CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH
VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Cạnh tranh
Tuy cạnh tranh là vấn đề phổ biến và được nghiên cứu từ rất lâu, nhưng cho đến nay trên thế giới vẫn chưa có khái niệm thống nhất về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, để đưa ra khái niệm này một cách có căn cứ, cần điểm lại một số lý thuyết về năng lực cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trên thế giới và trong nước.
1.1.1 Khái niệm về lý thuyết cạnh tranh doanh nghiệp và quan niệm về cạnh tranh
Trong n
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1308 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc tại khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam trong hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền kinh tế thị trường, cạnh tranh là hiện tượng phổ biến và có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế ở các quốc gia. Việc nghiên cứu hiện tượng cạnh tranh đã từ rất sớm với các các trường phái nổi tiếng như: lý thuyết cạnh tranh cổ điển, lý thuyết cạnh tranh tân cổ điển và lý thuyết cạnh tranh hiện đại.
Có thể tóm lược một số nội dung cơ bản về lý thuyết cạnh tranh trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay như sau:
Cạnh tranh là hiện tượng phổ biến mang tính tất yếu, là một quy luật cơ bản trong nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh có tính chất hai mặt: tác động tích cực và tác động tiêu cực. Cạnh tranh là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các chủ thể kinh doanh hoạt động hiệu quả hơn trên cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả vì sự sống còn và phát triển của mình. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có nguy cơ dẫn đến cạnh tranh, giành giật, khống chế lẫn nhau… tạo nguy cơ gây rối loạn và thậm chí đổ vỡ lớn. Để phát huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực, cần duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp và kiểm soát độc quyền, xử lý cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể kinh doanh.
Trong điều kiện hiện nay, cạnh tranh chuyển từ quan điểm đối kháng sang cạnh tranh trên cơ sở hợp tác, cạnh tranh không phải là khi nào cũng đồng nghĩa với việc tiêu diệt lẫn nhau, triệt hạ nhau. Trên thực tế, các thủ pháp cạnh tranh hiện đại dựa trên cơ sở cạnh tranh bằng chất lượng, mẫu mã, giá cả và các dịch vụ hỗ trợ. Bởi lẽ, khi mà các đối thủ cạnh tranh quá nhiều thì việc tiêu diệt các đối thủ khác là vấn đề không đơn giản.
Như đã điểm qua ở trên, các quan niệm về cạnh tranh là rất nhiều và cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm nhất định, thống nhất về cạnh tranh. Tuy nhiên, các quan niệm đưa ra trên đây cũng góp một phần làm sáng tỏ cạnh tranh là gì.
Tập hợp những quan điểm trên xin đưa ra một khái niệm về cạnh tranh trong kinh tế, đặc biệt là cạnh tranh giữa doanh nghiệp:
Trong hoạt động kinh tế, cạnh tranh luôn liên quan đến quyền sở hữu. Nói cách khác, sở hữu là điều kiện để cạnh tranh kinh tế diễn ra. “Cạnh tranh” là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (giữa các quốc gia, doanh nghiệp) trên cơ sở sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế kết hợp áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất cũng như dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu khách hàng bằng sản phẩm chất lượng và giá cả hợp lý và “cạnh tranh” cũng tạo ra sự sai biệt giữa các sản phẩm cùng loại thông qua các giá trị vô hình mà doanh nghiệp tạo ra. Qua đó, doanh nghiệp sẽ giành lấy những vị thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hàng hóa để tối đa hóa lợi nhuận.
1.1.2 Vai trò của cạnh tranh
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng và trong lĩnh vực kinh tế nói chung. Cạnh tranh không những có mặt tác động tích cực mà còn có những tác động tiêu cực. Về mặt tích cực:
Ở tầm vĩ mô, cạnh tranh mang lại:
Động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế, giúp đất nước hội nhập tốt kinh tế toàn cầu.
Ở tầm vi mô, đối với một doanh nghiệp cạnh tranh được xem như công cụ hữu dụng để:
Người sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học, công nghệ trong đó cao hơn... để đáp ứng với thị hiếu của người tiêu dùng.
Người tiêu dùng được hưởng những sản phẩm hay dịch vụ tốt hơn với giá thành hợp lý.
Ngoài mặt tích cực, cạnh tranh cũng đem lại những hệ quả không mong muốn về mặt xã hội cũng như kinh tế.
Làm thay đổi cấu trúc xã hội trên phương diện sở hữu của cải, gây ra hiện tượng độc quyền, làm phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo.
Dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật.
Vì lý do trên, cạnh tranh kinh tế bao giờ cũng phải được điều chỉnh bởi các định chế xã hội, sự can thiệp của nhà nước.“Bên cạnh đó, cần thay đổi tư duy cạnh tranh từ đối đầu sang hợp tác cùng có lợi. Hãy xem Trung Quốc, khi Tập đoàn Wall Mart vào Trung Quốc giành thị phần, các doanh nghiệp Trung Quốc đành là người cung cấp đầu vào, tuy nhiên đến nay chiếm trên 60% sản phẩm hàng hoá của Wall Mart ở các siêu thị trên thế giới là hàng Trung Quốc, như vậy Trung Quốc đã lợi dụng Tập đoàn Wall Mart để "cõng" hàng hoá của Trung Quốc ra bên ngoài… Vì vậy, bài học ở đây là Việt Nam phải vừa cạnh tranh, vừa hợp tác, trong hợp tác có cạnh tranh, trong cạnh tranh có hợp tác, đó là cách ứng xử thông minh” TS. Nguyễn Đăng Doanh - Nguồn: Lao động
1.2 Năng lực cạnh tranh
1.2.1. Khái quát tiến trình phát triển lý thuyết năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
Cạnh tranh trong nền kinh tế nói chung và cạnh tranh doanh nghiệp nói riêng đã được nghiên cứu từ rất lâu. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh và việc nghiên cứu năng lực cạnh tranh một cách có hệ thống lại bắt đầu khá muộn và chỉ mới từ những năm 1980 đến nay. Theo kết quả tổng hợp các công trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của các nhà kinh tế người Anh là Buckley, Pass và Precott, đến năm 1988 có rất ít định nghĩa về năng lực cạnh tranh được chấp nhận.
Còn M. E. Porter một chuyên gia hàng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh lại chỉ ra rằng cho đến năm 1990, năng lực cạnh tranh vẫn chưa được hiểu một cách đúng đắn, đầy đủ và chưa có một định nghĩa nào được chấp nhận một cách thống nhất. Năm 1996, Waheeduzzan và các cộng sự cho rằng “năng lực cạnh tranh vẫn là một khái niệm được hiểu thiếu đầy đủ”. Cho đến năm 2004, Henricsson và các cộng sự chỉ rõ rằng khái niệm năng lực cạnh tranh vẫn còn nhiều tranh cãi giữa các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh tế, các nhà báo và các học giả ở nhiều nước.
Khi tổng thuật tài liệu nghiên cứu về năng lực cạnh tranh, một số tác giả như Thorne (2002, 2004), Momay (2002, 2005) chỉ ra rằng, bắt đầu từ những năm 1990 đến nay, lý thuyết về năng lực cạnh tranh trên thế giới bước vào thời kỳ bùng nổ với số lượng công trình nghiên cứu được công bố rất lớn. Theo Thorne, các lý thuyết về năng lực cạnh tranh tập trung lại 3 cách tiếp cận sau: lý thuyết thương mại truyền thống, lý thuyết tổ chức công nghiệp và trường phái quản lý chiếc lược.
Lý thuyết thương mại truyền thống nghiên cứu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dựa trên cách tiếp cận của “kinh tế trọng cung”, chú trọng tới mặt cung, chủ yếu quan tâm tới khâu “bán hàng” của người sản xuất – kinh doanh. Theo cách tiếp cận này, tiêu chí đầu tiên của năng lực cạnh tranh là giá cả và do đó sự khác biệt về giá cả của hàng hóa, dịch vụ được coi là tiêu chí chính để đo lường năng lực cạnh tranh.
Lý thuyết này chưa chú trọng đúng mức về cầu hàng hóa, dịch vụ cũng như các yếu tố môi trường kinh doanh. Theo Van Duren và các cộng sự (1991), cách tiếp cận này dẫn tới những sai lầm cố hữu do chưa chú trọng đúng mức đến sự khác biệt về chất lượng sản phẩm, cách tiếp thị và những dịch vụ hậu mại của doanh nghiệp. Để khắc phục hạn chế của cách tiếp cận thương mại truyền thống, cần kết hợp mặt cung với mặt cầu hàng hóa, dịch vụ khi nghiên cứu năng lực cạnh tranh doanh nghiệp.
Lý thuyết tổ chức công nghiệp nghiên cứu năng lực cạnh tranh trên cơ sở xác định thông số tác động tới các hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp, nhấn mạnh tới mặt cầu của hàng hóa, dịch vụ, coi trọng yếu tố ngoài giá hơn yếu tố giá cả. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không chú trọng đúng mức tới lý luận về năng lực cạnh tranh, chưa chú ý tới các yếu tố tác động năng lực cạnh tranh như vai trò của Nhà nước hay chính sách.
Trường phái quản lý chiến lược được coi là mô hình khá mạnh nghiên cứu về năng lực cạnh tranh, làm rõ nguồn lực bảo đảm cho năng lực cạnh tranh.
Một số nhà nghiên cứu đã có những công trình nghiên cứu công phu về năng lực cạnh tranh. Chẳng hạn như Momaya (2002), Ambastha và cộng sự (2005), hoặc các tác giả người Mỹ như Henricsson và các cộng sự (2004)… đã hệ thống hóa và phân loại các nghiên cứu và đo lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo 3 loại: nghiên cứu năng lực cạnh tranh hoạt động, năng lực cạnh tranh dựa trên khai thác, sử dụng tài sản và năng lực cạnh tranh theo quá trình.
Năng lực cạnh tranh hoạt động là xu hướng nghiên cứu năng lực cạnh tranh chú trọng vào những chỉ tiêu cơ bản gắn với hoạt dộng kinh doanh trên thực tế như: thị phần, năng suất lao động, giá cả, chi phí v.v… Theo những chỉ tiêu này, doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao là những doanh nghiệp có các chỉ tiêu hoạt động kinh doanh hiệu quả, chẳng hạn như năng suất lao động cao, thị phần lớn, chi phí sản xuất thấp…
Năng lực cạnh tranh dựa trên tài sản là xu hướng nghiên cứu nguồn hình thành năng lực cạnh tranh trên cơ sở sử dụng các nguồn lực như nhân lực, công nghệ, lao động. Theo đó, các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao là những doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực hiệu quả như nguồn nhân lực, lao động, công nghệ, đồng thời có lợi thế hơn trong việc tiếp cận các nguồn lực này.
Năng lực cạnh tranh theo quá trình là xu hướng nghiên cứu năng lực cạnh tranh như các quá trình duy trì và phát triển năng lực năng lực cạnh tranh. Các quá trình bao gồm: quản lý chiếc lược, sử dụng nguồn nhân lực, các quá trình tác nghiệp (sản xuất, chất lượng…).
Theo thống kê trong nghiên cứu của Momaya và các cộng sự 2005 thì hướng nghiên cứu coi năng lực cạnh tranh như quá trình duy trì và phát triển năng lực cạnh tranh được nhiều nhà nghiên cứu chú trọng và phát triển nhất cho đến nay.
Như vậy, cho đến nay, lý thuyết về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp trên thế giới phát triển theo nhiều khuynh hướng khác nhau, nhiều trường phái và cách tiếp cận khác nhau.
Tuy nhiên, do ý nghĩa to lớn của việc nghiên cứu năng lực cạnh tranh nên bất chấp những bất đồng trong lý luận, một số nước như Mỹ, Anh và tổ chức quốc tế như Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), Viện Phát Triển quản lý (IMD), Công ty Standard & Poor’s, Công ty Moody’s… vẫn nghiên cứu và công bố các kết quả tính toán năng lực canh tranh ở các cấp độ khác nhau. Các kết quả này được rất nhiều quốc gia, doanh nghiệp quan tâm và tham khảo.
1.2.2 Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Khái niệm năng lực cạnh tranh được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào đầu những năm 1990. Theo Aldington Report (1985): “Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá cả thấp hơn các đối thủ khác trong nước và quốc tế. Khả năng cạnh tranh đồng nghĩa với việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và khả năng bảo đảm thu nhập cho người lao động và chủ doanh nghiệp”. Định nghĩa này cũng được nhắc lại trong “Sách trắng về năng lực cạnh tranh của Vương quốc Anh” (1994). Năm 1998, Bộ thương mại và Công nghiệp Anh đưa ra định nghĩa “Đối với doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh là khả năng sản xuất đúng sản phẩm, xác định đúng giá cả và vào đúng thời điểm. Điều đó có nghĩa là đáp ứng nhu cầu khách hàng với hiệu suất và hiệu quả hơn các doanh nghiệp khác”
Tuy nhiên, khái niệm năng lực cạnh tranh đến nay vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất. Theo Buckley (1988), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần được gắn kết với việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp với 3 yếu tố: các giá trị chủ yếu của doanh nghiệp, mục đích chính của doanh nghiệp và các mục tiêu giúp các doanh nghiệp thực hiện chức năng của mình.
