Tài liệu Nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển tại Công ty bảo hiểm dầu khí Hà Nội: LỜI MỞ ĐẦU.
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Nền kinh tế Việt Nam đang có những chuyển biến tích cực theo cơ chế thị trường với xu thế hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới trong đó hoạt động bảo hiểm đang phát triển ngày càng mạnh mẽ đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Hoà vào xu thế phát triển chung đó, rất nhiều công ty bảo hiểm đã được thành lập và đi vào hoạt động, trong đó công ty bảo hiểm Dầu khí Việt Nam PVI với hơn 10 năm hoạt động trên thị trường đã thu được nhiều thành quả đáng... Ebook Nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển tại Công ty bảo hiểm dầu khí Hà Nội
112 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1261 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển tại Công ty bảo hiểm dầu khí Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khích lệ. Công ty bảo hiểm Dầu Khí Hà Nội là một trong 12 chi nhánh của PVI được thành lập vào tháng 8/2006,đây là một chi nhánh còn rất trẻ nhưng đã biết tận dụng lợi thế của mình là đóng tại thành phố Hà Nội –trung tâm kinh tế,chính trị,văn hoá của cả nước để vươn lên và giành được những thành quả ban đầu.Với chiến lược kinh doanh rõ ràng và những lợi thế được tận dụng tối đa,PVI Hà Nội hi vọng sẽ bắt nhịp và trở thành chi nhánh chủ đạo,xứng đáng với tầm quan trọng của mình.
Trong thời gian thực tập tại PVI Hà Nội, em được tiếp cận với các nghiệp vụ được triển khai tại công ty và nhận thấy nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển là một trong những nghiệp vụ có vai trò rất quan trọng đối với công ty và có cơ hội phát triển rất lớn tuy nhiên hiện nay nghiệp vụ này vẫn gặp phải một số khó khăn lớn, đặc biệt là trong khâu khai thác và những điều này đã hạn chế rất nhiều đến khả năng phát triển của nghiệp vụ chính vì vậy em đã chọn đề tài:” Nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ BH hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển tại công ty bảo hiểm dầu khí Hà Nội” với mong muốn có thể đưa ra một vài khuyến nghị dựa trên những phân tích mang tính khoa học về tình hình thực tế tại công ty để góp phần giải quyết những khó khăn trong công tác khai thác nghiệp vụ này và biến nó trở thành một trong những nghiệp vụ mạnh,đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phát triển toàn diện của công ty.
2.Kết cấu chuyên đề
Tên chuyên đề: “Nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ BH hàng hoá XNK bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Dầu Khí Hà Nội”.
Ngoài lời mở đầu và trang kết luận, nội dung chuyên đề gồm có 3 chương:
- Chương I: Khái quát chung về BH hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển và công tác khai thác trong BH hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
- Chương II: Thực trạng công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm Xuất nhập khẩu bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Dầu Khí Hà Nội.
- Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Dầu khí Hà Nội.
Chương I- KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XNK VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ CÔNG TÁC KHAI THÁC TRONG BH HÀNG HOÁ XNK VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN.
1.1.Tổng quan về BH hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
1.1.1.Vai trò của vận chuyển bằng đường biển và các loại rủi ro,tổn thất trong quá trình vận chuyển bằng đường biển.
1.1.1.1.Vai trò của vận chuyển bằng đường biển.
Trong xu thế vận động và phát triển của kinh tế toàn cầu ngày nay,thương mại ngày càng phát triển mạnh mẽ,đặc biệt là thương mại quốc tế, trong đó vận chuyển đóng một vai trò vô cùng quan trọng, là cầu nối cho sự lưu thông và phát triển của thương mại quốc tế.Có thể nói “không có thương mại nếu không có vận chuyển”,đặc biệt là vận chuyển bằng đường biển chiếm khoảng 90% tổng khối lượng hàng hoá XNK của thế giới.Có rất nhiều lý do khiến vận chuyển bằng đường biển trở nên phổ biến như vậy:
- Vận chuyển bằng đường biển có thể đảm nhận những khối lượng hàng hoá lớn với khối lượng lớn mà các phương tiện vận tải khác không làm được chẳng hạn vận chuyển các loại hàng hoá siêu trường, siêu trọng.
- Hiệu quả sử dụng của các tuyến đường cao vì đường biển rất rộng lớn mà chi phí đầu tư xây dựng không cao do dựa nhiều vào điều kiện tự nhiên.Cũng chính vì vậy mà giá thành vận chuyển bằng đường biển thường thấp hơn so với các phương tiện khác.
- Vận chuyển bằng đường biển còn có đặc thù là trải qua nhiều vùng biển khác nhau và nhiều nước khác nhau nên nó góp phần phát triển tốt mối quan hệ kinh tế với các nước và mở rộng quan hệ làm ăn cho các bên,góp phần tăng thu ngoại tệ cho Nhà Nước.
1.1.1.2.Các loại rủi ro,tổn thất trong vận chuyển bằng đường biển.
Các loại rủi ro.
Mặc dù vận chuyển bằng đường biển có rất nhiều lợi thế nhưng nó vẫn tồn tại một số nhược điểm mà nhược điểm lớn nhất chính là khả năng xày ra rủi ro đối với tàu biển là khá lớn,không những thế giá trị tổn thất khi xảy ra rủi ro cũng rất cao. Rủi ro ở đây được hiểu là rủi ro hàng hải,đó là những rủi ro do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển gây ra làm hư hỏng hàng hoá và phương tiện chuyên chở.Để tiện cho việc kiểm soát và sử dụng các biện pháp khắc phục người ta thường phân loại các loại rủi ro theo nguyên nhân, theo đó có rủi ro do thiên tai, rủi ro do tai nạn bất ngờ trên biển và rủi ro do hành động của con người :
+ Thiên tai là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra như biển động, bão, lốc, sét,thời tiết quá xấu… mà con người không chống lại được.
+ Tai nạn bất ngờ trên biển:Mắc cạn, đắm tàu, bị phá huỷ, cháy nổ,mất tích, đâm va với các tàu khác hoặc đâm va với một vật thể nào đó mà không phải là nước,sự phá hoại của thuyền trưởng và thuỷ thủ trên tàu…
+ Hành động của con người:Ăn trộm, ăn cắp hàng,mất cướp, chiến tranh, đình công,bắt giữ,tịch thu…
Ngoài ra còn có các rủi ro khác như rủi ro lúc xếp dỡ hàng,hàng bị nhiễm mùi, lây bẩn…
Các loại tổn thất.
Rủi ro xảy ra thường gây ra tổn thất đối với hàng hoá được vận chuyển bằng đường biển, thông thường rủi ro được phân chia theo các cách sau:
- Căn cứ vào mức độ và quy mô, tổn thất đựơc chia thành hai loại:
+ Tổn thất bộ phận (patial loss): Là sự mất mát một phần đối tượng bảo hiểm thuộc một hợp đồng bảo hiểm. Ví dụ lô hàng 10 tấn đường trong quá trình vận chuyển bị tổn thất 1 tấn.
+ Tổn thất toàn bộ (total loss): Là hàng hóa bảo hiểm bị mất 100% giá trị hoặc gía trị sử dụng. Tổn thất toàn bộ gồm 2 loại:
* Loại 1: Tổn thất toàn bộ thực sự (actual total loss) : Là tổn thất mà do hàng hóa bị phá hủy hoàn toàn hay bị hư hỏng nghiêm trọng không còn là vật phẩm như cũ hoặc người được bảo hiểm bị tước quyền sở hữu với hàng hóa.
