Tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc Xuất khẩu của Công ty Cổ phần May Thăng Long trên thị trường Mỹ: LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay, cũng như việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO tạo không ít thuận lợi, cũng như những khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Đứng trước tình hình này, các doanh nghiệp Việt Nam phải có những biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để giành thế chủ động trên thương trường, tồn tại và phát triển lâu dài. Công ty Cổ phần May Thăng Long... Ebook Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc Xuất khẩu của Công ty Cổ phần May Thăng Long trên thị trường Mỹ
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1622 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc Xuất khẩu của Công ty Cổ phần May Thăng Long trên thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ tháng 8/2007 đã đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh, nhưng kinh doanh sản phẩm may mặc được coi là trọng điểm. Sản phẩm may mặc xuất khẩu là một trong những mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao so với nhiều mặt hàng khác. Trong nhiều năm, hàng may mặc xuất khẩu trở thành mặt hàng mũi nhọn trong xuất khẩu hàng hoá của công ty, hàng may mặc luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty.
Thị trường Mỹ là một trong những thị trường chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động thương mại của công ty, một thị trường rộng lớn, đa dạng có nhiều triển vọng cho hàng xuất khẩu của công ty... nhưng cũng là một thị trường "sang trọng" và "khó tính". Chinh phục thị trường này là một điều không dễ, nhất là khi công ty phải cạnh tranh với hàng may mặc của Trung Quốc, Ấn Độ một trong các cường quốc về các mặt hàng xuất khẩu.
Tuy nhiên, trong nhiều năm qua kim ngạch và thị phần xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang thị trường Mỹ tăng giảm không ổn định mặc dù hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam giành ưu thế trên thị trường này. Có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là khả năng cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường Mỹ có chiều hướng suy giảm do phải cạnh tranh với quá nhiều đối thủ.
Để góp phần vào việc nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường quốc tế nói chung và thị trường Mỹ nói riêng nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO. Vì vậy, em đã quyết định chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc xuất khẩu của Công ty cổ phần May Thăng Long trên thị trường Mỹ”.
Kết cấu của chuyên đề ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo bao gồm:
Chương1: Lý luận chung về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm may mặc của doanh nghiệp.
Chương2: Phân tích năng lực cạnh tranh sản phẩm may mặc xuất khẩu của công ty cổ phần May Thăng Long trên thị trường Mỹ.
Chương3: Biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm may mặc xuất khẩu của công ty trên thị trường Mỹ.
Do kiến thức thực tế còn hạn chế, bài viết sẽ không tránh khỏi những thiếu xót, cũng như trình độ phân tích chưa sâu em mong thầy giáo góp ý, sửa chữa để em hoàn thành bài viết một cách tốt nhất.
Em xin chân thành cảm ơn thầy!
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH, NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM MAY MẶC CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm về cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm
Cạnh tranh luôn tồn tại không chỉ trong tự nhiên giữa các loài để dành lấy sự sống, mà cạnh tranh còn diễn ra gay gắt, quyết liệt hơn trong xã hội loài người. Cạnh tranh diễn ra trên mọi lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Và cạnh tranh là hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Có rất nhiều khái niệm về cạnh tranh, các học giả thuộc trường phái tư sản cổ điển thì cho rằng: "Cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên trong thị trường một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so với khả năng của mình".
Theo định nghĩa khác thì cạnh tranh là cuộc đấu tranh đối kháng giữa các nhà sản xuất hàng hóa nhằm nhằm giành điều kiện thuận lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nhằm thu lợi nhuận tối đa.
Theo từ điển kinh doanh của Anh (1992) khái niệm cạnh tranh được định nghĩa như sau: “Cạnh tranh (competion) là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”. Trong kinh doanh cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hóa, dịch vụ để giành lợi nhuận cao cho các chủ thể kinh tế. Có thể nói rằng, mục đích trực tiếp của hoạt động cạnh tranh trên thị trường của các chủ thể là giành lợi thế để hạ thấp giá các yếu tố đầu vào, và nâng giá đầu ra sao cho mức chi phí là thấp nhất, lợi nhuận là cao nhất. Cạnh tranh giúp phân bổ các nguồn lực xã hội một cách tối ưu nhất. Cạnh tranh là yếu tố thúc đẩy quá trình tích lũy và tập trung tư bản không giống nhau ở các doanh nghiệp. Cạnh tranh còn là môi trường phát triển mạnh mẽ cho các doanh nghiệp có khả năng thích nghi cao, những doanh nghiệp có khả năng thích nghi với điều kiện thị trường thấp sẽ bị đào thải. Cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực cho sự phát triển.
Các khái niệm cạnh tranh kể trên đều chưa thực sự đầy đủ. Ngoài ra, ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì quan niệm và nhận thức về cạnh tranh là khác nhau và phạm vi cũng như cấp độ cũng khác nhau.
Xét theo hướng tiếp cận của đề tài này, khái niệm cạnh tranh có thể được hiểu như sau:
Cạnh tranh là một quá trình tranh đấu, các chủ thể kinh tế ganh đua nhau và tìm mọi biện pháp để đạt được mục tiêu mục tiêu trước mắt cũng như mục tiêu lâu dài đã được đề ra. Vậy thì, thực chất của cạnh tranh là sự tranh giành về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia thị trường. Mỗi chủ thể đều mong muốn có lợi ích về mình. Người bán thì muốn tối đa hoá lợi nhuận bằng cách bán với giá cao còn người mua thì muốn tối đa hoá lợi ích của mình bằng cách mua hàng hoá tốt và rẻ ( lợi ích tiêu dùng ). Giữa người bán diễn ra sự cạnh tranh gay gắt vì mục tiêu lợi nhuận, họ tìm cách giảm chi phí và giành khách hàng về mình.
Cạnh tranh hàng hóa là hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích, lợi nhuận tối đa, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh. Tuy nhiên, điều kiện của thị trường để thực hiện mục tiêu đó lại có hạn. Do đó, người sản xuất kinh doanh phải tìm cách giành khách hàng bằng sản phẩm, dịch vụ tốt, giá cả hợp lý và tạo được uy tín với khách hàng.
Như vậy, cạnh tranh hàng hoá là quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, nền sản xuất càng phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều, số lượng người cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt, quyết liệt kết quả của cạnh tranh sẽ loại dần những hàng hoá kém chất lượng không được khách hàng chấp nhận và tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của những hàng hoá có chất lượng tốt. Có thể nói rằng cạnh tranh giữa những người bán quyết liệt sẽ có lợi hơn cho khách hàng, được sử dụng hàng hóa tốt với giá rẻ, được nhận những dịch vụ tốt trước, trong và sau bán.
Trong phạm vi của đề tài sẽ xem xét tới cạnh tranh hàng hóa chi tiết hơn.
*Tiền đề cơ bản của cạnh tranh
Cạnh tranh cũng như các quy luật hiện tượng kinh tế, tự nhiên, xã hội khác chỉ xuất hiện, tồn tại và phát triển khi có điều kiện như: nhu cầu, môi trường cạnh tranh và vận hành tốt khi có môi trường cạnh tranh thuận lợi và bình đẳng.
Nhu cầu lợi nhuận là động lực nảy sinh cạnh tranh-mục đích cuối cùng của các bên tham gia cạnh tranh là nhằm thoả mãn tối đa lợi ích kinh tế là lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trong hầu hết trường hợp, cạnh tranh sẽ không xuất hiện khi lợi nhuận không phải là mục đích cuối cùng. Cạnh tranh được sinh ra từ nhu cầu tối đa hoá lợi nhuận, thoả mãn lợi ích kinh tế của con người. Tuy vậy, mặc dù động lực cạnh tranh xuất hiện, song cạnh tranh chỉ vận hành khi có môi trường cạnh tranh, môi trường cạnh tranh được hình thành trong nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường tạo môi trường cho cạnh tranh vận hành, cạnh tranh bị hạn chế trong nền kinh tế kế hoạch tập trung bao cấp.