Điểm lại các tài liệu trong và ngoài nước, có nhiều cách quan niệm về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp. Dưới đây là một số cách quan niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đáng chú ý.
Một là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là cách quan niệm khá phổ biến hiện nay, theo đó năng lực cạnh tranh là khả năng tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ so với các đối thủ và khả năng “thu lợi” của các doanh nghiệp.
Hai là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng chống chịu trước sự tấn công của doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, Hội đồng Chính sách năng lực cạnh tranh của Mỹ đưa ra định nghĩa: năng lực cạnh tranh là năng lực kinh tế về hàng hóa và dịch vụ trên thị trường thế giới… Ủy ban Quốc gia về hợp tác kinh tế có trích dẫn khái niệm năng lực cạnh tranh theo Từ điển Thuật Ngữ chính sách thương mại (1997), theo đó, năng lực cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp “không bị doanh nghiệp khác đánh bại về năng lực kinh tế”. Quan niệm về năng lực cạnh tranh như vậy mang tính chất định tính, khó có thể định lượng.
Ba là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với năng suất lao động. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là sức sản xuất ra thu nhập tương đối cao trên cơ sở sử dụng các yếu tố sản xuất có hiệu quả làm cho các doanh nghiệp phát triển bền vững trong điều kiện cạnh tranh quốc tế. Theo M. Porter (1990), năng suất lao động là thước đo duy nhất về năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, các quan niệm này chưa gắn với việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của doanh nghiệp.
Bốn là, năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh. Chẳng hạn, tác giả Vũ Trọng Lâm (2006) cho rằng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, tác giả Trần Sửu (2005) cũng có ý kiến tương tự: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững”.
Ngoài ra, không ít ý kiến đồng nhất năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với năng lực kinh doanh.
Như vậy, cho đến nay quan niệm về năng lực cạnh tranh vẫn chưa được hiểu thống nhất. Để có thể đưa ra quan niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phù hợp, cần lưu ý những đặc thù khái niệm này như Henricsson và các cộng sự (2004) chỉ ra: đó là tính đa nghĩa (có nhiều định nghĩa), đa trị (có nhiều cách đo lường), đa cấp (với các cấp độ khác nhau), phụ thuộc, có tính quan hệ qua lại, tính chất động và là một quá trình. Ngoài ra, khi đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, cần lưu ý thêm một số vấn đề sau đây:
Một là, quan niệm năng lực cạnh tranh cần phù hợp với điều kiện, bối cảnh và trình độ phát triển trong từng thời kỳ. Chẳng hạn, trong nền kinh tế thị trường tự do trước đây, cạnh tranh chủ yếu trong lĩnh vực bán hàng và năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với việc bán được nhiều hàng hóa hơn đối thủ cạnh tranh; trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh trên cơ sở tối đa hóa số lượng hàng hóa nên năng lực cạnh tranh thể hiện ở thị phần; còn trong điều kiện kinh tế tri thức hiện nay, cạnh tranh đồng nghĩa với mở rộng “không gian sinh tồn”, doanh nghiệp phải cạnh tranh không gian, cạnh tranh thị trường, cạnh tranh tư bản và do vậy quan niệm về năng lực cạnh tranh cũng phải phù hợp với điều kiện mới.
Đối với Việt Nam hiện nay, với trình độ phát triển kinh tế còn thấp, nhưng lại đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế - cạnh tranh gay gắt, việc đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh cho phù hợp với bối cảnh hiện nay là không đơn giản.
Hai là, năng lực cạnh tranh cần thể hiện khả năng đua tranh, tranh giành giữa các doanh nghiệp không chỉ về năng lực thu hút và sử dụng các yếu tố sản xuất, khả năng tiêu thụ hàng hóa, mà cả khả năng mở rộng không gian sinh tồn của sản phẩm, khả năng sáng tạo sản phẩm mới.
Ba là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần thể hiện được phương thức cạnh tranh phù hợp, bao gồm cả những phương thức truyền thống và các phương thức hiện đại – không chỉ dựa trên lợi thế so sánh mà dựa vào lợi thế cạnh tranh, dựa vào quy chế.
Từ những yêu cầu trên, có thể đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như sau:
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững.
Như vậy, năng lực cạnh tranh không phải là chỉ tiêu đơn nhất mà mang tính tổng hợp, bao gồm nhiều chỉ tiêu cấu thành và có thể xác định được cho nhóm doanh nghiệp (ngành) và từng doanh nghiệp.
Các yếu tố tác động khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Cũng như bản thân doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chịu tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau. Theo mô hình Kim cương của M. Porter có thể thấy, có ít nhất 6 nhóm yếu tố tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, điều kiện cầu (thị trường), điều kiện yếu tố (nguồn lực đầu vào), các ngành cung ứng và liên quan (cạnh tranh ngành), các yếu tố ngẫu nhiên và yếu tố nhà nước. Tuy nhiên, có thể chia các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp làm hai nhóm: các yếu tố bên trong doanh nghiệp và các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp.
1.2.3.1 Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Có nhiều yếu tố bên trong doanh nghiệp tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đang sử dụng các chỉ tiêu thuộc 5 nhóm yếu tố bên trong doanh nghiệp trong việc xác định năng lực cạnh tranh gồm: năng lực quản lý (triết lý kinh doanh, sự tin tưởng vào quản lý nghiệp vụ, sự hiện diện chuỗi giá trị), chất lượng nhân lực (mở rộng đào tạo nhân viên), năng lực marketing (định hướng khách hàng, đổi mới mẫu mã, tăng cường tiếp thị, mở rộng thị trường quốc tế, kiểm soát hoạt động phân phối ở nước ngoài, mở rộng mạng lưới bán lẻ), khả năng đổi mới, năng lực nghiên cứu và phát triển (chỉ tiêu cho nghiên cứu và phát triển).
Theo cách tiếp cận truyền thống, các yếu tố bên trong của doanh nghiệp ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh gồm: năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp, trình độ công nghệ, năng lực tài chính, trình độ tay nghề của người lao động… Có thể phân bổ thành 4 nhóm yếu tố bên trong tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như sau:
Trình độ, năng lực và phương thức quản lý
Năng lực marketing
Khả năng nghiên cứu phát triển
Năng lực sản xuất
Dưới đây là một số yếu tố chủ yếu tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Trình độ và năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp
Năng lực tổ chức, quản lý doanh nghiệp được coi là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói chung cũng như năng lực cạnh tranh doanh nghiệp nói riêng. Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp được thể hiện ở các mặt sau:
Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý
Trình độ của đội ngũ này không chỉ đơn thuần là trình độ học vấn mà còn thể hiện những kiến thức rộng lớn và phức tạp thuộc rất nhiều lĩnh vực liên quan tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ pháp luật trong nước và quốc tế, thị trường, ngành hàng, … đến kiến thức về xã hội, nhân văn.
Trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp: thể hiện ở việc sắp xếp, bố trí cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận. Việc hình thành tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp theo hướng tinh, gọn, nhẹ và hiệu quả cao có ý nghĩa quan trọng không chỉ bảo đảm hiệu quả quản lý cao, ra quyết định nhanh chóng, chính xác, mà còn làm giảm tương đối chi phí quản lý của doanh nghiệp. Nhờ đó mà nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trình độ, năng lực quản lý của doanh nghiệp còn thể hiện trong việc hoạch định chiến lược kinh doanh, lập kế hoạch, điều hành tác nghiệp… Điều này có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn và do đó có tác động mạnh tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trình độ thiết bị, công nghệ
Thiết bị, công nghệ sản xuất là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Công nghệ phù hợp cho phép rút ngắn thời gian sản xuất, giảm mức tiêu hao năng lượng, tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra lợi thế cạnh tranh đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Công nghệ còn tác động đến tổ chức sản xuất của doanh nghiệp, nâng cao trình độ cơ khí hóa, tự động hóa của doanh nghiệp.
Trình độ lao động trong doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp, lao động vừa là yếu tố đầu vào vừa là lực lượng trực tiếp sử dụng phương tiện, thiết bị để sản xuất ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Lao động còn là lực lượng tham gia tích cực vào quá trình cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa quá trình sản xuất và thậm chí góp sức vào những phát kiến và sáng chế… Do vậy, trình độ của lực lượng lao động tác động rất lớn đến chất lượng và độ tinh xảo của sản phẩm, ảnh hưởng lớn đến năng suất và chi phí của doanh nghiệp. Đây là một yếu tố tác động trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Để nâng cao sức cạnh tranh, doanh nghiệp cần chú trọng bảo đảm cả chất lượng và số lượng lao động, nâng cao tay nghề của người lao động dưới nhiều hình thức, đầu tư kinh phí thỏa đáng, khuyến khích người lao động tham gia vào quá trình quản lý, sáng chế, cải tiến…
Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện ở quy mô vốn, khả năng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, năng lực quản lý tài chính… trong doanh nghiệp. Trước hết, năng lực tài chính gắn với vốn – là một yếu tố sản xuất cơ bản và là một đầu vào của doanh nghiệp. Do đó, sử dụng vốn có hiệu quả, quay vòng vốn nhanh… có ý nghĩa rất lớn trong việc làm giảm chi phí vốn, giảm giá thành sản phẩm. Đồng thời, vốn còn là tiền đề đối với các yếu tố sản xuất khác.
Việc huy động vốn kịp thời nhằm đáp ứng vật tư, nguyên liệu, thuê nhân công, mua sắm thiết bị, công nghệ, tổ chức hệ thống bán lẻ… Như vậy, năng lực tài chính phản ánh sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp, là yêu cầu đầu tiên, bắt buộc phải có nếu muốn doanh nghiệp thành công trong kinh doanh và nâng cao năng lục cạnh tranh.
Để nâng cao năng lực tài chính, doanh nghiệp phải củng cố và phát triển nguồn vốn, tăng vốn tự có, mở rộng vốn vay dưới nhiều hình thức. Đồng thời, điều quan trọng là doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, hoạt động kinh doanh có hiệu quả để tạo uy tín đối với khách hàng, với ngân hàng và những người cho vay vốn.
Năng lực marketing của doanh nghiệp và khả năng xác định lượng cầu
Năng lực marketing của doanh nghiệp là khả năng nắm bắt nhu cầu thị trường, khả năng thực hiện chiến lược 4P (Product, Place, Price, Promotion) trong hoạt động marketing. Khả năng marketing tác động trực tiếp tới sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đáp ứng nhu cầu khách hàng, góp phần làm tăng doanh thu, tăng thị phần tiêu thụ sản phẩm, nâng cao vị thế của doanh nghiệp. Đây là nhóm nhân tố rất quan trọng tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Vì vậy, điều tra cầu thị trường và dựa trên khả năng sẵn có của doanh nghiệp để lựa chọn lĩnh vực kinh doanh phù hợp, tạo ra sản phẩm có thương hiệu được người sử dụng chấp nhận.
Trong điều kiện kinh tế hàng hóa phát triển, văn minh tiêu dùng ngày càng cao, thì người tiêu dùng càng hướng tới tiêu dùng những hàng hóa có thương hiệu uy tín. Vì vậy, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm là một tất yếu đối với những doanh nghiệp muốn tồn tại trên thị trường.
Mặt khác, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều khâu như tiêu thụ, khuyến mãi, nghiên cứu thị trường… do đó dịch vụ bán hàng và sau bán hàng đóng vai trò quan trọng đến doanh số tiêu thụ - vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp.
Năng lực nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp
Năng lực nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp là yếu tố tổng hợp gồm nhiều yếu tố cấu thành như nhân lực nghiên cứu, thiết bị, tài chính cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), khả năng đổi mới sản phẩm của doanh nghiệp. Năng lực nghiên cứu và phát triển có vai trò quan trọng trong cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao năng suất, hợp lý hóa sản xuất.
g. Yếu tố liên quan đến mức độ cạnh tranh lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, vị thế của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh
Vị thế của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp cùng loại khẳng định mức độ cạnh tranh của nó trên thị trường. Doanh nghiệp nào lựa chọn lĩnh vực có mức độ cạnh tranh càng thấp thì càng thuận lợi, vì vậy, hiểu biết thị trường để quyết định kinh doanh ở lĩnh vực có mức độ cạnh tranh thấp là yếu tố quan trọng dẫn đến sự thành công và mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong môi trường cạnh tranh lành mạnh sẽ có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp nhiều hơn là môi trường độc quyền.