Như vậy tổn thất toàn bộ thực sự có thể là do hàng hóa bảo hiểm bị phá hủy hoàn toàn như cháy hoặc nổ, hay hàng hóa bị hư hỏng nghiêm trọng như gạo hay ngô bị thối do ngấm nước hoặc người được bảo hiểm bị tước hẳn quyền sở hữu đối với hàng hóa như hàng vị mất do mất tích hay do tầu bị đắm.
* Loại 2: Tổn thất toàn bộ ước tính (contructive total loss) : Là tổn thất về hàng hóa mà không sao tránh khỏi tổn thất toàn bộ thực sự hay những chi phí phải bỏ ra để sửa chữa, khôi phục và đưa hàng hóa về bến đến bằng hoặc vượt quá trị giá hàng hóa.
Tổn thất toàn bộ ước tính gồm 2 dạng:
Thứ nhất: Chắc chắn tổn thất toàn bộ thực sự sẽ xảy ra, ví dụ một lô ngô được chở từ nước ngoài về Việt Nam, dọc đường ngô bị ngấm nước và bắt đầu thối, nếu cố mang về Việt Nam thì ngô sẽ thối hết, tổn thất toàn bộ thực sự chắc chắn sẽ xảy ra.
Thứ hai: Xét về tài chính thì coi là tổn thất toàn bộ, ví dụ vận chuyển sắt thép từ nước ngoài về Việt Nam, dọc đường tàu hỏng máy buộc phải vào Hồng Kông để sửa chữa. Ðể chữa tàu phải dỡ sắt lên bờ, trong thời gian chữa phải lưu kho lưu bãi sắt thép, khi chữa xong phải tái xếp sắt thép xuống tàu và đưa sắt thép về Việt Nam. Tổng các chi phí phải bỏ ra trong trường hợp này có thể bằng hoặc lớn hơn trị giá bảo hiểm của sắt thép.
Khi hàng hóa bị tổn thất toàn bộ ước tính, người được bảo hiểm có thể từ bỏ hàng hóa. Từ bỏ hàng hóa là từ bỏ mọi quyền lợi liên quan đến hàng hóa hay là sự tự nguyện của người được bảo hiểm chuyển quyền sở hữu về hàng hóa cho người bảo hiểm để đòi bồi thường toàn bộ. Muốn từ bỏ hàng phải tuân thủ các quy định sau;
Một là: Tuyên bố từ bỏ hàng (notice of abandonment - NOA) gửi cho người bảo hiểm bằng văn bản.
Hai là: Chỉ từ bỏ khi hàng hóa còn ở dọc đường và chưa bị tổn thất toàn bộ thực sự.
Ba là: Khi từ bỏ đã được người bảo hiểm chấp nhận thì không thay đổi được nữa, sở hữu về hàng hoá thuộc về người bảo hiểm và người được bảo hiểm được đòi bồi thường toàn bộ.
- Căn cứ vào quyền lợi và trách nhiệm, tổn thất được chia làm hai loại:
+ Tổn thất riêng (particular average) : Là tổn thất của từng quyền lợi bảo hiểm do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây nên. Ví dụ, dọc đường tàu bị sét đánh làm hàng hóa của chủ hàng A bị cháy, tổn thất của hàng A là do thiên tai, chủ hàng A phải tự chịu, hoặc đòi công ty bảo hiểm, không được phan bổ tổn thất cho chủ tàu và các chủ hàng khác. Tổn thất trong trường hợp này là tổn thất riêng.
+ Tổn thất chung (general average): Là những thiệt hại xảy ra do những chi phí hoặc hi sinh đặc biệt được tiến hành một cách cố ý và hợp lý nhằm mục đích cứu tàu, hàng hóa và cước phí trong một hành trình chung trên biển khỏi sự nguy hiểm chung đối với chúng.
Tổn thất chung được chia làm 2 bộ phận
* Bộ phận thứ nhất: Hy sinh tổn thất chung : Là những thiệt hại hoặc chi phí do hậu quả trực tiếp của một hành động tổn thất chung. Ví dụ: Tàu gặp bão lớn, buộc phải vứt hàng của chủ hàng A xuống biển để cứu toàn bộ hành trình. Hàng A bị vứt xuống biển là hy sinh tổn thất chung.
* Bộ phận thứ 2: Chi phí tổn thất chung: Phải trả cho người thứ ba trong việc cứu tàu, hàng, cước phí thoát nạn hoặc chi phí làm cho tàu tiếp tục hành trình. Những chi phí sau đây được coi là chi phí tổn thất chung; Chi phí tàu ra vào cảng lánh nạn, chi phí lưu kho lưu bãi tại cảng lánh nạn, chi phí tạm thời sửa chữa những hư hại của tàu, chi phí tăng thêm về nhiên liệu... do hậu quả của hành động tổn thất chung.
Các thiệt hại,chi phí hoặc hành động được coi là tổn thất chung khi có các đặc trưng sau:
Hành động cứu tàu phải là hành động tự nguyện,hữu ý của người có quyền hành trên biển là thuyền trưởng hoặc người thay mặt thuyền trưởng.
Hy sinh hoặc chi phí phải đặc biệt, bất thường.
Hy sinh hoặc chi phí phải hợp lý và vì an toàn chung, vì lợi ích chung của tất cả quyền lợi của các bên liên quan trong cuộc hành trình.
Nguy cơ đe doạ toàn bộ hành trình phải nghiêm trọng và thực tế.
Mất mát,thiệt hại hoặc chi phí phải là hậu quả trực tiếp của hành động tổn thất chung.
TTC phải xảy ra trên biển.
TTC và TTR có những điểm khác nhau: TTR xảy ra một cách ngẫu nhiên và chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi riêng biệt của các bên mà không có sự đóng góp chung trong khi TTC là cố tình và có sự chia sẻ tổn thất của các bên có liên quan.TTR có thể xảy ra trên biển hoặc bất kì địa điểm nào khác trong khi TTC chỉ xảy ra trên biển và đây là loại tổn thất mà công ty bảo hiểm luôn chịu trách nhiệm bồi thường cho các chủ hàng đối với mức đóng góp của mỗi bên còn đối với TTR công ty bảo hiểm có bồi thường hay không còn tuỳ vào điều kiện bảo hiểm.Thông thường khi có TTC xảy ra công ty bảo hiểm phải tiến hành tính toán mức độ đóng góp tổn thất của các bên để bồi thường hợp lý.
1.1.2.Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đường biển gặp rất nhiều rủi ro và tổn thất khó lường , trong lịch sử đã có không ít các rủi ro gây tổn thất rất lớn cho các chủ hàng, gây ra những ảnh hưởng rất xấu đến công việc kinh doanh của họ và con người đã có nhiều biện pháp chống lại những tác động xấu này nhưng thực tế cho thấy biện pháp hữu hiệu nhất là bảo hiểm. Hình thức sơ khai ban đầu là các chủ hàng đã tự bảo hiểm cho nhau bằng cách cùng chở hàng cho nhiều chủ hàng trên một con tàu, như vậy nếu có xảy ra rủi ro tổn thất thì các chủ hàng sẽ san sẻ tổn thất cho nhau và không ai phải gánh chịu rủi ro một mình cả, đây là cách làm rất hiệu quả vì vậy nó tiếp tục được nhân rộng và hoàn thiện dưới dạng các đơn bảo hiểm được cung cấp đa dạng bởi các công ty bảo hiểm như ngày nay. Vì bảo hiểm có quy mô và phạm vi bảo vệ rộng nên nó có thể đảm nhận vai trò là tấm lá chắn cho các chủ hàng khỏi những tổn thất lớn về tài chính mà họ không thể kham nổi. Nếu không có bảo hiểm các chủ hàng có thể sẽ không thể vực dậy hoạt động kinh doanh của mình khi có những tổn thất lớn xảy ra, nền kinh tế có thể sẽ gặp phải những biến động lớn khi những tổn thất mang tính chất thảm hoạ, chính bảo hiểm sẽ là tấm lá chắn che chở cho hoạt động kinh tế của các chủ thể diễn ra một cách an toàn và thông suốt. Hơn thế nữa,bảo hiểm cho hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển góp phần thúc đẩy mối quan hệ kinh tế quốc tế thông qua con đường thương mại và còn có ảnh hưởng tới vấn đề kinh tế xã hội của cả nước xuất khẩu và nước nhập khẩu.Chính vì lẽ đó, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trở thành một vấn đề quan trọng và cần thiết,trở thành tập quán thương mại quốc tế bắt buộc được áp dụng rộng rãi trên thế giới ngày nay.