Nền kinh tế thị trường với sự tồn tại đa hình thức sở hữu, thành phần kinh tế là tiền đề cơ bản cho cạnh tranh xuất hiện, tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, cơ chế cạnh tranh trong những điều kiện như vậy trong nhiều trường hợp chưa thực sự vận hành hiệu quả, thậm chí có thể bị tắc nghẽn do những khuyết tật của chính thị trường, đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước. Sự can thiệp hợp lý của nhà nước nhằm đảm bảo cơ chế cạnh tranh vận hành một cách hiệu quả. Khi cơ chế cạnh tranh không thể vận hành một cách suôn sẻ do thất bại của thị trường thì sự điều tiết hợp lý của nhà nước trong chính sách để cơ chế cạnh tranh vận hành hiệu quả là điều cần thiết.Nhà nước phải thực hiện, xây dựng chính sách cạnh tranh hiệu quả, môi trường cạnh tranh thông thoáng, bình đẳng, lành mạnh nhằm tránh thất bại của thị trường gây tổn hại đến năng lực cạnh tranh doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Nhu cầu, động lực cạnh tranh là lợi nhuận. Song chỉ có nền kinh tế thị trường là tiền đề cơ bản, tạo điều kiện cho cạnh tranh có thể vận hành được. Việc can thiệp của nhà nước nhằm điều tiết cạnh tranh, giúp cơ chế cạnh tranh được vận hành thông suốt trong trường hợp thất bại của thị trường là cần thiết trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
1.1.2 Vai trò, phân loại cạnh tranh hàng hóa
1.1.2.1 Vai trò của cạnh tranh hàng hóa
Cạnh tranh hàng hóa có những vai trò sau:
Cạnh tranh hàng hoá là động lực cho sự phát triển kinh tế. Một mặt nó, giúp loại bỏ những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, mặt khác nó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả có cơ hội phát triển.
Cạnh tranh hàng hoá rút ngắn khoảng cách từ sản xuất tới tiêu dùng, do cạnh tranh ngày càng quyết định các doanh nghiệp phải tìm hiểu nghiên cứu nhu cầu để có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Doanh nghiệp sẽ tìm mọi cách để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải cắt giảm chi phí sản xuất sản phẩm, tăng năng suất nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, cũng như cung cấp cho khách hàng những sản phẩm tốt với giá rẻ hơn đối thủ cạnh tranh. Để đạt được mục tiêu, doanh nghiệp buộc phải sử dụng hợp lý nguyên liệu đầu vào, tránh lãng phí. Đồng thời, đổi mới công nghệ sản xuất, mua sắm dây chuyền công nghệ hiện đại nhằm tăng năng suất chất lượng sản phẩm. Như vậy, cạnh tranh hàng hoá buộc các doanh nghiệp phải sử dụng tài nguyên có hiệu quả hơn và phải áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất.
1.1.2.2 Phân loại cạnh tranh
Tùy vào giác độ nghiên cứu, có thể phân loại cạnh tranh theo các tiêu thức chủ yếu sau:
* Xét theo chủ thể cạnh tranh:
Xét theo chủ thể cạnh tranh sẽ có các loại hình:
Thứ nhất: Cạnh tranh giữa người bán với người mua: Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt. Người bán luôn mong muốn bán hàng hoá của mình với giá cao nhất, còn người mua lại muốn mua ở mức giá thấp nhất.
Thứ hai: Cạnh tranh giữa những người mua: Là cuộc cạnh tranh trên cơ sở quy luật cung cầu. Khi cung một loại hàng hoá dịch vụ nào đó nhỏ hơn mức cầu thì cuộc cạnh tranh sẽ diễn ra quyết liệt hơn. Gía cả hàng hoá và dịch vụ đó sẽ tăng nhanh. Kết quả cuối cùng là người bán thu được lợi nhuận cao, tuy nhiên người mua lại phải chịu thiệt thòi.
Thứ ba: Cạnh tranh giữa những người bán: Là cuộc cạnh tranh gay go và quyết liệt nhất. Cuộc cạnh tranh này thường diễn ra trong trường hợp cung lớn hơn cầu. Thực chất cạnh tranh giữa những người bán là sự giành giật các lợi thế trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ nhằm thu được lợi nhuận lớn nhất.
* Xét theo sự khác biệt về sở hữu tư liệu sản xuất của chủ thể kinh tế:
Các thành phần kinh tế đều nằm trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, có mối liên hệ thống nhất và mâu thuẫn với nhau. Chính từ sự thống nhất và mâu thuẫn này làm nảy sinh cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế với nhau.
* Xét theo tính chất của phương thức cạnh tranh:
Để cạnh tranh thành công không ít các chủ thể kinh tế đã dùng các biện pháp cũng như thủ đoạn để đạt được mục tiêu của mình. Họ dùng các thủ đoạn phi pháp nhằm tiêu diệt đối phương chứ không phải bằng nỗ lực thực sự của chính mình gọi là cạnh tranh không lành mạnh(Healthy Competion). Cạnh tranh mà sử dụng các thủ đoạn phi pháp nhằm tiêu diệt đối thủ cạnh tranh gọi là cạnh tranh không lành mạnh( Unfair Competion)
* Xét theo hình thái cạnh tranh:
Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Competition) hay gọi là cạnh tranh thuần tuý (Pure Competition) là tình trạng cạnh tranh mà giá cả của một loại hàng hoá là không đổi trong toàn bộ các nơi của thị trường do có nhiều người bán và người mua, họ có đủ thông tin về các điều kiện của thị trường. Thực tế, rất ít tồn tại hình thái cạnh tranh này.
Cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect Competition) là hình thái chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất kinh doanh. Ở đó, các nhà sản xuất bán hàng đủ mạnh để chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường hoặc từng nơi, từng khu vực cụ thể.
Trong cạnh tranh không hoàn hảo lại phân ra ba loại là:
Độc quyền
Độc quyền nhóm
Cạnh tranh mang tính chất độc quyền.
Ngoài các loại hình cạnh tranh đã nêu trên, người ta còn xét theo một số tiêu chí khác nữa như phạm vi, lợi thế tài nguyên, nhân lực, đặc điểm tập quán sản xuất, tiêu dùng, văn hoá địa lý ở từng khu vực, từng quốc gia khác nhau.
1.1.3 Khái niệm về năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm may mặc của doanh nghiệp
Khi nói đến khái niệm sức cạnh tranh (năng lực cạnh tranh) người ta rất khó có thể định nghĩa chung chung, thông thường định nghĩa về năng lực cạnh tranh thường sẽ định nghĩa cụ thể hơn về phạm vi cũng như cấp độ.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết hợp cho cả doanh nghiệp, ngành và quốc gia như sau: “Sức cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.” Định nghĩa này đã phản ánh được khái niệm cạnh tranh quốc gia trong mối liên hệ gắn kết với hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và mức sống nhân dân.
Năng lực cạnh tranh (còn gọi là sức cạnh tranh; Anh: Competitive
Power) khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp (Từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB Từ điển Bách khoa Hà Nội).
Theo định nghĩa này, có thể hiểu sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh khả năng cạnh tranh, tính cạnh tranh đều có nội dung tương tự nhau và hiểu tên của chúng một cách nhất quán trong đề tài này là "năng lực cạnh tranh".
Các cấp độ của cạnh tranh:
- Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
- Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
Năng lực cạnh tranh ở bốn cấp độ phân biệt trên đây có mối tương quan mật thiết với nhau, phụ thuộc lẫn nhau.
Trong phạm vi đề tài sẽ xem xét chủ yếu tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm mà cụ thể là năng lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc.
Khái niệm năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa là gì?
Năng lực cạnh tranh của một sản phẩm là sự thể hiện thông qua các lợi thế so sánh đối với sản phẩm cùng loại.
Lợi thế so sánh của một sản phẩm bao hàm các yếu tố bên trong và bên ngoài tạo nên, như năng lực sản xuất, chi phí sản xuất , chất lượng sản phẩm, dung lượng thị trường của sản phẩm... Khi so sánh cùng một loại sản phẩm của hai doanh nghiệp sản xuất khác nhau A, B, và nói rằng sản phẩm A có năng lực cạnh tranh hơn sản phẩm của B là nói đến những lợi thế vượt trội của sản phẩm do A sản xuất, như doanh nghiệp A có năng lực sản xuất lớn hơn, có chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm thấp hơn, dung lượng thị trường chiếm lĩnh được lớn hơn…
Còn nếu so sánh với sản phẩm cùng loại nhập khẩu thì yếu tố lợi thế được thể hiện cơ bản qua giá bán sản phẩm, giá trị sử dụng của sản phẩm và một phần không nhỏ là tâm lý tiêu dùng.
Có thể thấy rằng, khái niệm năng lực cạnh tranh là một khái niệm động, được cấu thành bởi nhiều yếu tố và chịu sự tác động của cả môi trường vi mô và vĩ mô. Một sản phẩm có thể năm nay được đánh giá là có năng lực cạnh tranh, nhưng năm sau, hoặc năm sau nữa lại không còn khả năng cạnh tranh nếu không giữ được các yếu tố lợi thế. Nhìn chung, các sản phẩm nhóm may mặc, đặc biệt là hàng may sẵn, hàng tơ tằm và vải dệt kim hiện nay đang có năng lực cạnh tranh cao và trong giai đoạn 2006 - 2010, cơ bản vẫn giữ được mức độ cạnh tranh.
