Lời mở đầu
Trong những năm gần đây thực hiện đường lối mới của Đảng và Nhà nước, với chủ trương phát huy nội lực, đẩy mạnh hợp tác liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, tận dụng mọi hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, nên sự thiếu hụt về vốn đã phần nào được giải quyết.
Chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp đều phải thực hiện nguyên tắc hạch toán lấy thu bù chi và tạo ra lợi nhuận. Khi đã có vốn kinh doanh, vấn đề mang tính sống c
51 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu Cần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
òn quyết định đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp là vốn phải được sử dụng có hiệu quả và hiệu quả ngày càng cao.
Tuy nhiên thực tế ở các doanh nghiệp, việc sử dụng và đánh giá hiệu quả của nó không phải bao giờ cũng được thực hiện một cách nghiêm túc. Vì vậy trong thời gian thực tập tại Xí nghiệp in Hậu Cần em đã chọn đề tại chuyên đề tốt nghiệp: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu Cần” nhằm phân tích, đánh giá vấn đề sử dụng vốn của doanh nghiệp, đồng thời có thể đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp.
Với mục đích trên chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng nguồn vốn và hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp in Hậu Cần
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Xí nghiệp in Hậu Cần
Với lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn GS.TS Cao Cự Bội và các thầy cô trong khoa Ngân hàng – Tài chính, cùng các cô chú trong Xí nghiệp in Hậu Cần đã tận tình giúp đỡ để em hoàn thành chuyên đề này.
Do thời gian và năng lực còn hạn chế em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các cô chú trong Xí nghiệp in Hậu Cần để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Chương 1: Lý luận chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
1.1.Nguồn vốn của doanh nghiệp.
Vốn là điều kiện không thể thiếu để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, quản lý vốn của doanh nghiệp có một ý nghĩa quan trọng trong quản lý tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quản lý nguồn vốn chúng ta chủ yếu đề cập tới các hình thức huy động vốn, xem xét ảnh hưởng của các nhân tố tới cách thức lựa chọn nguồn vốn của doanh nghiệp. Trong mọi doanh nghiệp, vốn đều bao gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở hữu và nợ; mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của chúng. Để hiểu rõ hơn vấn đề này việc nghiên cứu vốn phải bắt đầu từ những khái niệm cơ bản và làm rõ vai trò của vốn đối với doanh nghiệp.
1.1.1.Khái niệm nguồn vốn.
Theo Mark “ Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là đầu vào của một quá trình sản xuất”. Còn P. Samuelson thì cho rằng: “Vốn là những hàng hoá được sản xuất ra để sản xuất ra những hàng hoá mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”. Một nhà kinh tế học khác là D. Begg đã đưa ra hai định nghĩa về vốn, vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp: “ Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất các hàng hoá khác. Vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá khác của doanh nghiệp”.
Cả ba quan điểm trên đều thể hiện rất rõ ràng về đặc điểm của vốn, tuy nhiên vẫn có sự hạn chế bởi sự đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp. Thực chất, “Vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ. Vốn và tài sản là hai mặt giá trị và hiện vật của một bộ phận nguồn lực sản xuất mà doanh nghiệp sử dụng vào quá trình sản xuất- kinh doanh của mình”.
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, vốn được quan niệm là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu và trong quá trình tiếp theo của doanh nghiệp. Như vậy, vốn không chỉ là một yếu tố đầu vào mà còn tham gia xuyên suốt quá trình sản xuất và tái sản xuất trong quá trình tồn tại của doanh nghiệp.
Tóm lại, bản chất của nguồn vốn xét trên góc độ kinh tế là giá trị của tất cả các phương tiện của doanh nghiệp để có thể hoạt động theo phương hướng sản xuất kinh doanh đã định bao gồm “ Vốn hình thể” và “ Vốn phi hình thể”.
1.1.2.Đặc trưng của vốn.
Để quản lý và sử dụng nguồn vốn đạt hiệu quả chúng ta cần nắm bắt được những đặc trưng của nó. Các đặc trưng cơ bản của vốn là:
-Vốn phải đại diện cho một tài sản nhất định, hay vốn được biểu hiện bằng giá trị tài sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp.
-Vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
-Vốn cần đ]ợc tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định thì mới phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
-Vốn có giá trị về mặt thời gian, đặc trưng này giúp ta tính được giá trị và đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn.