1.1.3.Những nội dung cơ bản của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển.
1.1.3.1.Đối tượng bảo hiểm và trách nhiệm các bên liên quan
Đối tượng được bảo hiểm là hàng hoá xuất nhập khẩu được vận chuyển và xếp dỡ bằng đường biển có giấy tờ mua bán và nguồn gốc xuất xứ rõ ràng được thể hiện qua các hợp đồng mua bán,hợp đồng vận chuyển và hợp đồng giao nhận.
Thông thường hoạt động XNK hàng hoá được thực hiện qua 3 loại hợp đồng cụ thể là:
- Hợp đồng mua bán
- Hợp đồng vận chuyển
- Hợp đồng bảo hiểm
Ba loại hợp đồng này cũng là cơ sở pháp lý để phân định trách nhiệm của các bên liên quan và trách nhiệm này phụ thuộc vào điều kiện mua hàng của hợp đồng mua bán.Theo các điều kiện thương mại quốc tế “INCOTERM 2000”(international commercial terms) thì hiện nay có 13 loại điều kiện giao hàng được chia thành 4 nhóm như sau:
- Nhóm E: EXW(ex-work) nghĩa là điều kiện trong đó hàng xuất đi được bảo hiểm kể từ khi nó được giao tại cơ sở của người bán
- Nhóm F: Hàng hoá được bảo hiểm không bao gồm cước vận chuyển chính và bao gồm các điều kiện giao hàng cụ thể sau:
+ FCA( free carrier ) : hàng được bảo hiểm kể từ khi nó được giao cho người vận chuyển gọi là điều kiện giao hàng cho người vận chuyển
+ FAS( free alongside ship): hàng hoá được bảo hiểm kể từ khi nó được giao qua mạn tàu gọi là điều kiện giao hàng dọc mạn tàu.
+ FOB (free on board) : hàng hoá được bảo hiểm khi nó đã nằm trên tàu gọi là điều kiện giao hàng lên tàu.
- Nhóm C :Hàng hoá được bảo hiểm đã bao gồm cả cước vận chuyển chính và bao gồm các điều kiện giao hàng cụ thể sau:
+ CFR( Cost and freight): Giá trị bảo hiểm được bao gồm tiền hàng và cước phí vận chuyển
+ CIF( Cost insurance freight) : Giá trị bảo hiểm bao gồm tiền hàng, phí bảo hiểm và cước phí.
+ CPT ( carriage paid to…): cước trả tới
+ CIP ( Carriage and insurance paid to…) tiền cước và phí bảo hiểm trả tới.
-Nhóm D: Bảo hiểm cho hàng hoá khi hàng đến, tức là khi người bán đã giao hàng tại nước người mua, bao gồm:
+ DAF (Delivered at frontier) : bắt đầu bảo hiểm có hiệu lực khi hàng hoá được giao tại biên giới
+ DES ( Delivered ex-ship): bắt đầu bảo hiểm có hiệu lực khi hàng hoá được giao tại tàu.
+ DEQ(Delivered ex-quay): bắt đầu bảo hiểm có hiệu lực khi hàng hoá được giao tại cầu cảng.
+ DDU( Delivered duty paid) : hàng hoá bắt đầu được bảo hiểm khi nó được giao tại đích và đã nộp thuế cho hải quan.
Trong các điều kiện trên thì điều kiện FOB và điều kiện CIF là được sử dụng thường xuyên nhất trong đó điều kiện FOB thường được các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng khi xuất khẩu và điều kiện CIF thường được sử dụng khi nhập khẩu.
Về cơ bản, trách nhiệm của các bên được phân chia như sau:
- Người bán(người xuất khẩu): Chuẩn bị hàng hoá theo đúng hợp đồng về số lượng, chất lượng, loại hàng,bao bì đóng gói, thời hạn tập kết hàng ở cảng. thủ tục hải quan, kiểm dịch…
Nếu bán theo giá CIF thì người bán phải mua bảo hiểm cho hàng hoá, sau đó kí hậu vào đơn bảo hiểm để chuyển nhượng quyền lợi bảo hiểm cho người mua.
- Người mua(người nhập khẩu) :Có trách nhiệm nhận hàng của người chuyên chở theo đúng số lượng, chất lượng đã ghi trong hợp đồng vận chuyển và hợp đồng mua bán, lấy giấy chứng nhận kiểm đến. biên bản kết toán giao nhận hàng với chủ tàu, biên bản hàng hoá hư hỏng đổ vỡ do tàu gây nên (nếu có).
Nếu sai lệch về số lượng, chất lượng với hợp đồng mua bán nhưng đúng đối với hợp đồng vận chuyển thì người mua bảo lưu quyền khiếu nại đối với người bán.Nếu phẩm chất, số lượng sai lệch so với biên bản giao hàng thì người mua căn cứ vào hang hư hỏng do tàu đổ vỡ gây nên mà khiếu nại người vận chuyển.
Ngoài ra, người mua còn có trách nhiệm mua bảo hiểm cho hàng hoá hoặc nhận hợp đồng bảo hiểm do người bán chuyển nhượng lại.
- Người vận chuyển: Có trách nhiệm chuẩn bị phương tiện vận chuyển theo yêu cầu kỹ thuật thương mại và kỹ thuật hàng hải,giao nhận hàng theo đúng quy định của hợp đồng vận chuyển. Theo tập quán thương mại quốc tế, tàu chở hàng cũng được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm thân tàu.Ngoài ra, người vận chuyển còn có trách nhiệm cấp vận đơn cho người gửi hàng. Vận đơn( Bill of Lading) là một chứng từ vận chuyển hàng trên biển do người vận chuyển cấp cho người gửi hàng nhằm nói lên mối quan hệ pháp lý giữa người vận chuyển, người gửi hàng và người nhận hàng.
- Người bảo hiểm có trách nhiệm đối với hàng hoá đăng kí bảo hiểm.Chẳng hạn kiểm tra chứng từ về hàng hoá,về hành trình và bản thân con tàu vận chuyển…
1.1.3.2.Giá trị bảo hiểm,Số tiền bảo hiểm và Phí bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm(GTBH) là giá trị thực tế của lô hàng đăng kí tham gia bảo hiểm,thường là giá CIF,bao gồm : Giá hàng hoá, cước phí vận chuyển,phí bảo hiểm và các chi phí liên quan khác.Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu khách hàng, các công ty bảo hiểm còn tổ chức bảo hiểm cho lợi nhuận dự tính của lô hàng.
