lời mở đầu
Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận cao do đó câu hỏi đặt ra là phải làm gì để thực hiện được mục tiêu đó?
Một câu trả lời chung nhất đó là các doanh nghiệp phải không ngừng tự hoàn thiện mình bằng cách phát huy những mặt mạnh và khắc phục những điểm yếu. Còn để phát hiện ra được những mặt mạnh, yếu của mình thì các doanh nghiệp phải tiến hành tìm hiểu, phân tích hoạt động sản xuất – kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp và những y
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn lưu động ở Công ty XNK & Xây dựng nông lâm nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếu tố của môi trường bên ngoài có tác động đến doanh nghiệp.
Đối với Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp, qua một quá trình tìm hiểu, phân tích hoạt động sản xuất - kinh doanh của Công ty thì ngoài những mặt mạnh tôi thấy rằng Công ty đang ở trong tình trạng sử dụng vốn lưu động có hiệu quả chưa cao, trong khi hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất - kinh doanh vì vậy cần thiết phải có những giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng này.
Là một sinh viên thực tập tại Công ty với hành trang là những kiến thức lý luận tương đối toàn diện đã được trang bị trong 4 năm đại học nhưng những kiến thức thực tế chỉ mới hạn chế trong hơn 4 tháng thực tập tại Công ty, tuy nhiên tôi xin được chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Hy vọng với sự hướng dẫn tận tình của các cô, chú trong Công ty, đặc biệt là các cô, chú trong phòng Tài chính – Kế toán, của thầy giáo – thạc sĩ Mai Xuân Được cùng với những kiến thức có được của bản thân tôi sẽ hoàn thành tốt được chuyên đề thực tập tốt nghiêp theo yêu cầu của nhà trường cũng như đóng góp được cho Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp những giải pháp thiết thực để nâng được hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty và mục tiêu cuối cùng là nâng cao được hiệu quả sản xuất – kinh doanh cho Công ty.
Chuyên đề này được chia làm 3 chương:
Chương 1: Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Công ty có ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động của Công ty trong thời gian qua
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Công ty trong thời gian tới
Do những kiến thức còn hạn chế nên chuyên đề thực tập tốt nghiệp của em không tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo tận tình và thẳng thắn của các cô, chú trong Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp và của thầy giáo – thạc sĩ Mai Xuân Được để em có thể hoàn thiện chuyên đề này và trong luận văn sắp tới của em. Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1
Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Công ty có ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động
1.1.Những nét khái quát về Công ty
1.1.1 Quá trình hình thành
Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp (tên giao dịch quốc tế: Agriculture and foresty import – export Corntuction company), có trụ sở: 1004 - Đường Láng - Đống Đa – Hà Nội và là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội.
Tiền thân Công ty là Xí nghiệp giống, thiết kế trồng rừng được thành lập tháng 12 năm 1983.
Kể từ ngày thành lập, Công ty đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển với nhiều tên gọi khác nhau:
Xí nghiệp giống, thiết kế trồng rừng (năm 1983), Công ty Dịch vụ lâm nghiệp (năm 1985), Công ty Xuất nhập khẩu Lâm nông nghiệp. Những năm này Công ty chỉ mới hoạt động trong nước và gia công hàng xuất khẩu, uỷ thác xuất khẩu qua tổng Công ty, quy mô lúc này còn nhỏ.
Năm 1992 đổi tên thành Công ty chế biến kinh doanh nông lâm sản xuất khẩu và được trọng tài kinh tế cấp giấy phép kinh doanh số 1058564/ 11/1992.
Ngày 13/9/1997 Công ty sáp nhập thêm 2 đơn vị thành viên trong ngành là Công ty dịch vụ lâm nghiệp và ban quản lý trồng rừng Hà Nội theo qui định số 3663/QĐ - UB của UBND thành phố Hà Nội. Sau khi sáp nhập đổi tên thành Công ty kinh doanh Nông sản xuất khẩu Hà Nội.
Và đến năm 2002 Công ty được đổi tên thành Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp theo quyết định số 4006/QĐ - UB ngày 15/8/2002 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội.
Là một doanh nghiệp chế biến và xuất nhập khẩu hàng nông lâm sản, Công ty được Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cấp giấy phép chế biến gỗ và lâm sản (quyết định số 2358/CĐCNP ngày 22/11/1994) và được Bộ thương mại cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp (số 2051019 ngày 7/1/1993). Như vậy Công ty có đầy đủ tư cách pháp nhân để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Qua 20 năm phát triển và trưởng thành Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp Hà Nội đã từng bước xây dựng cho mình những tiền đề vững chắc về cơ sở vật chất – kỹ thật, nhân sự, uy tín và vị thế của Công ty trước các đối tác kinh doanh trong và ngoài nước.
1.1.2 Cơ cấu tổ chức quản lý:
Cơ cấu tổ chức của Công ty được tổ chức theo trực tuyến chức năng. Đó là mô hình quản lý mang tính chất kết hợp dựa trên nguyên tắc quản lý trực tiếp, các phòng ban tham mưu cho ban giám đốc theo từng chức năng nhiệm vụ của mình, giúp ban giám đốc điều hành và ra những quyết định đúng đắn, kịp thời, có lợi cho Công ty. Bộ máy Công ty có 6 phòng chức năng sau:
Phòng tổ chức hành chính
Phòng Tài chính - Kế toán
Phòng kinh doanh
Phòng Xuất nhập khẩu
Phòng Kỹ thuật lâm sản
Phòng Vật tư tổng hợp
Sơ đồ Cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty
Ban
giám đốc
Phòng tài chính kế toán
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kỹ thuật lâm sinh
Phòng vật tư tổng hợp
Phòng XNK
Phòng kinh doanh
Xí nghiệp xây dựng và phát triển nông thôn
Xí nghiệp giống cây trồng nông lâm
Xí nghiệp giống cây trồng Phủ
Lỗ
Xí nghiệp đồ mộc bao
bì
Xí nghiệp dịch vụ
lâm nghiệp
Xí nghiệp chế biến nông sản
Xí nghiệp chế biến lâm sản
1.1.3. Chức năng và nhiệm vụ hiên nay:
- Công ty có nhiệm vụ xây dựng các kế hoạch xuất khẩu các loại vật tư hàng hoá phục vụ yêu cầu phát triển sản xuất hàng năm và dài hạn căn cứ vào phương hướng, nhiệm vụ phát triển nông lâm nghiệp và sự hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
- Tổ chức thực hiện kế hoạch xuất khẩu sau khi Bộ Nông nghịêp và phát triển nông thôn phê duyệt.
- Nghiên cứu tình hình thị trường, đề xuất chủ trương chính sách phát triển sản xuất, thường xuyên nắm bắt nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng và giá cả trên thế giới để không ngừng đẩy mạnh xuất nhập khẩu, tăng kim ngạch xuất nhập nhẩu.
- Quản lí có hiệu quả vật tư, tài sản tiền vốn, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh và tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật của Công ty.
Nhiệm vụ này cho thấy việc quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn nói chung, vốn lưu động nói riêng đã được đề cập bởi nó là một trong những tác nhân quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
- Quản lí sử dụng lực lượng cán bộ công nhân viên theo đúng chế độ chính sách của Nhà nước, luôn chú trọng bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực, phẩm chất của cán bộ công nhân viên.
- Giữ vững uy tín trong kinh doanh, tuân thủ các qui định về chế độ quản lí kinh tế của Nhà nước. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ của Công ty.
- Xây dựng các công trình nông, lâm, thuỷ sản; các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, du lịch và dịch vụ.
- Kinh doanh nhà.
1.1.4. Truyền thống, uy tín và sự thể hiện văn hoá Công ty:
Truyền thống của Công ty là giữ vững sự đoàn kết nhất trí từ trong nội bộ Đảng đến toàn thể cán bộ công nhân viên. Nội dung chủ trương của lãnh đạo Công ty đều phải hài hoà giữa 3 lợi ích: lợi ích nhà nước, lợi ích của tập thể và lợi ích của người lao động, trong đó lấy chăm lo quyền lợi chính đáng của người lao động là động lực chủ yếu.
Lãnh đạo Công ty nhanh nhạy nắm bắt nhu cầu thị trường. Từ công tác dự báo, khảo sát đến tổ chức thực hiện các hoạt động kinh tế đều được thực hiện trong những điều kiện thuận lợi nhất (đều được sự quan tâm và chuẩn bị kĩ càng).
Một điều đáng tôn trọng và tự hào của Công ty là đến thời điểm này, Công ty đã có được một đội ngũ cán bộ chủ chốt giỏi, dày dạn kinh nghiệm trong cơ chế thị trường, đã đoạn tuyệt với cơ chế bao cấp “xin, cho”. Chính đội ngũ này đã làm nên thành tích vẻ vang của Công ty và quyết định vận mệnh ổn định bền vững và phát triển của Công ty trong tương lai.
Sản xuất và kinh doanh trong cơ chế thị trường cạnh tranh quyết liệt nhưng Công ty từ người lãnh đạo tới người lao động đều nhất quán hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và phải tuân thủ đúng pháp luật, khắc phục khó khăn vì sự phát triển của Công ty và không ngừng nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên. Đây là sự phấn đấu và cố gắng lớn của Công ty, do đó Công ty đã có được uy tín khá lớn không chỉ đối với khách hàng trong nước, nước ngoài mà cả với các cơ quan quản lý của nhà nước.
1.1.5. Một số kết quả kinh doanh :
Bảng 1: Kết quả kinh doanh
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 1999
Năm 2000
Năm2001
Năm 2002
1. Doanh thu
Đồng
100.313.427.500
105.234.688.000
114.167.000.000
141.263.131.000
2. Lơi nhuận sau thuế
Đồng
381.965.715
441.210.425
500.784.000
565.218.312
3. Số công nhân
Người
270
250
262
280
4. Thu nhập bình quân
Đồng
750.000
850.000
950.000
950.000
5. Nộp ngân sách nhà nước
Đồng
2.000.000.000
2.476.000.000
2.866.000.000
3.100.000.000
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động sản xuất - kinh doanh thời gian qua)
Thông qua các số liệu trên ta có nhận xét sau: doanh thu và lợi nhuân của công ty không ngừng tăng điều này chứng tỏ công ty đang ở trên đà phát triển, hứa hẹn đóng góp nhiều hơn cho ngân sách nhà nước, năm 1999 doanh thu của công ty chỉ là 100 tỷ thì đến năm đã đạt được con số là 141 tỷ đồng, lợi nhuận tư xấp xỉ 382 triệu đồng năm 1999, năm 2002 đạt 565 triệu đồng, năm 2002 nộp ngân sách nhà nước đạt 3,1 tỷ đồng, đây là một con số khá lớn và đáng ghi nhận. thu nhập bình quân của người lao động trong Công ty không ngừng được cải thiện, năm 2002 đạt 950.000 đồng/1người/1tháng là tương đối cao so với các doanh nghiệp nhà nước khác, tuy nhiên Công ty cũng nhận thức được rằng mức sống chung của người dân đã tăng lên rất nhiều, nhu cầu cuộc sống ngày càng cao do đó Công ty cần thiết phải tăng cường hơn nữa qui mô cũng như hiệu quả của hoạt động sản xuất – kinh doanh để nâng cao được thu nhập cho người lao động và tạo thêm nhiều việc làm, góp phần vào việc bức xúc của xã hội là thiếu việc làm, đồng thời có thể đóng góp nhiều hơn cho ngân sách quốc gia.
Bảng 2: Hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty thời gian qua
Đơn vị: 1000 USD
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1. Kim ngạch xuất khẩu
2.025,1
3.699,0
4.554,6
5.760,7
2. Kim ngạch nhập khẩu
981,0
1.624,7
1.952,3
2.136,3
3. Cán cân xuất nhập khẩu
1.044,1
2.074,3
2.602,3
3.624,4
Qua các số liệu trên ta có thể thấy được những dấu hiệu đáng mừng trong hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng trong thời qua và so với kim ngạch nhập khẩu, năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đạt 2.025,1 nghìn USD, năm 2000 là 3.699,0 nghìn USD, năm 2001 là 4.554,6 nghìn USD và năm 2002 là 5.760,7 nghìn USD. Cán cân xuất nhập khẩu của Công ty có giá trị dương, tức là Công ty xuất siêu, năm 1999 Công ty xuất siêu được 2.074,3 nghìn USD và năm 2002 được 3.624,4 nghìn USD điều này chứng tỏ rằng Công ty đang ngày càng khẳng định được vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Mặc dù trong những năm qua tình hình thế giới có nhiều biến động Công ty vẫn thực hiện khá tốt hoạt động xuất nhập khẩu của mình và đóng góp không nhỏ làm tăng lượng ngoại tệ trong nước. Điều này có thể được coi là thành công lớn nhất của Công ty trong thời gian qua, hy vọng Công ty sẽ có những bước phát triển mới vượt bậc trong tương lai.
1.2. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Công ty có ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động
1.2.1. Mặt hàng kinh doanh, qui mô sản xuất
* Mặt hàng kinh doanh
Là một doanh nghiệp hoạt động sản xuất – kinh doanh hàng nông lâm sản, những năm gần đây Công ty đã thu mua, sản xuất và tiêu thụ những mặt hàng chủ yếu sau:
- Hàng lâm sản:
Chế biến các loại (Kể cả hàng thủ công mỹ nghệ) cho người tiêu dùng và làm nguyên liệu cho các đơn vị sản xuất khác với chất liệu chủ yếu là gỗ Pơ mu để tiêu dùng trong nội địa và xuất khẩu.
Sản xuất các loại cây giống phục vụ mục đích phủ xanh đất trống, đồi núi trọc và cải tạo cảnh quan môi trường.
- Hàng nông sản
Chế biến các loại sản phẩm như: trám , lạc, vừng, tỏi ...để kinh doanh trong nội địa và xuất khẩu.