-Vốn phải luôn gắn với chủ sở hữu.
-Vốn cỏ thể được coi như một hàng hoá và là một hàng hoá đặc biệt có thể mua bán trên thị trường đó là thị trường vốn và thị trường tài chính.
-Vốn không chỉ biểu hiện trong các tài sản hữu hình mà còn ở các tài sản vô hình.
1.1.3.Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp.
Qua nghiên cứu về nguồn vốn và các đặc trưng của nó ta có thể thấy rằng: doanh nghiệp không thể tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào nếu thiếu một lượng vốn nhất định. Số vốn này lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào chiến lược, quy mô của doanh nghiệp nhưng nó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp.
Về mặt kinh tế, vốn quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, vốn được cung ứng ra để đầu tư tài sản cố định, tài sản lưu động cho doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh. Nó không chỉ cần cho hình thành mà cong phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục của doanh nghiệp.
Vốn cũng là yếu tố quyết định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ưu thế của doanh nghiệp trên thương trường.
Trong cơ chế thị trường, với sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp cần không ngừng hiện đại hoá công nghệ để theo kịp sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Muốn đạt được điều này, doanh nghiệp luôn cần có lượng vốn đủ lớn.
Vốn cũng có vai trò quan trọng trong việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Để phát triển doanh nghiệp, tái sản xuất mở rộng doanh nghiệp cần phải đảm bảo trước hết là kinh doanh có lãi để bảo toàn vốn và phát triển. Đó là cơ sở cho doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ, mở rộng quy mô tăng uy tín cho doanh nghiệp. Hiểu được đầy đủ vai trò quan trọng của vốn, doanh nghiệp mới có thể sử dụng và quản lý vốn một cách có hiệu quả, tiết kiệm để đáp ứng được những đòi hỏi khó khăn của cơ chế thị trường.
Về mặt pháp lý: một doanh nghiệp muốn khởi nghiệp thì nhất thiết phải có một lượng vốn đủ lớn theo quy định của pháp luật goi là vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp. Mức này quy định đối với từng ngành nghề khác nhau do luật pháp quy định. Khi đó doanh nghiệp mới có đủ tư cách pháp lý để tham gia sản xuất kinh doanh. Nếu không đạt thì doanh nghiệp không được pháp luật công nhận về tư cách pháp lý. Trong quá tình kinh doanh, nếu doanh nghiệp là ăn thua lỗ, số vốn của doanh nghiệp không đạt được mức tối thiểu theo quy định của pháp luật thì sẽ bị tuyên bố phá sản. Như vậy vốn cũng là một yếu tố đảm bảo tư cách pháp nhân của doanh nghiệp.
1.1.4.Phân loại nguồn vốn.
Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà quy mô của vốn cũng như cơ cấu thàn phần của chúng có sự khác nhau.
1.1.4.1.Căn cứ theo nguồn hình thành.
Nguồn vốn của mỗi doanh nghiệp có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Tuy nhiên mỗi một loại hình doanh nghiệp cũng chỉ có thể khai thác trên một số nguồn nhất định. Vì thế, người ta có thể căn cứ vào nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp để nhận biết doanh nghiệp đó thuọcc loại nào. Chẳng hạn doanh nghiệp có nguồn vốn chủ yếu thuộc nguồn ngân sách nhà nước thì đó là doanh nghiệp nhà nước.
Tuy nhiên một doanh nghiệp cho dù thuộc loại hình nào đi chăng nữa thì vốn kinh doanh của chúng cũng được khai thác, hình thành từ một trong những nguồn sau:
FVốn chủ sở hữu
Với mỗi loại hình doanh nghiệp vỗ chủ sở hữu lại có sự hình thành khác nhau, tuy nhiên đối với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận chủ yếu: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới.
Vốn góp ban đầu:
Khi doanh nghiệp được thành lập, bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông- chủ sở hữu góp. Khi nói đến nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước là nhà nước. Nguồn vốn này gọi là vốn ngân sách nhà nước. Đó là nguồn vốn được hình thành từ quỹ tích luỹ của ngân sách và được dùng vào mục đích chi phát triển kinh tế.
Đối với các doanh nghiệp, theo luật doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp phải có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Chẳng hạn, đối với công ty cổ phần, vốn do các cổ đông góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty, mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên số cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, các công ty cổ phần cũng có một số dạng tương đối khác nhau, do đó cách thức huy động vốn cổ phần cũng khác nhau.
Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia.
Quy mô số vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, nhưng thông thường số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia- nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách đầu tư từ lợi nhuận để lại, họ đặt mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng.
Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận giữ lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Đối với các doanh nghiệp nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả năng sinh lời của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách đầu tư của nhà nước.
Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ phần( cổ tức) nhưng bù lại họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty. Như vây, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị giảm sút.
Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức của công ty cổ phần phải lưu ý đến một số vấn đề có liên quan như:
-Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ
-Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước
-Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ty, tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó.
-Hiệu quả của việc tái đầu tư
Nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu.
Trong hoạt động sản xuất-kinh doanh, doanh nghiệp cỏ thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Có rất nhiều loại cổ phiếu khác nhau:
-Cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng, trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán.
-Cổ phiếu ưu tiên: cổ phiếu ưu tiên thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là cổ tức nhất định. Người chủ của cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không nhận được cổ tức của kỳ đó.
Khi nào thì cần phát hành và thu hồi cổ phiếu? Để trả lời câu hỏi này cần xem xét khía cạnh sau:
Các doanh nghiệp thường cố gắng cân bằng giữa nợ và vốn chủ sở hữu để giữ vững khả năng thanh toán, củng cố uy tín tài chính. Khi tỷ lệ nợ ở mức thấp, nếu cần vốn thì các công ty thường chọn cách phát hành trái phiếu tức là tăng nợ(mà không tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu). Nếu tỷ lệ nợ ở mức cao, công ty phải tránh việc tăng thêm tỷ lệ nợ và trọn cách phát hành cổ phiếu.
Tuy nhiên, thực tế các công ty không quan tâm nhiều đến việc giữ một mức cân bằng chính xác. Việc điều chỉnh vốn chủ sở hữu và các khoản nợ thường ngẫu hứng, theo kiểu linh hoạt “ tuỳ cơ ứng biến”.
FNợ.
Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất- kinh doanh doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng và vay thông qua phát hành trái phiếu.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn.
Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất-kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ số vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Tuỳ theo tính chất và mục đích sử dụng, ngân hàng có thể phân loại cho vay thành các loại như: cho vay đầu tư TSCĐ, cho vay đầu tư TSLĐ, cho vay để thực hiện dự án. Cũng có những cách phân chia khác nhau như: thời hạn cho vay, cho vay theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực phục vụ hoặc theo hình thức bảo đảm tiền vay.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm nhưng nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn( lãi suất).
-Điều kiện tín dụng: các doanh nghiệp muốn vay vốn tại các ngân hàng thương mại cần đáp ứng được những yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng của ngân hàng. Doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu. Trước tiên, ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh giá các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn.
-Sự kiểm soát của ngân hàng: một khi doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay. Nói chung, sự kiểm soát này không gây khó khăn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp điều đó cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị “kiểm soát”.
-Lãi suất vay vốn: lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vay vốn ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp.
Nguồn vốn tín dụng thương mại.
Các doanh nghiệp thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay mua bán trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong một số doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm 40% tổng nguồn vốn.
Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh. Hơn nữa, nó còn tạo khả năng mở rộng quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên, cần nhận thấy tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ khá lớn.
Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành của sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua bán hàng hoá trả chậm, chi phí này có thể “ẩn” dưới hình thức thay đổi mức giá, tuỳ thuộc vào quan hệ và thoả thuận cụ thể giữa các bên.
Vốn vay thông qua phát hành trái phiếu.
Trái phiếu là tên chung của các giấy tờ vay nợ dài hạn và trung hạn, bao gồm: trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty. Trái phiếu còn được gọi là trái khoán.
Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và tình hình trên thị trường tài chính. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì nó liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khă năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trước khi quyết định phát hành, cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của mỗi loại trái phiếu. Trên thị trường tài chính của nhiều nước, hiện nay thường lưu hành những loại trái phiếu doanh nghiệp sau:
-Trái phiếu có lãi suất cố định: loại trái phiếu này thường được sử dụng nhiều nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Như vậy cả doanh nghiệp (người đi vay) và người giữ trái phiếu(người cho vay) đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại của trái phiếu.
