Tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế: LỜI MỞ ĐẦU
i) Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là điều kiện tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới thông qua việc tận dụng được dòng chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh hội nhập ngân hàng, xây dựng hệ thống ngân hàng vững mạnh trở thành kênh dẫn nhập vốn hàng đầu, là cách tốt nhất cho nền kinh tế đang cần vốn như Việt Nam từng bước chuyển dịch cơ cấu vốn theo định ... Ebook Nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1504 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường tài chính-tiền tệ Việt Nam sẽ phát triển mạnh hơn cả theo chiều rộng và chiều sâu, đặc biệt là sự gia tăng hoạt động của các định chế tài chính như các ngân hàng thương mại cổ phần, các tổ chức tài chính phi ngân hàng và các tổ chức tài chính ngân hàng đa quốc gia. Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ tiếp tục được hoàn thiện theo hướng đầy đủ hơn, đồng bộ hơn, minh bạch hơn và bình đẳng hơn giữa các chủ thể tham gia thị trường. Rõ ràng là những biến đổi này sẽ tạo ra cho các ngân hàng Việt Nam môi trường kinh doanh mới với nhiều điều kiện thuận lợi, mở ra nhiều cơ hội kinh doanh và hợp tác cùng phát triển.
Tuy nhiên, chính sức ép của cạnh tranh và hội nhập sẽ buộc các ngân hàng Việt Nam phải nỗ lực đổi mới để có thể tồn tại và phát triển. Hiện nay, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi can thiệp của các cơ quan chính quyền, tình trạng tài chính yếu kém, khuôn khổ pháp lý chưa hoàn thiện, công nghệ ngân hàng tụt hậu so với các nước, nợ khó đòi cao, môi trường kinh tế vĩ mô chưa ổn định đã đặt hệ thống ngân hàng vào tình thế rủi ro khá cao. Vì vậy, lĩnh vực ngân hàng cần nhanh chóng hội nhập cùng với hệ thống ngân hàng khu vực và thế giới, xây dựng hệ thống ngân hàng có năng lực cạnh tranh vững mạnh đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vốn và cung ứng sản phẩm dịch vụ cho nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập. Không nằm ngoài xu thế đó, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương cũng xác định phải chủ động đẩy mạnh quá trình cải cách, tiếp tục đổi mới triệt để và toàn diện hơn để nâng cao năng lực cạnh tranh, vững bước trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
Dựa trên những phân tích trên, em chọn đề tài : "Nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế". Luận văn tốt nghiệp đi sâu nghiên cứu tình hình hoạt động và thực trạng năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương, trên cơ sở đó tính toán một số chỉ tiêu phân tích, rút ra nhận xét chủ quan, mạnh dạn đưa ra những kiến nghị mong muốn góp một phần nhỏ trong quá trình không ngừng đổi mới và hoàn thiện Chi nhánh.
Q ii) Mục đích của đề tài
Mục đích của đề tài nhằm đánh giá năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương ở thời điểm hiện tại; đồng thời xác định các cản trở hạn chế năng lực cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng trong thời gian tới.
iii) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
- Phạm vi nghiên cứu: Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế
iv) Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu thống kê.
v) Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu theo 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Chương 2: Tình hình hoạt động kinh doanh và năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG CHƯƠNG DƯƠNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Trước đây, khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã đề cập tới vấn đề cạnh tranh của các nhà tư bản. Theo C.Mác: "Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu ngạch". Ở đây, C.Mác đã đề cập tới vấn đề cạnh tranh trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mà đặc trưng của chế độ này là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do vậy, theo quan niệm này thì cạnh tranh có nguồn gốc từ chế độ tư hữu. Cạnh tranh được xem xét là sự lấn át, chèn ép lẫn nhau để tồn tại. Quan niệm đó về cạnh tranh được nhìn nhận từ góc độ tiêu cực.
Ở Việt Nam, trong một thời gian dài trước đây, cạnh tranh cũng được nhìn nhận dưới góc độ tiêu cực: cạnh tranh gắn với đổ vỡ, cạnh tranh là tiêu diệt lẫn nhau, là “cá lớn nuốt cá bé”. Nhận thức không đầy đủ về cạnh tranh đã dẫn tới không thừa nhận cạnh tranh, tạo ra sự độc quyền, nuôi dưỡng độc quyền trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại hiện nay, cạnh tranh là động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất - kinh doanh (năng lực tổ chức quản lý, trình độ công nghệ, trình độ tay nghề, ...), nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng nguồn lực. Cạnh tranh không phải chỉ có tranh giành, mà cạnh tranh luôn đi với hợp tác, cạnh tranh trong sự hợp tác và bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Do đó, ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua, là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa những chủ thể kinh doanh với nhau trên một thị trường hàng hoá cụ thể nào đó nhằm giành giật khách hàng và thị trường, thông qua đó mà tiêu thụ được nhiều hàng hoá và thu được lợi nhuận cao. Cạnh tranh là sức mạnh mà hầu hết các nền kinh tế thị trường tự do dựa vào để đảm bảo rằng các doanh nghiệp thoả mãn được các nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng. Khi có cạnh tranh, không một chính phủ nào cần phải quy định các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng gì với số lượng, chất lượng và giá cả thế nào. Cạnh tranh trực tiếp quy định những vấn đề đó với các doanh nghiệp.
1.1.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh (còn gọi là sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh) của doanh nghiệp. Có quan niệm gắn sức cạnh tranh với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Có quan điểm lại gắn sức cạnh tranh của doanh nghiệp theo thị phần mà nó chiếm giữ, có người lại đồng nghĩa công cụ cạnh tranh với các chỉ tiêu đo lường sức cạnh tranh của hàng hoá, của doanh nghiệp, và thậm chí có người còn đồng nghĩa sức cạnh tranh với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp...
Tuy nhiên có thể hiểu một cách chung nhất: “Năng lực cạnh tranh chính là thực lực và lợi thế mà quốc gia (ngành, doanh nghiệp hay sản phẩm dịch vụ) có thể huy động được để duy trì và cải thiện vị trí của nó so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường thế giới một cách lâu dài và có ý chí nhằm thu được lợi ích ngày càng cao cho nền kinh tế của mình và cho quốc gia (ngành, doanh nghiệp hay sản phẩm dịch vụ) mình.”
Như vậy, năng lực cạnh tranh là một khái niệm động, được cấu thành bởi nhiều yếu tố và chịu sự tác động của cả môi trường vi mô và vĩ mô, là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố và chịu tác động của nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài của quốc gia ( ngành, doanh nghiệp, hay sản phẩm dịch vụ)
1.2. Tổng quan về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về Ngân hàng thương mại. Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện đại: “Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Ở Hoa Kỳ: Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Pháp: Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào đó thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Việt Nam, theo Pháp lệnh Ngân hàng ngày 23/05/1990 của Hội đồng Nhà nước xác định: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và được phép sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và là phương tiện thanh toán.”
Như vậy, Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là "vốn- tiền", trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của ngân hàng thương mại.. Hoạt động của ngân hàng thương mại phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
Qua những khái niệm trên, ta có thể rút ra một số điểm đặc trưng của Ngân hàng thương mại như sau:
Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký thác của công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác
Hiện nay, ngân hàng thương mại thực sự đóng một vai trò rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu.
1.2.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại thể hiện ở thực lực và lợi thế của Ngân hàng thương mại đó so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại trước hết phải được tạo ra từ thực lực của chính ngân hàng đó. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi ngân hàng, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị … một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại thể hiện ở khả năng cung cấp các sản phẩm và dịch vụ với giá cả thấp hoặc hợp lý, chất lượng cao, uy tín cao, thực hiện tốt các cam kết với các bạn hàng và làm hài lòng khách hàng. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, ngoài các yếu tố nội hàm, Ngân hàng thương mại còn phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, Ngân hàng thương mại có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.
Nói tóm lại, năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại là sự tổng hợp của các yếu tố từ công tác chỉ đạo và điều hành, chất lượng đội ngũ cán bộ, uy tín và thương hiệu của Ngân hàng thương mại. Năng lực cạnh tranh của ngân hàng được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, khả năng thu lợi nhuận của Ngân hàng trong môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước.
Để duy trì sự tồn tại và phát triển trong một thời gian dài đòi hỏi Ngân hàng thương mại phải có một năng lực cạnh tranh tốt. Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại được cấu thành nên từ những lợi thế cạnh tranh trong từng giai đoạn của Ngân hàng. Đó là những lợi thế Ngân hàng có được tạo ra và sử dụng trong cạnh tranh, nhờ đó Ngân hàng có thể tạo ra một số tính trội hơn, ưu việt hơn so với đối thủ trực tiếp. Xem xét dưới góc độ hoạt động cơ bản, các lĩnh vực cạnh tranh chủ yếu của Ngân hàng thương mại được phân như sau:
* Cạnh tranh trong lĩnh vực huy động vốn:
Huy động vốn là một trong những hoạt động tạo vốn quan trọng hàng đầu của các Ngân hàng thương mại. Với chức năng và nhiệm vụ của mình, các Ngân hàng thương mại đã thu hút, tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư vào Ngân hàng. Mặt khác, trên cơ sở nguồn vốn huy động được, Ngân hàng sẽ tiến hành hoạt động cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất, cho các mục tiêu phát triển kinh tế của vùng, ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn của xã hội, nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Với hoạt động huy động vốn, các Ngân hàng thương mại đã thực sự huy động được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế vào quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá. Nếu như không có Ngân hàng thương mại, việc huy động của cải xã hội vào quá trình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng sẽ chậm đi rất nhiều. Nhờ hoạt động này của Ngân hàng thương mại, tiền tiết kiệm của cá nhân, đoàn thể, các tổ chức kinh tế được huy động vào quá trình vận động của nền kinh tế. Nó chuyển của cải, tài nguyên xã hội từ nơi chưa sử dụng, còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh nâng cao mức sống xã hội.
Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng ngày càng mở rộng, uy tín và vị thế của Ngân hàng sẽ càng được khẳng định, Ngân hàng sẽ chủ động trong hoạt động kinh doanh, mở rộng quan hệ với các thành phần kinh tế, tổ chức, dân cư. Điều quan trọng là Ngân hàng cần phải căn cứ vào chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của từng vùng, từng ngành trong cả nước,… để từ đó đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
* Cạnh tranh trong lĩnh vực sử dụng vốn.
Đây là hoạt động trực tiếp đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Đối tượng kinh doanh của Ngân hàng thương mại là tiền tệ và quyền sử dụng tiền tệ, do vậy lợi tức của Ngân hàng có được chủ yếu từ việc đầu tư và cho vay. Nếu một Ngân hàng huy động được nguồn vốn dồi dào nhưng không có kế hoạch sử dụng vốn hợp lý, hiệu quả thì không những không đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng, ngược lại còn không có nguồn bù đắp chi phí từ việc huy động. Do vậy, có thể nói sử dụng vốn là hoạt động hết sức quan trọng của mỗi Ngân hàng. Hoạt động sử dụng vốn bao gồm các hoạt động ngân quỹ, cho vay, đầu tư tài chính,…
Một Ngân hàng có hoạt động sử dụng vốn với hiệu quả cao sẽ nâng cao vai trò, uy tín của Ngân hàng, tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường, từ đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch với mình, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng hoạt động huy động vốn. Vì vậy, nhiệm vụ của mỗi Ngân hàng là phải thường xuyên bám vào các mục tiêu phát triển kinh tế của vùng, ngành, đất nước,… nhằm đưa ra các hình thức đầu tư đúng đắn, có hiệu quả cao, thực hiện nghiên cứu thị trường, nghiên cứu của ngân hàng. Ở các nước phát triển, Ngân hàng thương mại thực hiện rất nhu cầu sử dụng vốn của xã hội, thực hiện cho vay theo dự án đầu tư, chương trình phục hồi sản xuất.