Giả sử là các hợp đồng bảo hiểm đều bảo hiểm cho cả lô hàng hoá và cả lợi nhuận thương mại của lô hàng(tối đa 10% giá CIF) thì giá trị bảo hiểm của lô hàng lớn nhất bằng 110% CIF. Có thể xác định giá trị bảo hiểm( GTBH ) theo giá CIF theo công thức sau:
V=C+F/1-R
Trong đó:
- V (Value) là GTBH của hàng hoá XNK theo giá CIF
- C(Cost) là giá hàng được tính bằng giá FOB ở cảng đi
- F(freight) là cước phí vận chuyển
- R(rate) là tỷ lệ phí bảo hiểm
Hoặc nếu bảo hiểm theo lãi dự tính thì GTBH = (C+F).(a+1)/1-R
Trong đó a là tỉ lệ phần trăm lãi dự tính của lô hàng so với tổng giá trị của lô hàng(gồm giá trị hàng hoá và cước phí vận chuyển)
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm(STBH ) là số tiền được đăng kí bảo hiểm ghi trong hợp đồng bảo hiểm,nó được xác định trên cơ sở GTBH . GTBH lại thường được xác định căn cứ vào hoá đơn hàng hoá.Thường thì có 3 trường hợp sau đây:
-Nếu STBH bằng GTBH thì gọi là bảo hiểm ngang giá trị hay bảo hiểm toàn phần.
-Nếu STBH cao hơn GTBH thì gọi là bảo hiểm trên giá trị hay bảo hiểm vượt mức
-Nếu STBH thấp hơn GTBH thì gọi là bảo hiểm dưới giá trị hay bảo hiểm dưới mức.
Các chủ hàng thường đăng kí bảo hiểm cho hàng hoá theo bảo hiểm ngang giá trị hoặc thấp hơn giá trị.
Phí bảo hiểm.
Khi tham gia bảo hiểm, người tham gia phải trả cho nhà bảo hiểm một khoản phí gọi là phí bảo hiểm để nhà bảo hiểm bảo hiểm cho những rủi ro mà hàng hoá có thể gặp phải.Phí bảo hiểm được xác định trên cơ sở STBH và tỷ lệ phí bảo hiểm.Phí bảo hiểm(P) được xác định như sau:
P = Sb.R
Trong đó:
- Sb là STBH
- R là Tỷ lệ phí bảo hiểm được tính toán dựa trên các điều kiện liên quan đến đối tượng bảo hiểm như GTBH, điều kiện bảo hiểm, mức khấu trừ, hạn mức trách nhiệm của các công ty bảo hiểm v.v…
Như đã nói ở trên,vì các chủ hàng thường mua bảo hiểm ngang giá trị nên phí bảo hiểm có thể được xác định theo công thức :
P=CIF.R(nếu không có phần bảo hiểm thêm cho lãi dự tính)
Hoặc P=CIF.(a+1).R(nếu bảo hiểm thêm phần lãi dự tính a)
Tỷ lệ phí bảo hiểm R được thoả thuận và quy định trong hợp đồng bảo hiểm.Tỷ lệ này phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Loại hàng hoá:Hàng dễ bị tổn thất nhưng dễ vỡ,dễ bị mất cắp thì tỉ lệ phí bảo hiểm sẽ cao hơn.
- Loại bao bì:Bao bì càng chắc chắn thì tỷ lệ phí bảo hiểm càng hạ
- Phương tiện vận chuyển cũng là một nhân tố quan trọng quyết định đến tỷ lệ phí bảo hiểm:hàng hoá được chở trên tàu trẻ và có chất lượng chuyên chở tốt sẽ có tỉ lệ phí bảo hiểm thấp hơn hàng chở bằng tàu già.
- Hành trình: Tỷ lệ phí bảo hiểm tăng lên đối với những hành trình có nhiều rủi ro(theo thống kê kinh nghiệm) hoặc hành trình qua các vùng có xung đột vũ trang…
- Điều kiện bảo hiểm:Điều kiện bảo hiểm có phạm vi càng hẹp thì tỷ lệ phí bảo hiểm càng thấp.
Các bộ luật và quy tắc bảo hiểm hàng hải đều lưu ý rằng việc nộp phí bảo hiểm là điều kiện vô cùng quan trọng để xác định HĐBH có hiệu lực .Công ty bảo hiểm có quyền huỷ HĐBH nếu người được bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ trả phí theo thoả thuận hoặc có quyền từ chối bồi thường khi rủi ro xảy ra.
Giám định và bồi thường tổn thất.
Nghĩa vụ của người được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất.
Khi có rủi ro xảy ra đối với phương tiện vận chuyển hoặc đối với bản thân hàng hoá mà đe doạ tới sự an toàn của hàng hoá của người được bảo hiểm thì người được bảo hiểm phải có trách nhiệm thông báo cho các cơ quan liên quan nơi gần nhất như cơ quan hàng hải, cơ quan bảo hiểm …để những cơ quan này có biện pháp theo dõi và phòng bị cho tàu và hàng hoá.Nếu nhận được thông tin hay phát hiện hàng hoá bị tổn thất thì người được bảo hiểm cần phải thông báo ngay cho người bảo hiểm hay đại lý họ chỉ đến giám định .Việc giám định này chỉ được thực hiện khi có đơn đề nghị của người được bảo hiểm gửi đến cho người bảo hiểm.
Bên cạnh đó việc tổ chức các hoạt động bảo vệ tài sản trước những tổn thất lớn hơn có thể xảy ra hoặc hạn chế tổn thất đã xảy ra là trách nhiệm của cả hai bên,nó đòi hỏi nỗ lực lớn từ cả hai bên và hành động cứu chữa hàng hoá này không hề là dấu hiệu cho thấy bất kì sự gian dối hay từ chối nào từ phía nhà bảo hiểm hay nói cách khác việc cứu chữa hàng hoá không làm ảnh hưởng đến cách thức và nội dung giải quyết bồi thường của cả hai bên mà nó chỉ có mục đích duy nhất là nhằm giảm thiểu tổn thất cho hàng hoá.
Khiếu nại đòi bồi thường.
Trong mọi trường hợp,người được bảo hiểm hay đại lý của họ có trách nhiệm đảm bảo việc thực hiện và bảo lưu đầy đủ cho người bảo hiểm quyền khiếu nại đối với người chuyên chở,người nhận uỷ thác hàng hoá hay người thứ ba khác.Đặc biệt họ cần làm theo các quy định sau đây:
- Khiếu nại ngay người vận chuyển,chính quyền cảng hay những người nhận uỷ thác hàng về bất kì kiện hàng nào bị mất.
- Yêu cầu đại diện người chuyên chở hay người nhận uỷ thác hàng hoá tham gia việc chứng kiến giám định ngay khi phát hiện hàng hoá có hiện tượng mất mát hư hỏng và qua giám định nếu thấy thực tế có giám định tổn thất thì phải lập hồ sơ khiếu nại họ.
- Trừ khi đã có thư kháng nghị,trong mọi trường hợp không được cấp giấy biên nhận hoàn chỉnh cho những hàng hoá có hiện tượng nghi vấn.
- Gửi giấy báo cho đại diện người chuyên chở hay người nhận uỷ thác hàng hoá trong vòng ba ngày sau khi nhận hàng nếu tổn thất thuộc loại khó phát hiện vào thời gian nhận hàng.
Nếu người được bảo hiểm không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ như đã quy định trên đây thì người bảo hiểm có quyền từ chối những khiếu nại thuộc trách nhiệm người chuyên chở,người nhận uỷ thác hàng hoá hay người thứ ba khác.
Khi đòi người bảo hiểm bồi thường về những mất mát hay hư hỏng thuộc trách nhiệm hợp đồng bảo hiểm,người được bảo hiểm cần phải nộp đủ các giấy tờ chứng minh trong đó tuỳ trường hợp liên quan phải có:
- Bản chính của đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm.
- Bản chính hoặc bản sao hoá đơn gửi hàng,kèm tờ kê chi tiết hàng hoá và/hoặc phiếu ghi trọng lượng
- Bản chính của vận tải đơn và /hoặc hợp đồng chuyên chở các loại
- Biên bản giám định và chứng từ tài liệu khác chỉ rõ mức độ tổn thất.