Theo
*So sánh năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sẽ không có năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá cao khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là hai phạm trù khác nhau nhung có quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có được do năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra. Nhưng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của hàng hoá, mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá lại có ảnh hưởng lớn tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng một doanh nghiệp tồn tại trong kinh doanh và đạt được một số kết quả mong muốn dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất lượng các hàng hoá cũng như năng lực của doanh nghiệp để khai thác các cơ hội thị trường hiện tại và làm nảy sinh các thị trường mới.
Trong quá trình kinh doanh có nhiều yếu tố tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như các yếu tố do doanh nghiệp chi phối đó là chiến lược cạnh tranh, đào tạo lao động và công tác Maketing… Ngoài ra, còn có các yếu tố thuộc môi trường ngoài doanh nghiệp như đối thủ cạnh tranh, chính sách đầu tư, chính sách thương mại của đối thủ…
Năng lực cạnh tranh của hàng hoá được nhận biết qua lợi thế cạnh tranh của hàng hoá đó với các hàng hoá khác cùng loại. Lợi thế của hàng hoá bao gồm nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài tác động đến. Đó là giá cả, chất lượng, hình thức, chủng loại hàng hoá… Qua các khái niệm trên, có thể thấy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sức cạnh tranh của hàng hoá có mối quan hệ mật thiết, phụ thuộc vào nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao phải có hàng hoá có năng lực cạnh tranh cao. Như vậy,sức cạnh tranh của hàng hoá là cốt lõi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.4 Đặc điểm về sản phẩm may mặc.
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu ăn mặc của con người không chỉ dừng ở “ mặc ấm” mà chuyển lên mức cao hơn là “mặc đẹp”, do vậy, những sản phẩm may mặc được bán trên thị trường không chỉ đáp ứng nhu cầu “mặc” của người tiêu dùng mà phải đáp ứng cả nhu cầu “mặc đẹp”. Như vậy, đối với sản phẩm may mặc trong xã hội phát triển ngày nay thì vấn đề quan tâm đó chính là thời trang. Sản phẩm phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng thì sản phẩm đó sẽ bán rất chạy và ngược lại. Sản phẩm may mặc có vòng đời rất ngắn, nó phụ thuộc vào nhu cầu sở thích của người tiêu dùng và khi nó không còn đáp ứng nhu cầu thị hiếu tiêu dùng nữa, vòng đời của sản phẩm sẽ kết thúc. Mà sở thích về thời trang của con người nhanh thay đổi, có thể thay đổi theo mùa, theo tháng và lâu hơn là theo năm. Một đặc điểm nữa của sản phẩm may mặc là tính mùa vụ với những mùa khác nhau thì có những mẫu quần áo phù hợp đặc trưng theo mùa. Đòi hỏi các nhà thiết kế cần phải có sự sáng tạo, nghiên cứu nhu cầu trước khi đưa ra thị trường những sản phẩm mới.
1.2 Chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc.
*Chỉ tiêu mang tính định tính
1.2.1 Chất lượng sản phẩm.
Chất lượng của sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm và cũng là yếu tố quan trọng đầu tiên được sử dụng để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Chất lượng sản phẩm chịu tác động của nhiều yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề của người lao động.
Chất lượng sản phẩm được nâng cao dẫn tới tăng tốc độ tiêu thụ tăng, tăng khối lượng hàng hoá bán ra và kéo dài chu kỳ sống của hàng hoá, từ đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Khi hàng hoá có chất lượng cao dẫn tới tăng uy tín của doanh nghiệp từ đó mở rộng thị phần doanh nghiệp góp phần tăng sức cạnh tranh của hàng hoá.
Vì vậy, chất lượng hàng hoá là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với một doanh nghiệp bởi vì, chất lượng hàng hoá thấp đồng nghĩa với việc giảm uy tín, mất khách hàng và nhanh chóng phá sản.
Để tăng cường khả năng cạnh tranh và thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại cạnh tranh gay gắt cần hiểu rõ và đúng đắn hơn về sản phẩm. Sản phẩm là sự thỏa mãn nhu cầu nào đó của khách hàng, một sản phẩm được xác định theo cách nhìn của nhà doanh nghiệp chưa hẳn đã là một sản phẩm mà khách hàng mong muốn. Một sản phẩm tốt theo khách hàng là một sản phẩm có chất lượng “vừa đủ”. Khi đưa một sản phẩm nào đó ra thị trường doanh nghiệp cần nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, để đưa ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của khách hàng mà doanh nghiệp muốn nhắm tới. Bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái doanh nghiệp có. Sản xuất một sản phẩm có chất lượng tốt phải theo đánh giá của khách hàng
1.2.2 Mức độ hấp dẫn của sản phẩm là kiểu dáng, màu sắc, bao bì nhãn hiệu tính độc đáo tới khách hàng.
Một sản phẩm chỉ có chất lượng tốt chưa phải là một sản phẩm hoàn thiện, nó sẽ chỉ đáp ứng, thỏa mãn một nhu cầu của khách hàng mà thôi, trong đó, nhu cầu của khách hàng ngày càng phong phú đa dạng theo sự phát triển của xã hội. Khi khách hàng mua sản phẩm ngoài mục đích giá trị sử dụng của sản phẩm, khách hàng còn có nhu cầu thể hiện địa vị khi sử dụng sản phẩm. Mẫu mã sản phẩm cũng như kiểu dáng giúp khách hàng thỏa mãn nhu cầu này, một chiếc xe sang trọng, một sản phẩm có bao bì trang trí bắt mắt sang trọng sẽ được khách hàng lựa chọn thay vì phải lựa chọn sản phẩm không được đẹp mặc dù chất lượng có thể hơn hoặc ngang bằng. Mức độ hấp dẫn tạo ra sức cạnh tranh của hàng hoá vì nó mang lại những đặc thù riêng biệt của hàng hoá này so với hàng hoá khác. Nhu cầu con người càng đa dạng, hàng hoá phải đáp ứng được tính đa dạng trong nhu cầu đó thể hiện những giá trị, yếu tố trong cuộc sống của khách hàng. Đặc biệt, với sản phẩm may mặc tính thời trang nhu cầu về kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm rất cao. Chính sự khác biệt của hàng hoá này so với hàng hoá khác đã đem lại những giá trị khác nhau cho những hàng hoá khác nhau. Sự khác biệt này tạo ra sức cạnh tranh rất lớn cho hàng hoá. Vì vậy, bên cạnh công tác nâng cao chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp cần chú ý tới kiểu dáng, mẫu mã hình thức bên ngoài của sản phẩm tạo nên tính độc đáo hấp dẫn của sản phẩm, sự khác biệt hóa theo hướng tích cực nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh so với sản phẩm của đối thủ.
1.2.3 Uy tín thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường.
Uy tín thương hiệu được hình thành dựa trên chất lượng, các dịch vụ sau bán hàng, thời gian giao hàng,… Một thương hiệu có uy tín với khách hàng thì đồng nghĩa với việc có lợi thế trong cạnh tranh. Khách hàng khi đó tin rằng họ đang tiêu dùng một hàng hoá có chất lượng cao, các dịch vụ kèm theo tốt…Do đó, hàng hoá đưa ra thị trường có thể nhanh chóng thu hút được người tiêu dùng. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp giảm một phần chi phí cho việc thu hút khách hàng, khách hàng sẽ trung thành với thương hiệu hàng hoá hơn.
Thương hiệu hàng hóa có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng phát triển và năng lực cạnh tranh của một sản phẩm. Thương hiệu thường gắn với sản phẩm và được sử dụng để xác định sản phẩm của từng doanh nghiệp nên khách hàng thường mua sản phẩm thông qua thương hiệu. Một thương hiệu tốt đồng nghĩa với một sản phẩm tốt và ngược lại. người tiêu dùng tìm mua sản phẩm trên cơ sở các mức đọ đánh giá khác nhau về hình ảnh của nhãn hiệu trên thị trường. Mức độ chấp nhận thương hiệu tương ứng với mức độ chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp. Như vậy, thương hiệu có tầm quan trọng và ảnh hưởng ngày càng lớn đến năng lực cạnh tranh của một sản phẩm.