* Cạnh tranh trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ trung gian của ngân hàng
Đó là các hoạt động Ngân hàng cung ứng dịch vụ phục vụ khách hàng. Nền kinh tế ngày càng phát triển, các dịch vụ của Ngân hàng cũng phát triển theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú đa dạng của khách hàng, Ngân hàng thực hiện hoạt động trung gian và được hưởng thu nhập từ phí hoặc hoa hồng. Các hoạt động trung gian phản ánh mức độ phát triển nhiều hoạt động trung gian và luôn có dịch vụ cung cấp nhiều tiện ích cho khách hàng. Thu nhập từ các hoạt động trung gian chiếm khoảng 30-35% tổng thu nhập của Ngân hàng.
Việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ cung ứng sẽ làm tăng thu nhập cho Ngân hàng, tăng uy tín và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Có thể thấy, xu hướng nguồn thu về dịch vụ trung gian ngày càng tăng và chiếm tỷ lệ lớn trong tổng doanh thu về kinh doanh của Ngân hàng. Đồng thời với các hoạt động trung gian này, ngân hàng thương mại góp phần làm tăng khả năng chu chuyển của đồng vốn, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, do đó tiết kiệm được chi phí lưu thông trong xã hội. Mặt khác, thực hiện tốt các hoạt động này, Ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn. Điều đó cũng tạo điều kiện phát triển hoạt động huy động vốn và cho vay của Ngân hàng.
1.2.3. Tính đặc thù trong cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại
Giống như bất cứ loại hình đơn vị nào trong kinh tế thị trường, các Ngân hàng thương mại trong kinh doanh luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, không chỉ từ các Ngân hàng thương mại khác, mà từ tất cả các tổ chức tín dụng đang cùng hoạt động kinh doanh trên thương trường với mục tiêu là để giành giật khách hàng, tăng thị phần tín dụng cũng như mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Tuy vậy, so với sự cạnh tranh của các tổ chức kinh tế khác, cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại có những đặc thù nhất định. Cụ thể:
(1) Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm, chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền thống văn hoá… mỗi một nhân tố này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng đều tác động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh chung. Chẳng hạn: chỉ cần một tin đồn thổi dù là thất thiệt cũng có thể gây nên cơn chấn động rất lớn, thậm chí đe dọa sự tồn vong của cả hệ thống các tổ chức tín dụng. Một Ngân hàng thương mại hoạt động yếu kém, khả năng thanh khoản thấp cũng có thể trở thành gánh nặng cho nhiều tổ chức kinh tế và dân chúng trên địa bàn… Chính vì vậy, trong kinh doanh, các Ngân hàng thương mại tuy phải cạnh tranh để từng bước mở rộng khách hàng, mở rộng thị phần, nhưng cũng không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật để thôn tính đối thủ của mình, bởi vì, nếu đối thủ là các Ngân hàng thương mại khác bị suy yếu dẫn đến sụp đổ, thì những hậu quả đem lại thường là rất to lớn, thậm chí dẫn đến đổ vỡ luôn chính Ngân hàng thương mại này do tác động dây chuyền.
(2) Hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại có liên quan đến tất cả các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội, đến từng cá nhân thông qua các hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm, cho vay cũng như các loại hình dịch vụ tài chính khác; đồng thời, trong hoạt động kinh doanh của mình, các Ngân hàng thương mại cũng đều mở tài khoản cho nhau để cùng phục vụ các đối tượng khách hàng chung. Chính vì vậy, nếu như một Ngân hàng thương mại bị khó khăn trong kinh doanh, có nguy cơ đổ vỡ, thì tất yếu sẽ tác động dây chuyền đến gần như tất cả các Ngân hàng thương mại khác, không những thế, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng sẽ bị ảnh hưởng. Đây quả là điều mà các Ngân hàng thương mại không bao giờ mong muốn. Chính vì vậy, các Ngân hàng thương mại trong kinh doanh luôn vừa phải cạnh tranh lẫn nhau để dành giật thị phần, nhưng luôn phải hợp tác với nhau, nhằm hướng tới một môi trường lành mạnh để tránh rủi ro hệ thống.
(3) Do hoạt động của các Ngân hàng thương mại có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội, cho nên, để tránh sự hoạt động của các Ngân hàng thương mại mạo hiểm nguy cơ đổ vỡ hệ thống, tất cả Ngân hàng Trung ương các nước đều có sự giám sát chặt chẽ thị trường này và đưa ra hệ thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro. Thực tiễn đã chỉ ra những bài học đắt giá, khi mà Ngân hàng Trung ương thờ ơ trước những diễn biến bất lợi của thị trường đã dẫn đến hậu quả là sự đổ vỡ của thị trường tài chính - tiền tệ làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, sự cạnh tranh trong hệ thống các Ngân hàng thương mại không thể dẫn đến làm suy yếu và thôn tính lẫn nhau như các loại hình kinh doanh khác trong nền kinh tế.
(4) Hoạt động của các Ngân hàng thương mại liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không chỉ trong phạm vi một nước, mà có liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế đối ngoại, do vậy, kinh doanh trong hệ thống Ngân hàng thương mại chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước và quốc tế, như: Môi trường pháp luật, tập quán kinh doanh của các nước, các thông lệ quốc tế… đặc biệt nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính, trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có tính chất quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng này. Điều đó cũng có nghĩa là, sự cạnh tranh trong hệ thống các Ngân hàng thương mại trước hết phải chịu sự điều chỉnh bởi rất nhiều thông lệ, tập quán kinh doanh tiền tệ của các nước, sự cạnh tranh trước hết phải dựa trên nền tảng kỹ thuật công nghệ đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh doanh tối thiểu; bởi vì, một Ngân hàng thương mại mở ra một loại hình dịch vụ cung ứng cho khách hàng là đã phải chấp nhận cạnh tranh với các Ngân hàng thương mại khác đang hoạt động trong cùng lĩnh vực, tuy nhiên, muốn lĩnh vực dịch vụ này được thực hiện thì đòi hỏi phải đáp ứng tối thiểu về điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính mà thiếu nó thì không thể hoạt động được. Như vậy, sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại là loại hình cạnh tranh bậc cao, đòi hỏi những chuẩn mực khắt khe hơn bất cứ loại hình kinh doanh nào khác.
.1.2.4. Một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, cạnh tranh mang tính tất yếu, khách quan và đó cũng là động lực cho sự phát triển. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, cạnh tranh sẽ không chỉ là tạo động lực để phát triển mà còn phải đối mặt với những yếu tố không lành mạnh nhằm chiếm lĩnh ưu thế trên thương trường, để thu lợi nhuận cao hơn và đương nhiên nảy sinh sự thôn tính, sáp nhập, phá sản, giải thể và cả những rủi ro về đạo đức…
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và Ngân hàng thương mại nói riêng được biểu hiện bằng tiềm năng về tài chính, quản trị điều hành, chất lượng đội ngũ, chất lượng và hiệu quả hoạt động, tốc độ đổi mới về công nghệ và sản phẩm… Năng lực tài chính của một Ngân hàng thương mại là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thể hiện ở quy mô vốn tự có, chất lượng tài sản, chất lượng nguồn vốn, khả năng sinh lời và khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh.
Một Ngân hàng thương mại có năng lực tài chính tốt phải là Ngân hàng thương mại luôn duy trì được hoạt động bình thường và phát triển một cách ổn định, bền vững trong mọi điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước và trên thế giới. Ngân hàng thương mại có khả năng cung cấp tín dụng có hiệu quả và các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế. Ngân hàng thương mại luôn đáp ứng đầy đủ yêu cầu khách hàng về vốn và các dịch vụ ngân hàng phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, xã hội trong nước và thế giới. Ngân hàng thương mại còn phải bảo đảm được sự tồn tại và phát triển của mình một cách an toàn, không xảy ra những đổ vỡ hay phá sản. Năng lực tài chính của một Ngân hàng thương mại đóng vai trò vô cùng quan trọng. Năng lực tài chính của một Ngân hàng thương mại càng được đảm bảo thì mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng càng thấp và năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại trên thị trường càng cao. Do vậy, năng lực tài chính của Ngân hàng thương mại phải không ngừng được nâng cao và hoàn thiện và là điều kiện không thể thiếu được bất cứ một Ngân hàng thương mại nào.
Năng lực tài chính của Ngân hàng thương mại được đánh giá dựa trên các yếu tố định lượng và các yếu tố định tính.
+ Các yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có, bao gồm: quy mô vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời…
+ Các yếu tố định tính thể hiện khả năng khai thác, quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính được thể hiện qua trình độ tổ chức, trình độ quản lý, trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực…
Như vậy, năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại có thể được đánh giá qua các tiêu chí sau:
(1) Nguồn lực tài chính: bao gồm yếu tố vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời…
* Yêú tố vốn
Nguồn vốn của Ngân hàng được hình thành theo nhiều kênh dẫn khác nhau, trong đó tiền gửi của khách hàng là nguồn tiền quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của Ngân hàng. Nguồn vốn đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng hoạt động của Ngân hàng. Nó cung cấp năng lực tài chính cho quá trình tăng trưởng, mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động cũng như cho sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ mới của Ngân hàng thương mại; giúp Ngân hàng thương mại chống lại rủi ro phá sản, bù đắp những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ; bảo vệ người gửi tiền khi gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh, đồng thời nâng cao uy tín của Ngân hàng thương mại với khách hàng, các nhà đầu tư. Vì vậy có thể khẳng định: Vốn là yếu tố quan trọng tạo đối với Ngân hàng thương mại, vì nó nói nên sức mạnh và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thương mại trên thị trường trong nước. Đồng thời, đó cũng là cơ sở để Ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động tới các thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Do đó, quy mô vốn có thể coi là tiêu chí hết sức quan trọng khi đánh giá năng lực cạnh tranh của một ngân hàng thương mại, thể hiện năng lực tài chính vốn có của chính bản thân Ngân hàng thương mại.
Đối với yếu tố vốn của Ngân hàng, ta sẽ tập trung đánh giá theo hai chỉ tiêu sau:
Quy mô và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, đặc biệt là tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm và vay: Đây là chỉ tiêu đánh giá khối lượng vốn huy động. Nó có ảnh hưởng đến quy mô phát triển hoạt động ngân hàng bởi hoạt động kinh doanh cơ bản của ngân hàng là huy động để cho vay và các hoạt động thanh toán khác. Nếu nguồn vốn không ổn định và có chất lượng không tốt sẽ dễ làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán và đưa đến thua lỗ, phá sản. Vậy mặt chất lượng biểu hiện trong tính hiệu quả về tác dụng thực tiễn và mức độ ảnh hưởng của quá trình thực hiện kế hoạch kinh doanh trong từng giai đoạn cụ thể.