- Giấy biên nhận và giấy chứng nhận tàu giao hàng và phiếu ghi trọng lượng tại nơi nhận cuối cùng
- Bản sao báo cáo hải sự và/hoặc trích sao nhật kí hàng hải.
- Công văn thư từ trao đổi với người chuyên chở và các bên khác về trách nhiệm của họ đối với tổn thất
- Thư đòi bồi thường.
Trường hợp các chứng từ trong bộ hồ sơ khiếu nại chưa làm sáng tỏ được tổn thất có thuộc trách nhiệm của bảo hiểm hay không,người bảo hiểm yêu cầu cung cấp thêm các chứng từ sau:
- Hợp đồng mua bán
- Thư tín dụng
- Lược khai
- Phiếu kiểm đếm
- Biên bản giám định hàng hoá xuất nhập khẩu
- Nhật kí hàng hải
- Giấy chứng nhận đăng kiểm tàu
- Các biên bản của công an,chính quyền cảng …
Giám định và bồi thường tổn thất.
Sau khi nhận được thông báo tổn thất về hàng hoá của người tham gia bào hiểm,nhà bảo hiểm phải nhanh chóng xem xét để giải quyết các khiếu nại này cho khách hàng.Quy trình này bao gồm giám định và bồi thường tổn thất.
* Giám định là việc làm của người bảo hiểm hoặc người được ủy thác nhằm đánh giá,xác định nguyên nhân mức độ và trách nhiệm đối với tổn thất của đối tượng được baỏ hiểm để làm căn cứ cho việc bồi thường.Tiến trình giám định được tổ chức thực hiện theo sơ đồ sau:
Xử lý thông tin ban đầu
Nhận thông tin từ khách hàng
Báo cáo lãnh đạo
Trực tiếp giám định
Thoả thuận và theo dõi, khắc phục hậu quả
Lập biên bản giám định
Bồi thường
Báo cáo tổng công ty
Chỉ
định giám định
Nhận biên bản giám định, trả phí
Theo dõi, đánh giá
>10tr/phức tạp
< 10tr / đơn giản
Có thể tóm tắt quá trình thực hiện giám định như sau:
Công ty bảo hiểm nhận thông báo của khách hàng về đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất hoặc gặp tai nạn, các cán bộ chuyên môn vào sổ tiếp nhận để tiến hàng theo dõi yêu cầu giám định của khách hàng.Đối với các trường hợp có giá trị tổn thất khoảng nhỏ hơn 10 triệu đồng và những vụ đơn giản thì thông báo cho bộ phận giám định viên của công ty để xử lý, nếu tổn thất lớn và phức tạp thì công ty bảo hiểm sẽ thông báo về văn phòng tổng công ty để hỏi xin ý kiến của các cấp lãnh đạo cao hơn cùng phối hợp xử lý, thường thì lúc đó lãnh đạo tổng công ty sẽ chỉ định giám định viên tiến hành giám định. Dù giám định theo phương pháp tự làm hay thuê ngoài thì công ty bảo hiểm cũng phải có đẩy đủ các thông tin đầy đủ về đối tượng được bảo hiểm và vụ tổn thất nhằm tiến hành giám định một cách khách quan, chính xác. Mục đích của công tác giám định là xác định nguyên nhân và mức độ của tổn thất làm căn cứ cho quá trình bồi thường.Việc xác định tổn thất cần tuân theo những nguyên tắc cơ bản sau:
- Tổn thất toàn bộ như đã nói ở trên gồm tổn thất toàn bộ thực tế và tổn thất toàn bộ ước tính.
- Khi xảy ra mất mát hư hỏng thuộc phạm vi trách nhiệm hợp đồng bảo hiểm,nếu hàng hóa đựơc bảo hiểm bị phá hủy hoàn toàn hay bị hư hỏng nghiêm trọng tới mức không còn là vật phẩm tính với tính chất ban đầu của nó nữa hoặc ngừời được bảo hiểm bị mất hẳn quyền sở hữu hàng hóa thì được coi là tổn thất toàn bộ thực tế.
- Khi hàng hóa được bảo hiểm bị mất mát hay hư hỏng thuộc phạm vi trách nhiệm hợp đồng bảo hiểm,nếu xét thấy không thể tránh khỏi tổn thất toàn bộ thực tế hoặc do các chi phí cứu hàng,chi phí chỉnh lý và gửi hàng đến nơi nhận ghi trong hợp đồng bảo hiểm có thể vượt quá giá trị hàng khi tới nơi nhận nó thì được coi là tổn thất toàn bộ ước tính.
- Bất kì trường hợp tổn thất hay hư hỏng nào không thuộc loại tổn thất đã nói ở hai phần trên thì đều đựơc coi là tổn thất bộ phận.
- Nếu tàu chở hàng bị mất tích thì hàng hóa được bảo hiểm sẽ được coi là tổn thất toàn bộ thực tế.Tàu chở hàng được coi là mất tích khi không tới đựơc đến bến và cũng không có tin tức gì,về thời gian thì đã quá ba lần quãng thời gian cần thiết để cho tàu đi từ điạ điểm dừng lại cho tới bến đến.Tuy nhiên thời gian cần thiết để xác định việc mất tích tàu không được ít hơn 3 tháng .Nếu việc thông báo tin tức bị ảnh hưởng bởi chiến tranh hoặc những hoạt động quân sự thì thời hạn này được đổi thành 6 tháng.
* Bồi thường.
Khách hàng không đồng ý
Đòi tái BH
- Sơ đồ:
Công việc sau bồi thường
Thông báo bồi thường và lưu hồ sơ
Đạt
Thu thập và kiểm tra hồ sơ đòi bồi thường
Duyệt bồi thường
Bán cứu vướt tài sản
Xét bồi thường
Bồi thường
Trên phan cấp
Khách hàng
Không đồng ý
Không bồi thường
Đòi người thứ 3
Xử lý khiếu nại của khách hàng
Từ chối
Trình tổng công ty
- Ngay sau khi việc giám định được tiến hành xong, nhân viên của công ty bảo hiểm sẽ yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ bộ hồ sơ khiếu nại và dựa vào đó để làm căn cứ xét bồi thường.Cán bộ bồi thường phải làm tờ trình bồi thường và trình cho cán bộ lãnh đạo xem xét, cho ý kiến và duyệt hồ sơ bồi thường theo phân cấp.Nếu không đồng ý bồi thường vì một lý do nào đó, cán bộ bồi thường phải lập công văn gửi cho người khiếu nại giải thích rõ lý do vì sao lại từ chối bồi thường.Nếu hồ sơ được cán bộ lãnh đạo xét duyệt cho bồi thường thì cán bộ bồi thường lập thông báo bồi thường và gửi cho khách hàng để lấy ý kiến của họ về việc bồi thường.Ở bước này, phải tuỳ vào phản ứng của khách hàng để có những xử lý phù hợp: Nếu khách hàng chấp nhận việc bồi thường thì tiến hành bước tiếp theo là thanh toán bồi thường, nếu họ không chấp nhận thì phải quay lại từ bước xét bồi thường còn nếu khách hàng đồng ý nhưng vẫn còn có một số khiếu nại phát sinh thì cần tiến hành xử lý những khiếu nại này.Sau khi bồi thường, nhà bảo hiểm thực hiện các công việc như đòi tái bảo hiểm, đòi người thứ ba, bán cứu vớt. Những công việc này là nhằm giảm gánh nặng bồi thường cho nhà bảo hiểm.Quá trình bồi thường thì quan trọng nhất là cách tính toán và thanh toán số tiền bồi thường,những công việc này khi thực hiện cũng phải tuân theo một số nguyên tắc như:
- Khi hàng hóa được bảo hiểm bị tổn thất bộ phận thì số tiền bồi thường đựơc xác định bằng tổng giá trị hàng hóa khi còn nguyên vẹn trừ đi tổng giá trị hàng hóa còn lại sau khi đã bị tổn thất tại nơi nhận hàng trên cơ sở tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm.