Vị thế của doanh nghiệp được thể hiện qua thị phần sản phẩm so với sản phẩm cùng loại, uy tín thương hiệu sản phẩm đối với người tiêu dùng, sự hoàn hảo của các dịch vụ và được đo bằng thị phần của các sản phẩm dịch vụ đó trên thị trường.
Ngoài ra, một số yếu tố khác nhau như lợi thế về vị trí địa lý, ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp… có ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.3.2 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Có rất nhiều nhân tố bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) dựa trên mô hình Kim cương của M.Porter để đưa ra các yếu tố bên ngoài tác động tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dưới tiêu đề môi trường kinh doanh của doanh nghiệp” với 56 chỉ tiêu cụ thể (các chỉ tiêu này được lượng hóa để xếp hạng cho các quốc gia) thuộc 4 nhóm yếu tố như sau:
Một là, các điều kiện yếu tố đầu vào, gồm 5 phân nhóm: kết cấu hạ tầng vật chất – kỹ thuật; hạ tầng hành chính, nguồn nhân lực, hạ tầng công nghệ, thị trường tài chính.
Hai là, các điều kiện về cầu: sở thích của người mua, tình hình pháp luật về tiêu dùng, về công nghệ thông tin…
Ba là, các ngành cung ứng và ngành liên quan: chất lượng và số lượng các nhà cung cấp địa phương, khả năng tại chỗ về nghiên cứu chuyên biệt và dịch vụ đào tạo, mức độ hợp tác giữa các khu vực kinh tế, khả năng cung cấp tại chỗ các chi tiết và phụ kiện máy móc.
Bốn là, bối cảnh đối với chiến lược và cạnh tranh của doanh nghiệp, gồm hai phân nhóm là động lực và cạnh tranh (các rào cản vô hình, sự cạnh tranh của các nhà sản xuất địa phương, hiệu quả của việc chống độc quyền).
Theo logic truyền thống, các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp được chia thành các nhóm sau đây: thị trường, thể chế - chính sách, kết cấu hạ tầng, các ngành hỗ trợ…
a. Thị trường
Thị trường là môi trường kinh doanh rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Thị trường vừa là nơi tiêu thụ sản phẩm, tìm kiếm đầu vào thông qua hoạt động mua – bán hàng hóa dịch vụ đầu ra và các yếu tố đầu vào. Thị trường còn đồng thời là công cụ định hướng, hướng dẫn hoạt động của doanh nghiệp, thông qua mức cầu, giá cả, lợi nhuận… để định hướng chiến lược, kế hoạch kinh doanh. Như vậy, sự ổn định của thị trường có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp nói chung và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng. Để phát huy vai trò của các yếu tố thị trường đối với doanh nghiệp, cần có sự can thiệp của nhà nước vào thị trường nhằm ổn định thị trường (hạn chế những biến động lớn của thị trường), thông qua việc xây dựng và thực hiện tốt, nghiêm pháp luật thương mại, tạo lập môi trường thị trường cạnh tranh tích cực và hiệu quả, chống gian lận thương mại, hạn chế độc quyền kinh doanh,…
Điều quan trọng là tạo lập môi trường thị trường cạnh tranh tích cực, tăng sức ép đổi mới quản lý, cải tiến quy trình sản xuất, ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ, đổi mới và đa dạng hóa sản phẩm,… tạo động lực cho doanh nghiệp để vươn lên.
Trong điều kiện thị trường lành mạnh và ổn định thì doanh nghiệp mới có điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Ngoài ra, cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập thị trường, tạo ra nhiều nhà cung cấp cũng như nhiều đối tác kinh doanh, nhiều khách hàng cho doanh nghiệp.
b. Thể chế, chính sách
Thể chế, chính sách là tiền đề quan trọng cho hoạt động của doanh nghiệp. Nội dung của thể chế, chính sách bao gồm các quy định pháp luật, các biện pháp hạn chế hay khuyến khích đầu tư hay kinh doanh đối với hàng hóa, dịch vụ, ngành nghề, địa bàn… Thể chế, chính sách bao gồm pháp luật, chính sách về đầu tư, tài chính, tiền tệ, đất đai, công nghệ, thị trường… nghĩa là các biện pháp điều tiết cả đầu vào và đầu ra cũng như toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, đây là nhóm yếu tố rất quan trọng và bao quát rất nhiều vấn đề liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp nói chung và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng.
Các thể chế, chính sách đối với doanh nghiệp có thể được đánh giá theo từng chính sách hoặc bằng chỉ tiêu tổng hợp với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Chẳng hạn, để đánh giá việc thực hiện thể chế, chính sách đối với các doanh nghiệp ở Việt Nam, Quỹ Châu Á và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tiến hành nghiên cứu đánh giá môi trường kinh doanh với 9 chỉ tiêu thành phần: về đăng ký kinh doanh, chính sách đất đai, tình hình thanh tra – kiểm tra, chính sách phát triển, tính minh bạch, chi phí giao dịch, năng động của chính quyền.
c. Kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng bao gồm hạ tầng vật chất – kỹ thuật và hạ tầng xã hội, bao gồm hệ thống giao thông, mạng lưới điện, hệ thống thông tin, hệ thống giáo dục – đào tạo… Đây là tiền đề quan trọng, tác động mạnh đến hoạt động của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến chất lượng và giá cả của sản phẩm. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã sử dụng tới tiêu chí phản ánh kết cấu hạ tầng trong tổng số 56 tiêu chí đánh giá về môi trường kinh doanh được sử dụng để tính năng lực cạnh tranh quốc gia.
Để bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động bình thường và nâng cao năng lực cạnh tranh, cần có hệ thống kết cấu hạ tầng đa dạng, có chất lượng tốt. Điều đó đòi hỏi có sự đầu tư đúng mức để phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
d. Các ngành công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ
Hoạt động sản xuất kinh doanh với mỗi doanh nghiệp sẽ liên quan tới một chuỗi các ngành khác và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh như: những ngành cung cấp nguyên liệu đầu vào, dịch vụ vận tải, cung cấp điện, cung cấp nước… Nếu sử dụng các dịch vụ với chi phí thấp, chất lượng phục vụ tốt sẽ tạo ra lợi thế cho doanh nghiệp tăng năng lực cạnh tranh, bởi vì mỗi lĩnh vực hoạt động sẽ có cơ hội để thực hiện mức độ chuyên môn hóa cao hơn làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, doanh nghiệp rất cần duy trì mối quan hệ hợp tác lâu dài với các ngành có liên quan nhằm tạo ra lợi thế tiềm tàng cho cạnh tranh.
Trong nền sản xuất hiện đại, cùng với sự cạnh tranh ngày càng ._.khốc liệt thì sự liên kết, hợp tác cũng phát triển mạnh mẽ. Thực tế chỉ ra rằng, khi trình độ sản xuất càng hiện đại thì sự phụ thuộc lẫn nhau càng lớn.
e. Trình độ nguồn nhân lực
Trình độ nguồn nhân lực quốc gia nói chung có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển doanh nghiệp. Trong nền sản xuất hiện đại, đặc biệt là trong xu hướng chuyển sang nền kinh tế tri thức thì chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia hay của một vùng lãnh thổ là yếu tố được quan tâm nhất khi các doanh nghiệp lựa chọn đầu tư. Trình độ và các điều kiện về nguồn nhân lực thể hiện ở kỹ năng của nguồn nhân lực, mức lương, hệ thống lương, điều kiện làm việc, sức khỏe và an toàn, đầu tư cho đào tạo, vai trò của công đoàn. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cần chú trọng giáo dục và đào tạo, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các cơ sở đào tạo, các hoạt động đào tạo phát triển thông qua cơ chế, chính sách và các biện pháp khác của Nhà nước.
1.2.4 Các mô hình và phương pháp để đánh giá năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh được xem xét ở các góc độ khác. Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp.
Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối thủ cạnh tranh.
Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này và có hạn chế về mặt khác; vấn đề cơ bản là, doanh nghiệp phải nhận biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng. Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, cần phải xác định được các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng. Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh khác nhau.
Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng hợp được các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp bao gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ; chất lượng sản phẩm và bao gói; kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng; thông tin và xúc tiến thương mại; năng lực nghiên cứu và phát triển; thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp; trình độ lao động; thị phần sản phẩm doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng thị phần; vị thế tài chính; năng lực tổ chức và quản trị doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp hiện nay, thông qua phương pháp so sánh trực tiếp các yếu tố nêu trên để đánh giá năng lực cạnh tranh của mình so với đối tác cạnh tranh. Đây là phương pháp truyền thống và phần nào phản ánh được năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp này là không cho phép doanh nghiệp đánh giá tổng quát năng lực cạnh tranh của mình với đối tác cạnh tranh mà chỉ đánh giá được từng mặt, từng yếu tố cụ thể. Để khắc phục nhược điểm trên, việc nghiên cứu vận dụng các mô hình đánh giá các yếu tố môi trường nội bộ và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp, qua đó, giúp doanh nghiệp so sánh năng lực cạnh tranh tổng thể của mình với các đối thủ trong ngành là một giải pháp mang tính khả thi cao. Sau đây, xin giới thiệu một số các mô hình:
Mô hình “Kim cương” của M. Porter
Mô hình “Kim cương”, một lý thuyết về cạnh tranh nổi tiếng của M. Porter, được ông nêu trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh quốc gia” (1990), đã nêu lên các yếu tố quyết định sự cạnh tranh của một quốc gia trong thương mại quốc tế. Theo ông, khả năng cạnh tranh của một quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành, của quốc gia đó. Khi thế giới cạnh tranh mang tính chất toàn cầu hoá thì nền tảng cạnh tranh sẽ chuyển dịch từ các lợi thế tuyệt đối hay lợi thế so sánh mà tự nhiên ban cho sang những lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và duy trì vị thế cạnh tranh lâu dài của các doanh nghiệp trên thương trường quốc tế.
Mô hình Kim cương của Porter đưa ra khuôn khổ phân tích để hiểu bản chất và đo lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (hình 1.2)
Hình 1.1: Mô hình kim cưong của M. Porter, 1990
Nguồn: Năng lực cạnh tranh quốc gia, M. Porter, 1990.
Mô hình này đã lý giải những lực lượng thúc đẩy sự đổi mới và năng động của các doanh nghiệp và qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường. Bốn nhóm nhân tố trong mô hình viên kim cương của M.Porter phát triển trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và tác động quan trọng đến việc hình thành và duy trì năng lực cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp trong một ngành kinh tế - kỹ thuật nào đó. Sự sẵn có cả về số lượng và chất lượng các nguồn lực cần thiết cho việc phát triển một ngành có khả năng cạnh tranh; thông tin thông suốt về những cơ hội kinh doanh mà các doanh nghiệp có thể tiếp cận; chiến lược của các doanh nghiệp trong khai thác và sử dụng các yếu tố nguồn lực; quan điểm, triết lý kinh doanh của chủ sở hữu, quản trị viên, các nhân viên trong doanh nghiệp,… đều có thể “cộng hưởng” thúc đẩy các doanh nghiệp trong một ngành phải hoạt động hiệu quả hơn, nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới nhanh hơn và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Vai trò của Nhà nước là thông qua các chính sách vĩ mô tác động vào cả bốn “mặt” của “viên kim cương” sao cho chúng cùng phát triển tương xứng, đồng bộ và hỗ trợ lẫn nhau tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh trên thương trường quốc tế
1.2.4.2 Ma trận SWOT
SWOT là viết tắt của 4 chữ: Strength - điểm mạnh, Weaknesses - điểm yếu,
Opportunities - cơ hội, Threatens - đe doạ.
Ma trận SWOT là ma trận cho phép Việt Nam đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của công ty và ước lượng những cơ hội, nguy cơ của môi trường kinh doanh bên ngoài, để từ đó có sự phối hợp giữa khả năng của công ty với tình hình môi trường. Nếu doanh nghiệp có một ma trận SWOT phân tích kỹ lưỡng và chính xác, công ty có thể nâng cao sức cạnh tranh qua việc phát huy hiệu quả năng lực bên trong của mình song song việc nắm bắt tốt các cơ hội cũng như xác định các thách thức trong thời gian tới. Trái lại, khi doanh nghiệp không thể có được sự chính xác trong đánh giá thị trường bằng mô hình này, doanh nghiệp sẽ không có những phản ứng kịp thời trước những biến động từ bên ngoài và không phát huy hết các nguồn lực sản xuất bên trong, từ đó dễ dẫn đến những sai lầm to lớn cho doanh nghiệp.
Ma trận SWOT có tác dụng giúp doanh nghiệp xây dựng và phát triển 4 loại chiến lược sau để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình:
- Các chiến lược điểm mạnh – cơ hội (S – O): Sử dụng những điểm mạnh bên trong để tận dụng cơ hội bên ngoài.