Chế biến và xuất khẩu gạo
- Quy hoạch thiết kế trồng bóng mát, cây ăn quả, cây cảnh, vườn hoa, lập dự án xây dựng các vườn thực vật, các lâm viên ...
- Xây dựng các công trình nông, lâm, thuỷ sản, thi công các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, nhà hàng, khách sạn, du lịch, dịch vụ và kinh doanh nhà (kinh doanh nhà là lĩnh vực mới được bổ sung theo qui định số 1934/QĐ- UB ngày 26/3/2002 của UBND thành phố Hà Nội).
Do đặc của các mặt hàng sản xuất – kinh doanh của Công ty như trên nên hoạt động của Công ty có những thuận lợi là nguồn nguyên liệu sẵn có là tương đối lớn, lại được nhà nước tạo điều kiện phát triển sản xuất nông lâm nghiệp. Song bên cạnh đó công ty cũng gặp phải những khó khăn cũng chính từ lĩnh vực kinh doanh của mình như các chính sách về đóng cửa rừng, cấm khai thác và xuất khẩu các loại gỗ quí hiếm, các mặt hàng nông sản thì chịu ảnh hưởng nhiều của thời tiết, mùa màng.
Do đặc điểm về mặt hàng nên Công ty có nhiều Xí nghiệp, chi nhánh ở các tỉnh như: tỉnh Hải Dương, Sơn La, Lạng Sơn ... để nhằm tận dụng các nguồn lực về nguyên vật liệu tại chỗ với chi phí thấp, tiết kiệm được chi phí nguyên vật liệu, ngoài ra đặc điểm này sẽ làm cho Công ty có thể sử dụng được đội ngũ nhân công với giá thấp.
Có thể kết luận rằng đặc điểm về mặt hàng sản xuất - kinh doanh của Công ty hạn chế được lượng dự trữ nguyên vật liệu, mua được nguyên vật liệu với giá gốc, giảm được chi phí vận chuyển và bảo quản nguyên vật liệu dẫn đến nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn lưu động, tuy nhiên cũng không thể không đề cập đến tác động tiêu cực do mặt hàng sản xuất – kinh doanh của Công ty còn chịu ảnh nhiều của thời tiết, khó bảo quản đặc biệt là đối với hàng nông sản, điều này lại làm tăng chi phí nguyên vật liệu, mặt khác việc phân bố không tập trung dẫn đến tình trạng khó quản lý về vật tư, hàng hoá dẫn đến những thất thoát cũng như lãng phí trong sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng.
* Qui mô sản xuất
Theo như cách phân loại hiện hành thì các doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng và số lao động dưới 300 sẽ được vào những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong khi Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp năm 2002 có 280 lao động và vốn là hơn 26 tỷ đồng, điều này cho thấy có thể xếp Công ty là doanh nghiệp có qui mô vừa nhưng cũng có thể xếp Công ty vào loại doanh nghiệp có qui mô lớn. Đề cập đến vấn đề qui mô thì nhất thiết phải nói đến vấn đề lợi thế về qui mô, với qui mô sản xuất như hiện tại thì Công ty có những lợi thế sau: uy tín và lợi thế của qui mô lớn, sự linh hoạt của qui mô vừa, điều này cũng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Tuy nhiên cũng phải nói rằng qui mô như hiện tại chưa phải là tối ưu Công ty cần tiếp tục có những điều chỉnh.
1.2.2. Đặc điểm về chiến lược và kế hoạch kinh doanh
Để làm cho Công ty ngày càng lớn mạnh và có vị thế trên thị trường, Công ty không ngừng chú trọng đến việc hoạch định các chiến lược và kế hoạch phát triển của Công ty trong mọi mặt cả trong dài hạn và ngắn hạn.
- Những điểm chính trong chiến lược cũng như kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty là:
Sản xuất - kinh doanh tổng hợp đa ngành, đa nghề nhằm phát huy khả năng nội lực của Công ty và của cán bộ công nhân viên trong sản xuất - kinh doanh.
Tập trung phát triển một số lĩnh vực, ngành nghề truyền thống của công ty làm mặt hàng chủ đạo.
Đầu tư máy móc thiết bị hiện đại, sản xuất phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng và ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đào tạo đội ngũ cán bộ và công nhân lành nghề để làm việc có hiệu quả, có năng suất cao hơn.
Chủ động xây dựng kế hoạch huy động, sử dụng vốn kinh doanh trong đó có vốn lưu động.
- Các căn cứ, thông tin sử dụng cho việc xây dựng chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Việc xây dựng các chiến lược, kế hoạch này được phân công cho phòng kế hoạch kĩ thuật thực hiện. Phòng này căn cứ vào tình hình sản xuất kinh doanh của năm năm trước để xác định tốc độ phát triển, xác định những khó khăn thuận lợi có thể gặp trong thời gian tới để từ đó đề ra những chiến lược, kế hoạch cụ thể phù hợp với yêu cầu đặt ra cho sự phát triển của Công ty.
Căn cứ quan trọng nữa là chỉ tiêu của kế hoạch dài hạn, mục tiêu của chiến lược và nhu cầu của thị trường.
Khả năng liên doanh liên kết và hướng đầu tư đổi mới kĩ thuật công nghệ của Công ty cũng được lấy làm căn cứ cho việc xây dựng các kế hoạch kinh doanh này.
Việc xây dựng chiến lược, kế hoạch được thảo luận công khai dân chủ tại đại hội liên tịch gồm ban giám đốc, ban chấp hành đảng uỷ, ban thường vụ liên đoàn và toàn thể cán bộ chủ chốt trong Công ty. Ban giám đốc phải tiến hành làm việc với từng đơn vị thành viên để thông đạt các chiến lược và kế hoạch một cách kịp thời và chính xác.
Việc xây dựng chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh đúng đắn có ảnh hưởng quyết định đến phương hướng hoạt động của Công ty, đến hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động vì qua đây các kế hoạch về huy động và sử dụng vốn lưu động được đưa ra.
1.1.3 Thị trường và đối thủ cạnh tranh
Hiên tại Công ty đang tiến hành hoạt động kinh doanh của mình ở cả thị trường trong nước và nước ngoài.
Đối với thị trường trong nước: Công ty có mặt trên khắp mọi miền với nhiều chi nhánh và xí nghiệp như: chi nhánh phố Hồ Chí Minh, chi nhánh ở Hải Dương, Sơn La, Lạng Sơn, chi nhánh Phủ Lỗ ... hoạt động tương đối có hiệu quả. Công ty đã thiết lập được nhiều mối quan hệ với các bạn trong cả nước từ thành phố đến các tỉnh đồng bằng miền núi, điều này tạo thuận lợi cho công ty trong việc mua nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm cũng có thể tiến hành các chính sách tín dụng thương mại vì đã có sự hiểu biết về các bạn hàng.
Hiện nay Công ty đang chịu sự canh tranh khốc liệt của các đơn vị xuất nhập khẩu trong nước như Công ty Xuất nhập khẩu nông sản thực phẩm Hà Nội, các doanh nghiệp thuộc tổng công ty lâm sản Việt Nam, thậm chí cả các cơ sở sản xuất tư nhân ở vùng Đông Kỵ - Bắc Ninh ... song Công ty vẫn duy trì và phát triển được thị phần của mình. Với mạng lưới tiêu thụ rộng khắp, với nhiều chính sách về tiêu thụ hợp lý và hấp dẫn, điều này sẽ đem lại cho công ty những thuận lợi to lớn trong công tác tiêu thụ của mình, đảm bảo khả năng thu được tiền của khách hàng cao vì khách hàng hầu hết đều là những khách hàng quen và luôn giữ được chữ tín đối với công ty.
Đối với thị trường nước ngoài:
Từ năm 1993 được Bộ thương mại cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, lúc này hoạt động xuất nhập khẩu khẩu của Công ty mới được thực hiện theo đúng nghĩa của nó và đã thu được những kết quả đáng kể, năm 2002 kim ngạch xuất khẩu của Công ty đạt 5.760,7 USD và kim ngạch nhập khẩu là 2.136,3 USD, Công ty đã xuất siêu được 3.624,4 USD.
Sau thời kì bị ảnh hưởng của khủng hoảng toàn diện của hầu hết các nước trên thế giới, công ty đã đứng vững, phát triển và định hướng đường đi của mình. Đến nay Công ty đã xuất khẩu và mở rộng mối quan hệ với các bạn hàng thuộc phạm vi toàn cầu, ngoài các thị trường truyền thống chủ yếu năm ở khu vực Châu á như Đài Loan, Singapo, IRắc ... Công ty đã bắt đầu thâm nhập được vào thị trường Châu Âu, Mỹ.
Nói chung khi thâm nhập vào thị trường quốc tế Công ty sẽ phải chịu những áp lực cạnh tranh mạnh hơn do đó đòi hỏi Công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo thời gian, tìm cách giảm giá thành điều này dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động được nâng cao.
1.1.4 Qui trình sản xuất kinh doanh
* Công nghệ sản xuất:
Với đặc điểm sản phẩm của công ty chủ yếu là chế biến từ gỗ PơMu với quá trình sản xuất được tóm tắt như sau:
Cửa vòng đứng tạo phôi sản
Bào cuốn
Cửa đĩa
cắt ngang
Nguyên liệu
Mộc thủ công
Kho thành phẩm
Công ty sản xuất, chế biến nhiều loại sản phẩm, với nhiều quy trình công nghệ sản xuất đặc thù. Dưới đây là quy trình công nghệ sản xuất một loại sản phẩm chủ yếu của Công ty đó là sản phẩm cánh cửa được chế biến từ gỗ Pơ Mu.
Quy trình sản xuất công nghệ sản xuất cánh cửa
Kho thành phẩm
Tổ hoàn thiện
Tổ mộc
Tổ sơ chế
Kho vật tư
Khi nhận được kế hoạch sản xuất của phòng kinh doanh, phòng vật tư lập phiếu, kho vật tư giao gỗ PơMu cho tổ sơ chế, tổ sơ chế sẻ gỗ và tạo các chi tiết sản phẩm. Tổ mộc ghép các chi tiết tạo thành hình cánh cửa rồi chuyển xuống tổ hoàn thiện, tổ hoàn thiện đánh ráp, sơn dầu, hoàn thiện sản phẩm giao cho kho thành phẩm. Như vậy ta thấy trong một quy trình công nghệ sản xuất việc phân công nhiệm vụ cho từng tổ là khá rõ ràng dẫn đến có thể tổ chức được quá trình sản xuất chuyên môn hoá cao đảm bảo chất lượng và thời gian hoàn thành sản phẩm, đồng thời sử dụng có hiệu quả tiết kiệm được nguyên vật liệu, điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu sử dụng vốn lưu động.
* Qui trình kinh doanh xuất nhập khẩu
Xuất khẩu sản phẩm đã qua chế biến
Sản xuất,
chế biến
Là một Công ty được phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, qui trình kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty diễn ra như sau:
Nhập khẩu nguyên vật liệu
Với qui trình kinh doanh xuất nhập khẩu như vậy và lại được phép xuất nhập khẩu trực tiếp nên quá trình này diễn ra khá nhanh, do dó làm cho tổng doanh thu trong một năm của Công ty là khá lớn và làm cho vốn lưu động được luân chuyển nhiều lần. Tuy nhiên do còn có những hạn chế nhất định về thị trường, về khả năng cạnh tranh của Công ty nên hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty chưa phát huy hết tiềm năng.
Chương 2
Thực trạng công tác quản lý
và sử dụng vốn lưu động của Công ty
2.1. Quản lý vốn lưu động
- Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của phần tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiên thường xuyên liên tục. Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị của nó vào giá trị hàng hoá và thông qua lưu thông toàn bộ giá trị của chúng được hoàn lại một lần sau một chu kì sản xuất - kinh doanh.
- Quản lý vốn lưu động : thực chất là quá trình kiểm soát vốn lưu động về các mặt như: cơ cấu, qui mô, chiếm dụng cũng như bảo toàn ... để nhằm không ngừng duy trì vốn lưu động đảm bảo kịp thời , đầy đủ cho mục đích sử dụng vốn lưu động có hiệu quả cao.