- Trường hợp tổn thất chung thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm thì số tiền đóng góp tổn thất chung của người đựơc bảo hiểm sẽ đựơc bảo hiểm bồi thường lại đầy đủ.Tuy nhiên,nếu số tiền bảo hiểm của hàng hóa lại thấp hơn giá trị tổn thất chung thì người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường số tiền đóng góp tổn thất chung theo tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị đóng góp.
- Trách nhiệm của người bảo hiểm chỉ giới hạn ở số tiền bảo hiểm.Tuy nhiên, người bảo hiểm vẫn phải chịu trách nhiệm đối với số tổn thất cộng với các chi phí cứu hộ,chi phí giám định ,chi phí đánh giá và bán lại hàng hóa bị tổn thất,chi phí đòi người thứ ba bồi thường và tiền đóng góp tổn thất chung,dù cho tổng số tiền bồi thường như vậy có thể vượt quá số tiền bảo hiểm.
- Người bảo hiểm có quyền được miễn mọi trách nhiệm quy định trong hợp đồng bảo hiểm bằng cách khước từ quyền lợi về hàng hóa bảo hiểm và quyền khiếu nại người thứ ba, đồng thời bồi thường cho người được bảo hiểm toàn bộ số tiền bảo hiểm.Khi thực hiện quyền này thì người bảo hiểm phải thông báo cho ngưòi được bảo._. hiểm biết trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của người được bảo hiểm về thảm họa đã xảy ra và hậu quả của nó.Những chi tiết hợp lý cần thiết mà người bảo hiểm đã chi trước khi nhân được thông báo trên nhằm phòng tránh hoặc giảm nhẹ tổn thất sẽ được người bảo hiểm bồi hoàn.
- Việc bồi thường được giải quyết bằng loại tiền quy định trong hợp đồng hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm,không bồi thường bằng hiện vật.
Quá trình bồi thường lại thường cần lưu ý những công việc đặc biệt như:
- Chuyển quyền đòi bồi thưòng(đòi người thứ ba)
Sau khi thanh toán bồi thưòng theo hợp đồng bảo hiểm,mọi khoản khiếu nại và quyền khiếu nại của người được bảo hiểm đối với những ngưòi thứ ba đều được chuyển cho người bảo hiểm mà giới hạn là số tiền bồi thưòng.
Ngay khi nhận được tiền bồi thường của người bảo hiểm,người được bảo hiểm có trách nhiệm chuyển giao cho ngưòi bảo hiểm mọi tài liệu và bằng chứng của họ và phaỉ làm đầy đủ thủ tục đáp ứng yêu cầu thực hiện quyền truy đòi của người bảo hiểm.Nếu người được bảo hiểm bỏ qua quyền đòi người thứ ba hoặc nếu do lỗi của họ mà không thể thực hiện được quyền này(như hết hạn gửi thư khiếu nại người chịu trách nhiệm về tổn thất …)thì ngưòi bảo hiểm sẽ được miễn trách nhiệm bồi thường với một mức độ thích hợp và nếu việc bồi thường của người bảo hiểm đã được giải quyết thì người được bảo hiểm có nghĩa vụ hoàn lại một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thưòng mà họ nhận được ,tùy theo từng trường hợp cụ thể.
- Từ bỏ hàng
Việc từ bỏ hàng phải tuân theo các nguyên tắc sau:
- Trường hợp người được bảo hiểm muốn khiếu nại tổn thất toàn bộ ước tính cho hàng hóa được bảo hiểm thì họ phải gửi thông báo từ bỏ hàng cho người bảo hiểm.Nếu không thực hiện theo quy định này thì tổn thất chỉ được giải quyết theo hình thức bồi thường bộ phận.
- Thông báo từ bỏ hàng phải làm thành văn bản và trong mọi trường hợp phải cho biết ý định của người được bảo hiểm là từ bỏ không điều kiện mọi quyền lợi về hàng hóa được bảo hiểm cho ngưòi bảo hiểm.
- Trường hợp thông báo từ bỏ hàng được gửi theo đúng quy định thì quyền khiếu nại của người được bảo hiểm không bị phương hại bởi việc người được bảo hiểm từ chối chấp nhận từ bỏ hàng.Khi thông báo từ bỏ hàng đã được chấp nhận thì việc từ bỏ hàng không còn thay đổi khác được.
1.1.3.3.Các điều kiện bảo hiểm
Điều kiện bảo hiểm là những điều quy định phạm vi trách nhiệm vủa người bảo hiểm đối với tổn thất của hàng hoá.Hàng hoá được bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm nào thì chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong điều kiện đó mới được bồi thường.Ngày 01/01/1963,Viện những người bảo hiểm Luân Đôn ILU xuất bản 3 điều kiện bảo hiểm hàng hoá là FPA,WA và AR.Các điều kiện này đã được áp dụng rộng rãi trên thế giói trong một thời gian dài,tuy nhiên nó cũng đã bộc lộ những điểm hạn chế như điều khoản không rõ ràng, gây hiểu lầm cho người tham gia do đó ngày 01/01/1982, ILU xuất bản các điều kiện bảo hiểm mới thay thế các điều kiện bảo hiểm cũ.So với các điều kiện cũ, các điều kiện mới trình bày rõ ràng, dễ hiểu hơn.Điều kiện bảo hiểm mới đã khắc phục được những điêm hạn chế của các điều kiện cũ, khắc phục được sự mập mờ, khó hiểu của ngôn ngữ trong các điều kiện bảo hiểm cũ,nội dung bảo hiểm mới cũng đã có sự thay đổi và hiện nay xu thế chung là thế giới đang chuyển sang dùng hệ thống các điều kiện mới này nên ở đây chỉ xin đề cập đến nội dung các điều kiện mới này.Các điều kiện này bao gồm:
- Institute cargo clauses C(ICC C)-điều kiện bảo hiểm C
- Institute cargo clauses B(ICC B)-điều kiện bảo hiểm B
- Institute cargo clauses A (ICC A)-điều kiện bảo hiểm A
- Institute war clauses-điều kiện bảo hiểm chiến tranh
- Institute strikes clauses-điều kiện bảo hiểm đình công
Sau đây là nội dung cơ bản của ICC 01/01/1982
Điều kiện bảo hiểm C(ICC C)
- Phạm vi bảo hiểm theo điều kiện C bao gồm:
+ Tổn thất hay tổn hại của hàng hoá được bảo hiểm có nguyên nhân hợp lý do cháy hoặc nổ; tàu bị mắc cạn,chìm đắm,bị lật,đâm va;dỡ hàng tại cảng lánh nạn.
+ TTC
+ Phần trách nhiệm mà người được bảo hiểm phải chịu theo điều khoản hai tàu đâm va đều có lỗi.
Các rủi ro loại trừ bao gồm:
+ Tổn thất hay tổn hại do hành vi xấu,cố ý của người được bảo hiểm.
+ Rò rỉ,hao hụt thông thường về trọng lượng,khối lượng hoặc hao mòn tự nhiên của đối tượng được bảo hiểm
+ Do nội tỳ hoặc bản chất của hàng hoá
+ Tổn thất hoặc tổn hại do đóng gói bao bì không đủ điều kiện,không thích hợp
+ Tổn thất hoặc tổn hại mà nguyên nhân trực tiếp là chậm trễ
+ Tổn thất hoặc tổn hại do không được trả nợ do không trả được nợ hoặc thiếu thốn về tài chính của chủ tàu, người quản lý, người thuê tàu hoặc người khai thác tàu.