*Các chỉ tiêu mang tính định lượng
1.2.3 Chi phí sản xuất sản phẩm.
Chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong một thời kỳ nhất định để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các chi phí sản xuất, mua hàng, chi phí bảo quản, chi phí lưu thông, chi phí quản lý. Chi phí kinh doanh có ảnh hưởng lớn đến giá thành sản phẩm, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp do đó ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Chi phí thấp chính là bước khởi đầu để có thể cạnh tranh, sự phát triển kinh doanh năng động mới tận dụng được lợi thế so sánh chi phí để từ đó nâng cao khả năng về chất, nhờ đó mà nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm dựa trên yếu tố chi phí là đánh giá các chỉ tiêu về chi phí liên quan đến sản phẩm ( giá thành sản phẩm)
1.2.4 Giá bán sản phẩm.
Chất lượng và giá cả là hai yếu tố thường xuyên đi liền với nhau. Chất lượng sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm, song một sản phẩm có chất lượng rất tốt nhưng đồng thời giá của nó cũng lại quá cao so với sự đánh giá của khách hàng mục tiêu mà nó nhắm tới thì nó cũng không thể có sức cạnh tranh lớn khi đưa ra thị trường. Do vậy, doanh nghiệp cần có chính sách giá hợp lý mà sản phẩm lại có chất lượng tốt có thể bán sản phẩm chất lượng tốt với giá rẻ. Để đạt được mục tiêu trên doanh nghiệp cần phải cắt giảm những chi phí không cần thiết, sao cho giá sản xuất sản phẩm thấp, như vậy doanh nghiệp mới có thể hạ giá thành sản phẩm.
Giá thành hàng hoá là giá trị của tất cả các yếu tố đầu vào hình thành nên hàng hoá như chi phí nguyên vật liệu, chi phí lương công nhân sản xuất… trên cơ sở đó xác định giá cả của hàng hoá.
Muốn giá cả thấp doanh nghiệp phải tìm cách hạ giá thành tức là phải tận dụng hợp lý các nguồn lực sẵn có, đồng thời đổi mới thiết bị và công nghệ sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý… có như vậy mới hạ giá thành từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá.
Giá bán = Giá thành sản xuất + Chi phí liên quan + Lợi nhuận dự kiến
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng có quyền lựa chọn cho mình những hàng hoá tốt nhất và cùng một loại hàng hoá thì chắc chắn họ sẽ lựa chọn hàng hoá có giá thấp hơn. Vì vậy, giá là công cụ cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường. Để chiếm ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải có các chính sách giá thích hợp cho từng loại hàng hoá, từng giai đoạn trong chu kỳ sống của hàng hoá hay tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng vùng thị trường.
1.2.5 Khả năng sinh lợi trên một đơn vị sản phẩm :
Lợi nhuận một đơn vị sản phẩm đem lại là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp biểu hiện kết quả kinh doanh sản phẩm của doanh nghiệp. Lợi nhuận không chỉ có ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm mà nó còn là động lực, mục tiêu của cạnh tranh, cạnh tranh chỉ là một trong những cách phổ biến nhất để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm bị chi phối bởi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chính là khả năng duy trì được lợi nhuận và thị phần trên thị trường. Không thể tồn tại được lâu dài một sản phẩm có khả năng sinh lời thấp mà lại có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường. Một sản phẩm không có khả năng sinh lời hay khả năng sinh lời thấp thì sớm muộn cũng sẽ bị thay thế bởi các sản phẩm khác. Đồng thời, một sản phẩm có khả năng sinh lời cao sẽ tạo nhiều điều kiện để góp phần cải tiến sản phẩm, nâng cao chất lượng, hạ giá thành... từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
1.2.6 Tốc độ tăng doanh thu, tốc độ tăng thị phần
*Tốc độ tăng doanh thu: Là một chỉ tiêu mang tính tuyệt đối thể hiện sức cạnh tranh của hàng hoá. Hàng hoá mà có sức cạnh tranh lớn sẽ bán được nhiều, làm tăng doanh thu hơn những hàng hoá có sức cạnh tranh yếu, sẽ bán được ít.
Doanh thu của hàng hóa đạt mức cao trên thị trường chứng tỏ được thị trường chấp nhận, khách hàng ưa chuộng. Sự chấp nhận của khách hàng thể hiện hàng hóa đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Như vậy, tăng doanh thu nghĩa là hàng hóa thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, mức độ thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng phản ánh sức cạnh tranh của hàng hóa cao hơn.
Tăng doanh thu của hàng hóa có thể đạt được thông qua tăng giá bán, trong khi giữ nguyên số lượng hàng may mặc cung ứng trên thị trường. Điều đó khó có thể xảy ra đối với hàng hóa chưa có thương hiệu nổi tiếng trên thị trường và trong môi trường tự do hóa thương mại. Hơn nữa, khi tự do hoá thương mại diễn ra. Xu hướng chung của hàng hóa trên thế giới đều giảm giá bán.
Tăng doanh thu bán hàng bằng cách bán giá thấp hơn và đưa ra thị trường số lượng hàng hóa lớn hơn, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại. Đây chính là xu hướng chung của các nhà sản xuất và kinh doanh hàng hoá trên thế giới nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá.
*Tốc độ tăng thị phần
Thị phần được tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán hàng hóa của doanh nghiệp so với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa đó trên một thị trường và trong một thời gian nhất định.
Thị phần càng lớn thì nó biểu hiện hàng hoá của doanh nghiệp được nhiều người tiêu dùng trên thị trường đó chấp nhận. Khi đó, sức cạnh tranh của hàng hóa đó là lớn. Còn khi chỉ tiêu này nhỏ thì nó biểu hiện hàng hóa đó của doanh nghiệp có sức cạnh tranh kém. Điều đó buộc doanh nghiệp phải xem xét để cải tiến mặt hàng hoặc đưa ra các chính sách sản phẩm khác để nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm đó hoặc có thể dừng sản xuất mặt hàng đó nếu không thể cạnh tranh nổi so với đối thủ.
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội thì môi trường bên ngoài doanh nghiệp luôn luôn biến đổi và đã ảnh hưởng không nhỏ đến sức cạnh tranh của hàng hoá của doanh nghiệp
1.3.1 Nhóm các yếu tố vĩ mô.
Tăng trưởng kinh tế là nhân tố tác động trực tiếp đến sức mua của xã hội, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất.
Đầu tư mang lại động lực chủ yếu cho nâng cao sức cạnh tranh của các hàng hoá. Đầu tư là yếu tố rất quan trọng có tích chất quyết định đến việc đẩy nhanh tốc độ tăng sản xuất hàng hoá.
Mở cửa thương mại đòi hỏi nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, tăng xuất khẩu và tiến hành dỡ bỏ hàng rào nhập khẩu.
Tiến bộ khoa học và kỹ thuật ảnh hưởng mạnh mẽ đến chi phí sản xuất và ch._.ất lượng sản phẩm hàng hoá.
Bối cảnh quốc tế như xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá đang gia tăng trở thành đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới sẽ tạo ra những thuận lợi, những cơ hội cũng như những thách thức cho việc cạnh tranh của hàng hoá.
Các yếu tố chính trị luật pháp, chính sách kinh tế ảnh hưởng …có tác động đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nếu sản phẩm được nhà nước khuyến khích sử dụng sẽ được ưu đãi về thuế, hoặc hỗ trợ về giá làm cho giá sản phẩm đó giảm đồng nghĩa với việc làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm đó so với các sản phẩm cùng loại khác. Và ngược lại bị các chính sách hạn chế tiêu dùng sản phẩm như rượu bia cấm quảng cáo tác động đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm và thấp hơn so với các hàng hóa khác.
1.3.2 Nhóm các yếu tố vi mô.
* Doanh nghiệp không kiểm soát được
Theo M. Porter thì có 5 lực lượng tác động đến cạnh tranh của doanh nghiệp đó là các nhân tố cạnh tranh liên quan đến cùng một ngành của doanh nghiệp như về khách hàng, nhà cung ứng, hay đối thủ cạnh tranh trực tiếp đang và sẽ tham gia vào lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp như đối thủ cạnh tranh tiềm tàng, đối thủ cạnh tranh hiện tại và các sản phẩm thay thế.
Đối thủ cạnh tranh hiện tại
Các đối thủ cạnh tranh hiện tại là những công ty, doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh trong một ngành công nghiệp nhất định, những công ty, doanh nghiệp này đã vượt qua được những rào cản để xâm nhập vào ngành hoặc những hãng muốn rút lui khỏi ngành nhưng chưa có cơ hội.
Các lĩnh vực cần tìm hiểu về tiềm năng của đối thủ cạnh tranh bao gồm chủng loại sản phẩm, chính sách marketing, tiềm lực tài chính, nguồn nhân lực và trình độ quản lý, khả năng về công nghệ, những cơ hội đầu tư, các quan hệ xã hội của đối thủ,…
Những điểm mạnh, điểm yếu; cơ hội và thách thức phản ánh khả năng thích nghi của đối thủ cạnh tranh trước những thay đổi của môi trường kinh doanh. Nếu đối thủ cạnh tranh nào có nhiều điểm mạnh hay cơ hội thì khả năng thích nghi của họ với những thay đổi của môi trường kinh doanh càng lớn và ngược lại.
Khách hàng
Tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều nhằm làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Nếu doanh nghiệp nào càng đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng so với các đối thủ cạnh tranh thì họ càng nhận được sự ủng hộ và sự trung thành từ phía khách hàng.