2.1.1. Qui mô và vấn đề bảo toàn vốn lưu động
Để biết được qui mô của vốn lưu động qua các năm, ta phải căn cứ vào bảng tổng hợp dưới đây:
Bảng 3: Một số chỉ tiêu tài chính căn bản
Đơn vị: đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
A.Tổng tài sản
16.626.357.405
16.808.569.440
21.961.637.695
26.328.832.548
I. Tài sản lưu động
11.080.686.775
11.502.165.018
16.454.195.959
20.471.119.803
1. Vốn bằng tiền
156.199.386
231.456.948
853.133.146
687.050.968
2. Đầu tư tài chính ngắn hạn
0
0
0
0
3. Các khoản phải thu
3.634.677.947
2.478.802.631
8.509.805.066
13.838.199.999
4. Hàng tồn kho
3.431.074.727
4.361.779.079
2.237.023.1663
2.579.813.209
5. Tài sản lưu động khác
3.858.734.715
4.430.066.380
4.854.234.581
3.366.145.627
II. Tài sản cố định
5.545.670.630
5.306.404.402
5.507.441.736
5.857.712.745
B. Tổng nguồn vốn
16.626.357.405
16.808.569.440
21.961.637.695
26.328.832.548
I. Nợ phải trả
10.520.194.067
10.664.748.975
15.087.440.762
17.724.821.886
- Nợ ngắn hạn
10.139.807.631
10.317.863.539
14.790.440.762
16.724.821.886
II. Vốn chủ sở hữu
6.106.163.338
6.143.820.465
6.874.196.933
8.604.010.662
Bảng 4: Qui mô vốn lưu động
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Kế hoạch
thực hiện
Chênh lệch
Kế hoạch
thực hiện
Chênh lệch
Kế hoạch
thực hiện
Chênh lệch
Kế hoạch
thực hiện
Chênh lệch
1.Tổng nguồn vốn
16.000
16.626
626
18.500
16.809
-1.691
19.000
21.962
2.962
24.600
26.329
1.729
2.Vốn lưu động
11.000
11.081
81
13.300
11.502
-1.798
14.500
16.454
1.954
17.800
20.471
2.941
- Vốn bằng tiền
215
156
-59
185
231
46
570
853
283
655
687
32
- Đầu tư tài chính ngắn hạn
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
- Các khoản phải thu
3.850
3.635
-215
3.400
2.479
-921
6.320
8.510
2.190
9.300
13.838
4.538
- Hàng tồn kho
3.410
3.431
21
6.095
4.362
1.733
3.110
2.237
-873
2.995
2.580
-415
- Tài sản lưu động khác
3.525
3.859
334
3.620
4.430
-810
4.500
4.854
354
4.850
3.366
-1.484
% VLĐ/ Tổng nguồn vốn
68,75
66,66
-2.15
71,89
68,43
-3,46
76,32
74,92
-1,4
72,36
77,75
5,39
Từ bảng phân tích trên ta có nhận xét sau: sự sai lệch giữa thực tế và kế hoạch là điều không tránh khỏi nhưng nó phải nằm trong một khoảng nhất định, do những yếu tố không dự báo được trong thực tế gây ra. Sự sai lệch quá lớn giữa dự báo và thực tế về nhu cầu vốn lưu động là một điều đáng báo động, nó phản ánh chất lượng của công tác dự báo là không cao. Đặc biệt là năm 2001 trong khi dự báo tổng nguồn vốn là 19.000 triệu đồng thì thực tế lại cần đến 21.962 triệu đồng vượt 2.962 triệu đồng, sự sai lệch có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời với việc dự báo sai về tổng nguồn vốn là việc dự báo sai nhu cầu vốn lưu động, trong khi dự báo là 14.500 triệu đồng thì thực tế lại cần đến 16.454 triệu đồng, vượt 1.954 triệu đồng. Việc dự báo sai tổng nguồn vốn nói chung, nhu cầu vốn lưu động nói riêng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn, nhất là khi dự báo thấp hơn so với thực tế sẽ tạo sự thiếu hụt vốn vì không có kế hoạch huy động kịp thời. Trong năm 2002 tình trạng dự báo không sát với thực tế lại tiếp tục diễn ra, trong khi dự báo nhu cầu vốn lưu động là 17.800 triệu đồng thì thực tế lại cần 20.471 triệu đồng, thiếu 2.941 triệu đồng. Từ thực tế này, có thể thấy Công ty cần có ngay các giải pháp cho việc xác định chính xác hơn nhu cầu vốn lưu động.
Cũng từ bảng phân tích trên ta thấy quy mô vốn lưu động của Công ty không ngừng tăng lên trong thời gian qua và ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng nguồn vốn: năm 1999 vốn lưu động là 11.081 triệu đồng chiếm 66,66% tổng nguồn vốn, năm 2000 đã tăng lên và chiếm 68,43% tổng nguồn vốn, năm 2001 chiếm 74,92% và đến năm 2002 vốn lưu động là 20.471triệu đồng chiếm tới 77,75 % tổng nguồn vốn. Điều này phản ánh một thực tế là Công ty đang thiên nhiều hơn về hoạt động thương mại so với hoạt động sản xuất do đó đòi hỏi vốn lưu động ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng nguồn vốn. Sự tăng lên rõ rệt về qui mô cũng phản ảnh vốn lưu động của Công ty được bảo toàn qua thời gian, vì nó đảm bảo được sức mua của vốn lưu động.
2.1.2. Cơ cấu và tình hình chiếm dụng vốn lưu động của Công ty
Nhìn chung tài sản lưu động của Công ty được tài trợ từ 2 nguồn cơ bản là: nguồn vốn lưu động tạm thời và nguồn vốn lưu động ròng.
- Nguồn vốn lưu động tạm thời: là những khoản nợ ngắn hạn của Công ty, luồng vốn này không tồn tại lâu trong Công ty mà chỉ mang tính chất tạm thời, Công ty chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu.
Các khoản nợ ngắn hạn thường bao gồm: vay ngắn hạn, phải trả người bán, người mua trả trước, thuế phải nộp, phải trả đơn vị nội bộ và phải trả công nhân viên.
Đối với khoản vay ngắn hạn: để vay được khoản này Công ty phải trải qua một số thủ tục còn tương đối rườm rà cũng như phải có tài sản thế chấp và phải chịu một mức lãi suất nhất định thường cao hơn các khoản nợ khác mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Tuy nhiên khoản này là không thể thiếu trong các doanh nghiệp và chiếm tỷ lệ cao trong nợ phải trả của Công ty.
Khoản phải trả người bán: khoản này nhiều hay ít là do quy mô của doanh nghiệp hay chính xác hơn là do uy tín của doanh nghiệp cũng như những tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Với khoản này doanh nghiệp sẽ phải chịu chi phí vốn rất thấp hoặc không có. Trong tình hình hiện nay các doanh nghiệp thường tìm cách để tranh thủ được nhiều nguồn vốn này.
Khoản người mua trả trước: khoản này sẽ giúp doanh nghiệp phải sử dụng ít hơn nguồn vốn lưu động của mình đồng thời đảm bảo cho hàng sản xuất ra hoặc nhập về sẽ được tiêu thụ. Đối với doanh nghiệp là người bán thường rất muốn có nhiều nguồn vốn này nhưng điều đó là không dễ vì các doanh nghiệp đi mua hàng không chấp nhận mà chỉ thoả thuận được ở một mức nhất định.
Còn đối với các khoản khác như: thuế phải nộp, phải trả đơn vị nội bộ, phải trả công nhân viên là những khoản mà doanh nghiệp chỉ có thể trả chậm, nộp chậm trong một thời gian rất ngắn nhưng các doanh nghiệp vẫn tìm cách để tận dụng triệt để nguồn vốn này.
- Nguồn vốn lưu động ròng (vốn lưu động thường xuyên): là phần còn lại của vốn sản xuất kinh doanh dài hạn sau khi đã tài trợ đủ cho nhu cầu về tài sản cố định và được tính giữa hiệu số của tài sản lưu động với nợ ngắn hạn. Nguồn vốn này được coi là mạch máu của doanh nghiệp, quyết định đến khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong luân chuyển vốn và trong các quan hệ thanh toán.
Cơ cấu nguồn vốn và tình hình chiếm dụng vốn của Công ty được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 5: Cơ cấu nguồn vốn lưu động của Công ty
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Tr.đ
%
Tr.đ
%
Tr.đ
%
Tr.đ
%
Vốn lưu động
11.081
100
11.502
100
16.454
100
20.471
100
I. VLĐ tạm thời
10.140
91,51
10.318
89,71
14.790
89,89
16.724
81,7
1. Vay ngắn hạn
3.179
28,69
3.418
29,72
4.101
24,92
4.503
22,0
2. Phải trả người bán
2.193
19,79
1.256
10,92
5.479
33,31
7.817
38,19
3. Người mua trả trước
1.034
9,33
2.347
20,41
2.983
18,13
2.384
11,65
4. Thuế phải nộp
735
6,63
634
5,51
241
1,46
574
2,8
5. Phải trả đơn vị nội bộ
938
8,46
1.025
8,91
604
3,67
409
2,0
6. Phải trả phải nộp khác
1.625
14,66
1.235
10,74
1.032
6,27
879
4,29
7. Nợ dài hạn phải trả
0
0
0
0
0
0
0
0
8. Phải trả CNV
436
3,93
403
3,5
350
2,13
158
0,77
II. VLĐ thường xuyên
941
8,49
1.184
10,29
1.664
10,11
3.747
18,3
III. Tiền
156
1,41
231
2,01
853
7,42
687
3,35
IV. Nhu cầu VLĐ
785
953
811
3.060
Qua bảng phân tích cơ cấu vốn lưu động của Công ty ta thấy rằng nguồn vốn lưu động tạm thời chiếm chủ yếu trong vốn lưu động của Công ty. Năm 1999 số vốn lưu động tạm thời là 10.140 triệu đồng chiếm 91,51 % vốn lưu động, năm 2000 vốn lưu động tạm thời là 10.318 triệu đồng chiếm 89,71 % vốn lưu động, tuy có giảm nhưng vẫn tương đối cao, năm 2001 vốn lưu động tạm thời là 14.790 triệu đồng chiếm 89,89 % vốn lưu động đã tăng lên so với năm 2000 nhưng._. đến năm 2002 số vốn lưu động tạm thời là 16.724 triệu đồng và chỉ chiếm 81,7% vốn lưu động. Điều này cho thấy hiện tại Công ty đang sử dụng tương đối nhiều nợ ngắn hạn trong cơ cấu vốn lưu động, trong khi đó lượng vốn lưu động ròng của Công ty lại tương đối nhỏ, năm 1999 là 941 triệu đồng, năm 2000 là 1.184 triệu đồng chiếm 10,29% vốn lưu động, năm 2001 là 1.664 triệu đồng và sang đến năm 2002 vốn lưu động ròng đã tăng lên là 3.747 triệu đồng chiếm 18,3 % vốn lưu động của Công ty. Điều này chứng tỏ Công ty đã sử dụng nhiều hơn vốn sản xuất kinh doanh dài hạn để tài trợ cho tài sản lưu động.
Để phân tích kỹ hơn cơ cấu vốn lưu động ta cần xác định thêm chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động: nhu cầu vốn lưu động của Công ty là tương đối nhỏ, năm 1999 là 785 triệu đồng, năm 2000 là 953 triệu đồng, năm 2001 là 811 triệu đồng. Điều này được giải thích là do Công ty hoạt động nhiều trong lĩnh vực thương mại có giá trị gia tăng không cao. Tuy nhiên sang đến năm 2002 nhu cầu vốn lưu động của Công ty là 3.060 triệu đồng là do sự tăng lên nhiều của tổng nguồn vốn trong đó có sự tăng lên khá nhiều của nguồn vốn chủ sở hữu, năm 2001 vốn chủ sở hữu chỉ là 6.874 triệu đồng thì sang năm 2002 đã lên được thành 8.604 triệu đồng.
- Trong cơ cấu vốn lưu động của Công ty ta thấy rằng chủ yếu là khoản vốn lưu động tạm thời và là nợ ngắn hạn, do đó cần thết phải xem xét đến các khoản chiếm dụng được của Công ty. Ta thấy trong các khoản vốn lưu động tạm thời chiếm tỷ lệ cao nhất thường là khoản vay ngắn hạn và khoản phải trả người bán. Đối với khoản vay ngắn hạn, năm 1999 là 3.179 triệu đồng chiếm 28,69 % còn phải trả người bán là 2.193 triệu đồng chiếm 19,79 %, năm 2000 nợ ngắn hạn là 3.418 triệu đồng chiếm 29,72 % vốn lưu động còn phải trả người bán là 1.256 triệu đồng chiếm 10,92 % vốn lưu động. Sang đến năm 2001 khoản vay ngắn hạn là 4.101 triệu đồng chiếm 24,92 % vốn lưu động trong lúc đó khoản phải trả người bán đã tăng lên là 5.479 triệu đồng chiếm 33,31 % vốn lưu động điều này cho thấy Công ty có xu hướng sử dụng nhiều hơn khoản phải trả người bán vì nguồn vốn này có chi phí là tương đối thấp, có thể là 0, đây cũng là xu hướng chung của các doanh nghiệp hiện nay. Xu hướng này lại càng thể hiện rõ khi sang năm 2002 vay ngắn hạn là 4.503 triệu đồng chiếm 22% vốn lưu động còn khoản phải trả người bán đã là 7.817 triệu đồng chiếm tới 38,19 % vốn lưu động.
Ngoài hai khoản trên ta thấy Công ty cũng đang có được một phần nguồn vốn lưu động bằng khoản người mua trả trước, năm 1999 lượng vốn người mua trả trước là 1.034 triệu đồng chiếm 9,33 %, năm 2000 là 2.347 triệu đồng chiếm 20,41 % vốn lưu động, khoản này khá lớn và rất có lợi cho Công ty vì Công ty tận dụng được vốn của khách hàng và cũng tạo ra được những đảm bảo chắc chắn hơn cho mình trong khâu tiêu thụ. Năm 2001 khoản người mua trả trước cho Công ty là 2.983 triệu đồng chiếm 18,13 % vốn lưu động và năm 2002 khoản này chỉ là 2.384 triệu đồng chỉ còn chiếm 11,65 % vốn lưu động, điều này cho thấy Công ty đang gặp khó khăn trong việc thu được các khoản trả trước của người mua, một phần khác là do Công ty cũng tạo điều kiện dễ dàng hơn cho người mua bằng việc đáp ứng nhu cầu cho khách hàng mà không cần phải đặt tiền trước hoặc phải đặt không nhiều như trước, điều này là do sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn do đó họ ít chấp nhận điều kiện trả tiền trước hoặc chỉ chấp nhận một mức rất nhỏ vì nó không có lợi cho họ khi bị chiếm dụng vốn.
Qua bảng trên ta thấy rằng Công ty cũng đang chiếm dụng được các khoản: phải trả, phải nộp khác, thuế phải nộp và phải trả đơn vị nội bộ, các khoản này cũng có đóng góp không nhỏ trong cơ cấu vốn lưu động của Công ty như khoản phải trả phải nộp năm 1999 là 1.625 triệu đồng chiếm 14,66 % vốn lưu động, năm 2000 là 1.235 triệu đồng chiếm 10,74 % tuy nhiên năm 2002 chỉ còn 879 triệu đồng chiếm 4,29 % vốn lưu động. Khoản phải rả đơn vị nội bộ năm 1999 là 938 triệu đồng chiếm 8,46 % vốn lưu động, năm 2000 là 1.025 triệu đồng chiếm 8,91 5 vốn lưu động và năm 2002 chỉ còn 409 triệu đồng chiếm 2% vốn lưu động.