-Trái phiếu có lãi suất thay đổi: tuy gọi là lãi suất thay đổi nhưng thực ra loại này có lãi suất phụ thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng khác. Khi nào nên phát hành loại trái phiếu này? Trong điều kiện có lạm phát cao và lãi suất thị trường không ổn định, doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Do các biến động của lạm phát kéo theo sự biến động của lãi suất thực, các nhà đầu tư mong muốn được hưởng một lãi suất thoả đáng khi so sánh với tình hình thị trường. Vì vậy một số người yêu thích trái phiếu thả nổi. Tuy nhiên loại trái phiếu này có một số nhược điểm:
+Doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính.
+Việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất.
-Trái phiếu cỏ thể thu hồi: đây là loại trái phiếu mà doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Trái phiếu như vậy phải được quy định ngay khi phát hành để người mua trái phiếu được biết. Doanh nghiệp phải quy định rõ về thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại trái phiếu. Loại trái phiếu này có những ưu điểm sau:
+Có thể được sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng. Khi không cần thiết, các doanh nghiệp có thể mua lại các trái phiếu tức là giảm số vốn vay.
+Doanh nghiệp có thể thay nguồn tài chính do phát hành trái phiếu loại này bằng một nguồn tài chính khác thông qua mua lại các trái phiếu đó.
1.1.4.2.Căn cứ theo quá trình chu chuyển.
Vì vốn luôn vận động luân chuyển trong kỳ sản xuất kinh doanh, việc quản lý vốn phải đề cập đến hoạt động luân chuyển của vốn, đến ảnh hưởng qua lại của các hình thức khác nhau của tài sản, hiệu quả của vòng quay vốn. Do đó phải xem xét đến vốn trong góc độ chu chuyển tức là trạng thái động với quan điểm hiệu quả. Căn cứ theo hình thức luân chuyển của vốn người ta phân chia vốn thành hai loại: vốn đầu tư vào tài sản cố định(vốn cố định) và vốn đầu tư vào TSLĐ( vốn lưu động).
Vốn đầu tư vào TSCĐ( vốn cố định).
Vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp. Để có thể quản lý vốn cố định, điều cần thiết trước hết là phải tìm hiểu những đặc điểm về mặt hiện vật của chúng-TSCĐ.
Có thể nói một cách khác, TSCĐ của doanh nghiệp là những tài sản: có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài, có chức năng là tư liệu lao động( phương tiện để sản xuất kinh doanh) chứ không phải để bán. Theo quyết định số 1062/TC/QĐ/CSTC ngày 14/11/1996 của Bộ trưởng Bộ tài chính”những tư liệu lao động đồng thời thoả mãn 2 tiêu chuẩn là có thời gian sử dụng từ một năm trở lên, có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên thì được coi là TSCĐ.
Nếu phân chia theo hình thái vật chất( TSCĐ có hai loại là tài sản hữu hình và tài sản vô hình)
-Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thức vật chất cụ thể như: đất kinh doanh, nhà xí nghiệp, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải và những phương tiện công cụ khác trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp.
-Tài sản vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể mà là những phát minh sáng chế, nhãn hiệu thương mại, phí quảng cáo, thù lao cho luật sư…
Trong nền kinh tế thị trường, do sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường và để nâng cao khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp phải đầu tư các khoản chi phí lớn cho tài sản vô hình. Những chi phí này cũng được quản lý và thu hồi dần như những chi phí để mua sắm TSCĐ khác.
Trong quá trình sản xuất-kinh doanh nhìn chung TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện vật nhưng năng lực sản xuất và giá trị của chúng giảm dần. Có hiện tượng đó là do trong quá trình tham gia vào sản xuất TSCĐ đã bị hao mòn. Có hai loại hao mòn là: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn có liên quan đến việc giảm giá trị sử dụng của TSCĐ, còn hao mòn vô hình lại có liên quan đến việc mất giá của TSCĐ. Trong nền kinh tế thị trường, biểu hiện của hao mòn vô hình là rất đa dạng, TSCĐ có thể bị mất giá do nhiều nguyên nhân. Những nguyên nhân cơ bản có thể được kể ra sau đây:
-TSCĐ cũ có thể bị mất giá do TSCĐ mới được sản xuất ra với giá không đổi nhưng có năng lực sản xuất cao hơn.
-TSCĐ cũ bị mất giá do TSCĐ mới được sản xuất ra có công suất bằng tài sản cũ nhưng giá lại rẻ hơn.