Cơ cấu nguồn vốn và sự thay đổi cơ cấu: Cơ cấu vốn, sự biến động về cơ cấu vốn sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo theo là rủi ro, biến động về thu nhập, vì vậy cơ cấu vốn cần phải có sự ổn định và phù hợp với hoạt động của ngân hàng.
* Chất lượng tài sản:
Hoạt động chính của Ngân hàng thương mại là tìm kiếm các khoản vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của Ngân hàng. Do Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ nên phần lớn tài sản của Ngân hàng là các tài sản tài chính, bao gồm các hợp đồng cho vay, hợp đồng thuê - mua, các chứng khoán, các khoản tiền gửi ... ( tài sản sinh lời), một phần nhỏ trong khối tài sản của Ngân hàng là tài sản cố định như nhà cửa, trang thiết bị ...( tài sản không sinh lời), trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng của Ngân hàng. Mỗi loại tài sản được hình thành theo các cách thức khác nhau, vì những mục tiêu khác nhau song đều tập trung đảm bảo an toàn và sinh lợi cho Ngân hàng.
Một danh mục tài sản nếu bao gồm phần lớn các tài sản rủi ro cao sẽ làm giảm uy tín, hạn chế thu nhập của Ngân hàng, hạn chế Ngân hàng mở rộng quy mô trong môi trường kinh doanh đầy biến động, khả năng mở rộng thị trường nguồn vốn của Ngân hàng sẽ bị giảm sút. Nguồn tiền suy giảm nhanh và mạnh có thể đẩy Ngân hàng đến phá sản. Như vậy, chất lượng tài sản của Ngân hàng thương mại là một chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về tài chính, năng lực quản lý của một tổ chức tín dụng.
* Khả năng thanh toán ( Tính thanh khoản):
Tính thanh khoản của Ngân hàng là khả năng của Ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng. Thực hiện chức năng trung gian tài chính, trung gian thanh toán, Ngân hàng thường xuyên phải duy trì khả năng thanh toán, tức duy trì thanh khoản của Ngân hàng. Việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng một cách thương xuyên và trong những trường hợp đặc biệt khẩn cấp là yêu cầu cấp thiết và là nội dung quan trọng trong công tác quản lý của Ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro. Nó liên quan tới sự tồn tại và phát triển của mỗi Ngân hàng và của cả hệ thống.
Tính thanh khoản của Ngân hàng được tạo lập bởi tính thanh khoản của tài sản và tính thanh khoản của nguồn. Do vậy, một Ngân hàng có tính thanh khoản cao khi có nhiều tài sản thanh khoản hoặc có khả năng mở rộng nguồn nhanh với chi phí thấp hoặc cả hai, phù hợp với nhu cầu thanh khoản
* Khả năng sinh lời:
Sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng chủ yếu dựa vào khả năng sinh lời của Ngân hàng. Cách an toàn tuyệt đối là không làm gì cả. Tuy nhiên đối với Ngân hàng, giữ tiền trong két cũng không phải là giải pháp an toàn. Tăng khả năng sinh lời có thể coi là cách đảm bảo an toàn nhất. Nó là cách tốt nhất để có thể trả lương cao cho người lao động, để tăng năng suất và tính liêm khiết rất cần thiết đối với cán bộ Ngân hàng. Đồng thời, nó là biện pháp quan trọng để Ngân hàng tăng quỹ tích luỹ ( tăng vốn của chủ), thiết lập quỹ dự phòng lớn, đủ sức chống đỡ rủi ro.
Khả năng sinh lời của Ngân hàng thương mại gắn liền với chất lượng tài sản và hiệu quả sử dụng tài sản của Ngân hàng thương mại. Nâng cao chất lượng tài sản, chất lượng nguồn vốn cũng chính là nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Khả năng sinh lời là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh doanh và mức độ phát triển của một Ngân hàng thương mại. Để đánh giá khả năng sinh lời của Ngân hàng thương mại, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên tài sản có (ROA), chỉ._. tiêu lợi nhuận ròng trên vốn tự có (ROE) hoặc chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên doanh thu.
Chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên tài sản có (ROA):
ROA =
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản
Ý nghĩa của chỉ tiêu này một đồng tài sản có tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này cho thấy chất lượng của công việc quản lý tài sản có - tài sản có sinh lời càng lớn thì hệ số này càng lớn
Chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên vốn tự có (ROE):
ROE =
Lợi nhuận sau thuế
Tài sản sinh lãi
Ý nghĩa của chỉ tiêu này là một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, khả năng sinh lời trên một đồng vốn của Ngân hàng. Hệ số này càng lớn thì khả năng sinh lời tài chính càng lớn.
(2) Chất lượng sản phẩm dịch vụ:
Chất lượng sản phẩm dịch vụ luôn là vấn đề quan tâm của mọi khách hàng và của mọi ngân hàng. Chất lượng sản phẩm dịch vụ ngày nay trở thành một lợi thế cạnh tranh mang ý nghĩa sống còn đối với mọi Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Trong xu hướng phát triển ngân hàng tại các nền kinh tế phát triển hiện nay, ngân hàng được coi như một siêu thị dịch vụ, một bách hoá tài chính với hàng trăm, thậm chí hàng nghìn dịch vụ khác nhau tuỳ theo cách phân loại và tuỳ theo trình độ phát triển của ngân hàng. Ngân hàng cung ứng các sản phẩm dịch vụ là để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Nếu như chất lượng của các sản phẩm dịch vụ ngày càng hoàn hảo, có chất lượng cao thì khách hàng sẽ gắn bó lâu dài và chấp nhận ngân hàng. Không những vậy, những lời khen, sự chấp nhận, thoả mãn về chất lượng của khách hàng hiện hữu họ sẽ thông tin tới những người khác có nhu cầu dịch vụ tìm đến ngân hàng để giao dịch. Điều này góp phần nâng cao uy tín, thương hiệu của Ngân hàng, tạo điều kiện để Ngân hàng mở rộng mạng lưới hoạt động, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Như vậy, chất lượng sản phẩm dịch vụ luôn được đánh giá theo quan điểm của khách hàng. Nó thể hiện qua sự tin tưởng, cảm tình, ưa thích của khách hàng đối với dịch vụ ngân hàng. Chất lượng sản phẩm dịch vụ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ. Ngoài ra, đối tượng kinh doanh của các Ngân hàng thương mại là tiền tệ, nên chất lượng dịch vụ không chỉ được đánh giá thông qua chất lượng phục vụ của nhân viên Ngân hàng mà còn được đánh giá thông qua độ an toàn chính xác trong xử lý nghiệp vụ, tính đơn giản, thuận tiện trong giao dịch và khoảng thời gian cần thiết để có thể hoàn tất một giao dịch.
Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng thương mại bao gồm:
Chất lượng nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ.
Độ an toàn, chính xác.
Thủ tục giao dịch.
Tốc độ xử lý giao dịch.
(3) Chất lượng nguồn nhân lực:
Sự phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính ngân hàng đòi hỏi nguồn cung cấp nhân lực rất lớn, nhất là nguồn nhân lực có kinh nghiệm làm việc và đáp ứng được nhu cầu mới. Bởi vì theo nguyên lý, con người là yếu tố quyết định.
Về mặt quản lý: Nếu ngân hàng quản lý tốt về mặt nhân sự, tài sản, nguồn vốn, phòng tránh rủi ro tốt nhất, quản lý các danh muc đầu tư hiệu quả thì hoạt động của ngân hàng sẽ đảm bảo an toàn và tăng trưỏng, tăng uy tín, thu hút khách hàng.
Về mặt nghiệp vụ: Với trình độ nghiệp vụ cao, mọi thao tác nghiệp vụ thực hiện chính xác, hiệu quả, tác phong làm việc nhiệt tình, cởi mở, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng sẽ gây ấn tượng tốt đối với khách hàng. Khách hàng là người có quyền lựa chọn, vì vậy họ sẽ chọn nơi làm họ hài lòng nhất để gửi tiền, vay tiền tiền và sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng cung cấp.
Chính vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh trước yêu cầu của hội nhập, các Ngân hàng thương mại cần hết sức quan tâm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và có chiến lược lâu dài phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Chất lượng nguồn nhân lực có thể được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau:
Số lượng lao động
Độ tuổi lao động
Cơ cấu lao động qua các cấp học như: trung cấp, cao đẳng, đại học ...
Trình độ ngoại ngữ, tin học ...
(4) Năng lực quản trị, điều hành:
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Cũng như các doanh nghiệp khác, các Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan mang lại rủi ro, nhiều yếu tố bất khả kháng nên không tránh khỏi rủi ro. Từng nghiệp vụ cụ thể của ngân hàng nếu không được quản lý theo những qui trình chặt chẽ cũng có nhiều khả năng rủi ro. Ví dụ: các nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh, thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, tiền tệ kho quỹ, huy động và sử dụng vốn,...Vì vậy công tác quản trị trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng giữ vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa, hạn chế và xử lý rủi ro, đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Quản trị ngân hàng là điều hành những quan hệ liên quan đến việc xây dựng chiến lược, chiến thuật, phân tích, nghiên cứu, điều chỉnh, kiểm tra, quản lý tài chính, hoạt động marketing, quản lý nhân sự và điều hành các nghiệp vụ ngân hàng. Quản trị ngân hàng tác động đến giá trị và hoạt động của Ngân hàng, đồng thời quản trị ngân hàng cũng tác động đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng và rủi ro của khủng hoảng tài chính, cả đối với các ngân hàng cá thể và toàn bộ hệ thống ngân hàng của nền kinh tế. Quản trị ngân hàng tốt là một trong những cơ sở tạo niềm tin của công chúng vào ngân hàng. Do vậy, việc quản trị trong Ngân hàng thương mại có vai trò quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của nó.
(5) Trình độ công nghệ:
Ngày nay các Ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau theo hướng phát triển đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng đi kèm với việc nâng cao chất lượng dịch vụ, mà chất lượng dịch vụ ngân hàng luôn phụ thuộc và trình độ công nghệ ngân hàng. Nếu trình độ công nghệ ngân hàng không tiên tiến, hiện đại thì chất lượng dịch vụ cũng không thể nâng cao được. Do đó, một xu thế tất yếu là các Ngân hàng thương mại phải ứng dụng công nghệ tiên tiến để phát triển và nâng cao chất lựong dịch vụ ngân hàng. Việc ứng dụng và phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại là vấn đề tất yếu, vấn đề sống còn của các Ngân hàng nhằm nâng cao năng lực hoạt động, năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng trong quá trình hội nhập. Nó giúp cho Ngân hàng thoả mãn hơn trước các nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Nếu một ngân hàng ứng dụng và sử dụng công nghệ có hiệu quả thì Ngân hàng đó sẽ mở rộng không giới hạn về không gian hoạt động, thời gian phục vụ và cung cấp những dịch vụ Ngân hàng mới tối đa hoá tiện ích cho khách hàng.
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, việc thu thập thông tin là rất cần thiết. Nhờ có hệ thống tin học hiện đại, Ngân hàng có thể thu thập thông tin về khách hàng, về thị trường tốt hơn, qua đó có thể xác định được thị trường đầu tư vốn có hiệu quả, phát triển nghiệp vụ và dịch vụ của mình, hạn chế rủi ro trong kinh doanh, tạo điều kiện mở rộng vốn tự có.