Qua việc phân tích các khoản nợ ngắn hạn mà Công ty hiện đang chiếm dụng, ta thấy trong năm 2002 tỷ lệ vốn chếm dụng từ khoản phải trả người bán hiện đang chiếm tỷ lệ cao nhất là 39,19 % và nhìn chung vốn lưu động tạm thời của Công ty chiếm tỷ lệ cao cũng phản ánh thực tế của một Công ty thiên nhiều hơn về hoạt động thương mại.
Nhìn chung công tác quản lý vốn lưu động của Công ty còn khá nhiều bất cập điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty do đó để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì cũng phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả của công tác quản lý vốn lưu động.
2.2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty
2.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Khi đánh giá về hiệu quả sử dụng vốn lưu động phải chú ý đánh giá tốc độ luân chuyển của nó. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên tình hình tổ chức các mặt công tác mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ của doanh nghiệp hợp lý hay không hợp lý, các khoản vật tư dự trữ sử dụng tốt hay không tốt, các khoản phí tổn trong sản xuất kinh doanh cao hay thấp, tiết kiệm hay không tiết kiệm.
Ngoài mục tiêu sử dụng cho mua sắm, dự trữ vốn lưu động còn được sử dụng trong thanh toán. Bởi vậy, hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn thể hiện ở khả năng đảm bảo lượng vốn lưu động cần thiết để thực hiện thanh toán. Đảm bảo đầy đủ trong thanh toán sẽ giúp doanh nghiệp tự chủ hơn trong kinh doanh , vừa tạo được uy tín với bạn hàng và khách hàng.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động phản ánh trình độ và năng lực quản lý vốn của doanh nghiệp, đảm bảo vốn lưu động được luân chuyển với tốc độ cao, đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp luôn ở tình trạng tốt và mức hao phí vốn là thấp.
- Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:
2.2.1.1. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
* Hệ số luân chuyển vốn lưu động: Là chỉ số được tính bằng thương số giữa tổng doanh thu tiêu thụ trong kỳ và vốn lưu động bình quân trong kỳ của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động nhanh hay chậm, trong một chu kỳ kinh doanh vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng.
Hệ số luân chuyển VLĐ
=
Tổng doanh thu tiêu thụ
VLĐ bình quân
Nếu chỉ số này tăng so với các kỳ trước thì chứng tỏ doanh nghiệp có hoạt động luân chuyển vốn có hiệu quả và ngược lại.
Bảng 6: Hệ số luân chuyển vốn lưu động qua các năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1. VLĐ bình quân
Tr.đ
11.081
11.502
16.454
20.471
2. Doanh thu tiêu thụ
Tr.đ
100.313
105.235
114.167
141.263
3. Hệ số luân chuyển của VLĐ
Vòng
9,05
9,15
6,94
6,9
Qua bảng phân tích trên ta thấy: tốc độ luân chuyển vốn của Công ty trong thời gian qua là tương đối nhanh, nhưng lại đang có xu hướng giảm mạnh. Năm 1999, vốn lưu động luân chuyển được 9,05 vòng, tuy năm 2000 có tăng lên chút ít là 9,15 vòng nhưng lại giảm mạnh vào năm 2001 chỉ còn 6,94 vòng và năm 2002 là 6,9 vòng trong 1 năm giảm 2,15 vòng so với năm 1999. Điều này cho thấy tốc độ tăng của doanh thu tiêu thụ nhỏ hơn tốc độ tăng của vốn lưu động, tức là Công ty có xu hướng đầu tư thêm vào vốn lưu động mà hiệu quả thu được lại không cao, đòi hỏi Công ty phải có những điều chỉnh kịp thời về lượng vốn lưu động cũng như có các giải pháp để tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động cụ thể là tăng doanh thu tiêu thụ để dẫn đến tăng được tốc độ luân chuyển của vốn lưu động trong từng năm.
Để biết rõ hơn nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy giảm tốc độ luân chuyển vốn lưu động của Công ty trong thời gian qua chúng ta sẽ xem xét mức độ ảnh hưởng của 2 nhân tố doanh thu tiêu thụ và vốn lưu động bình quân đến chỉ tiêu này.
+) Năm 2000 so với năm 1999
Do ảnh hưởng của doanh thu trong kỳ đến hệ số luân chuyển vốn lưu động
D1
=
105.235
11.081
_
100.313
11.081
=
0,45 (vòng)
Do ảnh hưởng của vốn lưu động bình quân
D2
=
105.235
11.502
_
105.235
11.081
=
-0,35
Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng
D = D1 + D2 = 0,45 - 0,35 = 0,1
Như vậy ta thấy rằng hệ số luân chuyển vốn lưu động năm 2000 tăng 0,1 vòng so với năm 1999: trong đó sự tăng lên của doanh thu tiêu thụ đã làm cho hệ số này tăng lên 0,45 vòng và vốn lưu động đã làm giảm hệ số này mất 0,35 vòng, nhưng do sự tăng lên của doanh thu tiêu thụ nhiều hơn so với sự tăng lên của vốn lưu động bình quân nên hệ số luân chuyển vốn lưu động đã tăng và lượng vốn lưu động tăng lên là cần thiết và được sử dụng có hiệu quả.
+) Năm 2001 so với năm 2000
Do ảnh hưởng của doanh thu trong kỳ đến hệ số luân chuyển vốn lưu động
D1
=
114.167
11.502
_
105.235
11.502
=
0,78
Do ảnh hưởng của vốn lưu động bình quân
D2
=
114.167
16.454
_
114.167
11.502
=
-2.99
Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng
D = D1 + D2 = 0,78 - 2,99 = - 2,21
Ta thấy rằng năm 2001, hệ số luân chuyển của vốn lưu động là 6,94 vòng trong 1 năm giảm 2,21 vòng so với năm 2000, trong đó do sự tăng lên của doanh thu làm tăng hệ số này 0,78 vòng nhưng do sự tăng lên quá nhiều của vốn lưu động, vốn lưu động của năm 2001 tăng 4,952 triệu đồng, sự tăng lên của vốn lưu động đã làm cho hệ số luân chuyển của vốn lưu động giảm đi 2,99 vòng. Tổng hợp sự ảnh hưởng của doanh thu và vốn lưu động thì thấy hệ số luân chuyển của vốn lưu động giảm 2,21 vòng, tức là vốn lưu động tăng lên quá nhiều so với sự tăng lên của doanh thu tiêu thụ, điều này cho thấy sự tăng lên của vốn lưu động trong năm 2001 là không hiệu quả hay được sử dụng không hiệu quả, đòi hỏi Công ty phải có những biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
+) Năm 2002 so với năm 2001
Do ảnh hưởng của doanh thu trong kỳ đến hệ số luân chuyển vốn lưu động
D1
=
141.263
16.454
_
141.167
16.454
=
1,65
Do ảnh hưởng của vốn lưu động bình quân
D2
=
141.263
20.471
_
141.263
16.454
=
-1,69
Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng
D = D1 + D2 = 1,65 - 1,69 = - 0,04
Qua phân tích trên ta thấy: hệ số luân chuyển vốn lưu động của năm 2002 là 6,9 vòng giảm 0,04 vòng so với năm 2001 và là thấp nhất trong 4 năm qua. Trong năm 2002 vốn lưu động bình quân và doanh thu tiêu thụ tăng lên với tốc độ khá đồng đều tuy vốn lưu động có cao hơn một chút và làm hệ số luân chuyển vốn lưu động giảm đi một chút so với năm 2001.
Bảng 7: Bảng tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố đến
hệ số luân chuyển vốn lưu động
Đơn vị: vòng
Chỉ tiêu
Năm 2000/năm 1999
Năm 2001/năm 2000
Năm 2002/ năm 2001
Hệ số luân chuyển vốn lưu động
+0,1
-2,21
+0,04
1. Do ảnh hưởng của doanh thu
+0,45
+0,78
+1,65
2. Do ảnh hưởng của vốn lưu động bình quân
-0,35
-2.99
-1.69
Qua việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu hệ số luân chuyển vốn lưu động, ta thấy rằng nhìn chung tốc độ tăng vốn lưu động bình quân của Công ty là tăng nhanh hơn doanh thu tiêu thụ điều này làm giảm tốc độ luân chuyển của vốn lưu động và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Đòi hỏi Công ty phải có sự đầu tư thích đáng và các biện pháp để tăng cường doanh thu tiêu tụ cũng như có những quyết định chính xác trong việc tăng vốn lưu động bình quân của mình.
* Thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động : Chỉ tiêu này thể hiện số thời gian cần thiếtcho một vòng luân chuyển vốn lưu động trong kỳ.
Thời gian một vòngluân chuyển VLĐ
=
360(ngày)
Hệ số luân chuyển VLĐ
Chỉ tiêu này càng nhỏ là càng tốt cho doanh nghiệp.
Bảng 8: Thời gian vòng luân chuyển qua các năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1. Hệ số luân chuyển của VLĐ
Vòng
9,05
9,15
6,94
6,9
2. Thời gian một vòng quay
Ngày
39,78
39,34
51,87
52,17
Qua bảng phân tích ta thấy: thời gian một vòng quay vốn lưu động có xu hướng tăng lên. Năm 1999 thời gian một vòng quay vốn lưu động là 39,78 ngày tức là Công ty phải mất 39,79 ngày để vốn lưu động quay được một vòng, năm 2000 chỉ tiêu này giảm đi 0,44 ngày, tuy không nhiều nhưng cũng là một dấu hiệu tích cực đối với hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty.
Tuy nhiên sang đến năm 2001 thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động lại tăng lên thành 51,87 ngày, tức là tốc độ thu hồi của Công ty đã giảm đi, Công ty đã rơi vào tình trạng sử dụng vốn lưu động là không hiệu quả. Điều này không những không được cải thiện mà còn tiếp tục giảm, tuy không nhiều trong năm 2002 Công ty phải mất 52,17 ngày cho một vòng luân chuyển vốn lưu động chỉ tăng 0,3 ngày so với năm 2001 nhưng đã tăng 12,39 ngày so với năm 1999. Do đó Công ty cần có những giải pháp để có thể giảm thời gian cho một vòng luân chuyển để có thể tăng được hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Thời gian luân chuyển vốn lưu động ngoài khả năng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn giúp ta tính được số vốn tiết kiệm hay lãng phí trong kỳ.
V
=
Doanh thu thuần
360
x
(T1 - T0)
T1, T0: Thời gian luân chuyển vốn lưu động kỳ này và kỳ trước
V: Vốn lưu động tiết kiệm hay lãng phí trong kỳ
Để biết được số vốn tiết kiệm hay lãng phí ta phải tiến hành so sánh hiệu quả sử dụng vốn qua các năm
+) Năm 2000 so với năm 1999
V
=
105.235
360
x
(39,34 - 39,78)
=
- 128,62 triệu đồng
Như vậy, năm 2000 Công ty đã tiết kiệm được một lượng vốn lưu động, hay nói cách khác cần thêm ít vốn lưu động so với việc tăng lên của doanh thu, doanh thu năm 2000 tăng 4.922 triệu đồng tương đương 4,91 % so với năm 1999 trong khi đó vốn lưu động của Công ty chỉ tăng 421 triệu đồng tương đương 3,8 % so với năm 1999. Có thể nói rằng năm 2000 Công ty đã sử dụng có hiệu quả vốn lưu động hơn so với năm 1999
+) Năm 2001 so với năm 2000
V
=
114.167
360
x
(51,87 - 39,34)
=
3.973,65 triệu đồng
Năm 2001 Công ty đã sử dụng quá lãng phí vốn lưu động, so với năm 2000, so với mức tăng của doanh thu là 8.932 triệu đồng tương đương tăng 8,49 % so với năm 2000 thì chỉ cần tăng vốn lưu động là (16.454 - 11.502 - 3.973,65) = 978,35 triệu đồng, do đó Công ty đã sử dụng không hiệu quả 3.973,65 triệu đồng vốn lưu động. Hoặc nếu với việc tăng lên của vốn lưu động là 4.952 triệu đồng tương đương với 43,05 5 thì doanh thu phải tăng tương ứng là 45.210,06 triệu đồng tương đương với 42,96 % so với năm 2000 thì mới duy trì được thời gian luân chuyển vốn lưu động như năm 2000.
Có thể nói năm 2001 là năm không thành công trong việc sử dụng vốn lưu động của Công ty
+) Năm 2002 so với năm 2001
V
=
141.263
360
x
(52,17 - 51,87)
=
117,72 triệu đồng
Như vậy so với năm 2001, Công ty vẫn tiếp tục sử dụng không hiệu quả vốn lưu động dẫn đến sử dụng lãng phí 117,72 triệu đồng, con số này tuy không lớn so với vốn lưu động của Công ty nhưng nó làm trầm trọng hơn hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong 2 năm 2001, 2002. Đòi hỏi Công ty phải có những giải pháp kịp thời để thoát khỏi tình trạng sử dụng lãng phí vốn lưu động trong 2 năm vừa qua.
Bảng 9: Bảng tổng hợp về tình hình tiết kiệm hay lãng phí
qua các năm
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2000/năm 1999
Năm 2001/năm 2000
Năm 2002/ năm 2001
Vốn lưu động tiết kiêm
hay lãng phí
-128,62
+3.973,65
+117,72
Qua bảng tổng hợp có thể thấy vốn lưu động của Công ty đang bị lãng phí hay sử dụng không hiệu quả, đặc biệt là năm 2001 và vẫn còn xảy ra trong năm 2002, do đó Công ty cần có những biện pháp thích hợp để xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động cũng như sử dụng có hiệu quả vốn lưu động của Công ty.
* Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động
Hệ số đảm nhiệm VLĐ
=
VLĐ
Doanh thu tiêu thụ
=
1
Hệ số luân chuyển
Hệ số này càng nhỏ thì càng tốt cho Công ty vì nó phản ánh phải cần bao nhiêu đồng vốn lưu động để tạo ra một đồng doanh thu.