Trong điều kiện một ngành có sự cạnh tranh gay gắt thì vai trò của khách hàng càng trở nên quan trọng và cần được ưu tiên hơn. Một doanh nghiệp không thể thỏa mãn được tất cả nhu cầu của các loại khách hàng. Cho nên, nhất thiết các doanh nghiệp phải phân loại khách hàng thành các nhóm khác nhau. Trên cơ sở đó mới tiến hành phân tích và đưa ra các chính sách thích hợp để thu hút ngày càng nhiều khách hàng về phía mình.
Các nhà cung ứng
Các nhà cung ứng bao gồm các nhà cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động của một số công ty, như các nhà cung cấp vốn, nguyên vật liệu cho sản xuất, nhân công, … Các nhà cung ứng có thể gây một áp lực khá mạnh tới hoạt động của công ty. Cho nên, việc phân tích và tìm hiểu các nhà cung ứng là vấn đề quan trọng trong quá trình phân tích cạnh tranh.
Các nhà cung cấp nguyên, vật liệu cho sản xuất: Những nhà cung ứng này có thể gây khó khăn cho doanh nghiệp bằng cách tăng giá cung ứng hoặc giảm mạnh chất lượng các yếu tố cung ứng. Yếu tố làm tăng thế mạnh của các nhà cung ứng cũng tương tự như yếu tố làm tăng thế mạnh của khách hàng. Ví dụ như yếu tố số lượng người cung cấp ít, không có mặt hàng thay thế khác và không có nhà cung ứng chào bán sản phẩm có tính khác biệt. Nếu nhà cung ứng có được điều kiện thuận lợi như vậy thì các doanh nghiệp mua hàng cần cải thiện quan hệ của họ thông qua việc tác động vào các yếu tố nói trên.
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Khi một ngành có sự gia tăng thêm số lượng các đối thủ cạnh tranh mới thì hệ quả có thể là tỷ suất lợi nhuận bị giảm và tăng thêm mức độ cạnh tranh. Các đối thủ cạnh tranh mới tham gia vào thị trường sau, nên họ có khả năng ứng dụng những thành tựu mới của khoa học, công nghệ.
Khi đối thủ cạnh tranh mới xuất hiện thì vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ thay đổi. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải tự tạo ra một hàng rào ngăn cản sự xâm nhập của các đối thủ mới. Những hàng rào này là lợi thế sản xuất theo quy mô, đa dạng hóa sản phẩm, sự đòi hỏi có nguồn tài chính lớn, chi phí chuyển đổi mặt hàng cao, khả năng hạn chế xâm nhập các kênh tiêu thụ.
Sản phẩm thay thế
Nếu không chú ý đến các sản phẩm thay thế tiềm ẩn, doanh nghiệp có thể bị tụt lại ở các thị trường nhỏ bé. Vì vậy, các hãng không ngừng nghiên cứu và tung ra các mặt hàng thay thế.
Phần lớn các sản phẩm thay thế là kết quả của sự phát triển bùng nổ về công nghệ trong vài thập kỷ trở lại đây. Muốn đạt được thành công, các hãng phải luôn ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất.
*Nhóm các yếu tố doanh nghiệp kiểm soát được
Ngoài các nhân trên ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp thì các nhân tố thuộc bên trong doanh nghiệp cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sức cạnh tranh của hàng hoá. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp bao gồm nguồn nhân lực, năng lực tài chính, năng lực về vật chất kỹ thuật, trình độ tổ chức quản lý và một loạt các hoạt động Maketing, mạng lưới phân phối để đưa sản phẩm tới khách hàng một cách tốt nhất.
Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là tài sản quý giá của doanh nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực của công ty bao gồm từ các nhà lãnh đạo, các nhân viên, người lao động. Nếu ban lãnh đạo có trình độ quản lý cao, có nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường, có khả năng đánh giá và quan hệ đối ngoại tốt thì doanh nghiệp đó sẽ có sức cạnh tranh cao và ngược lại
Đội ngũ nhân viên, người lao động: Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp chịu sự chi phối của đội ngũ này thông qua các yếu tố: năng suất lao động, trình độ tay nghề, ý thức trách nhiệm, kỷ luật lao động, sự sáng tạo…bởi vì các yếu tố này chi phối tới việc nâng cao chất lượng hàng hoá, giảm giá thành cũng như tạo thêm tính ưu việt, độc đáo, mới lạ của hàng hoá.
Năng lực tài chính
Khả năng tài chính được hiểu là quy mô tài chính của doanh nghiệp và tình hình hoạt động. Các chỉ tiêu tài chính hàng năm như tỷ lệ thu hồi vốn, khả năng thanh toán… Nếu một doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, khả năng huy động vốn lớn sẽ cho phép doanh nghiệp có nhiều vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ máy móc thiết bị, tăng khả năng hợp tác đầu tư về liên doanh liên kết. Tình hình sử dụng vốn cũng sẽ quyết định chi phí về vốn của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
Năng lực về vật chất kỹ thuật
Năng lực về vật chất kỹ thuật thể hiện trình độ công nghệ hiện tại và khả năng có được các công nghệ đó đồng thời nó thể hiện qui mô, năng lực sản xuất của doanh nghiệp
Nếu quy mô và năng lực sản xuất lớn sẽ giúp doanh nghiệp tạo ra khối lượng hàng hoá lớn hơn từ đó giảm giá thành tạo thỏa mãn nhu cầu của những khách hàng nhạy cảm về giá, có năng lực vật chất kỹ thuật doanh nghiệp có khả năng đáp ứng những nhu cầu của khách hàng nhanh chóng, kịp thời những đòi hỏi mang tính kỹ thuật. Doanh nghiệp có khả năng chiếm lĩnh thị trường, tăng thị phần và xâm nhập thị trường sâu hơn đối thủ cạnh tranh.Vì vậy, để đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải có được những công nghệ tiên tiến hiện đại, đồng thời tránh lãng phí công suất thiết bị nếu không lúc đó chi phí cố định vào giá thành cao từ đó làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá.
Trình độ tổ chức quản lý
Trình độ tổ chức quản lý thể hiện thông qua cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị, hệ thống thông tin quản lý, bầu không khí và đặc biệt là nề nếp hoạt động của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp biết tập hợp sức mạnh đơn lẻ của các thành viên và biến thành sức mạnh tổng hợp thì doanh nghiệp đó sẽ vững mạnh. Doanh nghiệp cần phải xây dựng cơ cấu phòng ban hợp lý, quyền hạn và trách nhiệm được xác định rõ ràng. Một nề nếp tốt có thể dẫn dắt mọi người tích cực hơn trong công việc và lôi kéo họ vào quá trình đạt tới mục tiêu chung của doanh nghiệp. Tạo một bầu không khí thoải mái, thân thiện, trách nhiệm có chế độ khen thưởng hợp lý sẽ tạo cho nhân viên có niềm tin vào doanh nghiệp và từ đó có thể giúp họ có nên gắn bó doanh nghiệp, trung thành với công ty hay không. Buộc doanh nghiệp phải có chính sách thu hút nhân tài, cũng như giữ chân nhân tài để họ có thể tự nguyện cống hiến sức mình cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Hoạt đông Marketing, mạng lưới phân phối, công tác bán hàng
Nhiệm vụ chính của Marketing là nghiên cứu, phát hiện các nhu cầu thị hiếu, nhu cầu thị trường và hoạch định các chiến lược hữu hiệu về sản phẩm, giá cả, phân phối phù hợp với thị trường mà doanh nghiệp đang vươn tới. Từ đó, xây dựng mạng lưới phân phối phù hợp để đưa hàng hóa tới người tiêu dùng một cách nhanh nhất.
Để tiêu thụ hàng hoá, doanh nghiệp cần lựa chọn các kênh phân phối, từ đó có các chính sách phân phối sản phẩm hợp lý, hiệu quả đúng nhu cầu của khách hàng. Đối với từng mặt hàng khác nhau doanh nghiệp cần xây dựng hệ thống phân phối phù hợp với từng mặt hàng để đạt hiệu quả tối ưu.
Nhóm yếu tố về sản phẩm: Năng lực cạnh tranh của sản phẩm trước hết phụ thuộc vào chính các đặc tính của sản phẩm như : chất lượng của sản phẩm, kiểu dáng, màu sắc, bao bì nhãn hiệu, tính độc đáo của sản phẩm.
Một sản phẩm có năng lực cạnh tranh khi nó có khả năng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, trong các loại nhu cầu thì nhu cầu về chất lượng thường là nhu cầu được quan tâm đầu tiên khi quyết định mua sản phẩm.
