, thực hiện sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, cải tiến quản lý, nâng cao tính hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của chúng thông qua việc nghiên cứu và phát triển một cách phù hợp các hình thức tổ chức kinh doanh.
Đối với kinh tế hợp tác: Cần thiết có sự tổng kết, rút kinh nghiệm về bài học hợp tác xã kiểu cũ và kiểu mới đang được phát triển hiện nay, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đổi mới phương thức quản lý, đẩy nhanh sự phát triển của thành phần kinh tế trong các lĩnh vực của nền kinh tế để huy động nguồn lực vào phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường ở nước ta.
Đối với loại hình sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ. Một mặt thông qua cơ chế chính sách và hướng dẫn phát triển của Nhà nước khuyến khích sự phát triển của thành phần kinh tế này. Mặt khác cần tăng cường công tác quản lý để xây dựng nền sản xuất kinh doanh theo quy định luật pháp.
Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Cần có chính sách khuyến khích thành phần kinh tế này đẻ các nhà tư bản yên tâm và mạnh dạn đầu tư vào nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất hàng hoá tiêu dùng và xuất khẩu.
Đối với kinh tế tư bản nhà nước. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển kể cả với tư bản nhà nước trong nước và tư bản nhà nước nước ngoài. Muốn vậy, phải có các chính sách và các hình thức đa dạng để thu hút vốn đầu tư của các nhà tư bản trong và ngoài nước thông qua phát triển các khu công nghiệp tập trung, các hình thức chế xuất, các hình thức liên doanh, liên kết...
Ngoài ra hiện nay ở nông thôn và các vùng núi còn tồn tại khá năng nền kinh tế tự nhiên, sản xuất tự túc, tự cấp. Vì vậy, cần có chính sách thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng hoá ở các vùng này, đặc biệt chú ý tới việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh lưu thông hàng hoá với các vùng phát triển trong nước.
Đẩy mạnh phân công lại lao động xã hội ở nước ta. Như đã nói, phân công lao động xã hội là một phần của quá trình sản xuất hàng hoá, của phát triển kinh tế thị trường. Vì vậy, quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta đòi hỏi phải đẩy mạnh phân công lại lao động xã hội.
ở nước ta, đẩy mạnh phân công lại lao động cũng đồng nghĩa với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong bối cảnh thế giới, quá trình công nghiệp hoá ở nước ta phải kết hợp chặt chẽ hai chiến lược công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu, đồng thời thay thế dần nhập khẩu. Để thực hiện chiến lược này, cần phải phân công lại lao động để phát triển những ngành, những lĩnh vực mà đất nước có lợi thế so sánh trong việc sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu. Trước mắt đó là các ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp dệt - may, công nghiệp chế biến nông lâm - hải sản, công nghiệp lắp ráp điện tử và một số lĩnh vực khác thuộc ngành nghề truyền thống. Thông qua việc phát triển và xuất khẩu hàng hoá này cần tranh thủ nhập được những công nghệ thích hợp để cải thiện trình độ công nghệ và kỹ thuật sản xuất hiện nay. Điều đó cho phép vừa đa dạng hoá ngành nghề, vừa từng bước đổi mới trình độ lao động trong nước phù hợp với trình độ quốc tế.
Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ: Nền kinh tế hàng hoá càng phát triển, thị trường dịch vụ ngày càng tăng. Thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá, vai trò đó được thể hiện trên hai mựt: Một mặt nó thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của con người, qua đó tái sản xuất ra sức lao động - nhân tố cơ bản của của quá trình sản xuất. Mặt khác sản phẩm tiêu dùng và dịch vụ là kết quả, là "đầu ra" của quá trình sản xuất. Để phát triển thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ cần giải quyết hai vấn đề sau:
Một là, phải tăng quy mô hàng tiêu dùng và dịch vụ với chủng loại ngày càng phong phú và chất lượng ngày càng nâng cao. Nhu cầu về hàng tiêu dùng và dịch vụ ở nước ta ngày càng tăng cao do dân số tăng lên, đời sống của các tầng lớp dân cư tăng lên. Một mặt đó là sức ép lớn đối với sản xuất trong điều kiện sản xuất thấp kém. Mặt khác nhu cầu lớn về hàng tiêu dùng và dịch vụ là động lực để phát triển kinh tế hàng hoá. Vì vậy việc phát triển thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ đòi hỏi phải tăng dung lượng thị trường, tăng khối lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu về ăn, ở, mặc, sinh hoạt đi lại và học tập, chữa bệnh cho nhân dân. ở đây cần khai thác thế mạnh của đất nước về đất đai, rừng biển, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng để có nguồn hàng lớn phục vụ cho nhu cầu.