Bảng 10: Các chỉ số đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1. VLĐ bình quân
Tr.đ
11.081
11.502
16.454
20.471
2. Doanh thu tiêu thụ
Tr.đ
100.313
105.235
114.167
141.263
3. Hệ số đảm nhiệm
Tr.đ/tr.đ
0,11
0,109
0,144
0,145
Qua bảng phân tích trên cho thấy năm 1999 hệ số đảm nhiệm vốn lưu động là 0,11 tức là 0,11 đồng vốn lưu động tạo ra được 1 đồng vốn lưu động doanh thu, sang năm 2000 để tạo ra 1 đồng doanh thu thì chỉ cần đến 0,109 đồng vốn lưu động. Điều này khẳng định khả năng tạo doanh thu của vốn lưu động trong năm 2000 so với năm 1999.
Nhưng đến năm 2001, hệ số đảm nhiệm vốn lưu động đã tăng lên 0,144 tức là phải mất tới 0,144 đồng vốn lưu động mới tạo ra được 1 đồng doanh thu tăng 0,035 đồng vốn lưu động so với năm 2000 và năm 2002 phải mất 0,145 đồng vốn lưu động mới tạo ra 1 đồng doanh thu, tức là khả năng tạo doanh thu của vốn lưu động trong năm 2002 còn thấp hơn năm 2001 và có thể kết luận rằng trong 2 năm gần nhất khả năng tạo doanh thu của vốn lưu động trong Công ty đã giảm, Công ty cần có sự quan tâm, điều chỉnh kịp thời để đạt được những kết quả khả quan hơn trong những năm sắp tới.
Bảng 11: Bảng tổng hợp các chỉ số đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn lưu động
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1. Hệ số luân chuyển của VLĐ
Vòng
9,05
9,15
6,94
6,9
2. Thời gian một vòng quay
Ngày
39,78
39,34
51,87
52,17
3. Hệ số đảm nhiệm
Tr.đ/tr.đ
0,11
0,109
0,144
0,145
Như vậy trong 4 năm phân tích ta thấy các hệ số luân chuyển, thời gian luân chuyển cũng như hệ số đảm nhiệm vốn lưu động của Công ty có khá nhiều biến động và có nhiều hướng xấu đi cần thiết phải tạo ra được những bước đột phá bằng việc tìm ra và áp dụng kịp thời các giải pháp hợp lý và phù hợp với Công ty trong tình hình hiện nay.
2.2.1.2. Sức sinh lời của vốn lưu động
Sức sinh lời của VLĐ
=
Lợi nhuận sau thuế
VLĐ bq trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động hoạt động trong kỳ kinh doanh thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Để đánh giá chính xác hiệu quả hơn, đầy đủ hơn về việc sử dụng vốn lưu động ta cần xem xét đánh giá thêm chỉ tiêu hiệu quả về lợi nhuận của Công ty. Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của vốn lưu động, đây là chỉ tiêu vô cùng quan trọng vì mọi hoạt động của Công ty đều hướng tới mục tiêu có lợi nhuận cao.
Bảng 12: Sức sinh lời của vốn lưu độngqua các năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1. VLĐ bình quân
Tr.đ
11.081
11.502
16.454
20.471
2. Lợi nhuận sau thuế
Tr.đ
382
441
500
565
3. Sức sinh lời của vốn
Tr.đ/tr.đ
0,034
0,038
0,03
0,028
Qua bảng phân tích trên ta thấy năm 1999 cứ 1 đồng vốn lưu động tạo ra 0,034 đồng lợi nhuận, năm 2000 tạo ra được là 0,038 đồng lợi nhuận cao nhất trong 4 năm phân tích, nói cách khác năm 2000 là năm Công ty sử dụng vốn lưu động có hiệu quả nhất. Năm 2001 chỉ tiêu này chỉ là 0,03 tức là 1 đồng vốn lưu động chỉ tạo ra được 0,03 đồng lợi nhuận, sang năm 2002 chỉ là 0,028 thấp nhất rong 4 năm qua. Nếu chỉ xét chỉ tiêu này thì thấy Công ty đang ở trong tình trạng sử dụng không có hiệu quả vốn lưu động, sức sinh lời của vốn lưu động không cao và giảm dần. Tuy nhiên cũng phải quan tâm đến chỉ tiêu tổng lợi nhuận thì lợi nhuận sau thuế của Công ty trong 4 năm vẫn tăng khá đều đặn, nói đến điều này để tránh nhìn phiến diện đối với hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Nhưng cũng phải thấy rằng Công ty sử dụng vốn lưu động có hiệu quả chưa cao, tình trạng lãng phí vốn lưu động vẫn xảy ra cần thiết phải có những chấn chỉnh kịp thời.
2.2.1. 3. Các chỉ số về năng lực hoạt động
Các chỉ số về năng lực hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các chỉ số này để xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp:
Khả năng hoạt động của Công ty được thể hiên qua các chỉ tiêu sau:
* Vòng quay tiền mặt:
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia doanh thu trong năm với tổng số tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân. Nó cho biết số vòng quay của tiền mặt trong năm
Vòng quay tiền mặt
=
Doanh thu thuần
Tiền mặt bình quân
Bảng 13: Vòng quay tiền mặt qua các năm
Đơn vị: triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1
Doanh thu thuần
100.313
105.235
114.167
141.131
2
Tiền mặt bình quân
156
231
853
687
3
Vòng quay tiền mặt
643,03
455,56
133,84
205,43
Qua bảng phân tích ta thấy: vòng quay tiền mặt năm 1999 là rất nhanh 643,03 vòng trong năm, điều này có được là do lượng tiền mặt bình quân trong năm của Công ty là khá nhỏ. Trong năm 2000 vòng quay tiền mặt giảm xuống còn 455,56 vòng trong 1 năm do lượng tiền mặt được bổ sung so với sự tăng lên của doanh thu. Năm 2001 chỉ số này giảm nhanh và chỉ còn 133,84 vòng trong 1 năm điều này chưa hẳn là xấu đối với Công ty vì nhìn chung các Công ty hiện nay có xu hướng hạn chế tiền mặt nhưng cũng không quá nhỏ để có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán tức thời cũng như có thể tận dụng được những lợi thế trong mua bán. Năm 2002 vòng quay tiền mặt lại tăng lên là 205,43 vòng trong 1 năm. Điều này chứng tỏ là lượng tiền thì giảm xuống trong khi đó thì doanh thu tăng lên. Để biết chính xác mức tăng, giảm của vòng quay tiền mặt ta phải xem xét cụ thể sự ảnh hưởng của doanh thu thuần, của tiền mặt đến chỉ tiêu này
+) Năm 2000 so với năm 1999
Do ảnh hưởng của doanh thu trong kỳ đến vòng quay tiền mặt
D1
=
105.235
156
_
100.313
156
=
31,55
Do ảnh hưởng của lượng tiền mặt
D2
=
105.235
231
_
105.235
156
=
- 219,02
Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng
D = D1 + D2 = 31,55 - 219,02 = - 187,07
Do vậy, do tốc độ tăng của tiền lớn hơn tốc độ tăng của doanh thu đã làm cho vòng quay tiền mặt giảm xuống 187,07 vòng trong 1 năm: doanh thu thuần tăng làm cho vòng quay tiền mặt tăng 31,55 trong khi đó tiền mặt tăng đã làm vòng quay tiền mặt giảm đi 219,02 vòng.
+) Năm 2001 so với năm 2000
Do ảnh hưởng của doanh thu thuần
D1
=
114.167
231
_
105.235
231
=
38,67
Do ảnh hưởng của lượng tiền mặt
D2
=
114.167
853
_
114.167
231
=
- 360,39
Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng
D = D1 + D2 = 38,67 - 360,39 = - 321,72
Như vậy năm 2001 số vòng quay của vốn lưu động tiếp tục giảm mạnh trong đó tốc độ tăng của tiền mặt lớn hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của doanh thu. Do sự tăng lên của tiền mặt đã làm cho vòng quay tiền mặt giảm đi 360,39 vòng trong khi doanh thu thuần tăng lên chỉ làm cho vòng quay tiền mặt tăng được 38,67 vòng do đó tổng hợp lại thì vòng quay tiền mặt của năm 2001 giảm 321,72 vòng so với năm 2000. Tuy nhiên số vòng quay tiền mặt năm 2001 là 133,84 vòng trong 1 năm là chấp nhận được
+) Năm 2002 so với năm 2001
Do ảnh hưởng của doanh thu thuần
D1
=
141.132
853
_
114.167
853
=
31,61
Do ảnh hưởng của lượng tiền mặt
D2
=
141.131
687
_
141.131
853
=
39,98
Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng
D = D1 + D2 = 31,61 + 39,98 = 71,59
Qua phân tích ta thấy rằng vòng quay rằng vòng quay tiền mặt năm 2002 lại bắt đầu tăng lên, điều này là do sự tăng lên của doanh thu thuần đồng thời với việc giảm lượng tiền mặt. Doanh thu tăng đã làm vòng quay tiền mặt tăng 31,61 vòng và lượng tiền mặt giảm cũng làm cho vòng quay tiền mặt tăng lên 39,98 vòng. Tổng hợp ảnh hưởng của cả hai nhân tố đã làm vòng quay tiền mặt tăng lên 71,59 vòng.
Bảng14: Bảng tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố đến
vòng quay tiền mặt
Đơn vị: vòng
Chỉ tiêu
Năm 2000/năm 1999
Năm 2001/năm 2000
Năm 2002/ năm 2001
Vòng quay tiền mặt
-187,07
-321,72
+71,59
1. Do ảnh hưởng của doanh thu thuần
+31,55
+38,67
+31,61
2. Do ảnh hưởng của tiền mặt bình quân
-219,02
-360,39
+39,98
Như vậy qua việc phân tích vòng quay tiền mặt của Công ty trong 4 năm qua ta thấy hệ số này có sự tăng giảm không đều và không tuần tự trong các năm. Do đó Công ty cũng cần phải có những điều chỉnh để có thể có được những lượng tiền mặt hợp lý cũng như vòng quay tiền mặt phù hợp trong các năm tới.
* Thời gian một vòng quay tiền mặt:
Thời gian một vòng quay tiền mặt
=
360
Vòng quay tiền mặt
Chỉ tiêu này phản ánh trong chu kỳ kinh doanh tiền mặt quay một vòng hết bao nhiêu thời gian.
Bảng 15:Thời gian một vòng quay tiền mặt qua các năm
Đơn vị: triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1
Vòng quay tiền mặt
643,03
455,56
133,84
205,43
2
Thời gian một vòng quay tiền mặt
0,56
0,79
2,69
1,75
Qua bảng trên ta thấy rằng thời gian một vòng quay tiền mặt của Công ty có xu hướng tăng: năm 1999 chỉ cần 0,56 ngày cho một vòng quay. Bình thường khi chỉ tiêu này tăng sẽ là dấu hiệu cho thấy không có lợi cho Công ty trong việc giữ tiền mặt quá nhiều nhưng với Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp trong những năm qua là tương đối nhỏ tuy đã tăng lên trong các năm nhưng vẫn ở mức có thể chấp nhận được. Tuy vậy Công ty cũng đã có sự điều chỉnh lượng tiền mặt do đó thời gian cho một vòng quay tiền mặt năm 2002 đã giảm xuống còn 1,75 ngày.
* Vòng quay các khoản phải thu
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ các khoản phải thu chuyển thành tiền mặt và được tính như sau:
Vòng quay các khoản phải thu
=
Doanh thu thuần
Các khoản phải thu
Vòng quay này càng lớn thì càng tốt cho doanh nghiệp.
Bảng 16: Vòng quay khoản phải thu qua các năm
Đơn vị: triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1
Doanh thu thuần
100.313
105.235
114.167
141.131
2
Các khoản phải thu
3.635
2.479
8.510
13.838
3
Vòng quay các khoản phải thu
27,6
42,45
13,42
10,2
Qua phân tích trên ta thấy rằng năm 1999 số vòng quay của các khoản phải thu là 27,6 và tăng mạnh ở năm 2000 với 42,45 vòng nó thể hiện các khoản phải thu là tương đối nhỏ và luân chuyển nhanh hay thu hồi nhanh trong năm. Nhưng sang đến năm 2000 thì vòng quay các khoản phải thu giảm mạnh chỉ còn 13,42 vòng trong năm, điều này là do sự tăng lên khá mạnh các khoản phải thu , năm 2001 các khoản phải thu là 8.510 triệu đồng tăng 603 triệu đồng so với năm 2000 tương đương với 243,28%, sự tăng lên đột ngột này có thể được giải thích là Công ty đã sử dụng chính xác tín dụng thương mại đối với khách hàng, tuy nhiên cũng có dấu hiệu đối với công tác thu hồi tiền của khách hàng. Sang năm 2002 vòn quay các khoản phải thu không những không tăng mà lại có xu hướng giảm xuống và chỉ còn 10,2 vòng trong 1 năm 2002 đã lên tới 13.838 triệu đồng tăng 5.328 triệu đồng so với năm 2001 và tăng 11.359 triệu đồng so với năm 2000, một con số khá lớn, nó cho thấy rằng Công ty đang gặp khó khăn trong công tác đòi nợ cũng như Công ty đã chấp nhận cho nợ quá nhiều đòi hỏi Công ty có các biện pháp chấn chỉnh kịp thời để tăng khả năng thu hồi vốn.
* Kỳ thu tiền bình quân
Kỳ thu tiền bình quân
=
360
Vòng quay các khoản phải thu
Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ vốn bị chiếm dụng lâu. Chỉ tiêu này cho biết số ngày bình quân để 1 đồng tiền bán hàng trước đó được thu hồi. Việc tồn đọng nợ quá nhiều ở các năm trước đó cũng ảnh hưởng đến chỉ tiêu này.