-TSCĐ cũ bị mất giá do sản phẩm của chúng sản xuất ra không còn phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Hay nói cách khác, trong trường hợp này, máy móc đã bị mất giá vì chu kỳ sống của máy móc đã không ăn khớp với chu kỳ sống của sản phẩm do nó tạo ra. Cũng tương tự, TSCĐ có thể bị mất giá do nguyên liệu, vật liệu sản xuất bị thay đỏi, năng lượng, nhiên liệu được thay thế bằng loại khác…
Bộ phận giá trị đại diện cho phần hao mòn được gọi là tiền khấu hao. Tiền khấu hao là một yếu tố của chi phí sản xuất, một bộ phận của giá thành sản phẩm. Khi sản phẩm được tiêu thụ, tiền khấu hao được trích lại để hình thành quỹ khấu hao.
Những đặc điểm vận động về hình thái hiện vật và giá trị trên đây của TSCĐ đã quyết định tới sự vận động của vốn cố định. Đặc điểm vận động của vốn cố định là :
-Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, vốn cố định bị tách ra thành hai phần: một bộ phận giá trị tương ứng với phần giá trị của hao mòn sẽ gia nhập vào giá thành sản phẩm và được tích luỹ lại sau khi được tiêu thụ, còn bộ phận khác đặc trưng cho phần giá trị còn lại của TSCĐ. Các chu kỳ sản xuất cứ kế tiếp nhau tiếp diễn, phần thứ nhất của vốn cố định –quỹ khấu hao cơ bản cứ ngày càng gia tăng; còn phần thứ hai-giá trị còn lại của TSCĐ lại giảm dần. Sự biến thiên nghịch chiều ấy được kết thúc khi TSCĐ được khấu hao hết. Phần giá trị còn lại của TSCĐ đã được chuyển hoá toàn bộ sang vốn tiền tệ-quỹ khấu hao, đồng thời cũng là kết thúc vòng tuần hoàn của vốn cố định.
-Trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp, vốn cố định thường chiếm một tỷ trọng lớn, nó quyết định tới tốc độ tăng trưởng, khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn đầu tư vào TSLĐ(vốn lưu động)
Vốn lưu động của một doanh nghiệp là một bộ phận của nguồn vốn được ứng ra để mua sắm các TSLĐ sản xuất và tài sản lưu thông nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất-kinh doanh.
Để tiến hành sản xuất, ngoài TSCĐ doanh nghiệp phải có TSLĐ. Tuỳ theo từng loại hình kinh doanh mà cơ cấu TSLĐ cũng khác nhau. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh TSLĐ thường được cấu tạo bởi 2 phần là TSLĐ sản xuất và tài sản lưu thông.
-TSLĐ sản xuất bao gồm những tài sản ở khâu dự trữ sản xuất như nguyên vật liệu chính, vật liệu phu, nhiên liệu… và tài sản ở khâu sản xuất như sản phẩm dở dang đang chế tạo, bán thành phẩm, chi phí đợi phân bổ.
-Tài sản lưu thông của doanh nghiệp gồm sản phẩm hàng hoá chưa tiêu thụ(hàng tồn kho), vốn bằng tiền và các khoản phải thu.
Trong quá trình sản xuất, khác với TSCĐ, TSLĐ luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm và vì vậy giá trị của nó cũng được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm tiêu thụ. Đặc điểm này đã quyết định tới sự vận động của vốn lưu động-hình thái giá trị của TSLĐ. Đặc điểm vận động của vốn lưu động có thể được tóm tắt như sau:
-Khởi đầu vòng tuần hoàn, vốn lưu động được dùng để mua sắm các đối tượng lao động trong khâu dự trữ sản xuất. Giai đoạn này vốn đã thay đổi hình thái từ vốn tiền tệ sang vật tư.
-Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn sản xuất: qua công nghệ sản xuất, các vật tư dự trữ được chế tạo thành bán thành phẩm và thành phẩm.
-Kết thúc vòng tuần hoàn, sản phẩm sau khi được tiêu thụ, hình thái hàng hoá hiện vật lại được chuyển sang vốn tiền tệ như điểm xuất phát ban đầu.