+ Tổn thất hoặc tổn hại do việc sử dụng bất kì một loại vũ khí chiến tranh nào có dùng phản ứng hạt nhân ,phản ứng hoá học ,chất phóng xạ…
+ Thiệt hại cố ý hoặc sự phá hoại cố ý đối tượng được bảo hiểm do hành động phạm pháp của bất kì người nào.
+ Do tàu không đủ khả năng đi biển,hoặc không thích hợp cho việc vận chuyển hàng hoá mà người được bảo hiểm đã biết tình trạng đó vào lúc hàng hoá được xếp lên phương tiện vận tải.
+ Tổn thất xảy ra do chiến tranh, nội chiến, bạo loạn, hành động thù địch,tịch thu,bắt giữ,quản chế, giam cầm…
+ Tổn thất do mìn ,thuỷ lôi,bom và các loại vũ khí chiến tranh khác.
+ Tổn thất được gây ra bởi người đình công,công nhân bị cấm xưởng hoặc những người tham gia gây rối loạn lao động, bạo động hoặc nổi loạn.
+ Tổn thất xảy ra do bạo động chính trị,động cơ chính trị.
Khi có tổn thất xảy ra thì trách nhiệm chứng minh tổn thất thuộc về người được bảo hiểm (chủ hàng)
Điều kiện bảo hiểm BH(ICC B)
Theo điều kiện này thì công ty bảo hiểm ngoài bảo hiểm cho các điều kiện như ở điều kiện bảo hiểm C thì còn bồi thường tổn thất hay tổn hại đối với hàng hoá được bảo hiểm do động đất,núi lửa, sét đánh,bị nước biển cuốn khỏi tàu,nước biển,nước sông hồ xâm nhập vào hầm tàu,vào công-ten-nơ hoặc nơi để hàng; tổn thất nguyên kiện hàng trong quá trình xếp dỡ truyền tải
Điểu kiện bảo hiểm A(ICC A)
Đây là điều kiện bảo hiểm có phạm vi rộng nhất, bảo hiểm cho tất cả những hư hỏng ,mất mát của hàng hoá,kể cả rủi ro cướp biển,chỉ trừ những rủi ro loại trừ theo quy định và không áp dụng mức miễn thường.
Các điều kiện bảo hiểm này đều không phân biệt TTBP và TTTB và các điều kiện được bảo hiểm hay loại trừ cũng được thể hiện rõ ràng,tránh hiện tượng mập mờ khó hiểu như trong các điều kiện cũ trước đây vì vậy các điều kiện bảo hiểm C,B,A hiện đang được áp dụng rộng rãi trên thị trường thế giới.
Điều kiện bảo hiểm chiến tranh
Theo điều kiện bảo hiểm này,người bảo hiểm này,người bảo hiểm này phải bồi thường những mất mát hư hỏng của hàng hoá khi các điều kiện sau xảy ra:
- Chiến tranh,nội chiến, cách mạng, nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung đột dân sự xảy ra từ sự biến cố đó hoặc bất kì hành động thù địch nào.
- Chiếm đoạt,bắt giữ kiềm chế hoặc cầm giữ
- Mìn, thuỷ lôi, bom hoặc các vũ khí chiến tranh khác
- TTC và các chi phí cứu nạn
Điều kiện bảo hiểm này bắt đầu có hiệu lực từ khi hàng hoá được xếp lên tàu biển và kết thúc khi được dỡ khỏi tàu tại cảng cuối cùng hoặc khi hết hạn 15 ngày kể từ nửa đêm ngày tàu đến cảng dỡ cuối cùng,tuỳ theo điều kiện nào xảy ra trước.Nếu có chuyển tải,bảo hiểm vẫn tiếp tục có hiệu lực cho đến khi hết hạn 15 ngày kể từ nửa đêm ngày tàu đến cảng chuyển tải
Đối với rủi ro do mìn và ngư lôi, trách nhiệm của người bảo hiểm mở rộng cả khi hàng hoá còn ở trên xà lan để vận chuyển ra tàu hoặc từ tàu vào bờ nhưng không vượt quá 60 ngày kể từ ngày dỡ hàng khỏi tàu,trừ khi có thoả thuận đặc biệt khác.
Điều kiện bảo hiểm đình công
Bảo hiểm cho những mất mát,hư hỏng của hàng hoá được bảo hiểm do:
- Người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những người tham gia gây rối loạn lao động, bạo động hoặc nổi dậy.
- Hành động khủng bố hoặc vì mục đích chính trị
- TTC và chi phí cứu nạn
Người bảo hiểm chỉ bồi thường những tổn thất do hành động trực tiếp của người đình công mà không chịu trách nhiệm về những thiệt hại do hậu quả của đình công.
1.1.3.4.Các điều kiện bảo hiểm ở Việt Nam.
Ngoài các điều kiện bảo hiểm theo ICC 1982,hiện nay trên thị trường bảo hiểm Việt Nam còn áp dụng các điều kiện bảo hiểm tương tự như các điều kiện này nhưng có một vài điểm khác để phù hợp hơn với thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Ta có thể tham khảo thêm các điều kiện bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển của công ty bảo hiểm Dầu Khí trong quyển “Quy tắc bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển”được ban hành kèm theo Quyết định số 841/QĐ-PVI ngày 14 tháng 09 năm 2007 của tổng Giám Đốc công ty bảo hiểm cổ phần Dầu khí như sau:
Quy tắc này được áp dụng cho việc bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển bao gồm giá trị hàng hoá,lãi ước tính nếu có, phí bảo hiểm,cước phí và các chi phí khác liên quan.Theo đó, hợp đồng bảo hiểm hàng hoá có thể kí kết theo một trong những điều kiện sau đây:
Điều kiện C:
Trừ trường hợp quy định loại trừ được quy định dưới đây,theo điều kiện này người bảo hiểm chịu trách nhiệm đối với:
a. Những mất mát,hư hỏng xảy ra cho hàng hoá được bảo hiểm có thể quy hợp lý cho các nguyên nhân sau:
- Cháy hoặc nổ
- Tàu hay sà lan bị mắc cạn, đắm hoặc lật úp
- Tầu đâm va nhau hoặc tàu,sà lan hay phương tiện vận chuyển đâm va phải bất kì vật thể bên ngoài không kể nước.
- Dỡ hàng tại một cảng nơi tàu lánh nạn
- Phương tiện vận tải đường bộ bị lật đổ hoặc trật bánh.
b. Những mất mát, hư hỏng xảy ra cho hàng hoá được bảo hiểm do các nguyên nhân sau gây ra:
- Hi sinh tổn thất chung
- Ném hàng khỏi tàu
c. Hàng hoá được bảo hiểm bị mất do tàu hoặc phương tiện chở hàng mất tích.