Bảng 17: Kì thu tiền bình quân qua các năm
Đơn vị: triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1
Vòng quay các khoản phải thu
27,6
42,45
13,42
10,2
2
Kỳ thu tiền bình quân
13,04
8,48
26,83
35,29
Qua bảng phân tích trên ta thấy năm 1999 kỳ thu tiền bình quân là 13,04 ngày là tương đối nhanh. Công ty chỉ mất 13,04 ngày để thu hồi được nợ, tình hình thu hồi nợ còn khả quan hơn trong năm 2000 vì Công ty chỉ cần 8,48 ngày để thu hồi được nợ. Tuy nhiên sang năm 2001 kỳ thu tiền bình quân lại tăng lên một cách rõ rệt là 26,83, Công ty phải mất 26,83 ngày để thu hồi một lần nợ, tăng 18,35 ngày so với năm 2000. Tuy nhiên, tình hình không những không khá lên trong năm 2002 mà lại xấu đi kỳ thu tiền bình quân là 35,29 ngày tăng 8,46 ngày so với năm 2001 và tăng 26,81 ngày so với năm 2000. Như vậy có thể nói rằng Công ty đang gặp những khó khăn nhất định trong việc thu hồi nợ, do đó thời gian cho việc thu hồi nợ ngày càng tăng.
* Vòng quay hàng tồn kho:
Vòng quay hàng tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh số lần luân chuyển hàng tồn kho trong một thời gian nhất định, qua chỉ tiêu này giúp nhà quản trị tài chính xác định mức dự trữ vật tư, hàng hoá hợp lý trong chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Bảng 18: Các chỉ tiêu về hàng tồn kho
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
1. Giá vốn hàng bán
98.415
103.100
111.525
137.798
2. Hàng tồn kho
3.635
4.362
2.237
2.580
3.Vòng quay hàng tồn kho
28,68
23,64
49,85
53,41
Qua bảng trên ta thấy, năm 1999 vòng quay hàng tồn kho là 28,68 vòng trong 1 năm và giảm xuống chỉ còn 23,64 vòng trong năm 2000, đây là mức thấp nhất trong 4 năm phân tích nhưng nhìn chung mức tồn kho của Công ty là không nhiều và quay hàng tồn kho của Công ty đạt rất cao. Năm 2001 và năm 2002 vòng quay hàng tồn kho của Công ty đạt tương ứng là 49,85 và 53,41 vòng trong 1 năm, tỷ lệ hàng tồn kho trong tổng tài sản lưu động của Công ty là rất ít, đặc biệt là năm 2002 chỉ chiếm 12,6% (2.580/20.471). nếu xét một cách đơn thuần thì khi tỷ lệ hàng tồn kho thấp, vòng quay hàng tồn kho là nhanh thì có thể khẳng định đó là một dấu hiệu tích cực đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh của Công ty nói chung, hoạt động tiiêu thụ nói riêng, tuy nhiên ta cần phải xem xét nột cách tổng thể các hoạt động để có được những kết luận chính xác, khi đó ta thấy rằng các khoản phải thu của Công ty là tương đối, đặc biệt là 2 năm 2001 và năm 2002, 2 năm mà vòng quay của hàng tồn kho là rất nhiều, từ đó ta có thể thấy rằng tuy tiêu thụ được nhiều sản phẩm, giảm được lượng hàng tồn kho lại không thu được tiền do đó điều này cũng chưa hẳn là tốt đối với Công ty. Đối với Công ty ngoài việc tiêu thụ được sản phẩm, tăng được doanh thu thì mục tiêu chính phải là thu được tiền.
*Thời gian một vòng quay hàng tồn kho:
Chỉ tiêu này cho biết trong một chu kỳ kinh doanh, hàng dự trữ quay hết một vòng tốn bao nhiêu thời gian.
Thời gian một vòng quay hàng tồn kho
=
360
Vòng quay hàng tồn kho
Bảng 19: Các chỉ tiêu về hàng tồn kho
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
3. Vòng quay hàng tồn kho
28,68
23,64
49,85
53,41
4. Thời gian 1 vòng quay hàng tồn kho
12,55
15,23
7,22
6,74
Qua bảng trên ta thấy rằng năm 1999 thời gian một vòng quay hàng tồn kho là 12,55 ngày tức là Công ty phải mất 12,55 ngày để sử dụng cũng như tiêu thụ hết số hàng tồn kho, chỉ tiêu này đã tăng lên trong năm 2000 thành 15,23 ngày cao nhất trong 4 năm phân tích nhưng vẫn có thể nói là nhanh. Thời gian._.à 0,0774 đồng.
Vậy thực chất 1 đồng doanh thu thuần tăng lên Công ty chỉ bổ sung:
0,1451- 0.0774 = 0,0677 đồng
Nhu cầu vốn lưu động cần bổ sung thêm cho năm 2003 là:
(160.000- 141.236) x 0.0677 = 1.270,32 triệu đồng
(Trong đó 141.236 triệu đồng là doanh thu thực tế của năm 2002)
Công ty có thể dựa vào tỷ trọng định mức mà phân bổ vào từng khoản mục của vốn lưu động.
Phương pháp 2: thông qua các chỉ tiêu tài chính đặc trưng
Người ta xâydựng một hệ thống các chỉ tiêu tài chính được coi là chuẩn và dùng nó để ước lượng nhu cầu vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng cần phải có tương ứng với doanh thu nhất định.
Các chỉ tiêu tài chính được áp dụng có thể là số trung bình ngành hoặc của doanh nghiệp cùng loại (doanh nghiệp cùng tuổi, cùng quy mô, trong cùng một vùng địa lý, thị trường có thể so sánh được) hoặc là tự xâydựng.
Điều kiện để áp dụng phương pháp này là người lập kế hoạch phải biết rõ ngành nghề hoạt động, quy mô kinh doanh (được đo lường bằng mức doanh thu dự kiến hàng năm).
áp dụng:
Bảng 32: Dự kiến các chỉ tiêu tài chính năm 2003 của Công ty
Chỉ tiêu
Tỷ lệ
1. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
5,4 vòng/ năm
2. Hệ số nợ
0,67
3. Tỷ trọng nợ ngắn hạn
0,94
4. Hệ số thanh toán hiện hành
1,18
5. Hệ số thanh toán nhanh
0,8
6. Kỳ thu tiền bình quân
32ngày
Doanh thu thuần dự kiến năm 2002 là 160 tỷ đồng, dựa vào các chỉ tiêu trên ta tính toán như sau:
Tổng tài sản bình quân = 160.000/5,4 = 29.630 triệu đồng
Nợ phải trả bình quân = 29.630 x 0,67 = 19.852 triệu đồng
Nợ ngắn hạn = 19.852 x 0,94 = 18.661 triệu đồng
Tài sản lưu động bình quân = 18.661 x 1,18 = 22.019,98 triệu đồng
Các khoản phải thu = 160.000 x 32/360 = 14.222 triệu đồng
Tiền + phải thu bình quân = 18.661 x 0,8 = 14.928,8 triệu đồng
Hàng tồn kho bq và TSLĐ khác = 22.019,98 - 14.928,8 = 7.091,18 tr.đ
Phương pháp trước đây: doanh thu thuần là 160 tỷ đồng, hệ số luân chuyển vốn lưu động dự tính là 7 thì:
VLĐ định mức = 160.000/7 = 22.857 triệu đồng
Nhận xét: phương pháp 1 và phương pháp 2 cho kết quả gần bằng nhau, theo phương pháp 1 vốn lưu động cần huy động thêm là 1.270,32 triệu đồng. Phương pháp 2 thì lượng vốn lưu động bình quân cần thiết là 22.019 triệu đồng trong khi vốn lưu động bình quân năm 2002 cần thêm 20.471 triệu đồng, vậy cần huy động thêm 22.019,98 - 20.471= 1.548,98 triệu đồng. Còn theo phương pháp trước đây sẽ phải huy động thêm 22.857 - 20.471= 2.386 triệu đồng , với mức xác định nhu cầu vốn lưu động bổ sung cao như vậy thì sẽ lại dẫn tới tình trạng sử dụng vốn lưu động không cao, lãng phí vốn lưu động.
3.1.2 Tăng cường thẩm định tài chính và giảm các khoản phải thu.
Trong 4 năm qua, các khoản phải thu của Công ty tăng nhanh đặc biệt là năm 2001 và năm 2002. Đây là vấn đề mà Công ty nhất thiết phải có biện pháp khắc phục các khoản phải thu lớn là biểu hiện của tình trạng bị chiếm vốn, nguy cơ nợ quá hạn gia tăng, ứ đọng vốn. Các chi phí liên quan đến các khoản phải thu làm cho hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty giảm. Việc thu hồi công nợ sớm sẽ nhanh chóng đưa vốn quay vòng vào sản xuất kinh doanh tăng tốc độ luân chuyển vốn, tạo chủ động cho công ty trong việc thanh toán nợ, nhất là các khoản nợ vay có tính chất ngắn hạn.
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường thì việc áp dụng chính sách tín dụng thương mại đối với khách như hiện nay là cần thiết, tuy nhiên một trong những yêu cầu đặt ra đối với công ty là phải xác định được các đối tượng cấp tín dụng thương mại, công ty cần chú trọng những yếu tố sau:
Phẩm chất tư cách tín dụng của khách hàng hay tinh thần trách nhiệm của khách hàng trong việc trả nợ tốt hay xấu.
Triển vọng phát triển kinh tế của khách hàng trong thời gian tới và xu thế phát triển ngành nghề của họ.
Khách hàng là bạn hàng lâu dài hay chỉ mua sản phẩm một lần.
Trước khi chấp nhận các khoản tín dụng thương mại công ty cần chú trọng những bước sau:
Tăng cường công tác thẩm định tài chính của khách hàng trước khi tiến hành bán chịu: như năng lực tài chính (thông qua một số kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian qua, thu nhập kỳ vọng trong thời gian tới, chiến lược kinh doanh và tính khả thi của nó). Bên cạnh đó, công ty cũng cần nắm được tình hình ngân quỹ của khách hàng để xác định thời hạn hợp lý nhất đảm bảo cho khách hàng luôn trong tình trạng sẵn sàng thanh toán nợ nhất. Các chứng từ của các khoản phải thu phải đảm bảo phản ánh đầy đủ quyền và trách nhiệm của các bên, người đứng ra chịu trách nhiệm phải đúng trong phạm vi thẩm quyền được phép phòng khi có rủi ro xảy ra công ty phải nhờ đến bên thứ ba như: trường hợp công ty cần gấp tiền thì có thể nhượng lại quyền đòi nợ cho ngân hàng dưới dạng thương phiếu.
Xác định giá bán trả chậm hợp lý, giá bán phải đảm bảo bù đắp những rủi ro tiềm ẩn của khoản phải thu như: rủi ro vỡ nợ, rủi ro giảm giá trị do ảnh hưởng của lạm phát và các khoản chi phí phát sinh trong quá trình thu nợ.
Để tăng cường năng lực thẩm định tài chính của khách hàng Công ty cần:
+ Công ty nên thành lập bộ phận chuyên trong lĩnh vực thẩm định tài chính và theo dõi khách hàng.
+ Nhân viên tham gia quá trình thẩm định phải được tăng cường đào tạo vè chuyên môn và ý thức trách nhiệm, có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Nếu nhân viên nào xử lý không công minh, như kết cấu với khách hàng thì công ty phải có biện pháp xử lý thích hợp.
Dù việc thẩm định của khách hàng có tốt đến đâu thì khoản phải thu khó đòi của khách hàng vẫn là khó tránh khỏi, do đó công ty cần xem xét lại mức nợ phải thu và nợ khó đòi trên cơ sở hàng tháng để có những giải pháp thích hợp để xử lý đối với khoản nợ khó đòi như xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro, cũng như làm cho tỷ lệ nợ khó đòi nằm trong tầm kiểm soát và duy trì ở mức độ thích hợp.
Bảng 33: Dự kiến các khoản phải thu năm 2003
Đơn vị : triệu đồng
Năm 2002
Dự kiến năm 2003
Chênh lệch
Tỉ lệ tăng giảm %
Các khoản phải thu
13.838
9.607
-4.231
69,43
1.Phải thu khách hàng
12.667
8.236
-4.431
64,97
2.Trả trước người bán
1.358
1.297
-61
9,55
3.Phải thu khác
377
484
107
131,88
4.Dự phòng phải thu khó đòi
-564
-410
154
72,69
Như vậy trong năm 2003 các khoản phải thu dự kiến giảm xuống còn 9.607 triệu đồng bằng 69,43% so với năm 2002 tương đương giảm 4.231 triệu đồng, trong đó đặc biệt khoản phải thu của khách hàng sẽ phải giảm xuống chỉ còn 8.236 triệu đồng bằng 64,97% năm 2002 tương đương giảm 4.441 triệu đồng. Như vậy với việc xuống được 4.431 triệu đồng, Công ty đã tiết kiệm được 4.431 x 0,1 ( lãi suất gửi ngân hàng) 44,31 triệu đồng , nó sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty trong năm 2003.
3.1.3 Đẩy mạnh công tác quản lý hàng tồn kho
Trong bộ phận này bao gồm: dữ trữ nguyên vật liệu, chi phí sản xuất sản phẩm dở dang, hàng hoá và thành phẩm tôn kho. Do tính chất mùa vụ, cũng như chịu ảnh hưởng của thời tiết, của đầu vào lẫn đầu ra nên dư trữ là một điều cần thiết. Tuy nhiên dự trữ như thế nào có hiệu quả mới được coi là câu hỏi cần được giải đáp.
Tuy rằng tổng lượng hàng tồn kho của công ty là lớn nhưng cầu của hàng tồn kho biến động khá phức tạp cho nên cũng phải có những giải pháp thích hợp để có lượng dự trữ từng mặt hàng hợp lý.