- Các chiến lược điểm yếu – cơ hội (W – O): Cải thiện những điểm yếu bên trong để tận dụng cơ hội bên ngoài.
- Các chiến lược điểm mạnh – đe dọa (S – T): Sử dụng các điểm mạnh để tránh khỏi hay giảm bớt ảnh hưởng của mối đe dọa bên ngoài.
- Các chiến lược điểm yếu – nguy cơ (W – T): Cải thiện điểm yếu bên trong để tránh hay giảm bớt ảnh hưởng của mối đe dọa bên ngoài.
Hình 1.2: Mô hình ma trận SWOT
Những cơ hội và thách thức của doanh nghiệp khi Việt Nam gia nhập WTO
1.3.1 Những cơ hội
Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ ở các nước mở cửa không bị phân biệt đối xử theo Nghị định thư gia nhập của các nước này.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện.
Ba là: Gia nhập WTO Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp.
Đương nhiên, kết quả đấu tranh còn tùy thuộc vào thế và lực, vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực quản lý điều hành của Việt Nam.
Bốn là: hội nhập vào nền kinh tế thế giới thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.
1.3.2. Những thách thức
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO mang lại, cần thấy hết những thách thức mà Việt Nam phải đối đầu. Những thách thức này gồm:
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn.
Hai là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa, tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, năng lực dự báo và phân tích tình hình cao, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Như vậy, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tùy thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của Việt Nam. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tùy thuộc vào nỗ lực vươn lên của Việt Nam. Cơ hội và thách thức luôn vận động, chuyển hóa; và thách thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển.
Thành tựu to lớn sau 20 năm đổi mới, quá trình chuyển biến tích cực trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế những năm vừa qua, cùng với kinh nghiệm và kết quả của nhiều nước gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới trước Việt Nam, cho Việt Nam niềm tin vững chắc rằng: Việt Nam hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Có thể có một số doanh nghiệp khó khăn, thậm chí lâm vào cảnh phá sản nhưng phần lớn các doanh nghiệp sẽ trụ vững và vươn lên, nhiều doanh nghiệp mới sẽ tham gia thị trường và toàn bộ nền kinh tế sẽ phát triển theo mục tiêu và định hướng của Việt Nam.
1.3.3 Tác động của WTO đối với doanh nghiệp Việt Nam
Theo ông Trần Quốc Khánh, Vụ trưởng Vụ Chính sách Thương mại, WTO được diễn tả tóm tắt bằng những cụm từ: “công khai hóa”, “minh bạch hóa”, “không phân biệt đối xử” và “mở cửa thị trường” để thúc đẩy cạnh tranh”. Những cụm từ này diễn tả được cơ hội và thách thức của việc gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng. Nhiều doanh nghiệp đã sẵn sàng nhưng cũng không ít doanh nghiệp băn khoăn bởi chưa rõ điều gì sẽ xảy ra sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Mở cửa thị trường thúc đẩy cạnh tranh
Một trong những tác động tích cực của việc gia nhập WTO đối với doanh nghiệp là sẽ phải thực hiện công khai hóa, minh bạch hóa và không phân biệt đối xử. Công khai hóa và minh bạch hóa sẽ đem lại thuận lơi và từ đó là những cơ hội mới cho doanh nghịệp. Tuy nhiên, với một bộ phận công chức chưa quen với việc minh bạch hóa và công khai hóa thì đó là thách thức không nhỏ.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử đặt ra nhiều vấn đề hơn và tác động lớn hơn tới hoạt động của các doanh nghiệp. Nguyên tắc này có một số ngoại lệ nhưng nhìn chung thì kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ không thể “ưu ái” hàng hóa và dịch vụ trong nước hơn là hàng hóa và dịch vụ nước ngoài. Trong nhiều trường hợp, Việt Nam cũng sẽ không thể đối xử với doanh nghiệp nước ngoài khác với doanh nghiệp Việt Nam. Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu “tổng hợp” sẽ không còn là đặc quyền riêng của doanh nghiệp Việt Nam nữa, bởi mọi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kể từ 1/1/2007, cũng sẽ được đặc quyền kinh doanh xuất nhập khẩu.
Vấn đề này trong Hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ cũng đã đề cập nên không còn là chuyện mới với các doanh nghiệp, khi gia nhập WTO, do diện áp dụng được mở rộng nên tác động sẽ lớn hơn.
Giảm thuế nhập khẩu
Việt Nam đã cam kết giảm thuế nhập khẩu khoảng 22% so với mức hiện hành, thực hiện chủ yếu trong vòng 5 năm kể từ khi gia nhập WTO. Một số doanh nghiệp cho đây là mức giảm quá lớn, lộ trình 5 năm cũng không dài. Tuy nhiên có thể thấy mức giảm thuế bình quân hiện hành (khoảng 17,4%) sẽ được giảm xuống còn khoảng 13,4%. Việt Nam đàm phán sau Trung Quốc 5-6 năm, lại không ở vị thế mặc cả nên kết quả 13,4% là chấp nhận được.
Lộ trình 5 năm là ngắn hay dài còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Với sản xuất công nghiệp, 5 năm có thể là khoảng thời gian chấp nhận được nhưng với nông nghiệp lại khác bởi chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp thường đòi hỏi thời gian dài. Một doanh nghiệp ở khu vực năng động như TP.Hồ Chí Minh hay Bình Dương có thể chỉ cần 2-3 năm để tái cơ cấu nhưng một doanh nghiệp ở miền núi có thể cần thời gian dài hơn. Quy mô bình quân trong ngành cũng là yếu tố quan trọng, bởi các doanh nghiệp lớn thường khó thay đổi hơn các doanh nghiệp nhỏ. Ngoài ra, nếu tỷ trọng doanh nghiệp quốc doanh trong một ngành nào đó quá lớn thì ngành đó có thể cần thời gian chuyển đổi dài hơn ngành khác; bởi doanh nghiệp quốc doanh thường phải xử lý nhiều vấn đề hơn doanh nghiệp tư nhân khi chuyển đổi, trong đó có cả vấn đề xã hội.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP DỆT MAY HÀN QUỐC Ở KHU VỰC KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM PHÍA NAM
2.1 Giới thiệu vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam(VKTTĐPN) là tên gọi khu vực phát triển kinh tế động lực khu vực Đông Nam Bộ Việt Nam, gồm các tỉnh, thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Ninh, Long An và Tiền Giang (Tiền Giang thuộc miền Tây Nam Bộ). VKTTĐPN có vai trò rất quan trọng, đóng góp lớn nhất cho kinh tế Việt Nam, chiếm gần 60% nguồn thu ngân sách, trên 70% kim ngạch xuất khẩu và là khu vực thu hút vốn FDI hàng đầu cả nước, tỷ lệ dân số đô thị gần 50% (so với mức bình quân 25% của cả nước).
Về vị trí địa lý: VKTTĐPN nằm ở vị trí độc đáo.
- Phía Tây và Tây - Nam nằm kế cận ĐBSCL, vùng kinh tế nông nghiệp, đặc biệt là lương thực - thực phẩm, trù phú nhất đất nước.
- Phía Đông và Đông - Nam, kế cận vùng biển, giàu tài nguyên thủy sản, dầu mỏ, khí đốt và là nơi duy nhất khai thác dầu khí của đất nước hiện nay. Vùng còn nằm kế cận hành lang hàng hải quốc tế dọc theo biển Đông nhộn nhịp nhất ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương.
- Phía Nam có cảng biển lớn và có điều kiện thuận lợi để xây dựng hệ thống cảng biển nước sâu (cảng Vũng Tàu - Thị Vải).
- Phía Bắc và Đông - Bắc kế cận vùng Tây - Nam cao nguyên có ý nghĩa chiến lược đối với cả nước, có đất đai màu mỡ, phù hợp cho cây công nghiệp dài ngày và ngắn ngày, có dự trữ rừng, trữ lượng khoáng sản và thủy năng lớn.
- Có Tp. HCM là đô thị và trung tâm nhiều chức năng lớn nhất nước, có lực lượng lao động dồi dào, tay nghề khá, có nhiều cơ sở giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, công nghệ, đang đóng góp tích cực cho phát triển của vùng và cả khu vực phía Nam.
- Có Vũng Tàu, là thành phố cảng, và dịch vụ công nghiệp nằm ở "mặt tiền duyên hải" ở phía Nam, sẽ là cầu nối và "cửa ngõ" lớn giao thương với thế giới.
- Có thị xã Thủ Dầu Một và khu vực Nam Sông Bé, Tp. Biên Hòa và khu vực dọc theo quốc lộ 51, nơi có điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển công nghiệp.
Về dân số
Mật độ dân số bình quân năm 2006 của vùng là 426 người/km2, so với năm 1996 tăng gấp 1,6 lần. Cơ cấu dân số theo nhóm tuổi như sau: 0 - 14 tuổi chiếm 33,4%, 14 - 60 tuổi chiếm 60,0%, trên 60 tuổi chiểm 6,6%.
Trình độ dân trí
Dân số từ 5 tuổi trở lên chia theo trình độ văn hóa như sau: chưa đến trường chiếm 12,4%, đi học nhưng chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở 62,5%, tốt nghiệp phổ thông cơ sở 13,8%, tốt nghiệp phổ thông trung học 7,2%, trung học chuyên nghiệp trở lên 3,7%. Trong 4 địa phương nói trên, Tp.HCM có trình độ dân trí cao hơn cả. Trình độ học vấn trung bình của người dân thành phố là 5,2 lớp, tỷ lệ dân biết chữ 95,44%, trong đó đạt trình độ phổ thông cơ sở 73,2%, phổ thông trung học 22,18%, có trình độ cao đẳng đại học trở lên 2,1% .
Qua các số liệu nói trên cho thấy trình độ văn hóa cư dân nơi đây còn thấp, số qua đào tạo nghề còn rất ít, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội cả trước mắt và về lâu dài. Đặc biệt số di dân từ các nơi khác đến phần lớn là dân nông nghiệp, không có nghề nghiệp và 53% số đó có trình độ văn hóa dưới cấp 1.
Lao động
Dân số trong độ tuổi lao động của vùng khoảng 4,5 triệu người, chiếm 55,3% tổng số dân. Nếu tính cả trẻ em dưới tuổi và người già trên tuổi lao động còn làm việc (không kể người mất sức) thì nguồn lao động còn cao hơn nữa.
Dân số trẻ và nhập cư cao nên mức tăng trưởng hàng năm của lực lượng lao động thời kỳ 1989- 1994 khoảng 3%. Đây là tiềm năng dồi dào về nguồn lao động, song cũng là một gánh nặng về giải quyết việc làm và cải thiện mức sống dân cư của vùng.
Lao động đang làm việc ở vùng phân bổ vào các khu vực năm 2006 như sau: nông- lâm ngư nghiệp 27,8%, công nghiệp xây dựng 30,9%, dịch vụ 41,3%. Trong nhóm ngành nông - ngư - lâm nghiệp thì Sông Bé có tỷ trọng cao nhất: 84%, sau đó là Đồng Nai: 83,5%. Tp.HCM có tỷ trọng lao động trong công nghiệp: 39,7% và dịch vụ: 45,9%.
Trong số dân không hoạt động kinh tế, số người có nhu cầu nhưng chưa kiếm được việc làm (thất nghiệp) khá cao, toàn vùng là: 4,6% (2006) trong đó khu vực thành thị: 5,47% (2006)
Năm 2003 số lao động có chuyên môn kỹ thuật chiếm gần 21% tổng lực lượng lao động (khoảng 8,84 triệu người). Đặc biệt, vùng Đông Nam Bộ (Tp.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương...) vẫn đứng đầu cả nước về tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao (đạt 30,13%); thấp nhất là vùng Đông Bắc với 10,75%. Vùng Đông Nam Bộ, tỷ lệ lao động nông - lâm - ngư nghiệp chỉ còn dưới 30%, các vùng khác vẫn chiếm trên 70%. theo số liệu được đưa ra tại hội nghị công bố kết quả điều tra lao động - việc làm 2003 do Bộ LĐTB-XH tổ chức ngày 31-10 ở Hà Nội.)
Kết cấu hạ tầng
Giao thông vận tải: Hệ thống giao thông trên vùng, bao gồm đường tráng nhựa và đường cấp phối với tổng chiều dài 1.105km, mật độ 0,23km/km2. Hệ thống chính gồm:
- Quốc lộ 1A xuyên qua vùng nối liền Hà Nội đến Đồng bằng sông Cửu Long
- Quốc lộ 22 đi Campuchia
- Quốc lộ 13 nối với quốc lộ 14 đi Tây Nguyên và qua Lào
- Quốc lộ 20 đi lên Đà Lạt
- Quốc lộ 51, trục giao thông chính nối liền 3 thành phố lớn của vùng: Tp.HCM Biên Hòa - Vũng Tàu
- Quốc lộ 50 đi Gò Công - Mỹ Tho - Nối liền với Đồng bằng sông Cửu Long
- Nhiều liên tỉnh lộ nối liền các điểm dân cư của vùng với bên ngoài
Đường sắt Thống Nhất Nam Bắc, khổ rộng 1m đi qua vùng và ga cuối cùng tại Tp.HCM.