Hai là, từng bước giảm giá cả hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ. Vì với một lượng thu nhập nhất định, nếu giá cả hàng hoá thấp thì khả năng mua sẽ tăng lên, làm tăng dung lượng thị trường và ngược lại. Vì vậy, phương án thứ nhất là giảm chi phí sản xuất để làm cơ sở cho việc giảm giá. Trong trường hợp này, giá cả hàng hoá và chi phí đều giảm, nhưng chi phí sản xuất phải giảm nhiều hơn và qua đó lợi nhuận vẫn đảm bảo. Phương án thứ hai là tăng khối lượng sản phẩm cung ứng trên thị trường để trong trường hợp giảm giá lợi nhuận của một đơn vị hàng hoá bán ra ít hơn nhưng bán được nhiều thì lợi nhuận vẫn đảm bảo.
Đối với thị trường các yếu tố sản xuất.
Thị trường yếu tố sản xuất bao gồm thị trường vốn, thị trường sức lao động và thị trường các điều kiện vật chất khác cho quá trình sản xuất. Có thị trường này mới có các yếu tố để sản xuất ra hàng hoá mới có hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ hay mới có đầu ra. Số lượng, chất lượng, tính đa dạng của thị trường đầu ra do thị trường đầu vào quyết định.
Hàng hoá bán ra trên thị trường yếu tố sản xuất có giá của nó. Tư liệu sản xuất có giá cả tư liệu sản xuất, tiền vốn có giá cả là lợi tức.
Hiện nay nước ta đang hình thành thị trường sức lao động, người lao động có quyền chọn việc làm và nơi làm việc. Đảm bảo quyền làm chủ sức lao động của người lao động và thực hiện quyền tuyển chọn nhân công của người sử dụng lao động. Tiền lương chính là giá cả của sức lao động. Sự hình thành rộng rãi thị trường sức lao động là đồi hỏi tất yếu của sự phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta.
Một vấn đề quan trọng là thực hiện sự cân bằng giữa các loại thị trường. Sự cân bằng chung giữa các loại thị trường là yêu cầu tất yếu trong quá trình hình thành phát triển thị trường. Nó cho phép xác lập mối quan hệ cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa hàng và tiền. Để tạo lập sự cân bằng giữa các loại thị trường cần giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất: Cần xoá bỏ chế độ bao cấp trong phân phối, sử dụng các yếu tố sản xuất và sản phẩm tiêu dùng, dịch vụ chuyển chúng sang hệ hàng hoá -tiền tệ một cách hoàn toàn. Điều này có nghĩa là toàn bộ nhân tố sản xuất, vật phẩm tiêu dùng và dịch vụ đều được mua bán trên hai thị trường một cách tự do. Vấn đề đất đai là thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, chuyển nhượng đất đai từ người này sang người thực chất là bán quyền sử dụng đất. Do vậy phải xác định giá cả ruộng đất, cơ sở để xác định giá cả ruộng đất là do thu nhập mà chính mảnh đất đó mang lại, đó chính là địa tô. Vì vậy, bên cạnh tính tới vấn đề địa tô cần phải có chính sách hợp lý tạo điều kiện cho sự vận động thông suốt của thị trường đất đai ở nước ta.
Thứ hai: Phải tuân thủ nguyên tắc tư do giá cả. Giá cả không thể áp đặt bằng mệnh lệnh hành chính, mà nó được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người mua và người bán. Tự do giá cả không có nghĩa là cứ để mặc cho giá cả trên thị trường lên xuống mất ổn định. Sự mất ổn định giá của một loại hàng hoá nào đó nhất là hàng hoá thuộc loại nhu yếu phẩm sẽ tác động xấu đến sự cân bằng chung giữa các thị trường. Như vậy, tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả thì đồng thời phải đảm bảo sự bình ổn giá cả. Muốn đảm bảo sự bình ổn giá cả cần thiết phải đẩy mạnh sự phát triển sản xuất tạo ra nguồn hàng rồi dào, phong phú, đồng thời Nhà nước phải có lực lượng hàng hoá dự trữ và có biện pháp ổn định tiền tệ.
Thứ ba: Phát triển thị trường ngoài nước, đẩy mạnh hoạt động ngoại thương. Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật và thông tin, hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực thì thị trường ngoài nước có ý nghĩa quan trọng để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta. Thị trường ngoài nước thông qua ngoại thương có tác động thúc đẩy và hỗ trợ thị trường trong nước phát triển. Ngược lại, thông qua ngoại thương thị trường trong nước có thể nhanh chóng tiếp cận thị trường thế giới, đảm bảo sự thông suốt giữa các thị trường cần thiết phải thực hiện các nguyên tắc sauđây:
Một là, phải thực hiện xuất siêu. Để có tiền cho tái sản xuất mở rộng thị trường, hàng năm phải bán ra một số hàng lớn hơn số hàng mà ta mua vào. Muốn vậy cần phải xuất thành phẩm chứ không xuất nguyên liệu. Phải chú ý phát triển nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế để thu được giá trị cao của hàng xuất khẩu. Thực hiện thương nghiệp trung gian, cho phép mang tiền (vàng, ngoại tệ) đi lại tự do qua biên giới để buôn bán ở các nước nhằm làm tăng nguồn tiền tệ của đất nước. Có chính sách bảo hộ hợp lý để khuyến khích các ngành kinh tế trong nước phát triển, thu hút công nghệ khoa học kỹ thuật từ bên ngoài, hạn chế nhập khẩu những loại hàng hoá mà trong nước có thể sản xuất và đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng.