Như vậy, xác định đúng tầm quan trọng của công nghệ và việc hiện đại hoá công nghệ là một trong những điều kiện cơ bản để hướng tới việc đảm bảo các chuẩn mực quốc tế của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình cạnh tranh và hội nhập. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là điều tất yếu phù hợp với tiềm lực tài chính của ngân hàng, phù hợp với mặt bằng chung về công nghệ của đất nước, đảm bảo xu thế chung của khu vực và quốc tế.
Trình độ công nghệ của Ngân hàng được thể hiện qua những dịch vụ mà ngân hàng đã và đang áp dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động.
(6) Uy tín thương hiệu của Ngân hàng:
Thương hiệu là tài sản vô cùng quý giá đối với doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng. Thương hiệu là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất tạo nên khả năng nhận biết, gợi nhớ, phân biệt và định hướng cho khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ. Ngày nay, thương hiệu càng có ý nghĩa rất quan trọng và việc xây dựng thương hiệu là cả một quá trình khó khăn. Bởi lẽ, các đối thủ cạnh tranh cũng sẽ có những phản ứng rất nhanh và khách hàng yêu cầu cao hơn đối với một sản phẩm. Do đó, phải xem việc xây dựng thương hiệu là một quá trình đầu tư dài hạn và phải có đường đi nước bước thích hợp. thương hiệu không phụ thuộc hoàn toàn vào thời gian xuất hiện trên thị trường, mà còn nhiều yếu tố khác như thông tin, chất lượng về sản phẩm, sự truyền tải những thông tin, thương hiệu đó v.v đến với người tiêu dùng một các chính xác và nhanh nhất. Trong thời đại ngày nay, với hệ thống mạng internet toàn cầu thì mọi ngăn cách về địa lý coi như không có. Các doanh nghiệp sử dụng hệ thống Internet, Website làm kênh truyền thông trực tiếp truyền tải các chiến lược quảng bá, xây dựng thương hiệu một cách hữu hiệu. Đối với một ngân hàng thương mại, việc xây dựng thương hiệu còn khó khăn hơn do tính đặc thù của các sản phẩm. Đó là tính chất vô hình và thường có nhiều điểm giống nhau giữa các sản phẩm, dịch vụ của các ngân hàng. Do đó, thương hiệu đối với một Ngân hàng thương mại không chỉ đơn thuần là một nhãn hiệu, một cái tên mà nó bao gồm cả uy tín, chất lượng, giá cả sản phẩm dịch vụ, phong cách giao dịch và văn hoá của mỗi ngân hàng.
Thương hiệu được coi như một tài sản có giá trị rất lớn bởi nó có khả năng tác động đến thái độ và hành vi của khách hàng. Nó đảm bảo uy tín của Ngân hàng với tư cách như là một thể nhân ra vào thị trường, đồng thời là một công cụ đảm bảo tính cạnh tranh cao của Ngân hàng trên thị trường. Đặc biệt, trong xu thế của toàn cầu hoá thì thương hiệu ngày càng trở lên quan trọng đối với sự sống còn của Ngân hàng. Thương hiệu có thể cam kết một tiêu chuẩn hay đẳng cấp chất lượng của một sản phẩm dịch vụ và đáp ứng mong muốn của khách hàng, giúp họ tìm kiếm, lựa chọn sản phẩm một cách dễ dàng, thuận tiện. Lòng trung thành với thương hiệu của khách hàng cho phép Ngân hàng dự báo và kiểm soát thị trường. Hơn nữa, nó tạo nên một rào cản, gây khó khăn cho các Ngân hàng khác muốn xâm nhập thị trường. Như vậy, thương hiệu có thể được coi như một cách thức hữu hiệu để Ngân hàng đảm bảo lợi thế cạnh tranh.
Để xây dựng và chiếm lĩnh lòng tin đối với người tiêu dùng, đòi hỏi sản phẩm của ngân hàng đó cần phải có những điểm phù hợp,đồng thời phải có sự khác biệt đối với sản phẩm của ngân hàng khác. Sự phù hợp trong sản phẩm là khả năng thuơng hiệu đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Còn sự khác biệt là để thể hiện sự vượt trội của thương hiệu đó. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải phải thường xuyên có những sản phẩm, dịch vụ mới hoặc gia tăng chức năng vượt trội so với sản phẩm, dịch vụ cùng loại. Và việc truyển tải sự phù hợp và sự khác biệt trong từng sản phẩm đến với khách hàng là một quá trình liên tục thông qua nhiều phương thức. Đó có thể là quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, bằng tờ rơi hay từ việc trực tiếp trong việc giao tiếp, quan hệ với khách hàng và công chúng.
Như vậy, uy tín thương hiệu của Ngân hàng được thể hiện ở:
Cở sở hạ tầng, trang thiết bị kỹ thuật.
Thâm niên hoạt động.
Mạng lưới hoạt động.
Chất lượng dịch vụ.
Tình hình tài chính của ngân hàng.
Hình thức sở hữu của ngân hàng...
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại dựa theo mô hình Kim cương của Michael Porter
Mô hình Kim cương là một trong những sáng kiến rất nổi tiếng của M. Porter. Nó là một công cụ rất tốt để phân tích, chẩn đoán các lợi thế, bất lợi trong xây dựng năng lực cạnh tranh của một ngành, một địa phương hay sản phẩm nào đó. Theo mô hình “Kim cương” về năng lực cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của một ngân hàng thương mại phụ thuộc vào 4 nhóm yếu tố:
(1) Các điều kiện về cầu:
Khách hàng trong một nền kinh tế càng khắc khe đối với nhà sản xuất thì khả năng nâng cao cạnh tranh của sản phẩm càng lớn. Nếu trong nước có nhu cầu lớn về một sản phẩm hay dịch vụ nào đó, thì nghành đó sẽ có lợi thế trong cạnh tranh toàn cầu. Những ngành phải cạnh tranh mạnh ở trong nước thì mới có khả năng cạnh tranh quốc tế tốt hơn. Thị trường trong nước với số cầu lớn, có những khách hàng đòi hỏi cao và môi trường cạnh tranh trong ngành khốc liệt hơn sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn. Đối với các ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, phân tích về cầu nhằm xác định tính phức tạp của cầu trong ngành ngân hàng, để từ đó nhằm định hướng khả năng cạnh tranh, sự đa dạng của các loại hình dịch vụ và mức độ công nghệ của ngành.
Sơ đồ 1.1: Mô hình kim cương
Môi trường kinh doanh, chiến lược, cơ cấu và đối thủ cạnh tranh
Những ngành công nghiệp liên quan và
phụ trợ
Các điều kiện về yếu tố đầu vào
Các điều kiện
về cầu
(Nguồn:
(2) Các điều kiện về yếu tố đầu vào:
Các điều kiện về yếu tố đầu vào là khả năng cung ứng nguồn nguyên liệu, nguồn nhân công có trình độ hay cơ sở hạ tầng cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong một doanh nghiệp nếu các điều kiện đó chưa sẵn có thì cũng không được xem là bất lợi, thậm chí nó còn khuyến khích tính cạnh tranh. Với điều kiện bất lợi đó, buộc các doanh nghiệp phải hành động một cách sáng tạo. Chất lượng lao động, vốn và lao động rẻ, cơ sở hạ tầng mạnh và công nghệ cao sẽ ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của ngành, của các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng.
Việc phân tích các điều kiện về các yếu tố đầu vào nhằm xem xét tới tính hiệu quả, chất lượng và sự chuyên môn hoá của những yếu tố này mà các tổ chức tài chính sử dụng trong quá trình cạnh tranh để có nguồn nhân lực, nguồn vốn, cơ sở vật chất, cơ sở khoa học công nghệ.
(3) Môi trường kinh doanh, chiến lược, cơ cấu của ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh:
Ổn định môi trường kinh doanh trong nước đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại xác định tầm nhìn, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn. Điều này đồng nghĩa với việc tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường và thích ứng với thay đổi của môi trường bên ngoài ngày càng khó dự đoán đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Bên cạnh đó, những ngân hàng có chiến lược và cơ cấu phù hợp với các định chế và chính sách cuả quốc gia, hoạt động trong môi trường có cạnh tranh trong nước căng thẳng hơn sẽ có tính cạnh tranh quốc tế mạnh hơn. Mặt khác, nếu ngân hàng tập trung nghiên cứu và thu thập được đầy đủ những thông tin cần thiết về các đối thủ cạnh tranh, hiểu rõ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng mình thì ngân hàng đó có thể xây dựng được chiến lược kinh doanh hiệu quả. Như vậy, một điều chắc chắn xảy ra là những quyết định chiến lược của các ngân hàng có tác động ảnh hưởng đến tính cạnh tranh trong tương lai của họ. Một cơ cấu lành mạnh của ngân hàng và mức độ tập trung cao của các đối thủ cạnh tranh trong ngành sẽ quyết định mức lợi thế cạnh tranh của ngân hàng nói riêng và của cả ngành nói chung. Khả năng cạnh tranh tổng hợp sẽ hỗ trợ các ngân hàng nói riêng và ngành ngân hàng trong nước nói chung cạnh tranh với các đối thủ từ bên ngoài trong bối cảnh hội nhập.
(4) Những ngành công nghiệp liên quan và phụ trợ:
Tính cạnh tranh của một ngành phụ thuộc vào sức mạnh của các nhà cung cấp các nhập lượng và các dịch vụ hỗ trợ. Các ngành này rất có ích trong việc hỗ trợ cho việc trao đổi thông tin và thúc đẩy việc trao đổi ý kiến và sáng kiến đổi mới, đồng thời cũng phải chấp nhận cạnh tranh quốc tế. Các nhà cung cấp nhập lượng có khả năng cạnh tranh trên toàn cầu có thể mang lại cho doanh nghiệp - khách hàng của họ lợi thế về chi phí và chất lượng. Các ngành có quan hệ ngang cũng mang lại lợi thế cạnh tranh thông qua sự lan truyền công nghệ. Sự hiện diện cụm công nghiệp tạo ra cho doanh nghiệp lợi thế kinh tế theo quy mô. Không nằm ngoài quy luật đó, những ngành công nghiệp liên quan và phụ trợ cũng có tác động tới lợi thế cạnh tranh của các dịch vụ ngân hàng do những ngành này cung cấp đầu vào cho ngành ngân hàng. Sự có mặt và phát triển của nhóm các ngành kinh tế liên quan như viễn thông, công nghệ thông tin, dịch vụ kiểm toán sẽ làm tăng năng suất cũng như sức cạnh tranh của các dịch vụ ngân hàng.