Hàng không: Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, cách trung tâm thành phố 5 km, là sân bay quốc tế lớn nhất Việt Nam hiện nay. Có 20 tuyến bay, trong đó có 17 tuyến bay ra nước ngoài. Năm 1995 ước tiếp nhận 2,5 triệu hành khách và 50.000 tấn hàng hóa. Ngoài ra còn sân bay quân sự lớn ở Biên Hòa. Sân bay Vũng Tàu phục vụ chủ yếu cho dịch vụ ngành dầu khí và các đường bay ngắn.
Đường thủy hiện có:
- Hệ thống cảng Sài Gòn, năng lực thiết kế 10 triệu tấn/năm (hiện nay đã khai thác hết công suất) tiếp nhận được tàu có trọng tải 15.000- 20.000 tấn. Từ cảng Sài Gòn bằng đường sông, xà lan 200 - 1000 tấn có thể đi đến hầu hết các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và sang tới Phnông- Pênh.
- Hệ thống cảng Vũng Tàu, gồm cảng dịch vụ dầu khí và cảng hàng hóa. Năng lực thiết kế 1 triệu tấn/năm (hiện nay khai thác được 0,5 triệu tấn/năm), có khả năng tiếp nhận tàu 15.000 tấn.
- Hệ thống cảng sông ở Tp.HCM, Biên Hòa năng lực ước tính 1 triệu tấn/năm.
- Cùng với hệ thống cảng, còn có đội tàu viễn dương khá quan trọng gồm 33 tàu với tổng trọng tải 177.600 DWT.
Trong những khó khăn, yếu kém của cơ sở hạ tầng thì giao thông là gay gắt nhất, là một trong những yêu cầu cần được khắc phục trước tiên.
Bưu chính viễn thông
Tp.HCM là một trung tâm bưu chính, viễn thông lớn nhất của Việt Nam. Tại đây có thể liên lạc bằng telex, fax, điện thoại, điện tín, bưu chính với hầu hết các địa phương trong nước và các nước trên thế giới. Số máy điện thoại bình quân trên 2 máy/100 người dân. Hệ thống điện thoại đối ngoại truyền tin qua vệ tinh Sputnik, Landsat với thế giới. Đang xây dựng hệ thống cáp quang dưới biển TVH nối liền Vũng Tàu với Hồng Kông và Bangkok.
Cấp thoát nước.
Hệ thống cấp nước tập trung trong vùng có: nhà máy nước Sài Gòn công suất 650.000 m3/ngày, nhà máy nước Biên Hòa 20.000 m3/ngày, Bà Rịa 12.000 m3/ngày. Ngoài ra còn nhiều trạm cấp nước cục bộ bằng giếng khoan dưới đất. Hệ thống thoát nước chủ yếu bao gồm cống ngầm mới đạt 32,4 km/ha (theo tiêu chuẩn là 400 m/ha). Hệ thống không đồng bộ, năng lực thoát nước kém, hư hỏng, xuống cấp và không có hệ thống xử lý nước thải trước khi đổ vào sông Sài Gòn, sông Đồng Nai, thải ra biển ở Vũng Tàu. Nước thải công nghiệp, nước sinh hoạt, nước mưa đều dồn vào cùng hệ thống thải nhỏ bé không tương xứng.
Cấp điện: Hiện nay có những khó khăn trong việc cung cấp năng lượng. Nguồn năng lượng điện hiện có chỉ đáp ứng 80% nhu cầu trước mắt. Mạng lưới và thiết bị chuyển tải điện không đồng bộ, cũ kỹ, xuống cấp, gây hao hụt lớn (tổn thất trong quá trình chuyển tải đến 18- 20% lượng điện phát ra).
Vùng nằm trong lưới điện miền Nam Việt Nam phân bổ từ Khánh Hòa trở vào. Tổng lượng điện phát ra khoảng 4,5 tỷ Kwh/người/năm, bình quân đầu người: 175 Kwh/người/năm. Riêng VKTTĐPN là 310 Kwh/người/năm (1992). Tp.HCM, 360 Kwh/người, đáng lưu ý là trong hơn 10 năm qua mức cấp điện cho vùng tăng khoảng 7- 8%, trong lúc đó tăng trưởng GDP ở đây đạt 10- 12% năm. Điều này đã gây sự căng thẳng trong phát triển. Lưới điện đến nay chưa phủ khắp các thôn, xã nông thôn. Ở ngoại vi của vùng, các tỉnh xung quanh mới có hơn 50% hộ gia đình được cấp điện.
Nhà ở: Nhà ở trong khu vực đô thị còn rất khó khăn. Bình quân ở các khu vực đô thị Tp.HCM, Biên Hòa, Vũng Tàu chỉ mới đạt 5- 6m2/người. Riêng Tp.HCM có khoảng 30.000 hộ ở nhà ổ chuột và 20.000 hộ ở nhà tạm bợ trên kênh rạch, tiện nghi trong nhà ở còn rất kém.
Thực trạng môi trường
Tình trạng di dân tự phát vào các đô thị đã tạo nên sự quá tải về giao thông, nhà ở, tiện nghi sinh hoạt cùng với việc xuống cấp của cơ sở hạ tầng tạo nên tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng. Nhiều luồng di dân "tự do" vào các địa phương Đồng Nai, Sông Bé, Bà Rịa- Vũng Tàu định cư thành xóm, ấp phá rừng khai hoang, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường.
- Ô nhiễm công nghiệp đã xuất hiện trên nhiều khu vực và ngày càng nghiêm trọng như: các cơ sở trung tâm công nghiệp ở nội thành, các cụm và cơ sở công nghiệp ven nội thành Tp.HCM, KCN Biên Hòa, thậm chí ở một số cơ sở công nghiệp mới xây dựng như VEDAN ở Long Thành- Đồng Nai...
- Rác, chất thải và nước thải, khói, bụi giao thông đô thị ở Tp.HCM, Biên Hòa, Vũng Tàu không được xử lý tốt cũng gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Giới thiệu sơ lược về các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc tại Việt Nam
Công nghiệp dệt may Hàn Quốc
Hiện nay, ngành công nghiệp xuất khẩu dệt may Hàn Quốc thuộc top các quốc gia xuất khẩu dệt may trên thế giới. Nếu tính cả hai ngành dệt và may thì Hàn Quốc đứng thứ 6 sau Trung Quốc, EU, Thổ Nhĩ Kỳ, tiếp sau nữa là Mỹ và Ấn Độ. Nếu tách riêng dệt và may thì thứ hạng của dệt may Hàn Quốc đang là:
Bảng 2.1: Vị trí công nghiệp dệt may Hàn Quốc trên thế giới
Thứ tự
1
2
3
4
5
6
9
Dệt
34,8%
EU
26,6%
15,9%
Trung Quốc
26,6%
Mỹ
6,4%
Hàn Quốc
6%
Đài Loan
5,5%
Ấn Độ 3,8%
/
May
Thổ Nhĩ Kỳ
6,4%
Mexico
6%
Ấn Độ
5,5%
Mỹ
3,8%
Hàn Quốc 1,6%
Nguồn: Báo Việt Nam ngày nay – số 43 [ 29]
Về công nghiệp dệt Hàn Quốc đứng thứ 4 trên thế giới, còn về công nghiệp may đứng thứ 9, đây đều là những thứ hạng cao. Để có được vị trí như vậy, ngành công nghiệp dệt may Hàn Quốc vào buổi ban đầu đã đặt ra mục tiêu hướng về xuất khẩu.
Mà để xuất khẩu, các doanh nghiệp phải đạt đủ mọi tiêu chuẩn về kỹ thuật may cũng như chất lượng sản phẩm. Nghiên cứu công nghệ máy móc thiết bị cao cho ngành dệt may là một trong nhưng điểm nổi bật của ngành công nghiệp dệt may Hàn Quốc.
Các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc tại Việt Nam
Hàn Quốc bắt đầu đầu tư vào Việt Nam từ năm 1991. Tính đến hết năm 2007, Hàn Quốc đứng đầu trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, với tổng vốn đăng ký là 11,5 tỷ USD với 1.655 dự án. Số vốn đầu tư trung bình của mỗi doanh nghiệp xứ Hàn tại Việt Nam là 3 triệu USD. Trong số các doanh nghiệp này có 69,9% đơn vị tập trung vào các ngành công nghiệp chế tạo là sử dụng nhiều lao động như ngành dệt may. Đáng chú ý là có tới 92,6% các nhà đầu tư Hàn Quốc đánh giá tích cực về môi trường đầu tư Việt Nam. , “ Dệt may Việt Nam đối mặt nhiều thách thức”
Hiện tại ở khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam, các doanh nghiệp Dệt May Hàn Quốc chiếm tỷ trọng khá cao cả về số lượng lẫn chất lượng. Tính đến 2007, có khoảng 355 doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc tại KVKTTĐPN. Tất cả doanh nghiệp này đều hoạt động dưới hình thức 100% vốn của Hàn Quốc hoặc liên doanh để xuất khẩu. Các doanh nghiệp may Hàn Quốc chủ yếu chú trọng xuất khẩu (gần 100% sản phẩm); các doanh nghiệp có sản phẩm tiêu thụ ở cả thị trường nội địa và xuất khẩu. Hằng năm các doanh nghiệp Hàn Quốc đều nằm trong số các doanh nghiệp xuất khẩu cao nhất của Việt Nam.
Dựa theo phần 1.2.3 các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, tác giả xin được phân tích sơ bộ về các doanh nghiệp may Hàn Quốc tại khu vực kinh tế trọng điểm phía nam như sau:
2.2.1 Các yếu tố bên trong doanh nghiệp:
2.2.1.1 Năng lực sản xuất
a. Thiết bị, công nghệ:
Công nghệ thiết bị của các doanh nghiệp Hàn Quốc cũng chỉ ở mức trung bình khá dù đã nỗ lực cải tiến công nghệ. Tuy nhiên còn cách các nước dệt may tiên tiến như Ấn Độ, Trung Quốc,… 5-8 năm.
Đối với ngành dệt, điều đáng chú ý là trong những năm qua tuy đã bổ sung, thay thế 1.500 máy dệt không thoi hiện đại để nâng cấp mặt hàng dệt trên tổng số máy hiện có là 15.500 máy thì cũng chỉ đáp ứng 15% công suất dệt. Ngành may Hàn Quốc tuy liên tục mở rộng đầu tư sản xuất, đổi mới thiết bị dây chuyền đồng bộ chuyên sản xuất các mặt hàng như: dây chuyền may sơ mi, quần âu, quần Jean, complete, hệ thống giặt là nhưng cũng chưa đáp ứng được những nhu cầu xuất khẩu ngày càng tăng. Thực trạng cho thấy: ở khâu kéo sợi chỉ có 30% máy móc thuộc trình độ khá (gồm cả máy mới, máy đã qua sử dụng, và máy được cải tạo), còn đến 70% máy móc thuộc trình độ trung bình và dưới trung bình. Khâu dệt, trừ thiết bị dệt kim tương đối khá, còn dệt thoi chỉ có trên 35% máy mới, khoảng 25% máy được cải tạo, còn 40% là máy cũ. Khâu hoàn tất, có 35% số thiết bị mới nhưng đã sử dụng 10-20 năm. Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam số 134 - 2003
Tuy trình độ công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc cũng khá cao so với các doanh nghiệp dệt may còn lại của Việt Nam (với các trang thiết bị hiện đại và chuyển giao công nghệ từ Hàn Quốc- một quốc gia có nền công nghiệp may phát triển), nhưng số lượng này chỉ chiếm 10% máy móc của toàn ngành. Ngành dệt cũng ở trong tình trạng tương tự nên không có khả năng đáp ứng đủ nhu cầu.
b. Lao động:
Khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam có khoảng 300 nhà máy dệt may của Hàn Quốc, thu hút trên 136.077 lao động, chiếm khoảng 1,5% lao động toàn ngành, nhưng quy mô còn nhỏ bé. Đặc biệt ngành dệt may hiện nay đang trong tình trạng thiếu lao động, lao động có tay nghề cao chỉ chiếm 20,4% nên năng suất lao động thấp, chẳng hạn cùng một ca làm việc năng suất lao động bình quân của một lao động ngành dệt may Việt Nam chỉ đạt 12 áo sơ mi ngắn tay hoặc 10 chiếc quần thì lao động Hồng Kông năng suất lao động là 30 áo hoặc 15-20 chiếc quần. Hiện doanh nghiệp dệt may trong cả nước cần khoảng 600 ngàn lao động thiết kế, 1200 nhân viên nam làm việc trong các khâu marketing, bán hàng và xúc tiến xuất khẩu; 40.000 lao động điều hành sản xuất ở các chức danh giám đốc, quản đốc nhà máy, kĩ thuật viên cùng hàng trăm ngàn lao động phổ thông, nhưng không có nguồn cung ứng.