Hai là, áp dụng nguyên lý lợi thế so sánh trong quan hệ trao đổi quốc tế. Các yếu tố tự nhiên thuận lợi phải được xem xét cụ thể trong mối quan hệ với các yếu tố kinh tế - xã hội và kỹ thuật ở cả trong nước và ngoài nước, từ đó có phương án tính toán chi tiết về từng mặt hàng và so sánh với trình độ quốc tế để xác đinh sản xuất và cung cấp cho thị trường thế giới loại hàng hoá nào đó của nước ta có lợi thế hơn.
Tiếp tục đổi mới và nâng các vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. Để nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì nhất thiết phải coi trọng vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. Trong những năm đổi mới kinh tế vừa qua, nước ta đổi mới một bước vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế: chuyển từ quản lý theo kế hoạch hoá tập trung sang sử dụng các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô để quản lý nền kinh tế. Những thành tự trong hơn mười năm đổi mới vừa qua của lĩnh vực này mới là bước đầu. Trong những năm tới, đặc biệt trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực cần thiết là phải tiếp tục đổi mới các công cụ chính sách vĩ mô đặc biệt là hệ thống tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ, chính sách phân phối thu nhập và kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội. Việc đổi mới này vừa phải theo nguyên tắc phù hợp với phương thức quản lý của nền kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng mà Đảng ta đã chọn.
Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp và cải cách nền hành chính quốc gia. Những năm gần đây đã nảy sinh nhiều vụ án kinh tế nghiêm trọng, làm thất thoát của nhà Nhà nước hàng nghìn tỷ đồng. Do đó cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa phong trào "Làm trong sạch đội ngũ Đảng", phát động toàn dân chống tham nhũng, chống thất thoát cho Nhà nước. Trong mấy năm gần đây, thủ tục hành chính ở nước ta tuy có những cải cách nhưng không triệt để dẫn đến tình trạng trên làm một kiểu, dưới làm một kiểu không thống nhất. Do đó, phải có những cải cách thật triệt để trong thủ tục giấy từ hành chính và thống nhất quy định từ trên xuống dưới.
Nhà nước phải có những chính sách hợp lý để chống buôn lậu, gian lận thương mại, chống thất thu thuế. Vấn đề buôn lậu, trồn thuế, gian lận thương mại và làm hàng giả vẫn đang là vấn đề búc xúc cho Nhà nước ta hiện nay. Nhà nước đang tiến hành tạo việc làm ổn định cho các vùng dân cư giáp biên giới để người dân có thu nhập ổn định và từ đó không tham gia và tiếp tay cho bọn buôn lậu qua biên giới. Đồng thời các doanh nghiệp cũng tiến hành dán tem chống hàng giả vào sản phẩm của mình.
c. Kết luận
Xuất phát từ đặc điểm của nước ta, nền kinh tế hàng hoá không thể thiếu một cơ cấu nhiều thành phần kinh tế. Tính chất nhiều thành phần này là một tập hợp của nhiều điều kiện và cũng là động lực thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển. Tác dụng tích cực của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là rất rộng, như: Huy động tối đa các tiềm năng và khả năng hiệu quả của nền kinh tế; Tạo ra sự đa dạng về quy mô và trình độ kỹ thuật của nước ta; Tạo điều kiện thực hiện thuận lợi cho sự liên doanh liên kết với bên ngoài; Giải quyết việc làm cho người lao động (một vấn đề bức xúc trong xã hội ta); Thực hiện dân chủ trong kinh tế...
Sau hơn 10 năm đổi mới, cùng với việc phát triển các lĩnh vực khác, việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã đi vào thực tiễn, góp phần quan trọng vào những thành tựu kinh tế trong bối cảnh tình hình quốc tế không thuận lợi và tình hình trong nước còn nhiều khó khăn. thực tiễn đã nhắc nhở chúng ta thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần coi đó là con đường tất yếu quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta không nằm ngoài mục tiêu của Đảng là phát triển kinh tế đất nước, thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định "Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời ký phát triển mới, đẩy mạnh công hiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ của toàn dânta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy nhanh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phấn đấu đạt và vượt mục đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 200. Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững, đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích luỹ nội bộ từ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau" (Văn kiến Đại hội Đảng lần thứ VIII, 1996. Trang 20)
Ngày nay, đất nước ta đã và đang tiến lên một các vững chắc. mặc dù còn nhiều khó khăn cần vượt qua, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta hy vọng trong tương lai không xa bộ mặt đất nước ta sẽ khởi sắc, dân tộc ta sẽ khẳng định được vị trí của mình trên trường quốc tế.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kinh tế Chính trị
2. Giáo trình Kinh tế Vĩ mô
3. Kinh tế học của P.Samuellson
4. Kinh tế học của David Begg
5. Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII
6. Tạp chí Cộng sản
7. Thời báo kinh tế
8. Báo: Diễn đàn doanh nghiệp
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0471.doc