1.3. Tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
Được thành lập từ năm 1988, đến nay, chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương đã khẳng định được năng lực của mình bằng những bước đi vững chắc. Thời gian vừa qua, chi nhánh đã mở nhiều lớp đào tạo cho cán bộ công nhân viên để thích ứng với công nghệ hiện đại như các lớp học ngắn ngày về marketing, các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán quốc tế, kho quỹ, kế toán, vi tính, ngoại ngữ… Đồng thời, thực hiện tốt việc thi tuyển đầu vào để tìm những người thực sự có trình độ, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ cho phù hợp với năng lực và điều kiện của từng phòng ban. Tổng nguồn vốn huy động của chi nhánh liên tục tăng qua các năm. Cùng với việc huy động vốn tăng thì kết quả sử dụng vốn của chi nhánh trong thời gian qua cũng được đánh giá là khá thành công. Nhiều dự án, phương án kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn do được đầu tư kịp thời từ nguồn vốn vay của chi nhánh nên đã phát huy hiệu quả. Ngoài ra, do nắm bắt được nhu cầu thị trường và sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác, đầu tư, cũng như hỗ trợ cho các đối tượng kinh doanh khác nhau, chi nhánh đã chú trọng mở rộng các nghiệp vụ khác như chuyển tiền trong và ngoài nước, nghiệp vụ bảo lãnh, nghiệp vụ thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ…
Như vậy, có thể thấy rằng tình hình hoạt động của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương đã có những bước tiến đáng kể trong thời gian vừa qua. Chi nhánh đã có nhiều nỗ lực trước nhu cầu cấp thiết của hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của công nghệ và dịch vụ ngân hàng, của sức ép mở cửa thị trường tài chính, Chi nhánh đang phải đối mặt với những thách thức từ việc đầu tư đổi mới công nghệ. Với tiềm lực tài chính và năng lực vận hành còn hạn chế, những thách thức đã trở thành sức ép. Bởi lẽ, khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, điều đó đồng nghĩa với việc các ngân hàng nước ngoài sẽ được phép cung cấp thêm dịch vụ và chịu ít hạn chế hơn. Với việc các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nới lỏng và tiến tới xoá bỏ các hạn chế trong huy động vốn, cùng sự xuất hiện các ngân hàng 100% vốn nước ngoài trong thời gian tới thì mức độ cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng nói chung và lĩnh vực huy động vốn nói riêng giữa các ngân hàng sẽ càng gia tăng, đặc biệt là giữa các ngân hàng thương mại trong nước với các ngân hàng nước ngoài. Trong khi đó, sự phát triển của nền kinh tế, của khoa học kỹ thuật, mức sống của người dân, và tác động mạnh mẽ của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mở thêm nhiều cơ hội cho các khách hàng sử dụng thêm những dịch vụ ngân hàng khác nhau phù hợp với nhu cầu sống và làm việc mới. Các khách hàng có thể lựa chọn sử dụng dịch vụ tại ngân hàng phù hợp với yêu cầu và lợi ích của mình nhất. Trong điều kiện đó, với công nghệ và dịch vụ hiện đại, các ngân hàng nước ngoài sẽ làm lợi cho khách hàng, qua đó mở rộng quy mô hoạt động và khả năng tiếp cận thị trường, các nhóm khách hàng. Như vậy, thị trường sẽ không chỉ lớn hơn và bị chia sẻ bởi nhiều ngân hàng hơn, mà còn trở nên bị phân khúc nhiều hơn với các nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Trong khi đó, quy mô vốn của chi nhánh còn nhỏ bé, lực lượng lao động tuy đông nhưng trình độ chuyên môn còn chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập, sự hiểu biết về luật pháp trong nước và quốc tế của cán bộ công nhân viên còn hạn chế, trình độ quản lý, tổ chức còn chưa cao... Các yếu kém này sẽ tác động một cách tổ hợp. Khi đó, chúng kích phát lẫn nhau và sinh ra nguy cơ tạo vòng xoáy: sức cạnh tranh thấp - kinh doanh không hiệu quả - không thể tiếp cận vốn và công nghệ cao - không thể cải thiện sức cạnh tranh. Từ góc nhìn hội nhập và cạnh tranh quốc tế, có thể thấy vòng xoáy này đang đe doạ không ít đến sự tồn tại và phát triển của chi nhánh trong thời gian tới. Đây là vấn đề cảnh báo đối với chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương. Chính vì vậy, trước sức ép của cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gay gắt và quyết liệt như hiện nay thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh là việc làm hết sức cần thiết và cần được triển khai một cách nhanh chóng và có hiệu quả.
CHƯƠNG 2:
TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG CHƯƠNG DƯƠNG
2.1. Khái quát về quá trình hình thành, phát triển và tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
Tháng 8/ 1988, chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương ra đời trên cơ sở tách Ngân hàng Nhà nước huyện Gia Lâm thành Ngân hàng Công thương Chương Dương và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Châu quỳ. Ngân hàng Công thương Chương Dương khi đó với số vốn ban đầu chỉ 13 tỷ đồng là một ngân hàng cấp huyện có trụ sở chính tại số 1 ngõ Quân Chính, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Tháng 6/ 1993, Ngân hàng Công thương huyện Gia Lâm mở rộng mạng lưới, thành lập phòng giao dịch Yên Viên.
Tháng 1/ 1994: Ngân hàng thành lập phòng giao dịch Đức Giang
Tháng 1/ 1995: Ngân hàng mở thêm phòng giao dịch Đông Anh. Đến tháng 1/ 1996, phòng giao dịch Đông Anh được nâng cấp lên chi nhánh Đông Anh, trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam ( ngang hàng chi nhánh Chương Dương)
Tháng 2/ 2001, hai phòng giao dịch Yên Viên và Đức Giang được nâng cấp thành chi nhánh thuộc Ngân hàng Công thương Chương Dương.
Tháng 4/ 2003: hai phòng giao dịch Yên Viên và Đức Giang tiếp tục được nâng cấp thành chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Công thương Chương Dương.
Cùng với những tín hiệu khởi sắc của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương đã có những bước phát triển khả quan, đã thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu kế hoạch về tín dụng, huy động vốn, lợi nhuận, trích lập dự phòng rủi ro. Với 20 năm xây dựng và trưởng thành, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đi tiên phong trong cơ chế thị trường, phục vụ và góp phần tích cực thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; không ngừng phấn đấu vươn lên, khẳng định đựơc vị thế của mình trên thị trường, có bước phát triển đáng kể và tăng trưởng nhanh, đạt được nhiều thành tựu to lớn trên mọi mặt hoạt động kinh doanh - dịch vụ ngân hàng; phát triển đồng đều cả kinh doanh đối nội và kinh doanh đối ngoại, công nghệ ngân hàng tiên tiến, có uy tín với khách hàng trong nước và quốc tế.
Các hoạt động chính của Chi nhánh bao gồm:
* Huy động vốn:
Nhận tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng Việt Nam đồng (VNĐ) và ngoại tệ của các tổ chức kinh tế và dân cư.
Nhận tiền gửi tiết kiệm với nhiều hình thức phong phú và hấp dẫn: Tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng VNĐ và ngoại tệ, Tiết kiệm dự thưởng,Tiết kiệm tích luỹ...
Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu...
* Cho vay, đầu tư:
Cho vay ngắn hạn bằng VNĐ và ngoại tệ
Cho vay trung, dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ
Tài trợ xuất, nhập khẩu; chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất.
Đồng tài trợ và cho vay hợp vốn đối với những dự án lớn, thời gian hoàn vốn dài
Cho vay tài trợ, uỷ thác theo chương trình: Đài Loan (SMEDF); Việt Đức (DEG, KFW) và các hiệp định tín dụng khung
Thấu chi, cho vay tiêu dùng.
Hùn vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức tín dụng và các định chế tài chính trong nước và quốc tế
Đầu tư trên thị trường vốn, thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế
* Bảo lãnh :
Bảo lãnh, tái bảo lãnh (trong nước và quốc tế): Bảo lãnh dự thầu; Bảo lãnh thực hiện hợp đồng; Bảo lãnh thanh toán.
* Thanh toán và Tài trợ thương mại:
Phát hành, thanh toán thư tín dụng nhập khẩu; thông báo, xác nhận, thanh toán thư tín dụng nhập khẩu.
Nhờ thu xuất, nhập khẩu (Collection); Nhờ thu hối phiếu trả ngay (D/P) và nhờ thu chấp nhận hối phiếu (D/A).
Chuyển tiền trong nước và quốc tế
Chuyển tiền nhanh Western Union
Thanh toán uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, séc.
Chi trả lương cho doanh nghiệp qua tài khoản, qua ATM
Chi trả Kiều hối…
* Ngân quỹ:
Mua, bán ngoại tệ (Spot, Forward, Swap…)
Mua, bán các chứng từ có giá (trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc, thương phiếu…)
Thu, chi hộ tiền mặt VNĐ và ngoại tệ...
Cho thuê két sắt; cất giữ bảo quản vàng, bạc, đá quý, giấy tờ có giá, bằng phát minh sáng chế.
* Thẻ và ngân hàng điện tử:
Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng nội địa, thẻ tín dụng quốc tế (VISA, MASTER CARD…)
Dịch vụ thẻ ATM, thẻ tiền mặt (Cash card).
Internet Banking, Phone Banking, SMS Banking
* Hoạt động khác:
Khai thác bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ
Tư vấn đầu tư và tài chính
Cho thuê tài chính
Môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn, lưu ký chứng khoán
Tiếp nhận, quản lý và khai thác các tài sản xiết nợ qua Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản.
Để hoàn thiện các dịch vụ liên quan hiện có nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, đồng thời tạo đà cho sự phát triển và hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương luôn có tầm nhìn chiến lược trong đầu tư và phát triển, tập trung ở 3 lĩnh vực:
Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển công nghệ
Phát triển kênh phân phối
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
Bộ máy quản lý của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến chức năng, nghĩa là các phòng ban của công ty có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và cùng chịu sự quản lý của giám đốc.
Chi nhánh bao gồm 10 phòng ban:
* Phòng khách hàng doanh nghiệp: Phòng khách hàng doanh nghiệp là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp để khai thác vốn bằng Việt Nam đồng ( VNĐ) và ngoại tệ, thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của Ngân hàng Công thương Việt Nam, trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp.
* Phòng khách hàng cá nhân: Phòng khách hàng cá nhân là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các cá nhân để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ, thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của Ngân hàng Công thương Việt Nam, trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các khách hàng cá nhân.
* Phòng/ Tổ quản lý rủi ro: Phòng quản lý rủi ro có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc chi nhánh về công tác quản lý rủi ro của chi nhánh; quản lý giám sát thực hiên danh mục cho vay, đầu tư đảm bảo tuân thủ các giới hạn tín dụng cho từng khách hàng. Thẩm định hoặc tái thẩm định khách hàng, dự án, phương án đề nghị cấp tín dụng. Thực hiện chức năng đánh giá, quản lý rủi ro trong toàn bộ các hoạt động ngân hàng theo chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
* Phòng quản lý nợ có vấn đề: Phòng quản lý nợ có vấn đề chịu trách nhiệm về quản lý và xử lý các khoản nợ có vấn đề ( bao gồm các khoản nợ: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, nợ quá hạn, nợ xấu); quản lý, khai thác và xử lý tài sản đảm bảo nợ vay theo quy định của Nhà nước nhằm thu hồi các khoản nợ gốc và lãi tiền vay; quản lý, theo dõi và thu hồi các khoản nợ đã được xử lý rủi ro.