Quy mô đào tạo và chất lượng lao động chưa được nâng cao nên ngành dệt may còn thiếu lao động, do đó làm cho cơ cấu tổ chức sản xuất không hợp lý dẫn đến năng suất thấp. Hiện tại, các doanh nghiệp Hàn Quốc cần tăng cường đào tạo nếu muốn tận dụng lợi thế cạnh tranh về lao động.
c. Sản lượng sản xuất
Năm 2005, năng lực sản xuất sợi của các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc đạt 86.000 tấn, năng lực sản xuất vải đạt 206 triệu mét, năng lực sản xuất hàng dệt kim là 50 triệu sản phẩm, năng lực may đạt 385 triệu sản phẩm.
Nguồn: Tài liệu xúc tiến kêu gọi đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam (2007-trang 9)
[Năng lực sản xuất tòan ngành: Bông 11.000 tấn; Sợi 260.000 tấn; Vải 618 triệu m2; Hàng dệt kim 150 triệu sản phẩm; May 1154 triệu sản phẩm. Ước luợng các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc chiếm 1/3 toàn ngành]
Trong một thập kỷ trở lại đây, ngành dệt may Việt Nam đặc biệt là ngành may công nghiệp phục vụ xuất khẩu đã có những tiến bộ đáng kể. Trong đó, các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc chiếm 23,1% sản lượng vải lụa, đạt 140,6 triệu m.
Năm 2000, theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, năng suất sản xuất dệt kim của các doanh nghiệp Hàn Quốc là 8 triệu sản phẩm. Theo các chuyên gia đánh giá về dệt kim, sau 10 năm đầu tư, lĩnh vực dệt kim năm 1999 có khoảng 200 máy dệt, khả năng sản xuất tương đương 35 triệu sản phẩm áo T-shirt. Nguồn: Số liệu tổng cục Thống Kê 2000
[Năng lực sản xuất toàn ngành: Dệt kim 35 triệu sản phẩm, 450 máy, T-shirt 90 tr._. hiệp hội sẽ giúp các doanh nghiệp giảm chi phí và bớt rủi ro trong các hoạt động xuất khẩu.
3.2.2 Về phía các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc
Các sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc tại Việt Nam đa phần là hàng xuất khẩu chất lượng cao. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt sau khi Việt Nam gia nhập WTO và nhất là sau khi hạn ngạch dệt may được bãi bỏ năm 2005 thì việc xuất khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp này càng phụ thuộc lớn vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Hoàn thiện sản xuất:
Cải thiện Chất lượng sản phẩm:
- Có thể thấy đa số các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc ở khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam có cơ cấu và chất lượng sản phẩm dệt may khá tốt, do được đầu tư máy móc trang thiết bị đầy đủ và khá hiện đại. Nhiều doanh nghiệp có những công nghệ sản xuất từ nước ngoài, nhất là Hàn Quốc. Do đó, để duy trì ưu thế này, các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc cần thực hiện một số giải pháp sau:
Kiểm tra chặt chẽ chất lượng của nguyên vật liệu mua vào, tạo mối quan hệ tốt với đối tác cung cấp nguyên liệu để có nguồn cung cấp ổn định và chất lượng. Cần có hệ thống kho bãi tốt để bảo quản chất lượng nguyên liệu như bông, sợi là những mặt hàng rất dễ bị ẩm dẫn đến hư hỏng.
Tiến hành đưa nhà máy sản xuất của doanh nghiệp vào quy trình quản lý chất lượng ISO nếu các doanh nghiệp chưa có chứng chỉ ISP để đảm bảo đủ tiêu chuẩn chất lượng cần thiết; nhất là hàng xuất khẩu qua EU (luôn đòi hỏi phải là hàng đạt ISO 9000). Còn đối với các doanh nghiệp đã có chứng chỉ này thì tiếp tục thực hiện tốt các yêu cầu quản lý, quy cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì… để có các sản phẩm chất lượng cao phục vụ xuất khẩu.
Nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, mẫu mã kiểu dáng mới hợp thời trang. Để làm điều này trước hết các doanh nghiệp cần tích lũy một phần lợi nhuận để dành cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, đồng thời đào tạo nguồn nhân lực nòng cốt của công ty nhằm tiến hành hoạt động R&D có hiệu quả hơn.
Đột phá trong khâu thiết kế - thương hiệu:
- Nếu chỉ gia công hoặc sản xuất theo giá FOB sẽ không thu được nhiều lợi nhuận do giá nguyên liệu quá cao. Các doanh nghiệp Hàn Quốc tham gia vào thị trường dệt may thế giới thông qua Việt Nam thời hậu WTO thì các doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh mạnh hơn giữa các nhà sản xuất với nhau. Trong quá trình cạnh tranh đó, giá trị thẩm mỹ của sản phẩm được coi trọng do nhu cầu thẩm mỹ của con người ngày càng cao, nên giá trị thẩm mỹ của hàng dệt may cũng phải được nâng lên để đáp ứng nhu cầu này. Hiện nay, các doanh nghiệp Hàn Quốc đang chuyển từ phương thức gia công cho các công ty mẹ sang phương thức mua nguyên liệu bán thành phẩm nên các doanh nghiệp có thể chủ động trong sản xuất cả khâu thiết kế. Do vậy, để thúc đẩy các nghiên cứu phát triển sản phẩm mốt, các doanh nghiệp cần:
Chú ý phát triển các khâu tổ chức thiết kế trong doanh nghiệp hoặc xây dựng khu nghiên cứu mẫu mã hàng dệt may thế giới. Qua đó nắm được thị hiếu và đáp ứng tốt nhu cầu người tiêu dùng.
Tiếp tục đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại để đảm bảo được kiểu dáng của sản phẩm thành phẩm.
Đào tạo bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ, nhất là nhóm nghiên cứu phát triển và thiết kế một mẫu mã của doanh nghiệp.
Do chi phí cho hoạt động nghiên cứu này không phải nhỏ nên các doanh nghiệp cần chú ý năng lực tài chính hiện tại.
Tăng cường xúc tiến thương mại cho sản phẩm công ty thông qua các hội chợ hàng dệt may trong nước và ngoài nước, hoặc tại các hội thảo về ngành dệt may.
Thiết lập các web điện tử về doanh nghiệp để xúc tiến bán hàng, quảng bá về sản phẩm rộng rãi hơn, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại cho các hoạt động này so với tiến hành theo phương pháp thông thường
Tập trung giải quyết các vấn đề về lao động
Hiện nay, số lao động đã qua đào tạo ở những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt tỷ lệ rất thấp (72,9%). Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc tại khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam, khiến các doanh nghiệp khó cải tiến trong sản xuất.
Nâng cao chất lượng quản lý:
Bố trí hợp lý đội ngũ quản lý dựa theo năng lực, trình độ và sở trường. Tập trung bồi dưỡng những cán bộ có triển vọng phát triển nhằm bổ sung kịp thời.
Tiêu chuẩn hóa cán bộ, lao động trong doanh nghiệp.
Áp dụng quá trình quản lý theo các tiêu chuẩn quốc tế như ISO, HA, để nâng cao hiệu quả.
Tập trung phát triển hệ thống thông tin điện tử. Điều này giúp thông tin được truyền tải nhanh chóng và chính xác hơn trong nội bộ doanh nghiệp, qua đó nâng cao hiệu quả quản lý.
Cải thiện chất lượng lao động:
Nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất đang tăng cao, các doanh nghiệp cũng cần chú ý đến tình hình lao động (năng suất sản xuất, số lượng, chế độ… Trước thực trạng thiếu hụt lao động cả về chất lượng lẫn số lượng, các doanh nghiệp cần:
Hợp tác chặt chẽ với các trung tâm dạy nghề, cung cấp lao động để cùng đánh giá chất lượng lao động trước khi thuê lao động.
Đầu tư phát triển những lao động có kinh nghiệm và tay nghề.
Tăng cường thêm chính sách khen thưởng dành cho lao động có đóng góp tích cực, hoặc có sáng kiến cải thiện sản xuất.
Mở rộng tay nghề cho các công nhân nhân viên quản lý qua các khóa học ngắn hạn, hoặc gửi đi đào tạo ở nước ngoài, nhất là các nhân viên khâu sản xuất thiết kế mẫu mã, nhân viên vận hành máy trong dây chuyền sản xuất.
Cần có thêm những chính sác hợp lý nhằm khuyến khích lao động làm việc lâu dài.
Xây dựng văn hóa doanh nghiệp lành mạnh, tạo môi trường làm việc thân thiện cho mọi lao động.
Cần quan tâm hơn đến nhu cầu của công nhân, cung cấp điều kiện làm việc tốt, tránh những biện pháp xử lý không tích hợp dẫn đến đình công kéo dài (ảnh hưởng xấu đến tình trạng sản xuất và hoạt động của doanh nghiệp)
Tìm hiểu thêm về văn hóa của người lao động, tôn trọng và chấp nhận sự khác biệt về văn hóa đó. Ngoài ra tăng cường tuyên truyền ý thức và tác phong lao động công nghiệp nhằm đạt hiệu quả lao động tốt hơn.
Xúc tiến mở rộng hợp tác và củng cố thị trường
Củng cố các thị trường truyền thống:
Hầu hết các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc đều lấy 3 thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản làm thị trường xuất khẩu chủ yếu. Hằng năm kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc qua các thị trường này là không nhỏ, điển hình năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp này qua Mỹ là 487 triệu USD, EU là 155 triệu USD, Nhật Bản là 76,6 triệu USD.
Để tiếp tục giữ vững các thị trường này các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc tại khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam cần:
Tiếp tục nâng cấp cải tiến chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp
Tăng cường các chủng loại mặt hàng xuất khẩu
Giảm thiểu tối đa chi phí đầu vào, đặc biệt là kiểm soát lượng nhập khẩunguyên phụ liệu.
Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng hàng hóa xuất khẩu để đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu, giữ uy tín trên thị trường thế giới. Đăng ký hoạt động theo tiêu chuẩn của Hệ thống ISO 9000 đã và đang trở thành các điều kiện tiên quyết cho việc xuất khẩu vào các thị trường nước ngoài. Ngoài ra cũng cố gắng thiết lập các hệ thống quản lý khác như ISO 14000 để đảm bảo an toàn cho môi trường xung quanh.
Thường xuyên cập nhật các tin tức từ các thị trường xuất khẩu. Ví dụ, hiện nay các doanh nghiệp dệt may đang chú ý đến việc EU cấm nhập khẩu sản phẩm dệt có thuốc nhuộm AJO, một số thị trường khác cũng áp dụng quy định này. Các doanh nghiệp phải biết đến sự kiện này để điều chỉnh hàng hóa thích hợp khi xuất khẩu qua các thị trường này, tránh bị trả hàng trở lại.
Việt Nam tham gia Chương trình hợp tác công nghệ ASEAN là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp Hàn Quốc thu hút thêm vốn đầu tư vào công nghệ và trang thiết bị dệt may.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xúc tiến thương mại và bán sảnphẩm, để cả khách hàng và doanh nghiệp có thể chủ động tìm thấy nhau mà không phải tốt quá nhiều thời gian thông qua trung gian.
Tìm hiểu và thâm nhập những thị trường mới:
- Theo như phân tích ở trên, tập trung tìm kiếm các thị trường mới có thể mang lại lợi ích lớn hơn so với việc tranh đoạt các thị trường truyền thống (hầu hết đã được định đoạt). Một số thị trường như Châu Phi, Đông Âu, Nga hay một số nước công nghiệp mới và cả Châu Á có nhu cầu rất lớn về số lượng hàng dệt may, nhưng không đòi hỏi quá cao về chất lượng. Các thị trường này có tiềm năng rất lớn trong tương lai.
Tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc, qua đó mở ra thị trường nội địa tiềm năng:
- Các doanh nghiệp dệt và may Hàn Quốc nên gia tăng khối lượng tiêu thụ ngay trong thị trường nội địa. Xúc tiến cộng tác giữa các doanh nghiệp dệt và may. Điều này giúp các doanh nghiệp may có nguồn nguyên liệu tại chỗ với giá cả rẻ hơn và tính linh động cao. Các doanh nghiệp dệt cũng có lợi khi mở ra được một thị trường ổn định ngay tại nội địa.