Đối với sản phẩm may mặc nhu cầu về hợp thời trang của sản phẩm đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng không nhỏ tới quyết định mua hàng của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, bên cạnh chất lượng của sản phẩm thì các yếu tố kèm theo như bao bì, kiểu dáng, màu sắc, tính độc đáo của sản phẩm cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người tiêu dùng, tức đồng nghĩa với việc nó có ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Như vậy, chất lượng của sản phẩm, các yếu tố đi kèm bao gồm kiểu dáng, màu sắc, bao bì nhãn hiệu, tính độc đáo của sản phẩm là những yếu tố quan trọng đầu tiên có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của một sản phẩm trên thị trường .
Trên đây, là những yếu tố chủ yếu tác động tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm, nó có thể gây tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm, tác động tiêu cực hay tích cực, mức độ ảnh hưởng như thế nào..?Doanh nghiệp cần nắm rõ để có những biện pháp phòng ngừa những rủi ro làm giảm năng lực cạnh tranh của sản phẩm, cũng như nắm bắt được những cơ hội để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM
MAY MẶC XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY
THĂNG LONG TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ
2.1 Giới thiệu khái quát về công ty
2.1.1. Tên công ty
* Công ty cổ phần May Thăng Long
*Tên giao dịch: Thang Long Garment Joint Stock Company_THALOGA., JSC.
*Tên viết tắt: Thaloga
Là doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa theo quyết định số 165/2003/QĐ-BCN của Bộ công nghiệp ngày 14 tháng 10 năm 2003.
Công ty hoạt động theo giấy chứng nhận đăng ký số 0103003573 ngày 13 tháng 01 năm 2004 của Sở Kế Hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội.
Thực hiện Quyết định số 165/TCLD-BCN ngày 14/10/2003 của Bộ Công nghiệp về việc chuyển công ty May Thăng Long thành công ty cổ phần May Thăng Long Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối 51% Công ty được cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh sửa đổi lần thứ nhất ngày 15/2/2007 do chuyển đổi chủ sở hữu và chuyển thành công ty 100% cổ phần do các cổ đông đóng góp và sửa đổi lần thứ 2 ngày 04/08/2007 do bổ sung ngành nghề kinh doanh của công ty.
Hiện nay, công ty là thành viên của Tập đoàn Dệt May Việt Nam.
*Địa chỉ giao dịch, liên lạc
*Trụ sở chính: 250 Minh Khai, phường Minh Khai, Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội
* Điện thoại: (84-4) 8 623 372; 8 623 053
* Fax : (84-4) 8 623 374
* Email : TGD.thaloga.vn
* Website :
* Các chi nhánh của Công ty
- Cơ sở 1: Trụ sở chính.
- Cơ sở 2: Xí nghiệp may Hà Nam-Xã Thanh Châu, Thị xã Phủ Lý, Hà Nam
- Cơ sở 3: Xí nghiệp may Nam Hải, 189 Nguyễn Văn Trỗi-Nam Định;
Điện thoại: (84-4) 843597;
- Cơ sở 4: Chi nhánh Công ty tại Hải Phòng, 226 Lê Lai, Ngô Quyền, Hồng Bàng, Hải Phòng (nhà xưởng hiện cho thuê);
Điện thoại: (84-31) 3979073;
- Hệ thống các cửa hàng:
Cửa hàng thời trang (250 Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội )
Trung tâm thương mại và giới thiệu sản phẩm ( 39 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội );
-Hệ thống đại lý:
Công ty kinh doanh hàng thời trang 25 Bà Triệu, Hà Nội.
Các cửa hàng đại lý tại các thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên…;
* Ngành nghề kinh doanh: Từ sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần, tháng 8 năm 2007 công ty đã bổ sung thêm ngành nghề kinh doanh, đa dạng hóa sản phẩm kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh của công ty ngày càng mở rộng. Nhưng sản phẩm mũi nhọn cũng như ngành kinh doanh chính của công ty vẫn là mặt hàng may mặc, dệt may. Chi tiết ngành nghề kinh doanh của công ty được công bố chi tiết trên website của công ty -
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần May Thăng Long.
Ngày 08/05/1958 Bộ Ngoại thương đã chính thức ra quyết định thành lập công ty may mặc xuất khẩu, thuộc Tổng công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm.
Trụ sở văn phòng công ty đóng tại số nhà 15 phố Cao Bá Quát-Hà Nội. Đây là sự kiện có ý nghĩa hết sức quan trọng, đánh dấu sự ra đời của 1 công ty may mặc xuất khẩu đầu tiên ở Việt Nam. Hàng công ty xuất sang các nước Đông Âu ( thuộc khối XHCN ) báo hiệu một triển vọng và 1 tương lai tươi sáng của ngành may mặc xuất khẩu Việt Nam hiện tại và tương lai.
Những ngày đầu bước vào sản xuất công ty đã gặp không ít khó khăn, nhất là không đủ chỗ cho các bộ phận sản xuất. Vì vậy, công ty đã chuyển địa điểm về 40 Phùng Hưng, có chỗ làm việc rộng hơn trước nhưng vẫn không đáp ứng được yêu cầu sản xuất nên bộ phận đóng gói, đóng hòm phải phân tán về 17 phố Chả Cá & Cửa Đông. Ở địa điểm mới, công nhân phải làm ca đêm cho kịp kế hoạch xuất khẩu. Những ngày đầu đi vào sản xuất, công ty gặp nhiều khó khăn. Những yêu cầu về kĩ thuật, về dây chuyền đòi hỏi phải có tính thống nhất. Đây là khó khăn cơ bản của công ty vì là công ty xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam, phải tự mò mẫm, rút kinh nghiệm và những khó khăn về tiêu chuẩn quốc tế, kỹ thuật, chất lượng sản phẩm đây là vấn đề hoàn toàn mới đối với công ty.
Do địa điểm sản xuất ở Phùng Hưng không còn đáp ứng yêu cầu của sản xuất nên công ty đã chuyển địa điểm về 139 Lò Đúc nhưng 1 số bộ phận sản xuất vẫn phân tán ở 1 số nơi.Cơ sở sản xuất không tập trung, dây chuyền sản xuất bị đứt đoạn, mất nhiều thời gian vận chuyển. Trước tình trạng đó, công ty triển khai 1 số biện pháp giải quyết kịp thời những khó khăn. Chỉnh đốn công tác quản lý, phát động phong trào thi đua, trang bị thêm máy móc công nghệ. Nghiên cứu và ứng dụng dây chuyền công nghệ mới trong sản xuất sản phẩm. Nhờ đó giảm được giá thành sản phẩm. Công ty đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Được Bộ chủ quản cho phép tháng 7/1961, công ty chuyển địa điểm về 250 Minh Khai, là trụ sở chính của công ty ngày nay. Các bộ phận phân tán trước, nay thống nhất thành 1 mối, tạo dây chuyền sản xuất khép kín khá hoàn chỉnh từ khâu nguyên liệu, cắt, may, là, đóng gói.
Công ty có sự thay đổi lớn về mặt tổ chức, theo quyết định của Bộ Ngoại thương, ngày 31/8/1965 đã tách bộ phận gia công với tên gọi Công ty gia công may mặc xuất khẩu -1 đơn vị sản xuất độc lập. Còn công ty may mặc xuất khẩu đổi thành xí nghiệp may mặc xuất khẩu. Ban chủ nhiệm đổi thành ban giám đốc. Việc đổi tên công ty thành xí nghiệp là 1 sự điều chỉnh về công tác tổ chức cho linh hoạt với tình hình sản xuất, tạo điều kiện đi vào lĩnh vực chuyên môn hóa mặt hàng xuất khẩu, nâng cao uy tín chất lượng sản phẩm.
Về công tác tổ chức sản xuất, xí nghiệp đã có khách hàng & hợp đồng xuất nhập khẩu ổn định. Để nâng cao năng suất, chất lượng, Bộ đã trang bị thêm cho xí nghiệp 178 máy chạy điện của cộng hòa dân chủ Đức, là loại máy mới, hiện đại. Đây chính là bước ngoặt chuyển từ sản xuất thủ công sang sản xuất công nghiệp. Trong bối cảnh công ty tách làm hai, một số cán bộ chủ chốt chuyển sang công ty gia công, xí nghiệp gặp một số khó khăn nhưng vẫn hoàn thành được tốt mọi chỉ tiêu kế hoạch được giao.
Thực hiện sự phân công sắp xếp lại của Bộ ngoại thương, tháng 4/1966 các cơ sở sản xuất thuộc tổng Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm tại Hà Nội, trong đó, xí nghiệp may mặc xuất khẩu phân cấp về Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, trực tiếp là sở ngoại thương chịu trách nhiệm quản lý về kế hoạch sản xuất, tổ chức cán bộ, còn về tài chính vật tư vẫn trực thuộc Bộ Ngoại Thương.