* Phòng kế toán: Phòng kế toán là phòng nghiệp vụ thực hiện các giao dịch với khách hàng; các nghiệp vụ và công việc liên quan đến công tác quản lý tài chính, chi tiêu nội bộ tại chi nhánh; cung cấp các dịch vụ ngân hàng liên quan đến nghiệp vụ thanh toán, xử lý hạch toán các giao dịch. Quản lý và chịu trách nhiệm đối với hệ thống giao dịch trên máy, quản lý quỹ tiền mặt đến từng giao dịch viên theo đúng quy định của Nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho khách hàng về sử dụng các sản phẩm của Ngân hàng.
* Phòng/ Tổ Thanh toán xuất nhập khẩu: Phòng Thanh toán xuất nhập khẩu là phòng nghiệp vụ về thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh theo quy định của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
* Phòng Tiền tệ kho quỹ: Phòng Tiền tệ kho quỹ là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt Nam; ứng và thu tiền cho các Quỹ tiết kiệm, các Điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiền mặt cho các doanh nghiệp có thu, chi tiền mặt lớn.
* Phòng Tổ chức hành chính: Phòng Tổ chức hành chính là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tổ chức cán bộ và đào tạo tại chi nhánh theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước và quy định của Ngân hàng Công thương Việt Nam; thực hiện công tác quản trị và văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh tại chi nhánh, thực hiện công tác bảo vệ, an ninh an toàn chi nhánh.
* Phòng/ Tổ Thông tin điện toán: Thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống thông tin điện toán tại chi nhánh; bảo trì bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống mạng, máy tính của chi nhánh.
* Phòng/Tổ tổng hợp: Phòng Tổng hợp là phòng nghiệp vụ tham mưu cho Giám đốc chi nhánh dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cáo hoạt động hàng năm của chi nhánh.
Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy quản lý
Các phó giám đốc
Giám đốc
Trưởng phòng kế toán
Tổ kiểm tra nội bộ
Các phòng nghiệp vụ
Phòng giao dịch
Quỹ tiết kiệm
( Nguồn: Phòng Tổ chức Chi nhánh )
2.1.3. Tình hình hoạt động của chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng Nó cũng như các tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh khác, luôn có mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận. Có thể nói rằng lợi nhuận là yếu tố cụ thể nhất nói lên kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó là hiệu số giữa tổng thu nhập và tổng chi phí. Để gia tăng lợi nhuận, ngân hàng cần quản lý tốt các khoản mục tài sản có, nhất là các khoản mục cho vay và đầu tư, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tiết kiệm chi phí. Khi lợi nhuận tăng, ngân hàng có điều kiện trích dự phòng rủi ro, mở rộng tí._.hép nhiều ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ thanh toán về thẻ và thành lập những trung tâm thẻ, qua đó các giao dịch chi trả và thương mại được thực hiện.
Bên cạnh ngành tin học điện tử viễn thông, hệ thống giáo dục, đào tạo phát triển nguồn nhân lực có vai trò quan trọng đối với ngành ngân hàng. Để phục vụ công tác phát triển nguồn nhân lực cho ngành ngân hàng, bên cạnh hệ thống các trường đại học quốc lập và dân lập thuộc các khối kinh tế và thuộc các khoa chuyên ngành ngân hàng, tài chính của các trường đại học, sự hiện diện của ngày càng nhiều trung tâm đào tạo tập trung vào đội ngũ cán bộ ngân hàng đã tạo điều kiện cho những đổi mới và cải tiến trong nội dung đào tạo phục vụ yêu cầu phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
2.4.4. Các điều kiện về yếu tố đầu vào
Về nguồn lực tài chính: Quy mô và mạng lưới hoạt động của Chi nhánh không ngừng mở rộng. Quy mô vốn tuy còn nhỏ nhưng có xu hướng tăng dần qua các năm. Chi nhánh đã chủ động tìm kiếm khách hàng để huy động vốn và cho vay, đa dạng hoá sản phẩm và hình thức huy động vốn, đồng thời cung cấp nhiều sản phẩm tín dụng cho khách hàng. Chất lượng tín dụng ngày càng được cải thiện nhờ áp dụng đồng loạt các giải pháp tăng cường năng lực tự kiểm soát chất lượng tín dụng. Bên cạnh đó, cơ cấu sử dụng vốn của Chi nhánh đang được chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư và phi tín dụng, đa dạng hoá cơ cấu huy động vốn và sử dụng vốn. Tuy nhiên, chất lượng tài sản có thấp, tốc độ tăng tài sản có tuy lớn nhưng khả năng sinh lời không được cải thiện tương ứng, do đó khả năng tự bổ sung vốn tự có bị hạn chế.
Bảng 2.8: Cơ cấu sử dụng vốn của Chi nhánh
(Đơn vị: Triệu VND)
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Các khoản đầu tư
99.824
106.481
399.572
Cho vay nền kinh
18.925.887
20.706.703
22.100.157
(Nguồn: Phòng Tổng hợp Chi nhánh)
Về trình độ công nghệ, thông tin : Đến nay, hơn 80% các nghiệp vụ ngân hàng của Chi nhánh đã được xử lý bằng máy tính và hầu hết được xử lý trên mạng thay cho các máy tính đơn lẻ. Các quy trình nghiệp vụ huy động vốn, thanh toán, cho vay, kinh doanh ngoại hối... đã bắt đầu được chuẩn hoá.
Về chất lượng nguồn nhân lực và quản trị điều hành: nguồn nhân lực tuy đông nhưng chất lượng vẫn chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của hội nhập quốc tế. Năng lực nhân sự có hạn có thể cản trở nghiêm trọng khả năng của ngân hàng trong việc xử lý khối lượng giao dịch ngày càng lớn và rủi ro ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, việc thiếu một cơ cấu quản trị và quy trình phục vụ khách hàng hiện đại cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Chi nhánh. Các khoản vay có thể phải qua nhiều giai đoạn, được xử lý bởi nhiều nhân viên ở nhiều bộ phận trong Chi nhánh. Điều này làm khách hàng phải chờ đợi thời gian dài, đi nhiều quầy để thực hiện một giao dịch. Nó sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của Chi nhánh khi xã hội ngày càng hiện đại với những khách hàng là công ty hay cá nhân có đòi hỏi ngày càng cao hơn.
2.5. Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
2.5.1. Những thành công của Chi nhánh
Về nguồn lực tài chính: Trong những năm qua, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp nhằm giữ ổn định và phát triển nguồn vốn, nhờ đó tổng nguồn vốn của Chi nhánh có xu hướng tăng trong thời gian qua và tốc độ tăng trưởng tương đối ổn định. Sự gia tăng về quy mô vốn đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của Chi nhánh trên thị trường, mở rộng phạm vi hoạt động cũng như tạo điều kiện cho sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ mới.
Về các sản phẩm dịch vụ: Chi nhánh đã và đang không ngừng hoàn thiện các sản phẩm của mình, tập trung nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ đã có đồng thời cố gắng đầu tư đổi mới công nghệ ngân hàng ở mức có thể để đưa ra được nhiều sản phẩm mới nhằm đáp ứng yêu cầu ngày cáng cao của khách hàng.
Về nguồn nhân lực: Nhờ những nỗ lực trong công tác tuyển dụng và đào tạo, Chi nhánh đã có được lợi thế cạnh tranh về đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ hùng hậu, năng động và sáng tạo. Lợi thế này sẽ tạo điều kiện cho Chi nhánh trong việc học hỏi, ứng dụng các công nghệ hiện đại nhanh hơn. Đồng thời, sự trẻ trung, nhiệt tình của cán bộ nhân viên sẽ mang lại cảm giác thoải mái cho khách hàng.
2.5.2. Những tồn tại và nguyên nhân
* Những tồn tại của Chi nhánh:
Bên cạnh những thành công đã đạt được trong những năm qua, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương còn tồn tại một số hạn chế. Cụ thể là:
Về năng lực tài chính: Tuy tổng nguồn vốn của Chi nhánh có xu hướng tăng về quy mô và có được mức tăng trưởng tương đối ổn định, nhưng với mức quy mô đó, Chi nhánh vẫn chưa đạt được khả năng cạnh tranh cao trong tiêu chí này. So với các Chi nhánh của các ngân hàng khác trong khu vực, tổng nguồn vốn của Chi nhánh Ngân hàng Công thương còn khá nhỏ bé về quy mô, mặc dù mức chênh lệch không cao lắm. Điều này vừa không mang lại cho Chi nhánh lợi thế cạnh tranh về vốn, vừa không tạo điều kiện cho Chi nhánh mở rộng phạm vi hoạt động, đầu tư vào việc đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, các hệ thống quản lý rủi ro và hệ thống thanh toán nội bộ... Do vậy, quy mô vốn nhỏ còn hạn chế năng lực cạnh tranh của Chi nhánh trong các tiêu chí khác như: chất lượng sản phẩm dịch vụ, trình độ công nghệ ...
Về chất lượng sản phẩm dịch vụ: Các sản phẩm dịch vụ của Chi nhánh còn đơn điệu, nghèo nàn, tính tiện ích chưa cao, chưa tạo thuận lợi và bình đẳng cho khách hàng thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ khách hàng. Chi nhánh mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ thông thường và phổ biến, mà chưa có được những sản phẩm mới, nổi trội. Trong khi ở các ngân hàng thương mại cổ phần, do quy mô vốn lớn hơn nên họ có điều kiện đầu tư đổi mới công nghệ và nghiên cứu, phát triển các sản phẩm mới, vì vậy các sản phẩm của họ thường đa dạng hơn, hiện đại hơn và theo kịp sự phát triển của thế giới. Chính điều này đã không tạo được lợi thế cạnh tranh cho Chi nhánhỉtong tiêu chí này.
Về chất lượng nguồn nhân lực: Tuy Chi nhánh có đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ và khá đông nhưng trình độ am hiểu về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp trong nước, quốc tế, các nguyên tắc của WTO còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Sự chuyên nghiệp trong việc thực hiện các giao dịch phục vụ khách hàng chưa cao. Có thể nói đây là điểm yếu chung của các ngân hàng thương mại nhà nước. Chính điều này đã làm cho khách hàng có xu hướng chuyển sang sử dụng các dịch vụ của các ngân hàng thương mại cổ phần, vì ở các ngân hàng này họ được phục vụ nhanh chóng hơn và chuyên nghiệp hơn.
Về năng lực quản trị: Nhìn chung, trình độ quản trị của Chi nhánh vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu chuyên nghiệp. Chi nhánh cũng chưa thiết lập được hệ thống quản lý rủi ro hữu hiệu, hệ thống thanh toán nội bộ còn yếu, kiểm tra, kiểm toán chưa hiệu quả; hệ thống thông tin quản lý tập trung và hệ thống kế toán, quản lý tài chính chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, các cán bộ quản trị ngân hàng của Chi nhánh chủ yếu được lựa chọn qua thực tiễn hoạt động kinh doanh mà không được đào tạo nghề quản trị ngân hàng một cách bài bản, do vậy tính chuyên nghiệp trong quản trị và điều hành không cao.
Về trình độ công nghệ: Hiện nay, mức độ áp dụng công nghệ thông tin trong Chi nhánh còn khá chênh lệch so với các Chi nhánh của các ngân hàng khác trong cùng khu vực. Điều này làm hạn chế hiệu quả các hoạt động khác của Chi nhánh, như: khả năng cung cấp thông tin kịp thời và chính xác, khả năng quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin về khách hàng... Có thể nói năng lực cạnh tranh của Chi nhánh trong tiêu chí này còn tương đối kém.