Xây dựng chiến lược lâu dài hướng ra thị trường thế giới:
Nắm vững và tuân theo các quy tắc quốc tế:
- Doanh nghiệp cần chủ động trong việc tìm hiểu các quy tắc của WTO; xem xét các cam kết theo WTO liên quan đến khu vực doanh nghiệp để có thể hiểu rõ hơn về những lợi ích và thách thức do những cam kết này đem lại. Đây là cơ sở cho các doanh nghiệp xác định lại chiến lược kinh doanh và cạnh tranh của mình.
- Để tránh việc bị áp đặt biện pháp trừng phạt thương mại, các doanh nghiệp xuất khẩu cần chuẩn bị đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá, và điều đầu tiên mà họ phải thực hiện là nghiên cứu các luật mà những nhà nhập khẩu lớn sẽ áp dụng. Các doanh nghiệp trong nước cần đa dạng hóa sản phẩm và thị trường xuất khẩu cũng như nguồn nguyên liệu đầu vào.
- Doanh nghiệp cũng cần phải cải tiến chuẩn mực kế toán để phù hợp với các quy tắc quốc tế chung, làm cơ sở cho việc điều tra trong trường hợp bị kiện chống bán phá giá. Các hiệp hội doanh nghiệp cần phối hợp hành vi của các công ty và chủ động kiểm soát tình hình xuất khẩu từ phía Việt Nam.
Xây dựng chiến lược lâu dài:
- Doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược dài hạn và cải thiện năng lực cạnh tranh của mình. Chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp cần được kết hợp giữa việc tiếp tục hoạt động xúc tiến xuất khẩu các sản phẩm truyền thống với việc đa dạng hóa sản phẩm và cải thiện toàn diện năng lực cạnh tranh. Doanh nghiệp cần chuyển dịch năng lực cạnh tranh dựa trên giá rẻ của mình sang việc tập trung vào nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị. Doanh nghiệp cần hợp tác để xây dựng những cụm và mạng lưới tiêu thụ hiệu quả hơn để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
Các giải pháp về marketing:
Có thể nói hiện nay đây là khâu yếu nhất của các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc.
Mặc dù có thế mạnh trong lĩnh vực tạo mẫu thời trang, nhưng họ vẫn để mất thị phần vào tay những đối thủ cạnh tranh khác như Nhật, Đài Loan. Ngoài ra, sự cạnh tranh quyết liệt trên những thị trường truyền thống có lẽ đã làm những doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc lơ là trong việc phát triển những thị trường mới.
Những điều mà các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc cần làm ngay từ bây giờ:
Tiến hành phân khúc thị trường. Thông tin về thị trường không chỉ là vị trí địa lý, mà còn cần phải chi tiết hơn nữa, tập trung bám sát phân khúc nhằm tránh sự cạnh tranh rộng rãi không cần thiết.
Giá cả là một tiêu chí quan trọng trong việc định vị phân khúc thị trường.
Văn hóa là vấn đề quan trọng nhằm quyết định khả năng thâm nhập thị trường cũng như phát triển lâu dài tại thị trường đó.
Khi thâm nhập một thị trường mới, cần khẳng định và củng cố uy tín thương hiệu.
Bên cạnh việc tìm hiểu thị hiếu của người tiêu dùng, có thể chủ động tạo ra xu hướng thời trang mới thông qua các cuộc biểu diễn thời trang, thông qua điện ảnh, ca nhạc v..v…
Tập trung phát triển một hệ thống phân phối vững chắc. Việc hợp tác với các công ty phân phối có thể tiết kiệm chi phí cũng như tiện lợi hơn trong các vấn đề nhân sự, quản lý… tuy nhiên, để tồn tại lâu dài, các doanh nghiệp Hàn Quốc cần phải có một hệ thống phân phối của chính mình.
Phát triển sản phẩm mới không nhất thiết phải là nâng cấp về chất liệu, hoặc nâng cấp công nghệ. Tập trung nâng cao chất lượng tạo mẫu, chú ý phát triển những mẫu mã mới với những chất liệu và công nghệ sẵn có.
Dựa theo nghiên cứu của tác giả về thực trạng của các doanh nghiệp Hàn Quốc tại khu vực kinh tế trọng điểm phía nam, tác giả đề nghị nên đẩy mạnh về phương án Marketing.
Phân tích phương án Marketing cho thị trường nội địa Việt Nam:
Dưới đây là một số phân tích tiền đề, cũng như các phương án Marketing cụ thể về thị trường Việt Nam theo lối kinh doanh B2C (business to customer).
a. Bối cảnh phân khúc thị trường theo giá cả:
Hiện nay có thể tạm thời chia thị trường Việt Nam thành 3 phân khúc thị trường tiêu biểu theo giá: phân khúc thị trường giá cao, phân khúc thị trường giá thấp, và phân khúc thị trường giá trung bình.
Đánh giá về giá cả dựa theo điều tra thị trường cụ thể của từng doanh nghiệp về thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam, tỉ lệ và thói quen tiêu dùng.
b. Một số đối thủ cạnh tranh tiêu biểu, phân tích đối thủ cạnh tranh:
Phân khúc thị trường giá thấp – siêu thị trường hàng nhái:
Hiện nay phân khúc thị trường này tại Việt Nam có thể nói là sôi động nhất, với số lượng tiêu thụ lớn nhất, đối thủ cạnh tranh chủ yếu tại phân khúc này là các công ty không rõ nguồn gốc từ Trung Quốc, một số cơ sở may mặc nhỏ lẻ.
Đặc điểm:
Hàng hóa được phân phối rộng khắp thông qua các kênh không chính thức, giá cả cực rẻ và chất lượng trung bình.
Do vấn đề về kênh phân phối nên không thể điều tra rõ thông tin về đối thủ cạnh tranh.
Mẫu mã phong phú và đa dạng, đồng thời có một số mẫu mã truyền thống, chủ yếu là các mẫu mã được sao chép lậu từ những mẫu thời trang truyền thống của các thương hiệu nổi tiếng, điển hình là kiểu áo thun có cổ của Lacoste, áo thun thể thao Adidas…
Sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của thị trường này chủ yếu dựa vào sự quản lý lỏng lẻo của chính phủ Việt Nam về vấn đề sở hữu trí tuệ, chống hàng gian, hàng giả.
Do ưu thế về giá cả và mẫu mã phong phú, vấn đề xây dựng thương hiệu trong phân khúc này là hoàn toàn không cần thiết, thậm chí có hại (do kinh doanh hàng nhái nhãn hiệu).
Khó có thể kết luận được đường lối kinh doanh này có gọi là phạm pháp hay không, tuy sản phẩm vi phạm nghiêm trọng về điều luật sở hữu trí tuệ, ngoài ra một số kênh buôn bán không chính thức còn vi phạm quy định về trật tự đô thị, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của loại hình này dường như đã ngầm cho thấy sự “hợp pháp” của nó.
Phân khúc thị trường giá trung bình – thấp – thời trang của giới trẻ:
Là thị trường sôi động thứ nhì sau phân khúc thị trường giá thấp với doanh thu tương đương, hoặc thậm chí cao hơn, tuy nhiên chi phí đầu tư cũng lớn hơn.
Đối thủ cạnh tranh chủ yếu trong thị trường này có thể tính đến một vài hệ thống shop thời trang nổi tiếng mang thương hiệu Việt Nam như: Nino Max, Pt…, ngoài ra còn vô số các shop nhỏ lẻ với rất nhiều tên gọi khác nhau.
Đặc điểm:
Hàng hóa có chất lượng không đồng nhất tùy thuộc theo giá cả.
Mẫu mã cực kì đa dạng và thỏa mãn được nhiều nhu cầu thời trang, từ các phong cách thời trang dành riêng cho giới trẻ đến những phong cách thời trang cổ điển hơn được lặp lại từ những năm 90.
Các doanh nghiệp trong thị trường này cực kì linh hoạt trong việc nắm bắt thị hiếu thời trang, đồng thời chủ động tạo ra hiệu ứng thời trang mới rất tốt.
Giá cả sản phẩm không hề rẻ (tính ra tỉ lệ giá cả/ chất lượng có thể còn kém hơn phân khúc thị trường giá thấp), nhưng chấp nhận được, hàng hóa bán theo đợt, và khi hết đợt thì thường thanh lý giá rẻ (sale off vào các dịp đặc biệt, hoặc bán ra ngoài theo kênh không chính thức).
Mặc dù hàng hóa mang nhãn hiệu của các hệ thống thời trang trên, nhưng thực ra khó có thể tra rõ nguồn gốc xuất xứ.
Vấn đề thương hiệu bắt đầu từ phân khúc này đã trở nên quan trọng, ngoài ra sự cạnh tranh về mẫu mã diễn ra khá quyết liệt. Sản phẩm được đánh giá cao trong phân khúc này nhờ đặc tính “duy nhất” hay còn gọi là “hiệu ứng hàng độc”, nhưng thực tế rất khó giữ bí mật hoặc bảo hộ sở hữu trí tuệ về kiểu mẫu. Cách cạnh tranh duy nhất là liên tục cho ra đời những sản phẩm mới, điều này cũng phần nào giải thích vì sao số lượng mẫu mã trong phân khúc này lại phong phú đến như vậy, đồng thời khi sản phẩm mất đi tính “duy nhất” hoặc đã lỗi thời sẽ được thanh lý giá rẻ.
Phân khúc thị trường này và phân khúc thị trường giá thấp có thể nói tận dụng cực kì tốt văn hóa kinh doanh “tiểu thương” của người Việt.
Phân khúc thị trường giá cao – giá trị Hi-end:
Phân khúc thị trường có số lượng bán ra thấp nhất, nhưng lợi nhuận cực kì khủng khiếp, ngoài ra do một số đặc thù, phân khúc này gần như bão hòa và rất khó chấp nhận thương hiệu mới.
Điển hình về các doanh nghiệp kinh doanh thành công trong ngành này có 2 nhóm chủ yếu: nhóm thương hiệu thời trang nổi tiếng nước ngoài như : Lacoste, Adidas, Polo…. Ngoài ra có nhóm kinh doanh liên kết như nhãn liên kết thương hiệu Piere Cardin…
Đặc điểm:
Giá cả siêu cao, chất lượng cực kì tốt, mẫu mã thời trang mang nhiều phong cách, xu hướng thời trang cực kì mới (thậm chí đôi khi đi trước quá xa so với thị trường).
Do yêu cầu gắt gao về chất lượng, đa phần sản phẩm được nhập khẩu từ nước ngoài.
Số lượng bán ra thấp nhằm đảm báo tính “duy nhất” của sản phẩm, mỗi thương hiệu luôn có một hoặc một số dòng sản phẩm riêng đã được đăng kí bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Thật ra đảm bảo được tính duy nhất của sản phẩm cũng không hoàn toàn nhờ vào sở hữu trí tuệ, mà chủ yếu là vấn đề chất lượng và kĩ thuật để tạo ra sản phẩm đi trước quá xa so với thị trường, do đó các hàng hóa làm nhái không thể cạnh tranh nổi về chất lượng.
Lợi dụng tối đa tâm lý thích thể hiện mình thông qua vẻ bề ngoài của một số bộ phận người Việt.
Thị trường này có một số điểm yếu, dẫn đến bão hòa và rất khó chấp nhận thương hiệu mới :
Đầu tiên là sự vượt trội so với mặt bằng tiêu dùng Việt Nam về cả giá cả lẫn phong cách tiêu dùng, dẫn đến thị trường bị thu hẹp.
Chi phí đầu tư rất lớn, đòi hỏi kĩ thuật cao, hệ thống nhân sự phức tạp, hệ thống phân phối cao cấp, ít có doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn để tham gia kinh doanh.
Cuối cùng là sự ảnh hưởng cực mạnh của giá trị thương hiệu, thị trường nhỏ với những thương hiệu đã có chỗ đứng từ trước khiến không gian phát triển của thương hiệu mới gần như không có. Tuy nhiên, thị trường này đang có xu hướng mở rộng trong tương lai, điều này có khá nhiều nguyên nhân, và cũng có khá nhiều điểm mâu thuẫn. Mâu thuẫn đầu tiên là: trong khi thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam tăng không đáng kể, và chủ trương chính sách của nhà nước đang khuyến khích tiết kiệm, việc xu hướng thời trang Hi-end mở rộng là điều tương đối “khó hiểu”. Nguyên nhân có thể do sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội Việt Nam đang gia tăng theo quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, do đó thói quen tiêu dùng bị ảnh hưởng từ những nước tư bản chủ nghĩa.