Việc phân cấp quản lý này, có rất nhiều hạn chế, vừa không toàn diện lại thiếu triệt để. Vì vậy, đến cuối tháng 6/1968 Ủy Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội hoàn trả cho cục quản lý sản xuất của Bộ Ngoại Thương.
Năm 1969 Bộ Ngoại Thương lại có quyết định sát nhập công ty gia công may mặc với xí nghiệp may xuất khẩu Hà Nội. Cuối năm 1971, Chấp hành quyết định của Hội Đồng Bộ trưởng, Bộ Ngoại Thương bàn giao các cơ sở may mặc xuất khẩu sang Bộ Công Nghiệp nhẹ quản lý.
Qua 3 năm thực hiện cải tiến công tác quản lý xí nghiệp (1969-1971) tuy còn nhiều mặt cần khắc phục, nhưng cơ bản xí nghiệp đã đạt được các thành tích đáng kể. Dấu ấn đáng ghi nhận, lần đầu tiên xí nghiệp gia công hàng may mặc của Pháp- bạn hàng có yêu cầu kĩ thuật chất lượng cao. Trong thời gian này, Bộ công nghiệp nhẹ đầu tư thêm máy móc thiết bị. Tình hình sản xuất những năm 1973-1975, có những tiến bộ rõ rệt. Những thành tích đạt được kể trên là do xí nghiệp đã áp dụng hệ thống tổ chức quản lý xí nghiệp và trả lương theo sản phẩm do đó đã góp phần kích thích sản xuất.
Trong các năm 1976-1980, xí nghiệp đã tập trung vào 1 số hoạt động chính : Đổi mới trang thiết bị, chuyển hướng sản xuất, nghiên cứu đổi mới dây chuyền có sự cộng tác giúp đỡ của chuyên gia Liên Xô, khuyến khích phát huy sáng kiến đã thu được những thành quả có ý nghĩa quan trọng.
Năm 1979, xí nghiệp được Bộ Công nghiệp nhẹ quyết định đổi tên mới: Xí nghiệp may Thăng Long. Năm 1981, xí nghiệp bắt đầu gia công áo sơ mi cho Cộng Hòa liên bang Đức với số lượng sản phẩm đặt hàng ngày càng tăng. Tiếp đến xí nghiệp nhận gia công cho Pháp và Thụy Điển.
Từ năm 1982 đến năm 1988, xí nghiệp đã đầu tư chiều sâu, đẩy mạnh sản xuất gia công hàng xuất khẩu, tập trung hướng mũi nhọn vào hàng xuất khẩu.
Năm 1983 Bộ Công Nghiệp nhẹ lấy là năm chất lượng sản phẩm và phát động phong trào thi đua toàn ngành. Xí nghiệp May Thăng Long được liên hiệp các xí nghiệp bình chọn là đơn vị điểm. Các loại hàng của công ty đều đạt chất lượng từ 99% trở lên.
Ghi nhận chặng đường phấn đấu 25 năm của xí nghiệp, năm 1983 Nhà nước đã trao tặng xí nghiệp May Thăng Long : Huân chương lao động hạng nhì.
Ngày 8/5/1988 Xí nghiệp long trọng đón nhận : Huân chương lao động hạng nhất.
Sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đã ảnh hưởng đặc biệt đối với một xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang các nước trong phe xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu. Xí nghiệp May Thăng Long đã: “mất trắng” thị trường của mình. Đối diện với khó khăn mang tính sống còn, làm sao và làm thế nào để duy trì sản xuất, bảo đảm công ăn việc làm cho hơn 3.000 lao động? Câu hỏi dần dần có lời giải đáp. Muốn tồn tại, phát triển trước hết xí nghiệp phải chú ý đầu tư trang thiết bị, hệ thống máy móc mới thay cho những trang thiết bị lạc hậu. Có như vậy mới nâng cao trình độ công nghệ, đủ khả năng sản xuất những mặt hàng mới cao cấp. Đồng thời phải tổ chức sắp xếp lại sản xuất, cải tiến các mặt quản lý cho phù hợp với yêu cầu mới. Một công việc hết sức quan trọng là phải đẩy mạnh công tác tiếp thị, tìm kiếm thị trường mới, tập trung vào những nước có tiềm năng kinh tế lớn mạnh như Tây Âu, Nhật Bản và chú ý hơn nữa thị trường nội địa.
Công ty đã đầu tư thay thế toàn bộ hệ thống thiết bị cũ bằng máy móc hiện đại nhập ngoại. Nhờ đổi mới trong khâu máy móc thiết bị mà năng suất sản xuất tăng gấp 3 lần, chất lượng được nâng cao. Mặt hàng quần bò của xí nghiệp ngay từ đầu đã có uy tín trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước. Điều đáng tự hào là những chiếc quần bò mài được làm từ nguyên liệu là vải sản xuất trong nước.
Theo định hướng chiến lược của xí nghiệp, ngay từ những năm 1990 xí nghiệp đã chú trọng tìm kiếm và mở rộng thị trường mới. Thời kỳ đó xí nghiệp đã ký nhiều hợp đồng gia công và ký hợp đồng bán sản phẩm cho nhiều công ty của Pháp, Đức, Thụy Điển đồng thời cũng tiếp cận thị trường các nước Châu Á như: Hàn Quốc, Nhật Bản. Trước kia, trong sản xuất vẫn thường tách rời các công đoạn: Cắt , may, là, đóng gói, đóng hòm, theo từng đơn vị sản xuất khác nhau làm cho năng suất thấp, lãng phí lao động…, nay tổ chức lại sản xuất theo dây chuyền khép kín. Các công đoạn sản xuất được thực hiện trọn vẹn trong 1 đơn vị sản xuất từ khâu đầu đến khâu cuối cùng, đưa năng suất ngày một cao. Xí nghiệp còn thực hiện tinh giảm bộ máy tổ chức, quản lý. Qua tổ chức lại sản xuất, năng lực sản xuất được nâng cao. Với kết quả đó, năm 1991 xí nghiệp là đơn vị đầu tiên trong ngành may được nhà nước cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp. Công ty được trực tiếp ký hợp đồng và tiếp cận với khách hàng, tích kiệm được chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Tháng 6/1992, xí nghiệp được Bộ Công nghiệp nhẹ, cho phép được chuyển đổi tổ chức từ xí nghiệp thành công ty và giữ nguyên tên gọi:“ Thăng Long”.
Công ty May Thăng Long ra đời, đồng thời cũng là mô hình công ty đầu tiên trong các xí nghiệp may mặc phía Bắc.
Thị trường rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của một công ty, do vậy lãnh đạo Công ty luôn chú trọng giữ vững thị trường đã có, đồng thời khai thác, mở rộng thị trường mới bằng cách đảm bảo uy tín với khách hàng, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo thời gian giao hàng và tăng cường thông tin quảng cáo. Vì thế, Công ty đã đàm phán và ký kết được nhiều hợp đồng kinh tế đảm bảo công ăn việc làm cho công nhân.
Từ năm 1994, Công ty thực hiện việc quản lý cải tiến sản xuất, từ chế độ hai ca một ngày sang chế độ một ca. Bộ máy quản lý gián tiếp tinh giảm, giám đốc trực tiếp điều hành và quản lý toàn bộ hoạt động của xí nghiệp. Sự cải tiến trên đem lại hiệu quả rõ rệt, năng suất lao động tăng 20%. Thu nhập của công nhân cũng tăng tương ứng với năng suất lao động. Việc quản lý kỹ thuật và chất lượng cũng được tăng cường, nên chất lượng sản phẩm ổn định. Bước đầu thiết kế các mẫu mốt để triển khai các đơn hàng FOB và một số mặt hàng mới như: Áo khoác dài, thảm treo tường… Khảo sát và đưa ra định mức thời gian chế tạo sản phẩm, các quy trình công nghệ để từ đó triển khai thực hiện. Công ty thường xuyên thực hiện công tác kiểm tra bảo dưỡng thiết bị, đảm bảo kỹ thuật an toàn, xử lý chất thải đảm bảo vệ sinh môi trường.
Năm 1995 Công ty đã mở thêm được nhiều thị trường mới và quan hệ hợp tác với nhiều Công ty nước ngoài có tên tuổi. Ngoài ra, Công ty còn thực hiện phương thức kinh doanh:“ Mua đứt bán đoạn” làm lợi doanh thu, đảm bảo tiền lương, chăm lo đủ tiêu chuẩn hàng phân phối cho công nhân.
Sau khi Mỹ tuyên bố bỏ cấm vận Việt Nam, Công ty là đơn vị đầu tiên của ngành may mặc Việt Nam đã xuất khẩu áo sơ mi bò sang thị trường Mỹ. Nhằm đảm bảo mô hình tổ chức phù hợp với tình hình thực tế của công ty, công ty sắp xếp lại các phòng ban cũng như tách các bộ phận để thực hiện các thủ tục nhanh gọn có hiệu quả, phát huy được sự sang tạo đồng thời cũng phân nhiệm vụ trách nhiệm rõ ràng đối với từng bộ phận.