Về uy tín thương hiệu: Trong thời gian vừa qua, nhờ sự nỗ lực không ngừng, Chi nhánh đã khẳng định được một vị thế nhất định trên thị trường. Tuy nhiên, Chi nhánh chưa thực sự quan tâm đúng mức trong công tác xây dựng, phát triển và bảo vệ thương hiệu của mình. Đặc biệt, trong sự phát triển hiện nay, với sự xuất hiện của nhiều ngân hàng mới ( trong nước và nước ngoài), điều này sẽ ảnh hưởng đến hình ảnh của Chi nhánh trong tâm trí khách hàng. Vì vậy, Chi nhánh cần đầu tư nhiều hơn để ngày càng khẳng định được thương hiệu của mình.
* Nguyên nhân:
Thứ nhất, kinh doanh ngân hàng là hoạt động tài chính rất phức tạp, rủi ro lớn trong khi Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương mới ra đời và hoạt động độc lập được 20 năm. Vì vậy, khung pháp lý, năng lực thể chế, kinh nghiệm quản lý, nhân lực và công nghệ còn rất yếu và lạc hậu so với trình độ quốc tế. Môi trường hoạt động Ngân hàng còn thiếu tính cạnh tranh lành mạnh và tiềm ẩn nhiều rủi ro
Thứ hai, khả năng giám sát hoạt động của Chi nhánh còn rất hạn chế về chuẩn mực, quy trình nghiệp vụ, phương thức, công cụ và hiệu lực giám sát, đặc biệt là khả năng phát hiện, đo lường, xử lý rủi ro còn yếu
Bên cạnh đó, với cơ chế khuyến khích, đãi ngộ và sức mạnh tài chính hiện tại còn yếu kém, nên việc cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, thu hút nhân tài để chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài của Chi nhánh là không đáng kể. Hệ thống đào tạo trong nước và bồi dưỡng tại chỗ chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực.
Thứ ba, năng lực tài chính của Chi nhánh còn yếu. Trong những năm qua, mặc dù đã có nhiều đổi mới, song đến nay, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương vẫn ở giai đoạn phát triển ban đầu, năng lực tài chính của Chi nhánh còn yếu, nợ quá hạn cao, nhiều rủi ro. Tổng số vốn tự có chưa tới 1 tỷ USD, tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản đạt chưa tới 5% (thông lệ tối thiểu là 8%).
Thứ tư, các dịch vụ ngân hàng của Chi nhánh còn đơn điệu, nghèo nàn, tính tiện lợi chưa cao, chưa tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho các khách hàng thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng. Tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu tạo thu nhập cho Chi nhánh, các nghiệp vụ mới như thanh toán dịch vụ qua ngân hàng, môi giới kinh doanh, tư vấn dự án chưa phát triển. Cho vay theo chỉ định của Nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tín dụng của Chi nhánh. Việc mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc.
Thứ năm, Chi nhánh còn thiếu chiến lược kinh doanh hiệu quả, bền vững. Hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ còn yếu, thiếu tính độc lập; hệ thống thông tin báo cáo tài chính, kế toán và thông tin quản lý còn chưa đạt tới các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Thứ sáu, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao. Đội ngũ lao động của Chi nhánh khá đông nhưng trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của điều kiện hội nhập. Cơ cấu tổ chức trong nội bộ Chi nhánh còn lạc hậu, không phù hợp với các chuẩn mực quản lý hiện đại đã được áp dụng phổ biến ở các nước trong nhiều năm qua.
CHƯƠNG 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
CHƯƠNG DƯƠNG
3.1. Cơ hội và thách thức đối với Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của các nước kinh tế đang phát triển muốn tiếp cận nhanh nền kinh tế tiên tiến. Đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế là một hướng đi đúng và quan trọng là làm tiền đề cho việc tạo dựng vị thế trên trường quốc tế, đồng thời mang lại nhiều cơ hội để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng thương mại – Doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng đứng trước những thách thức lớn. Để vượt qua những thách thức và tận dụng tốt cơ hội đòi hỏi các Ngân hàng thương mại Việt Nam phải phân tích những điểm mạnh những điểm yếu của mình để đưa ra chiến lược phù hợp cho từng thời kỳ, từng giai đoạn của sự phát triển, để từ đó hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể cạnh tranh một cách chủ động và phát triển.
3.1.1. Cơ hội đối với Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
Đối với ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương nói riêng, hội nhập quốc tế mở ra cơ hội để trao đổi, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hoạch định chính sách tiền tệ, đề ra biện pháp phòng ngừa rủi ro, qua đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng. Đồng thời, ngành ngân hàng Việt Nam có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, có khả năng theo kịp yêu cầu phát triển thị trường tài chính trong nước và ngoài nước ... Cụ thể là:
* Một sân chơi lớn hơn và công bằng hơn:
Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu của Việt Nam tiếp cận nhiều thị trường và thu hút nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Khi thương mại, đầu tư trực tiếp nước ngoài và tất cả hoạt động của nền kinh tế tăng lên, nhu cầu và cơ hội để Ngân hàng cho vay và huy động vốn cũng tăng lên. Khi kinh tế phát triển, nhiều doanh nghiệp làm ăn có lãi thì khả năng trả nợ của họ cũng tăng lên, điều này có tác động tích cực tới Ngân hàng. Danh mục kinh doanh và tài sản của Ngân hàng sẽ có chất lượng tốt hơn, đây là điều kiện cần thiết để Ngân hàng tiếp cận thị trường vốn, tăng vốn chủ sở hữu và trở nên lớn hơn.
* Sự tham gia của Ngân hàng nước ngoài:
Tất nhiên khi hội nhập kinh tế quốc tế, khi mở cửa thị trường thì cạnh tranh khắc nghiệt hơn sẽ xảy ra đối với Ngân hàng. Nhưng điều này cũng sẽ mang lại kết quả là Ngân hàng phải hoạt động tốt hơn, nhờ đó khách hàng sẽ có cơ hội được chọn lựa nhiều sản phẩm và chất lượng dịch vụ cao hơn. Như vậy khách hàng cũng như nền kinh tế sẽ được hưởng lợi hơn.
Khi các hạn chế về sở hữu nước ngoài trong các Ngân hàng Việt Nam được dỡ bỏ, các Ngân hàng nước ngoài có thể mua cổ phần của các Ngân hàng Việt Nam và trở thành cổ đông chiến lược. Như vậy, các Ngân hàng trong nước sẽ có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ, phát huy lợi thế so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Điều này sẽ giúp các Ngân hàng trong nước mạnh hơn và cạnh tranh hơn. Hơn nữa, đối với Ngân hàng trong nước, việc một lượng cổ phần của mình được nắm giữ bởi một Ngân hàng quốc tế thì uy tín của Ngân hàng trong nước trong mắt của các nhà đầu tư và của công chúng sẽ tăng lên đáng kể.
Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho Ngân hàng tiếp cận và chuyên môn hoá các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Chính hội nhập quốc tế cho phép các Ngân hàng nước ngoài tham gia tất cả các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam, điều này buộc các Ngân hàng trong nước phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở Việt Nam.
* Sự trao đổi, hợp tác quốc tế
Hội nhập quốc tế mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các Ngân hàng thương mại trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam trong các giao dịch quốc tế . Nó tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam, nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, tăng cường khả năng tổng hợp, hệ thống tư duy xây dựng các văn bản pháp luật trong hệ thống ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết với hội nhập quốc tế.
Như vậy, hội nhập quốc tế tạo ra nhiều thuận lợi và cơ hội cho các ngân hàng Việt Nam phát triển thành một hệ thống ngân hàng hoạt động năng động, an toàn, hiệu quả và phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế
3.1.2. Thách thức đối với Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
Hội nhập quốc tế mang lại cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Công thương nói riêng không ít những cơ hội để phát triển, tuy nhiên bên cạnh những cơ hội đó, Chi nhánh cũng phải đối mặt với hàng loạt thách thức. Cụ thể là:
Thứ nhất, cạnh tranh trong việc giữ và mở rộng thị trường: Việc loại bỏ dần các hạn chế đối với các Ngân hàng nước ngoài có nghĩa là các Ngân hàng nước ngoài sẽ từng bước tham gia vào lĩnh vực hoạt động ngân hàng tại nước ta. Không chỉ chịu áp lực cạnh tranh gay gắt bởi các Ngân hàng thương mại nước ngoài, các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn phải chịu áp lực cạnh tranh với các tổ chức tài chính trung gian khác và các định chế tài chính khác như thị trường chứng khoán, cho thuê tài chính, bảo hiểm ... Điều này sẽ tạo ra sức ép cạnh tranh trong ngành Ngân hàng và buộc các ngân hàng Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương nói riêng phải tăng thêm vốn, đầu tư kỹ thuật, cải tiến phương thức quản trị và hiện đại hoá hệ thống thanh toán để nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh.
Thứ hai, khả năng tài chính, trình độ quản lý và công nghệ của Chi nhánh còn thấp, dịch vụ ngân hàng chưa phong phú, tiện lợi nên thách thức về cạnh tranh đối với Chi nhánh là khá lớn, đặc biệt là Chi nhánh có những phạm vi hoạt động kinh doanh phù hợp với lĩnh vực hoạt động, có ưu thế của các ngân hàng nước ngoài như: thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, đầu tư dự án và các khách hàng trọng tâm của các ngân hàng nước ngoài như các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp xuất khẩu…
Thứ ba, Chi nhánh đầu tư tập trung quá nhiều vào các doanh nghiệp nhà nước mà phần lớn các doanh nghiệp này đều có thứ bậc xếp hạng tài chính thấp thuộc các ngành có khả năng cạnh tranh yếu. Đây là nguy cơ rủi ro rất lớn đối với Chi nhánh
Thứ tư, hội nhập quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong khi đó cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát ngân hàng của Chi nhánh còn rất đơn giản, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa có hiệu quả và hiệu lực để bảo đảm việc tuân thủ nghiêm pháp luật về ngân hàng và sự an toàn của hệ thống ngân hàng, nhất là trong việc ngăn chặn và cảnh báo sớm các rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
3.2. Một số giải pháp và kiến nghị nâng cao năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương
Để giành thế chủ động trong tiến trình hội nhập, Chi nhánh cần xây dựng cho mình hình ảnh một Ngân hàng có uy tín, đủ năng cạnh tranh, hoạt động có hiệu quả cao, an toàn, có khả năng huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư.
3.2.1. Giải pháp của Chi nhánh
Thứ nhất, nâng cao năng lực tài chính
Để có thể tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì điều quan trọng là Ngân hàng phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh. Năng lực tài chính của Chi nhánh nhìn chung là kém, tất cả các chỉ số đều còn thấp. Do đó, để nâng cao năng lực tài chính, Chi nhánh nên thực hiện một số biện pháp như: Khẩn trương tăng vốn điều lệ và xử lý dứt điểm nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh và chống rủi ro, tăng cường thu hút tiền gửi để tăng quy mô vốn...
Về chiến lược thu hút tiền gửi, Chi nhánh cần xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử rộng khắp nhằm tạo cho dân chúng thói quen sử dụng tài khoản ngân hàng. Đồng thời, những thủ tục rắc rối cần được cắt giảm để tạo thuận lợi tối đa cho khách hàng.