+ Đối với nguyên vật liệu
- Để xác định được mức dữ trữ hợp lý, tránh tình trạng dự trữ quá mức thì trước khi tiến hành nhập Công ty cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu để quyết định mặt hàng nào nên được sản xuất và có khả năng sản xuất, quy mô sản xuất. Từ đó đi đến quyết định tương tự về nguyên vật liệu và tìm các giải pháp cho nguồn cung ứng.
- Mức dự trữ nguyên vật liệu còn phụ thuộc vào các đặc tính của từng loại nguyên vật liệu: nếu là nguyên vật liệu mang tính chất mùa vụ cao, Công ty phải thu mua đủ lượng dự trữ cần thiết còn nếu nó thuộc loại thông thường thì Công ty nên áp dụng mô hình EOQ dựa trên mức tiêu hao ước tính. Nếu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu theo đơn đặt hàng thì Công ty nên áp dụng phương pháp cung cấp kịp thời là phù hợp nhất.
Mô hình đặt hàng kinh tế cơ bản (EOQ)
Khi sử dụng mô hình này người ta dựa vào các giả thiết quan trọng sau:
+Nhu cầu phải biết trước và nhu cầu không đổi
+Phải biết trước thời gian kể từ khi đặt hàng cho tới khi nhận được hàng và thời gian đó không đổi.
+ Lượng hàng của mỗi đơn hàng được thực hiện trong một chuyến hàng và được thực hiện ở một thời điểm đã định trước.
+ Chỉ có duy nhất hai loại chi phí là chi phí tôn trữ và chi phí đặt hàng.
+ Sự thiếu hụt trong kho hoàn toàn không xảy ra nếu như đơn đặt hàng được thực hiện đúng thời gian.
Nếu ta gọi:
D - nhu cầu hàng năm về loại hàng dự trữ
Q - lượng hàng cho một đơn hàng
S - chi phí đặt hàng tính trên một đơn hàng
H - chi phí lưu kho trung bình trên một đơn vị dự trữ trong năm
D - nhu cầu hàng năm về nguyên vật liệu
d = D/số ngày sản xuất trong năm
P - mức cung ứng hàng ngày
L - thời gian vận chuyển một đơn đặt hàng
Khi đó: Clk (chi phí lưu kho) = (Q/2) x H
Cdh (chi phí đặt hàng) = (D/Q) x H
Mục tiêu của doanh nghiệp là tối thiểu hoá tổng các chi phí này
Có TC = Clk +Cdh = (Q/2) x H + (D/Q) xH
Để TCmin Û Q* = Để đề phòng trường hợp quy mô sản xuất tăng đột ngột hay tránh những giao động mạnh, Công ty có thể tiến hành dự trữ bảo hiểm nhằm duy trì tính liên tục của sản xuất kinh doanh và tận dụng được các cơ hội.
Hao hụt tự nhiên là đặc tính của nguyên vật liệu, do vậy Công ty cũng cần thường xuyên tổ chức công tác kiểm kê, đánh giá lại giá trị nguyên vật liệu.
+ Đối với dự trữ hàng hoá và thành phẩm tồn kho
Mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước thuộc khu vực Tây Âu và thị trường Mỹ, đặc biệt là các hàng đã qua chế biến. Đa dạng hoá thị trường sẽ giúp Công ty giảm được rủi ro, bên cạnh đó Công ty cũng cần duy trì tốt mối quan hệ thương mại với các thị trường truyền thống.
Đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hoá nhằm giảm lượng hàng hoá tồn kho, Công ty cần tăng cường tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế để giới thiệu sản phẩm và thông qua đó có thêm thông tin thị trường để kịp thời có biện pháp điều chỉnh.
Hạn chế việc nhập hàng tràn lan, ồ ạt, nhập hàng phải dựa trên phân tích nhu cầu của khách hàng. Công ty cũng cần phải lựa chọn mặt hàng có tính chiến lược để tập trung chuyên môn hoá nhằm tạo thế mạnh và tăng phát triển chiều sâu.
Rút ngắn thời gian làm thủ tục xuất nhập khẩu, vận chuyển: thủ tục rườm rà, vận chuyển mất nhiều thời gian, làm ứ đọng hàng hoá, giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Vì vậy việc thực hiện tốt các thủ tục hành chính và lựa chọn phương tiện vận tải hợp lý cũng là một vấn đề quan trọng trong kinh doanh thương mại quốc tế.
Thiết lập các mối quan hệ theo hợp đồng với các nhà cung cấp để thuận tiện và chủ động trong hoạt động kinh doanh thương mại theo hợp đồng.
Phải có đội ngũ nhân viên có năng lực thị trường để tiếp cận với các nhà cung ứng và tổ chức khâu thu mua kể cả phương tiện vận tải và quy mô một cách hợp lý nhất.
+ Đối với chi phí sản xuất kinh doanh dở dang.
Thời gian sản xuất là thời gian mà vốn lưu động tồn tại dưới hình thức chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, cứ thêm 1 phút nó tồn tại thì cũng chính là thêm 1 phút cần để phần vốn lưu động dùng trong sản xuất trở về trạng thái ban đầu. Để giảm chi phí sản xuất kinh doanh dở dang thì Công ty cần phải:
- Bố trí hợp lý các phân xưởng sản xuất trong dây chuyền sản xuất để giảm tối đa thời gian vận hành sản phẩm dở dang giữa các bộ phận.
- Không ngừng tiếp thu những phát minh mới về khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất để rút ngắn thời gian sản xuất, đồng thời cũng cần tăng cường độ làm việc của máy móc thiết bị và lựa chọn loại máy móc thiết bị có công suất cao.
- Trước khi tiến hành sản xuất Công ty cũng cần đặt kế hoạch cho từng đơn vị, từng bộ phận trong từng thời kỳ. Trong quá trình sản xuất, Công ty phải thường xuyên đánh giá tình hình hoàn thành định mức của từng khâu, từng công đoạn trong dây chuyền. Có như vậy thì mới kịp thời khắc phục những sai phạm và kịp thời cung ứng các yếu tố đầu vào.
3.1.4. Tăng cường áp dụng hình thức tín dụng thương mại trong khâu mua hàng
Để đảm bảo nhu cầu vốn lưu động trước hết cần phải huy động tối đa nội lực từ bên trong, tăng cường huy động các nguồn lực ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu trước mắt. Dựa vào đặc điểm sản xuất kinh doanh và thực trạng của Công ty theo em Công ty nên tăng cường huy động vốn bằng hình thức tín dụng thương mại. Hình thức tín dụng thương mại trong khâu mua hàng được thể hiện ở khoản phải trả người bán, khoản này rất có lợi cho Công ty vì chi phí vốn cho khoản này là rất ít và hầu như không có. Trong tình hình hiện nay thì Công ty nào cũng muốn có được khoản này lớn, nhưng người bán cũng có những điều kiện nhất định khi chấp nhận bán chịu nên Công ty cần phải giữ được uy tín và cũng phải đảm bảo được năng lực tài chính của mình thì mới cho phép sử dụng được khoản này.
Với việc sử dụng hình thức tín dụng thương mại Công ty sẽ thu được những lợi thế sau:
Tín dụng thương mại là phương thức tài trợ tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh, việc áp dụng này còn giúp Công ty tạo khả năng mở rộng các mối quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền.
Chi phí sử dụng các khoản này ẩn dưới hình thức thay đổi giá bán (nâng cao đơn giá để bao hàm luôn cả lãi suất tín dụng trong đó). Thông thường mức giá chỉ được nâng lên một khoản nhỏ, do vậy mà Công ty cũng sử dụng các khoản này với chi phí khác.
Công ty có thể chủ động trong việc sử dụng các khoản tín dụng thương mại.
Xuất phát từ lợi thế của khoản tín dụng thương mại và tính khả thi của giải pháp huy động vốn nên em thấy Công ty cần chú trọng hơn nữa việc huy động vốn từ nguồn này.
3.1.5. Quản lý chặt chẽ doanh thu và chi phí
Doanh thu và chi phí là những chỉ tiêu chủ yếu nhằm đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty đồng thời cũng là chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
3.1.5.1. Các giải pháp nhằm tăng doanh thu.
Trong 4 năm trở lại đây doanh thu của Công ty không ngừng tăng lên nhưng bên cạnh đó mức tăng giá vốn hàng bán là rất cao vẫn là nỗi lo của ban quản lý. Do tính chất cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, việc tiêu thụ sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn, nếu muốn tăng doanh thu trước tiên chúng ta cần xem xét các biện pháp để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ hàng hoá nhưng phải đảm bảo các khoản phải thu không tăng lên nhiều tức là bán được hàng và thu được tiền.
+ Tăng cường hoạt động Marketing trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay mang đầy tính cạnh tranh thì hoạt động Marketing là không thể thiếu được để một doanh nghiệp nâng cao hiệu quả của đồng vốn bỏ ra. Hoạt động marketing của doanh nghiệp sẽ trả lời cho doanh nghiệp 3 câu hỏi cơ bản trong nền kinh tế thị trường: sản xuất cái gì. sản xuất cho ai và sản xuất bằng cách nào?
Thông qua hoạt động Marketing Công ty sẽ biết nhu cầu của người tiêu dùng đối với từng loại sản phẩm, từ đó Công ty sẽ có những đầu tư thích hợp với lượng vốn của mình. Mặt khác hoạt động marketing sẽ thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm bằng việc tăng cường các biện pháp hỗ trợ và xúc tiến kinh doanh: như quảng cáo, giới thiệu sản phẩm ,... sẽ thu hút khách hàng đến với Công ty.
Một khi đẩy mạnh được hoạt dộng tiêu thụ sẽ góp phần tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cũng như tăng tốc độ chu chuyển vốn lưu động. Tuy nhiên thực tế trong thời gian qua Công ty chưa chú trọng đúng mức đến công tác này, trong cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty chưa có phòng marketing tách ra hoạt động độc lập mà chỉ có một bộ phận nhỏ nằm trong phòng kế hoạch-kỹ thuật, vì vậy mà hoạt động marketing của Công ty trong thời gian qua chưa phát huy được hiệu quả cần thiết. Để khắc phục tình trạng này Công ty cần nhanh chóng tách bộ phận marketing thành một phòng hoạt động độc lập, chuyên trách nghiên cứu và lập chính sách marketing cho toàn Công ty. Sau đó ban lãnh đạo của Công ty cần tạo mọi điều kiện thuận lợi về con người và vật chất để phòng marketing sớm đi vào hoạt động có hiệu quả.
+ Nâng cao chất lượng sản phẩm
chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng của cạnh tranh, do đặc điểm của lĩnh vực sản xuất kinh doanh của Công ty nên việc nâng cao chất lượng sản phẩm bao gồm chất lượng sản phẩm hàng nhập khẩu, hàng xuất khẩu và sản phẩm do Công ty sản xuất chế biến. Để thực hiện được mục tiêu này yêu cầu đặt ra với các nhân viên là phải nâng cao năng lực, tay nghề, tăng cường công tác kiểm tra chất lượng, áp dụng hệ thống quản trị chất lượng phù hợp, hiện đại hoá máy móc thiét bị, đảm bảo công tác thu mua bảo quản nguyên vật liệu cũng như phải có người có khả năng nhận biết và chọn được hàng tốt khi quyết định nhập hàng.
+ áp dụng chính sách giá cả linh hoạt
Giá cả hàng hoá là một trong những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến mức tiêu thụ hàng hoá và lợi nhuận của Công ty, nếu Công ty định giá cao thì sản phẩm sẽ khó tiêu thụ còn nếu bán giá thấp thì ảnh hưởng đén lợi nhuận của Công ty. Do đó tuỳ trong từng trường hợp cụ thể mà Công ty đưa ra mức giá cho phù hợp:
Để cạnh tranh mở rộng và chiếm lĩnh thị trường thì Công ty nên định giá thấp, tạm thời chấp nhận mức lợi nhuận thấp để tạo vị thế trên thị trường. Việc tăng giá nhằm thu hồi lợi nhuận Công ty sẽ thực hiện khi đã chiếm lĩnh được thị trường.
Trong điều kiện Công ty thực hiện chính sách tín dụng thương mại thì Công ty phải xác định cho được mức giá phù hợp để đảm bảo chi phí cho khoản bán chịu, mức giá này có thể được định theo thời gian chịu.
Với một chính sách giá cả mềm dẻo, linh hoạt Công ty sẽ thúc đẩy được tiêu thụ sản phẩm và nâng cao được lợi nhuận.
3.1.5.2. Các biện pháp làm giảm chi phí
Quản lý chặt chi phí là để sử dụng tiết kiệm các nguồn lực, hạ thấp giá thành nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là tăng lợi nhuận. Trong những năm qua việc quản lý chi phí của Công ty còn chưa tốt đặc biệt là các khoản chi phí làm tăng giá vốn hàng bán. Tăng doanh thu phải kết hợp với giảm chi phí mới nâng được hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Để giảm chi phí Công ty có thể sử dụng một số biện pháp sau đây:
- Giảm các chi phí quản lý không cần thiết, hạ thấp chi phí dịch vụ mua ngoài.
- Dự trữ hàng hoá phải hợp lý tránh những thất thoát không đáng có.
- Các chi phí phát sinh phải có chứng từ hợp lệ.
- Hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất, điều độ sản xuất, áp dụng công nghệ mới phù hợp để nhằm sử dụng có hiệu quả nguyên vật liệu, nâng cao năng suất lao động. Công ty cần tiếp tục tác động các phong trào thi đua sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị.
- Tuân thủ hợp đồng đã ký kết để giảm các khoản phải trả do việc vi phạm hợp đồng.