Ngoài ra có thể tính đến tâm lý của một số bộ phận người tiêu dùng Việt Nam phát sinh nhu cầu khẳng định chính mình sau khi điều kiện kinh tế khá hơn. Mâu thuẫn tiếp theo là: sự mở rộng của thị trường đánh giá một xu hướng kinh tế mới khá lạc quan, nhưng lại ảnh hưởng sâu rộng đến sự ổn định của xã hội với nhiều hệ lụy không tốt (như hiện tượng chảy máu ngoại tệ do tỉ trọng nhập khẩu tăng, tạo nên thói quen tiêu dùng không thích hợp với bối cảnh kinh tế của Việt Nam hiện nay). Chính phủ chưa cho thấy cái nhìn thích đáng về xu hướng này.
c. Lời khuyên cho việc lựa chọn phân khúc:
Sau khi suy xét về hiện trạng của các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc, tác giả đưa ra nhận xét về việc lựa chọn phân khúc như sau:
Tốt nhất nên lựa chọn phân khúc giá trung bình – thấp, hoặc có thể lựa chọn phân khúc giá thấp, tuyệt đối không nên chen chân vào thị trường giá cao.
Nguyên nhân:
Dựa theo tính ổn định của thị trường, thị trường giá trung bình thấp ổn định nhất, tiếp theo là thị trường giá thấp, mặc dù có rủi ro trong tương lai về vấn đề sở hữu trí tuệ nhưng dựa theo thói quen tiêu dùng của đại bộ phận người tiêu dùng Việt Nam, 2 phân khúc này có tính ổn định tương đối cao. Phân khúc thị trường giá cao mang nhiều mâu thuẫn khó giải quyết và nhiều rủi ro không dự báo được trong tương lai.
Rủi ro có thể là thách thức, cũng có thể là cơ hội, thậm chí theo những đánh giá của tác giả, xu hướng thời trang Hi-end đang, và sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa tại thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, để nắm bắt cơ hội này thì khả năng hiện nay của các doanh nghiệp Hàn Quốc tại khu vực kinh tế trọng điểm phía nam là không đủ.
Thị trường giá trung bình thấp là phù hợp nhất với ưu thế về kiểu mẫu thời trang, cũng như điều kiện hiện tại của các doanh nghiệp Hàn Quốc (về cả vốn, kĩ thuật và trình độ quản trị).
d. Hai phương án marketing cụ thể
Phương án cho thị trường giá thấp :
Prices (Yếu tố giá)
Có thể sử dụng chiến lược định giá theo đối thủ cạnh tranh: nghiên cứu mức giá trung bình của những sản phẩm tiêu biểu thuộc phân khúc này nhằm định giá theo.
Áp dụng chiến lược giảm giá theo số lượng với các đại lý có nhu cầu đặt hang số lượng lớn.
Product (Yếu tố sản phẩm)
Do đặc điểm của phân khúc này, chất lượng không cần quá cao, tuy nhiên cần chú trọng phát triển quy mô sản xuất về số lượng.
Nên bắt đầu sản xuất từ những mẫu truyền thống như áo thun Lacoste, những sản phẩm đã được thị trường chấp nhận qua thời gian dài.
Places (Kênh phân phối)
Cách phân phối thích hợp nhất cho phân khúc thị trường này là thong qua các kênh không chính thức, thông qua một số đại lý thời trang đã có kinh nghiệm trong mảng này, không nên phát triển hệ thống phân phối riêng.
Cố gắng chủ động trong việc tổ chức giao hàng số lượng lớn cho các đại lý.
Promotion (Xúc tiến)
Nghiên cứu phát triển phương án ưu đãi cho các đại lý bán hàng lớn (chủ yếu vẫn là hỗ trợ về giá).
Phương án cho thị trường giá trung bình thấp :
Prices (Yếu tố giá)
Nên chia 2 nhóm giá cả cụ thể, nhóm giá cả đại chúng cho những sản phẩm không có tính “duy nhất”, và một nhóm giá tương đối cao, với chất lượng tốt hơn và kiểu mẫu độc đáo hơn để xây dựng uy tín cho thương hiệu.
Vận dụng linh hoạt phương án “hớt váng thị trường” (đặt giá cao từ đầu, sau đó giảm dần khi kiểu mẫu không còn thịnh hành nữa) để đạt được lợi nhuận tối đa đồng thời chủ động về các xu hướng thời trang, ngoài ra còn có thể thỏa mãn nhu cầu của khách hàng với nhiều mức giá khác nhau.
Product (Yếu tố sản phẩm)
Cạnh tranh về mẫu mã là yếu tố quyết định trong phân khúc thị trường này.
Chú ý xu hướng thời trang, tiến tới chủ động đưa ra các phong cách thời trang mới. Có thể thu được thông tin thời trang đồng thời tạo xu hướng mói qua các phương tiện truyền thông (báo chí, truyền hình).
Cân nhắc giữa 2 vấn đề: thời trang cho mọi lứa tuổi, hoặc cho một lứa tuổi cụ thể tùy theo chiến lược cụ thể của từng doanh nghiệp.
Khi phát triển nhiều loại sản phẩm có thể gặp khó khăn về vấn đề kĩ thuật, máy móc.
Có thể giải quyết vấn đề này thông qua hợp đồng gia công từ các cơ sở may mặc nhỏ lẻ, lưu ý kiểm soát chặt chẽ về mặt chất lượng sản phẩm.
Places (Kênh phân phối)
Cần gấp rút phát triển hệ thống phân phối của riêng doanh nghiệp, có thể cộng tác với các shop kinh doanh nhỏ lẻ đã có hệ thống từ trước, nhưng phải tiến tới độc quyền hệ thống kinh doanh.
Hệ thống kinh doanh cần đồng nhất về phong cách bài trí, mặt bằng chất lượng sản phẩm.
Không yêu cầu cao về chất lượng bài trí, nhưng việc thiết kế mạng lưới phân phối cần phải rộng khắp.
Promotion (Xúc tiến)
Mạng lưới kinh doanh trải rộng cần được kiểm soát cẩn thận.
Có chính sách công bằng giữa các đại lý cộng tác khác nhau.
Chủ động thiết kế chính sách ưu đãi hơn nữa cho các đại lý có ý định cộng tác lâu dài hoặc mua hàng số lượng lớn.
Thuyết phục các đại lý trở thành đại lý độc quyền.
Cố gắng tham gia các hội chợ tiêu dùng tổ chức thường xuyên để giới thiệu thương hiệu mới. (tương đối khó khăn, vì hiện tại đa số hội chợ hàng tiêu dùng đều tổ chức cho hàng Việt Nam chất lượng cao).
Có thể quảng cáo thông qua các phương tiện truyền thông.
Tài trợ cho các chương trình xã hội (chương trình ca nhạc, điện ảnh, chương trình từ thiện) là một biện pháp tốt để đánh bóng thương hiệu.
Mức độ quảng cáo hoặc tài trợ tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và chiến lược cụ thể của từng doanh nghiệp.
3.2.3 Về phía Hiệp hội dệt may Hàn Quốc:
Xúc tiến hoạt động:
- Tuy Hiệp hội dệt may Hàn Quốc đã được thành lập nhưng chức năng chính hỗ trợ và liên kết các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc vẫn chưa được thực hiện. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc xây dựng chiến lược lâu dài của các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc tại khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam. Cần nâng cao tầm ảnh hưởng của Hiệp hội đến các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc. Đặc biệt, các doanh nghiệp dẫn đầu khối doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc nên chủ động tích cực hơn trong việc này. Nhanh chóng xúc tiến hoạt động của Hiệp hội.
Tăng cường hợp tác với các hiệp hội khác và giữa những doanh nghiệp trong hiệp hội
- Xây dựng mối quan hệ giữa KOFOTI và VISTA, thúc đẩy chuyển giao công nghệ máy móc trang thiết bị cho các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc tại Việt Nam, cũng như đào tạo nhân lực dệt may giữa Hàn Quốc và Việt Nam.
- Thiết lập tam giác sản xuất giữa doanh nghiệp, nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào và Hiệp Hội để tạo thành thế chân kiềng vững chắc cho hoạt động sản xuất cũng như hỗ trợ thị trường tức đầu ra cho sản phẩm hàng dệt may của các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc tại khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam.
Những hoạt động cụ thể mà Hiệp hội cần làm:
- Tạo ra các cơ hội kinh doanh mới cho các doanh nghiệp thông qua các buổi hội thảo, các cuộc triển lãm sản phẩm dệt may hay các cuộc viếng thăm của các đoàn doanh nghiệp dệt may để học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau do hai Hiệp hội hai nước thực hiện.
- Các hiệp hội doanh nghiệp cần hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua việc:
Cung cấp các dịch vụ tư vấn, thông tin, nghiên cứu thị trường, xúc tiến xuất khẩu và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác.
Củng cố vai trò là người đại diện cho quyền lợi của doanh nghiệp trong tất cả các vấn đề liên quan đến môi trường kinh doanh và tạo thuận lợi cho xuất khẩu ở trong và ngoài nước.
Tham gia tích cực hơn trong các hoạt động khuyến nghị về chính sách, xây dựng và thực hiện chính sách.
Tham gia giải quyết các tranh chấp thương mại có thể gây cản trở cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới.
KẾT LUẬN
Tư cách thành viên WTO tạo ra không ít thuận lợi cho các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc tại KVKTTĐPN được cắt giảm thuế nhập khẩu, được mở rộng thị trường, bãi bỏ hạn ngạch... Tuy nhiên khi cánh cửa WTO đã mở không ít những trở ngại khác lại xuất hiện, hàng hóa tuy được cắt giảm thuế, hay các doanh nghiệp không còn lo hạn ngạch thì các sản phẩm của họ nay phải bị kiểm tra nghiêm nghặt hơn từ khâu sản xuất đến khâu bán hàng, ví như cơ chế giám sát hàng dệt may xuất khẩu của Mỹ, EU đặt ra cho ngành dệt may trong năm 2008. Hơn thế, thách thức lớn nhất đó chính mà các doanh nghiệp phải đối mặt là sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài. WTO, đồng nghĩa với việc Việt Nam phải mở cửa hoàn toàn tất cả các lĩnh vực cho đầu tư của nước ngoài, dệt may cũng không là ngoại lệ. Dệt may là ngành đã được mở cửa từ lâu nhưng khi chưa là thành viên của WTO thì các doanh nghiệp tại Việt Nam nhất là doanh nghiệp nhà nước còn được hỗ trợ chính sách từ chính phủ, nay phải hủy bỏ tất cả. Cùng với xu hướng chung của ngành dệt may thế giới, đầu tư vào ngành dệt may đang tiếp tục chuyển dịch sang các nước phát triển, mà Việt Nam đang là điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư hậu WTO, do vậy, sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài là rất lớn. Không riêng gì các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam mà cả các doanh nghiệp có vốn nước ngoài đã, đang và sẽ phải đầu tư vào Việt Nam cũng phải đương đầu với cạnh tranh.
Những lợi thế so sánh về lao động rẻ, cần cù, khéo tay, vốn thu hút rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam nhất là nhà đầu tư Hàn Quốc; tuy nhiên, những lợi thế đó đang mất dần. Nhân tố quyết định cho việc cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới của các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc nay không chỉ phụ thuộc vào giá nhân công rẻ, mà là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phải mạnh.
Mục tiêu đặt ra cho các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc tại Việt Nam và khu vực KTTĐPN là:
Phải trở thành doanh nghiệp lãnh đạo về xu hướng thời trang dệt may tại Việt Nam
Sáng tại công nghệ tiên tiến cho quy trình sản xuất, cho sản phẩm… góp phần đưa công nghệ kỹ thuật dệt may Việt Nam lên tầm cao mới. Đồng thời, các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc sẽ tạo ra một cuộc cách mạng dệt may, thúc đẩy ngành công nghiệp phụ trợ phát triển một cách bền vững.
Muốn hoàn thành sứ mệnh trên, các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc tại Việt Nam cần:
Tiên phong trong phát triển ngành công nghiệp thời trang tại Việt Nam
tạo ra thương hiệu riêng, mang đẳng cấp quốc tế
chuyển giao công nghệ từ các công ty Mẹ tại Hàn Quốc – Hiệp Hội Dệt May Hàn Quốc tại Việt Nam có vai trò quyết định trong việc này
kết nghĩa với các thành phố nổi tiếng về dệt may ở Hàn Quốc với Thành phố Hồ Chí Minh hay Bình Dương.
- Doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc tại Việt Nam cần phải đầu tư cho các mục tiêu, chiến lược dài.
Lãnh đạo ngành dệt may cùng với các doanh nghiệp dệt may phấn đấu hoàn thành mục tiêu này. Các doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc cần tiếp tục duy trì, phát huy tối đa những lợi thế cạnh tranh sẵn có, hạn chế hoặc khắc phục những mặt yếu kém để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Thông qua khóa luận này, cùng với một số biện pháp đã nêu ra, tôi hy vọng sẽ có thể đưa ra cái nhìn tổng quan về thực trạng hiện nay của doanh nghiệp dệt may Hàn Quốc để góp một phần giải quyết những tồn tại trong thời gian qua của các doanh nghiệp trong sản xuất, xuất khẩu cũng như quản lý, để góp phần đưa dệt may Việt Nam thành một trong những trung tâm dệt may thế giới.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA0568.doc