Bên cạnh đó, Chi nhánh cần áp dụng các biện pháp thực tế như phát hành cổ phiếu ở mức cần thiết hoặc bán tài sản và thuê lại để bổ sung vốn điều lệ nhằm đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, xử lý hết nợ tồn đọng.
Thứ hai, phát triển công nghệ kỹ thuật ngân hàng hiện đại, chú trọng hoạt động Marketing, đa dạng hoá và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ kỹ thuật tiên tiến.
Công nghệ ngân hàng của Chi nhánh dù được chú trọng trong thời gian qua nhưng vẫn bị đánh giá là yếu kém. Nhìn chung, các phần mềm Chi nhánh đang ứng dụng đều là những phần mềm thế hệ mới được nhiều ngân hàng trên thế giới đang sử dụng. Tuy nhiên, công tác triển khai chậm và khi triển khai xong, lại chưa tạo được một cơ chế nhằm khai thác hiệu quả công nghệ đó.
Song song với việc hiện đại hoá công nghệ, Chi nhánh cần có chính sách khai thác công nghệ hiệu quả thông qua việc phát triển những sản phẩm và nhóm sản phẩm dựa trên công nghệ cao nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh về sản phẩm, dịch vụ, tạo ra sự đa dạng trong lựa chọn sản phẩm và tăng cường bán chéo cho khách hàng. Đồng thời, việc phát triển đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cũng sẽ góp phần phân tán và hạn chế bớt rủi ro trong quá trình hoạt động.
Ngoài ra, Chi nhánh cần cải tiến và đơn giản hoá các thủ tục vay vốn nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng.
Thứ ba, xây dựng chiến lược khách hàng phù hợp
Chiến lược khách hàng là một trong những phương thức mà các ngân hàng sử dụng cho cuộc chiến cạnh tranh của mình, đó là toàn bộ quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện những hoạt động từ việc nghiên cứu, phát hiện nhu cầu đến việc thoả mãn tốt những nhu cầu mong muốn của nhóm khách hàng bằng hệ thống những chính sách, công cụ nhằm duy trì mối quan hệ với khách hàng truyền thống và mở rộng quan hệ với khách hàng tiềm năng trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Do vậy, Chi nhánh cần xây dựng một chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó với nhau, phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với tất cả khách hàng. Cần đánh giá cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín trong giao dịch ngân hàng. Đối với những khách hàng này, khi xây dựng chiến lược ngân hàng phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động của ngân hàng với hoạt động của khách hàng, thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả rõ ràng.
Thứ tư, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm
Các đặc tính sản phẩm từ các ngân hàng đều có điểm giống nhau nên việc tạo ra sự khác biệt là hết sức quan trọng. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu của khách hàng ngày càng nhiều hơn và yêu cầu cao hơn. Do vậy, để cạnh tranh với các đối thủ khác, mỗi ngân hàng đều cần quan tâm đầu tư đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm. Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương cũng không phải là một ngoại lệ. Tuy nhiên, do quy mô vốn của Chi nhánh còn nhỏ nên việc phát triển các sản phẩm mới cần được thực hiện một cách từ từ và có chọn lọc. Chi nhánh phải xác định được dịch vụ cốt yếu của mình và tập trung phát triển chất lượng các dịch vụ đó. Việc đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng nên gắn liền với việc chuyên môn hoá các dịch vụ mà khách hàng của mình sử dụng, tránh việc đầu tư dàn trải.
Thứ năm, nâng cao năng lực quản trị điều hành
Chi nhánh cần đẩy mạnh việc chuẩn hoá các quy trình quản lý và vận hành. Tất cả các quy trình trong Chi nhánh cần được tích hợp trong hệ thống tự động để đảm bảo các hoạt động được thực hiện một cách có hiệu quả và giảm bớt chi phí hành chính. Đồng thời, năng lực quản trị chiến lược của cán bộ lãnh đạo Chi nhánh cần được cải thiện hơn để có thể nhanh chóng nắm bắt xu thế phát triển và đưa ra những chiến lược có hiệu quả.
Bên cạnh đó, Chi nhánh cần chú ý hơn nữa đến các hoạt động kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro nhằm đảm bảo ngân hàng vận hành an toàn, đặc biệt việc áp dụng các hệ thống đánh giá rủi ro tín dụng và kiểm soát nợ xấu có thể xảy ra nên được Chi nhánh chú ý thực hiện.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng.
Sự thành công trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào trình độ của đội ngũ cán bộ nhân viên. Do đó, công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ phải được đầu tư thích đáng, được coi là nhiệm vụ thường xuyên của ngân hàng. Đặc biệt đối với Chi nhánh, đội ngũ cán bộ trẻ chiếm tỷ lệ đông đảo, còn thiếu kinh nghiệm thực tế, trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, cho nên công tác đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cần được chú trọng hơn nữa. Chi nhánh cần đào tạo và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại. Công tác đào tạo phải được thực hiện ở nhiều lĩnh vực, cấp độ khác nhau:
Đào tạo cơ bản đối với cán bộ mới bao gồm cán bộ mới tuyển dụng, cán bộ mới từ nghiệp vụ khác chuyển sang.
Đào tạo nâng cao đối với cán bộ nghiệp vụ có trình độ và thời gian công tác nhất định chủ yếu nhằm nâng cao kỹ năng tác nghiệp, trình độ xử lý các tình huống nghiệp vụ.
Đào tạo chuyên sâu: Mỗi nghiệp vụ ngân hàng nên chia thành cấp độ chuyên sâu khác nhau như huy động vốn, sử dụng vốn, thanh toán và nghiệp vụ ngân hàng quốc tế nhằm đáp ứng yêu cầu của công việc, chuẩn bị điều kiện cho hội nhập khu vực và quốc tế.
Nhưng dù ở lĩnh vực nghiệp vụ nào cũng cần quán triệt sâu sắc quan điểm từng cán bộ phải phát huy hết khả năng, năng lực của mình đóng góp vào hoạt động của ngân hàng.
Hơn nữa, Chi nhánh cần phải chú trọng đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực tiếp cận thị trường, trang bị tốt kiến thức về marketing, khả năng giao tiếp với khách hàng, tập huấn các văn bản chế độ mới liên quan tới ngân hàng bởi dưới con mắt của khách hàng, nhân viên giao dịch là hình ảnh, là người quyết định mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Chất lượng dịch vụ mà họ nhận được có sự đóng góp rất to lớn từ thái độ phục vụ, kiến thức, kinh nghiệm làm việc của nhân viên ngân hàng. Được trang bị đầy đủ kiến thức nhân viên ngân hàng mới có khả năng nắm bắt được tình hình kinh doanh của khách hàng từ đó có khả năng tư vấn cho khách hàng tốt hơn.
3.2.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ
* Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam là vấn đề quan trọng cần được thực hiện nhằm tạo lập hành lang pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế và hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam. Điều này sẽ thiết thực phục vụ cho lộ trình hội nhập quốc tế và tạo lập một hệ thống các quy định thận trọng để đảm bảo hoạt động an toàn và hiệu quả. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nên xem xét cân nhắc những kiến nghị sau:
Thứ nhất, về hệ thống pháp lý: Ngân hàng Nhà nước cần tiến hành rà soát tổng thể và đối chiếu toàn bộ các quy định và văn bản luật hiện hành và tính tương thích của các quy định và văn bản luật này với các cam kết và yêu cầu của các hiệp định quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng và dịch vụ tài chính. Nhiệm vụ này cần được thực hiện để xác định các lỗ hổng về mặt pháp lý, các trở ngại, các khác biệt và mâu thuẫn giữa hệ thống các quy định pháp lý.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần sớm xây dựng các cơ chế và chính sách về minh bạch hoá và công khai các thông tin của các tổ chức tín dụng theo hướng tạo điều kiện cho các ngân hàng tham gia vào thị trường chứng khoán. Một mặt thị trường chứng khoán là kênh tạo vốn quan trọng cho các ngân hàng tăng cường khả năng tài chính, mặt khác các ngân hàng được niêm yết sẽ phải hoạt động minh bạch hơn và có hiệu quả hơn.
Thứ hai, về tăng cường năng lực cho các ngân hàng Việt Nam: Ngân hàng Nhà nước cần thúc đẩy hơn nữa và thể chế hoá việc áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng ( CAMELs, BASEL) vào trong thực tiễn quản trị và hoạt động của tất cả các ngân hàng tại Việt Nam.
Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cần xem xét để sớm xoá bỏ các văn bản, thủ tục có tính chất bảo hộ và phân biệt đối xử giữa các ngân hàng trong nước trước khi thực hiện các biện pháp tự do hoá hơn nữa.
* Kiến nghị đối với Chính phủ và các bộ ngành liên quan
Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần đẩy mạnh sự phát triển của các yếu tố đầu vào và các ngành liên quan như thị trường chứng khoán, công nghệ thông tin, kế toán, kiểm toán, và giáo dục đào tạo ... để hỗ trợ sự phát triển của các dịch vụ ngân hàng.
Bên cạnh đó, Chính phủ và các bộ ngành, địa phương cần đẩy mạnh hơn nữa việc cải cách doanh nghiệp Nhà nước để trợ giúp cho các ngân hàng trong việc giải quyết vấn đề nợ quá hạn. Nếu không các ngân hàng Việt Nam, đặ biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn phải tiếp tục đối mặt với tình trạng nợ xấu của các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
Ngoài ra, Chính phủ và các bộ ngành liên quan như bộ Tư pháp, Toà án cần tăng cường thực thi pháp luật nhằm giải quyết hiệu quả các trường hợp gian lận ngân hàng, người vay mất khả năng trả nợ và điều kiện để phát mại các tài sản cầm cố ... Nếu lợi ích của cả người đi vay và người cho vay được bảo đảm thì sẽ kích thích họ thực hiện nhiều giao dịch và kinh doanh hơn.
KẾT LUẬN
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện đang là xu hướng phát triển tất yếu của thời đại và là yêu cầu khách quan đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của một nước. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trên nhiều lĩnh vực như : trao đổi hàng hóa, dịch vụ, chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia và khu vực, lưu chuyển vốn quốc tế,… tạo điều kiện cho các quốc gia có thể hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, kỹ thuật công nghệ,… trong hoạt động kinh doanh. Trong lĩnh vực ngân hàng, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam, tạo điều kiện trao đổi kinh nghiệm về vốn, kinh nghiệm quản lý, công nghệ, hoạch định chính sách tiền tệ,… Từ đó có giải pháp phòng ngừa hoặc giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao uy tín kinh doanh trên thị trường tài chính quốc tế .
Trong xu thế đó, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Chương Dương đã có những chủ động và đang từng bước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Sau gần 20 năm hoạt động, Chi nhánh đã khẳng định được năng lực của mình bằng những bước đi vững chắc khi không ngừng mở rộng quy mô hoạt động và đối tượng khách hàng thông qua các quan hệ tín dụng tiền tệ và phát triển các hoạt động dịch vụ ngân hàng khác .
Tuy nhiên, để có thể tồn tại và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Chi nhánh phải từng bước chuyên môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn, nhanh chóng tiếp cận và phát triển các hình thức dịch vụ ngân hàng hiện đại, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10413.doc