Bảng 34: Dự kiến các khoản chi phí cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của Công ty năm 2003
Đơn vị: Triệu đồng
Các khoản chi phí
Thực tế năm 2002
Dự kiến năm 2003
Tr.đ
Tỷ lệ % DT
Tr.đ
Tỷ lệ % DT
1. Giá vốn hàng bán
137.798
97,56%
156.300
97,69%
2. Chi phí bán hàng
968
0,69%
1.120
0,7%
3. Chi phí quản lý doanh nghiệp
1.634
1,16%
1.500
0,94%
Tổng
140.400
15.900
Lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh là:
160.000 - 159.000 = 1.000 triệu đồng
Tăng 1.000 - 830,88 = 169,12 triệu đồng so với năm 2002.
3.2.6. Đổi mới tổ chức quản lý Công ty
Nhìn chung, công tác tổ chức quản lý của Công ty là chưa thực sự hiệu quả, các phòng quản lý bị thu hẹp và yếu dần và không còn đáp ứng được yêu cầu quản lý tập trung của Công ty sau khi thực hiện cơ chế khoán gọn, giữa các đơn vị trực thuộc, các phòng sản xuất kinh doanh và các nhà quản lý thiếu sự phối hợp về hoạt động và trao đổi thông tin trong kinh doanh, do vậy các phòng quản lý không thể theo sát hoạt động sản xuất kinh doanh của các phòng nghiệp vụ và các đơn vị trực thuộc không thể hỗ trợ nhiều cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để giải quyết vấn đề này công tác tổ chức cán bộ của Công ty cần phải được tập trung trước hết vào việc củng cố, đổi mới, tăng cường các phòng quản lý và bổ sung cán bộ có đủ năng lực, xây dựng các phòng quản lý tài chính. Cùng với công tác tổ chức cán bộ, Công ty cần phải định hướng cho các phòng quản lý trước hết lấy nhiệm vụ hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh làm trọng tâm công tác. Nhờ vậy toàn bộ Công ty sẽ tập trung được sức mạnh giải quyết các vấn đề lớn trong kinh doanh.
Hiện tại Phòng tổ chức hành chính chỉ có 5 người, nên bố trí thêm 2 người nữa để có thể giải quyết hết các công việc.
Công ty cũng cần chú trọng đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực, kiện toàn lại đội ngũ cán bộ quản lý để đáp ứng đòi hỏi của công tác sản xuất kinh doanh.
3.2. Một số kiến nghị
3.2.1. Đối với nhà nước
3.2.1.1 Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi
Các Công ty xuát nhập khẩu đang phải đối mặt với sự cạnh tranh không cân sức giữa hàng nhập khẩu và hàng lậu, đó là sự chênh lệc quá lớn về giá cả. Tình trạng buôn lậu vẫn đang hoành hành với phạm vi khó kiểm soát, vấn đề này được chú ý từ rất lâu song ngăn chặn nó thì thật không dễ dàng gì. Hàng nhập lậu tràn lan ở tất cả các chủng loại đã gây khó khăn không ít cho Công ty trong nguyên nhân làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty. Do vậy để giúp các doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng này nhà nước cần tăng cường phối hợp với các ban ngành có liên quan để ngăn chặn tình trạng buôn lậu càng sớm càng tốt.
3.2.1.2 Hoàn thiện hệ thống quy chế quản lý tài chính
Các cơ quan quản lý cần ban hành hệ thống quy chế phù hợp với đặc điểm kinh doanh của các doanh nghiệp trong từng lĩnh vực: ví dụ như về việc xác định doanh thu được quy định là khi người mua chấp nhận thanh toán, chưa biết đã trả đủ tiền hay chưa. song trên thực tế, đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thì khoảng cách thời gian giữa việc chấp nhận thanh toán và thanh toán là đáng kể.
Luật thuế hiện hành đều dựa trên doan số phát sinh trong kỳ cũng không phân biệt thu tiền hay chưa (Thuế giá trị gia tăng đầu ra tính trên doanh thu, về bản chất thì doanh nghiệp chỉ là người thu hộ nhà nước nhưng kể cả khi doanh nghiệp chưa thu được tiền của khánh hàng vẫn phải chụi trách nhiệm nộp thuế, điều này gây khó khăn không nhỏ đối với các doanh nghiệp và gây sức ép lớn đối với các doanh nghiệp có sử dụng chính sách tín dụng thương mại), kể cả khi quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp vẫn theo nguyên tắc đó, chính điểm này đã gây không ít khó khăn cho Công ty.
Ngoài ra nhà nước còn quy định hạn ngạch xuất khẩu, mặc dù mục tiêu của chính sách này là vấn đề xã hội song đối với bản thân doanh nghiệp nó lại là một vấn đề khó khăn. Việc tuân thủ hạn ngạch được cấp ( qui định giới hạn nhập khẩu một mặt hàng nào đó) thì Công ty không phát huy được hết khả năng, năng lực của mình, không những làm giảm tính lưu chuyển đều đặn của vốn lưu động mà còn giảm hiệu quả kinh doanh của Công ty.
3.2.1.3 Tăng cường các biện pháp khuyến khích xuất khẩu
Nhà nước nên đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thông qua một số biện pháp sau đây:
- Khi có sự biến động của giá cả trên thị trường thế giới tác động tiêu cực đến người sản xuất và các Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu trong nước, chúng ta sử dụng quỹ hỗ trợ giá thu mua để dự trữ, điều này sẽ giúp cho người sản xuất và các Công ty sản xuất kinh doanh an toàn.
- Nhà nước cần sử dụng thuế như một công cụ khuyến khích xuất khẩu. Hiện nay thuế xuất khẩu với đa số mặt hàng đã được áp dụng ở mức thuế xuất ưu đãi 0%, đây là bước tiến bộ lớn thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên thủ tục hoàn thuế còn phức tạp, thời gian hoàn thuế còn lâu.
- Nhà nước cùng có thể giảm giá đồng Việt Nam trong phạm vi có thể để khuyến khích xuất khẩu song cũng cần cân nhắc vì nó sẽ cản trở lại đối với các hoạt động nhập khẩu, các yếu tố đầu vào.
- Hình thành Quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu: Tính chất hỗ trợ của Quỹ tín dụng xuất khẩu có ý nghĩa sát sườn nhất vẫn là nội dung hỗ trợ về tài chính cho hoạt động xuất khẩu.
Những chức năng kinh tế của Quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu là:
Hỗ trợ về lãi suất cho vay là chức năng thường xuyên nhất.
Hỗ trợ về thời hạn trong tín dụng.
Hỗ trợ về không gian trong tín dụng xuất khẩu.
- Thành lập thị trường tiền tệ:
Đối với Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp vốn bằng tiền của Công ty là không lớn và chỉ tồn tại ở 2 dạng là tiền mặt tại quỹ và tiền gửi ngân hàng. Tuy rằng việc dư tiền mặt không xảy ra nhiều nhưng vẫn cần thiết phải đề cập đến việc thành lập thị trường tiền tệ vì việc gửi tiền ngân hàng không sinh lời cao. Nhìn chung thị trường tiền tệ của Việt Nam chưa hình thành nên các doanh nghiệp Việt Nam không như các nước khác, chỉ có thể đầu tư vào các công cụ của thị trường tiền tệ như trái phiếu kho bạc, thương phiếu ... vì mục tiêu sinh lời ngắn hạn. Thực tế các doanh nghiệp Việt Nam không có cơ hội chứ không hẳn là không biết cách để đầu tư số dư tiền mặt nhằm kiếm lãi. Từ kết luận này đưa đến nhu cầu cần có thị trường tiền tệ, vốn cần được phát triển song song với thị trường chứng khoán và thị trường vốn thay vì phát triển riêng rẽ như ta thấy trong thời gian qua. Bên cạnh thị trường tiền tệ các nhà hoạch định chính sách cần xem xét tổng thể các mối quan hệ giữa các bộ phận của thị trường tài chính, trong đó có thị trường tiền tệ, thị trường vốn và thị trường ngoại tệ.
3.2.1.5 Đưa ra hệ thống chỉ tiêu ngành
Chỉ tiêu này là thước đo đánh giá kết quả hoạt động của Công ty nhưng chỉ tiêu này chỉ thực sự có ý nghĩa khi có một chuẩn mực để so sánh. Thông qua việc so sánh với các chỉ tiêu trong ngành và các đơn vị khác trong toàn xã hội thì Công ty mới đánh giá một cách chính xác thực tế hoạt động kinh doanh của mình.
Bộ tài chính cùng các cơ quan liên quan có thẩm quyền cần xúc tiến công khai tình hình hoạt động của các đơn vị, xâydựng một hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, để từ đó các Công ty có mục tiêu phấn đấu và có thể thấy rõ thực trạng hoạt động kinh doanh của đơn vị. Có như vậy Công ty mới tìm ra giải pháp kịp thời nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung.
3.2.2. Đối với ngân hàng
3.2.2.1 Mở rộng cung cấp tín dụng bằng ngoại tệ cho các Công ty xuất nhập khẩu
Hiện nay, ngân hàng cung cấp tín dụng bằng ngoại tệ cho Công ty trong nghiệp vụ xuất khẩu hàng hoá, vậy tại sao không tài trợ nghiệp vụ thu mua hàng xuất khẩu trên thị trường nội địa? điều này hoàn toàn có thể thực hiện được bởi nó là một khoản vay có đảm bảo và bởi vì ngay khi Công ty xuất khẩu hàng hoá họ sẽ có ngay ngoại tệ để thanh toán. Hơn nữa việc cho vay bằng ngoại tệ không chỉ giúp cho Công ty giảm được chi phí huy động (vì lãi suất thấp hơn so với vay bằng nội tệ) mà còn giúp ngân hàng giải phóng được phần nào khoản ngoại tệ đang trong tình trạng ứ đọng.
3.2.2.2 Tăng cường vai trò kiểm soát nền kinh tế
Vai trò này của ngân hàng có tầm quan trọng rất lớn đối với hoạt dộng kinh doanh của các doanh nghiệp. Nếu ngân hàng làm tốt vai trò này thì ngân hàng đã hỗ trợ rất nhiều cho các Công ty trong việc kiểm soát về quản lý các khoản phải thu của khách hàng, giảm được rủi ro gặp phải - nợ khó đòi cho các Công ty.
áp dụng hình thức mua bán thương phiếu: ngân hàng sẵn sàng mua quyền đòi nợ của các Công ty và nhận chiết khấu thương thương phiếu ở một mức nhất định và là chấp nhận được đối với các Công ty.
Hệ thống ngân hàng cần được hoàn thiện, đa dạng hoá các nghiệp vụ, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để nó trở thành một trung gian tài chính thực sự cho Công ty khi thị trường chứng khoán hoạt động rộng rãi, điều này sẽ giúp cho việc huy động và sử dụng vốn của Công ty, đặc biệt là vốn bằng tiền có hiệu quả hơn.
Ngân hàng cũng cần quan tâm hơn đến công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực chuyên môn cho các cán bộ tín dụng nhằm giúp cho Công ty có thông tin đầy đủ và chính xác về khách hàng.
3.2.2.3 Đơn giản hoá các thủ tục hành chính
Đơn giản hoá các thủ tục hành chính phiền hà để rút ngắn thời gian từ khi doanh nghiệp xin vay đến khi giải ngân, trong nhiều trường hợp khi doanh nghiệp xin vay thì nhu cầu đưa vào kinh doanh đã gấp rút, hoặc là khi cận kề ngày hợp đồng có hiệu lực. Việc chậm chễ trong cung cấp vốn có thể làm doanh nghiệp mất cơ hội trong kinh doanh.
Kết luận
Để tồn tại và phát triển trong môi trường kinh doanh có nhiều biến động, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt thì việc không ngừng hoàn thiện mình của các Công ty là vô cùng cần thiết. Trong chuyên đề thực tập của mình em đã tiến hành phân tích thực tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động, cũng như đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Xuất phát từ những yếu kém của Công ty trong công tác sử dụng vốn lưu động và nguyên nhân của việc đó, em đã đưa ra một số giải pháp mà Công ty cần thiết phải sử dụng, cũng như những kiến nghị đối với nhà nước, ngân hàng để nhằm nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty trong thời gian tới. Các giải pháp và kiến nghị đều được xây dựng dựa trên những căn cứ khoa học cũng như đã tính đến sự khả thi của từng giải pháp.
Chuyên đề được hoàn thành với sự hướng dẫn của thầy giáo - thạc sĩ Mai Xuân Được, của các cô chú trong Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng Nông lâm nghiệp đặc biệt là các cô chú trong Phòng tài chính- kế toán, em xin chân thành cảm ơn và mong muốn sẽ tiếp tục nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo đó trong quá trình làm luận văn sắp tới của em.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh
Bộ môn kế toán quản trị và PTHĐKD - NXB Thống Kê- 2001
Sách phân tích tài chính doanh nghiệp
Tg: Josette Peyrard - NXB thống kê - 1997
3. Giáo trình kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp
Chủ biên: PGS. PTS Phạm Hữu Huy - NXB Giáo Dục - 1998
4. Giáo trình tài chính doanh nghiệp
Chủ biên: TS Lưu Thị Hương - NXB Thống Kê- 2001
Giáo trình quản trị doanh nghiệp
Chủ biên: Lê Văn Tâm - NXB Thống Kê - 2000
Giáo trình quản trị hoạt động thương mại
Chủ biên: PGS. PTS Nguyễn Kế Tuấn - NXB Giáo Dục-1996
7.Tạp chí doanh nghiệp:
Tg: Ths Bùi Hữu Phước- Tạp chí tháng 10/2000
8.Tạp chí kinh tế phát triển
Tg: TS Nguyễn Ninh Kiều - Số 129, 130/năm 2001
9. Tạp chí ngân hàng:
Tg: Lê Duy Nguyễn- Số 3/năm 2000
10. Tài liệu từ Công ty
+ Báo cáo tổng kết của Công ty năm 1999, 2000, 2001, 2002
+ Bảng cân đối kế toán của Công ty năm 1999, 2000, 2001, 2002
+ Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 1999, 2000, 2001, 2002
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0128.doc