Trong thực tế sản xuất kinh doanh, sự vận động của vốn lưu động không phải diễn ra một cách tuần tự như mô hình lý thuyết nêu trên mà các giai đoạn vận động của vốn được đan xen vào nhau. Trong khi một bộ phận của vốn lưu động được chuyển hoá thành vật tư dự trữ, sản phẩm dở dang, thì một bộ phận khác của vốn lại chuyển từ sản phẩm, thành phẩm sang vốn tiền tệ. Cứ như vậy các chu kỳ sản xuất được tiếp tục lặp lại, vốn lưu động được liên tục tuần hoàn và chu chuyển. Do phương thức vận động có tính chất chu kỳ, lặp đi lặp lại như trên, nên loại vốn này được gọi là vốn lưu động. Điều này có thể phân biệt với vốn cố định cả về phương thức vận động và độ dài thời gian của một chu kỳ chu chuyển.
1.2.Hiệu quả sử dụng vốn
1.2.1.Khái niêm hiệu quả và hiệu quả sử dụng vốn
_Hiệu quả: là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra và kết quả đạt được khi bỏ ra chi phí đó. Nếu chi phí bỏ ra càng ít mà kết quả thu được càng nhiều thì điều đó có ý nghĩa là hiệu quả càng cao và ngược lại.
_Hiệu quả sử dụng vốn:
Đó là một phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi xem xét hiệu quả sản xuất kinh doanh thường người ta đánh giá trên hai góc độ:
+Hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu chất lượng quan trọng nhất đối với mỗi doanh nghiệp. Nó phản ánh mối quan hệ giữa kết quả đạt được về mặt kinh tế với các chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
+Hiệu quả xã hội của một quá trình sản xuất kinh doanh thể hiện mức độ tham gia của doanh nghiệp vào các chương trình kinh tế xã hội. Thông qua các hoạt động kinh doanh của mình thực hiện các chính sách: phúc lợi, tạo việc làm cho người lao động, môi trường, công bằng xã hội.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là thước đo chính để đánh giá trình độ điều hành, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá bằng hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Các doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả xã hội vì doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế. Đạt được hiệu quả xã hội cũng có vai trò đảm bảo và hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên trong phạm vi quản lý doanh nghiệp, nhà kinh doanh chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Có đạt được hiệu quả kinh tế mới đảm bảo cho hiệu quả xã hội.
Nguồn vốn là nguồn lực kinh tế lớn nhất của doanh nghiệp nên có tác động rất lớn tới hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu bắt buộc nếu muốn nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Thông qua đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sử dụng vốn cao là sử dụng, khai thác vốn để đảm bảo sinh lời lãi cao, đạt được mục đích tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn bằng nhiều phương pháp khác nhau. Để lượng hoá hiệu quả sử dụng vốn người ta sử dụng hệ thống chỉ tiêu và khả năng hoạt động và khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển vốn. Nó phản ánh mối quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ, đo chênh lệch giữa chi phí bỏ ra và kết quả thu được. Kết quả thu được mà càng cao so với chi phí bỏ ra thì có nghĩa là hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao. Do vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cần phải dảm bảo các điều kiện sau:
_Phải khai thác nguồn vốn một cách triệt để, không để vốn nhàn rỗi, bị chết.
_Phải sử dụng vốn một cách có hiệu quả và hợp lý nhất
_Quản lý vốn chặt chẽ để vốn không bị thất thoát hay sử dụng sai mục đích.
1.2.2.Các chỉ tiêu đánh giá chung về hiệu quả sử dụng vốn
Việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ngoài việc xem xét chung còn được đề cập tới từng bộ phận vốn: vốn cố định – TSCĐ, vốn lưu động – TSLĐ
1.2.2.1.Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định – TSCĐ
Kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định là một nội dung quan trọng của hoạt động tài chính doanh nghiệp. Thông qua kiểm tra tài chính doanh nghiệp có được những căn cứ xác đáng để đưa ra các quyết định về mặt tài chính như điều chỉnh quy mô và cơ cấu đầu tư, đầu tư mới hay hiện đại hoá TSCĐ; về các biện pháp khai thác năng lực sản xuất của TSCĐ hiện có, nhờ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Để tiến hành kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định cần xác định đúng đắn hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định và TSCĐ của doanh nghiệp. Thông thường bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và phân tích sau đây:
Thuộc các chỉ tiêu tổng hợp có:
_Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định: chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong kỳ.
Doanh thu thuần trong kỳ
Số vốn cố định bq trong kỳ
Hiệu suất sử dụng vốn ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0170.doc