Năm 1999, thị trường trong nước và thế giới luôn biến động, sức mua giảm, cạnh tranh gay gắt về giá. Do tính chất của mặt hàng kinh doanh mang tính thời vụ, nên số lượng các hợp đồng của công ty có phần giảm hơn so với trước, nguyên liệu, phụ liệu cung cấp cho các mã hàng luôn thiếu tính đồng bộ, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình sản xuất. Trong bối cảnh xu thế hội nhập,sẽ mang đến những cơ hội, những khó khăn. Nắm bắt được tình hình đó, một mặt Công ty thực hiện chủ trương giữ vững thị trường đã có, mặt khác khai thác mở rộng thị trường mới đặc biệt là thị trường Mỹ và các nước Tây Âu nhằm tăng nhanh sản phẩm xuất khẩu với nhiều chủng loại mới. Đẩy mạnh sản xuất các đơn hàng FOB, gia công sản xuất và tiêu thụ hàng nội địa thu hút nhiều khách hàng.
Năm 2001 Công ty tiếp tục xây dựng công trình nhà máy may Hà Nam. Từ tháng 1/2003 nhà máy đã chính thức đi vào sản xuất và xuất khẩu được 45.000 sản phẩm vào thị trường EU, Mỹ,Israel…Đặc biệt quan tâm đến thị trường EU, Nhật Bản, Mỹ. Năm 2001, công ty đã có nhiều sản phẩm, mặt hàng mới thâm nhập thị trường. Sản phẩm Vest nữ của Công ty được xuất khẩu sang thị trường Mỹ với số lượng lớn, được khách hàng ưa chuộng. Đối với thị trường nội địa, sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, chất lượng tốt, mẫu mã đẹp nên đã được giải thưởng Cúp Sen Vàng tại hội chợ xuất khẩu và tiêu dùng năm 2001.
Năm 2002 là năm Công ty có nhiêu thuận lợi và biến chuyển tốt ổn định và phát triển rộng thị trường, tăng nhanh năng lực sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho năm 2003. Năm 2002 đã xuất khẩu sang thị trường Mỹ được 5.500.000 sản phẩm, tăng 150% so với năm 2001.
Mạng lưới tiêu thụ hàng nội địa trên 80 đại lý phân bố rộng khắp trên cả nước. Nhiều sản phẩm của Công ty đạt huy chương Vàng, Bạc tại hội chợ Hàng Công Nghiệp Việt Nam. Hệ thống quản lý chất lượng của Công ty được BVQI (Vương Quốc Anh ) công nhận và cấp chứng chỉ ISO9001-2000.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Công ty :
Công ty may Thăng Long là công ty cổ phần do đó cơ chế hoạt động của bộ máy quản lý cũng không nằm ngoài quy luật của một công ty cổ phần.
PTGD PT TÀI CHÍNH & KD
P. KDTH
XN MAY NAM HẢI hHAhhHẢI,Hai
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN KIỂM SOÁT
TỔNG GIÁM ĐỐC
PTGD PTSX
PTGD PT KTCL
PTGD PT NỘI CHÍNH
P. KTTV
P. KHĐT
P.
TT
XN. PHỤ TRỢ
P.
KTCL
P. CBSX
VĂN PHÒNG
XN MAY 1
XN MAY 2
XN Dịch vụ đời sống
XN MAY 3
- Đại hội đồng cổ đông:
Là cơ quan có quyền lực cao nhất quyết định chiến lược phát triển của công ty, trên cơ sở đề xuất ý kiến của hội đồng quản trị công ty. Đại hội đồng cổ đông bầu ra Hội đồng quản trị và ban kiểm soát.
-Hội đồng quản trị có chức năng đại diện trực tiếp quản lý công ty, chịu trách nhiệm trực tiếp trước Đại hội đồng cổ đông và pháp luật và mọi hoạt động của Công ty. Đứng đầu Hội đồng quản trị là chủ tịch Hội đồng quản trị, thay mặt hội đồng quản trị điều hành công ty là Tổng Giám Đốc.
- Chủ tịch Hội đồng quản trị: Đưa ra những quyết nghị về các lĩnh vực: ngân sách, quy chế hoạt động, giám sát các hoạt động của các thành viên.
-Phó chủ tịch Hội đồng quản trị: Phụ trách các vấn đề về ngân sách của Công ty. Thực hiện các công việc mà chủ tịch Hội đồng quản trị giao cho.
-Ban Kiểm Soát:
Ban Kiểm Soát có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong điều hành hoạt động kinh doanh, báo cáo tài chính của Công ty. Ban Kiểm Soát hoạt động độc lập với Hội Đồng quản trị và Tổng Giám Đốc.
-Tổng giám đốc là người điều hành quyết định tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động hàng ngày của Công ty theo mục tiêu, kế hoạch phù hợp với điều lệ của Công ty và các Nghị quyết, Quyết định của Hội đồng quản trị. Tổng giám đốc chịu trách nhiệm trước Hội Đồng Quản Trị về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao.
Phó tổng giám đốc điều hành kỹ thuật: Có trách nhiệm giúp việc cho Tổng giám đốc về mặt kĩ thuật thiết kế của Công ty.
Phó Tổng giám đốc điều hành sản xuất: Có trách nhiệm giúp việc cho Tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo hợp đồng kinh doanh.
Phó Tổng giám đốc điều hành nội chính: Có chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc, có nhiệm vụ trực tiếp điều hành công tác lao động, tiền lương, bảo hiểm, tuyển dụng lao động, đào tạo cán bộ chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên của Công ty.
Các phòng ban
Phòng kỹ thuật: Đảm nhận tất cả các công việc chuẩn bị sản xuất một mã hàng mới, bao gồm: Thiết kế các loại mẫu, thử, xây dựng các phương pháp công nghệ: cắt may, hoàn thành các loại định mức.
Phòng KCS: Kiểm tra chất lượng sản phẩm sau khi hoàn thành, bao gồm: Thu hồi sản phẩm sau là, và kiểm tra chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn kỹ thuật, từ đó có những biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm.
Văn phòng: Quản lý, lưu giữ hồ sơ, giấy tờ của tất cá các phòng ban công nhân viên chức toàn Công ty.
Phòng Kế toán tài vụ: Chịu trách nhiệm công tác hạch toán kế toán, lưu giữ giấy tờ, chứng từ, sổ sách có liên quan đến chi tiêu của công ty và thống kê doanh thu và phân chia lương cho cán bộ công nhân viên theo từng tháng, quý, năm
Phòng Kế hoạch đầu tư: Có chức năng tham mưu cho giám đốc điều hành sản xuất của công ty, giúp ban giám đốc lập kế hoạch, đôn đốc theo dõi các kế hoạch sản xuất, tiêu thụ ngắn hạn và dài hạn.
Phòng thị trường: Chịu trách nhiệm khâu tiếp thị, tìm khách hàng, mở rộng thị trường, ký hợp đồng với khách hàng làm thủ tục xuất nhập khẩu. Phòng kho: Chuẩn bị nguồn nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất.Đảm bảo đủ về số lượng và đúng về chất lượng để sản xuất các mặt hàng trong kế hoạch hoặc theo đơn hàng.Tổ chức tiếp nhận, kiểm tra số lượng chất lượng nguyên phụ liệu cần trong sản xuất, tiến hành phân loại, cấp phát hạn mức vật tư cho sản xuất.
Cấp xí nghiệp
Hiện nay, công ty có 3 xí nghiệp may, 1 xí nghiệp phụ trợ, 1 xí nghiệp dịch vụ đời sống tại trụ sở chính và 1 xí nghiệp may tại Nam Định. Các xí nghiệp được chuyên môn hóa theo từng mặt hàng. Xí nghiệp 1 chuyên sản xuất hàng áo sơ mi cao cấp. Xí nghiệp 2 chuyên sản xuất áo jacket dày, mỏng. Xí nghiệp 3 liên doanh với nước ngoài chuyên sản xuất áo dệt kim, cotton. Xí nghiệp may Hải Phòng có kho ngoại quan nhận lưu giữ trang thiết bị, phụ tùng thay thế, nguyên phụ liệu ngành dệt may chờ xuất khẩu và nhập khẩu.
Xí nghiệp may Nam Hải ( Nam Định): Được thành lập theo sự chỉ đạo của Tổng công ty dệt may Việt Nam với mục đích chính là đầu tư giúp đỡ để phát triển Công ty dệt may Nam Định.
Xí nghiệp phụ trợ: Bao gồm một phân xư._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11514.doc