Điều kiện B:
Trừ những trường hợp đã quy định loại trừ đưới đây, theo điều kiện này,người baỏ hiểm chịu trách nhiệm đối với:
a. Những mất mát, hư hỏng xảy ra cho hàng hoá được bảo hiểm có thể quy hợp lý cho các nguyên nhân sau:
- Cháy hoặc nổ
- Tàu hay sà lan bị mắc cạn,đắm hoặc lật úp
- Tàu đâm va nhau hoặc tàu, sà lan hay phương tiện vận tải đâm va phải bất kì vật thể gì bên ngoài không kể nước
- Dỡ hàng tại một cảng nơi tầu lánh nạn
- Phương tiện vận tải đường bộ bị lật đổ hoặc trật bánh
- Động đất,núi lửa phun hoặc sét đánh
b. Những mất mát,hư hỏng xảy ra đối với hàng hoá được bảo hiểm do các nguyên nhân sau:
- Hy sinh tổn thất chung
- Ném hàng khỏi tàu hoặc nước cuốn khỏi tàu
- Nước biển,nước hồ hay nước sông xâm nhập vào tàu, sà lan, hầm hàng,phương tiện vận tải, công ten nơ hoặc nơi chứa hàng
c. Tổn thất toàn bộ của bất kì kiện hàng nào rơi khỏi tàu hoặc rơi trong khi đang xếp hàng lên hay đang dỡ hàng khỏi tàu hoặc sà lan
d.Hàng hoá được bảo hiểm bị mất do tàu hoặc phương tiện chở hàng mất tích
Điều kiện A:
Theo điều kiện này,người bảo hiểm chịu trách nhiệm về mọi rủi ro gây ra mất mát hư hỏng cho hàng hoá được bảo hiểm,trừ trường hợp đã quy định loại trừ.
Bên cạnh đó,dù hàng hoá được bảo hiểm theo điều kiện A,B hay C thì người bảo hiểm còn phải chịu trách nhiệm về những tổn thất và những chi phí sau đây:
a. Tổn thất chung và chi phí cứu hộ được điều chỉnh hay xác định bằng hợp đồng chuyên chở và /hoặc theo luật pháp và tập quán hiện hành,đã chỉ ra nhằm tránh hay liên quan đến việc tránh khỏi tổn thất có thể xảy ra do bất kì nguyên nhân gì trừ những trường hợp đã loại trừ của quy tắc này hay những trường hợp loại trừ khác quy định trong hợp đồng bảo hiểm.Tuy nhiên, khi có tổn thất chung người được bảo hiểm cần hỏi ý kiến người bảo hiểm trước khi kê khai và ký cam kết tổn thất chung.
b. Những chi phí và tiền công hợp lý mà người được bảo hiểm,người làm công và đại lý của họ đã chi nhằm phòng tránh,giảm nhẹ tổn thất cho hàng hoá được bảo hiểm để đòi bồi thường và kiện chuyên chở,người nhận uỷ thác hàng hoá hay người thứ ba khác,với điều kiện những chi phí và tiền công này phải được giới hạn trong phạm vi những tổn thất thuộc trách nhiệm người bảo hiểm.
c. Những chi phí hợp lý cho việc dỡ hàng,lưu kho và gửi tiếp hàng hoá được bảo hiểm tại cảng dọc đường hay cảng lánh nạn do hậu quả của một cuộc rủi ro thuộc phạm vi hợp đồng bảo hiểm.
d. Những chi phí hợp lý cho việc giám định và xác định số tổn thất mà người bảo hiểm phải chịu trách nhiệm bồi thường.
e. Phần trách nhiệm thuộc điều khoản:”Tầu đâm va đôi bên cùng chịu trách nhiệm”ghi trong hợp đồng vận chuyển được coi như một loại tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của người bảo hiểm.Trường hợp chủ tàu khiếu nại theo điều khoản đó thì người được bảo hiểm có trách nhiệm thông báo cho người bảo hiểm biết.Người bảo hiểm dành quyền bảo vệ người được bảo hiểm, chống lại việc khiếu nại của chủ tàu và tự chịu trách nhiệm các phí tổn.
Trong trường hợp hàng hoá được bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm B hay C,nếu người được bảo hiểm yêu cầu thì người bảo hiểm có thể nhận trách nhiệm bảo hiểm thêm một hay nhiều loại rủi ro phụ dưới đây với điều kiện phải trả thêm phí bảo hiểm theo thoả thuận:
- Rủi ro trộm cắp và /hoặc không giao hàng
- Tổn thất do những hành vi ác ý hay phá hoại gây ra
- Hư hại do nước mưa,nước ngọt, do đọng hơi nước và hấp hơi nóng.
- Va đập phải hàng hoá khác
- Gỉ và oxy hoá
- Vỡ,cong hoặc bẹp,móp méo
- Rò,rỉ hoặc thiếu hụt hàng hoá
- Hư hại do móc cẩu hàng.
- Dây bẩn do dầu hoặc mỡ.
- Và những rủi ro phụ khác tương tự.
Người bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường những mất mát,hư hỏng xảy ra cho hàng hoá xếp trên boong tàu trái với tập quán thương mại thương mại quốc tế.Sau đây là các loại trừ bảo hiểm cụ thể cho cả ba điều kiện bảo hiểm bảo hiểm A,B,C:
+ Những mất mát,hư hỏng hay chi phí gây ra bởi:
* Chiến tranh,nội chiến, cách mạng khởi nghĩa,phản loạn hoặc quần chúng nổi dậy khi xảy ra những biến cố này hoặc do bất kỳ hành động thù địch nào khác của một thế lực tham chiến hay chống lại thế lực đó.
* Việc chiếm giữ,bắt giữ,cầm giữ tài sản hoặc kiềm chế(trừ khi do cướp biển và trong trường hợp đang áp dụng điều kiện A)
* Mìn,thuỷ lôi,bom hay những vũ khí chiến tranh khác đang trôi dạt.
+ Những mất mát hư hỏng hay chi phí:
* Những người đình công hay công nhân bị cấm xưởng gây ra hoặc do những người tham gia các vụ gây rối trong lao động, làm náo loạn hoặc bạo động gây ra.
* Phát sinh từ những cuộc đình công,cấm xưởng những vụ gây rối trong lao động,phản loạn hoặc bạo động.
* Do bất kì kẻ khủng bố nào hoặc do bất kì người nào đang hành động vì một lý do chính trị gây ra.
+ Những mất mát,hư hỏng và chi phí phát sinh từ việc sử dụng bất kì một loại vũ khí chiến tranh gì có sử dụng năng lượng nguyên tử,hạt nhân và /hoặc phản ứng hạt nhân,phóng xạ hoặc tương tự.
+ Những mất mát, hư hỏng và chi phí do khuyết tật vốn có hoặc do tính chất riêng của các loại hàng hoá được bảo hiểm
+ Hàng hoá hay một bộ phận của hàng hoá bị hư hại hay bị phá huỷ có chủ tâm do hành động sai lầm của bất kì người nào gây ra.Tuy nhiên điểm này lại được bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm A
1.1.3.5.Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá.
Khi có nhu cầu bảo hiểm,người có nhu cầu phải làm giấy yêu cầu trong đó ghi rõ các điều khoản sau đây:
- Tên người được bảo hiểm
- Tên hàng hoá cần được bảo hiểm
- Loại bao bì,cách đóng gói và ký mã hiệu của hàng hoá được bảo hiểm.
- Trọng lượng hay số lượng hàng hoá được bảo hiểm
- Tên tàu biển hoặc loại phương tiện vận chuyển
- Cách thức xếp hàng được bảo hiểm xuống tàu(xếp trên boong,dưới hầm tàu,chở rời…)
- Nơi bắt đầu vận chuyển, chuyển tải và nơi nhận hàng hoá được bảo hiểm.
- Ngày tháng phương tiện chở hàng bảo hiểm bắt đầu rời bến.
- Giá trị hàng hoá được bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
- Nơi thanh toán bồi thường
Ngoài ra, người có nhu cầu bảo hiểm còn phải báo cáo cho người bảo hiểm biết những tình huống quan trọng khác mà họ biết để giúp cho người bảo hiểm phán đoán rủi ro.
Nếu khi kí kết hợp đồng bảo hiểm,người có nhu cầu bảo hiểm chưa thể cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết nói trên thì họ có trách nhiệm báo tiếp cho người được bảo hiểm biết những chi tiết còn thiếu ngay khi họ được biết.
Hợp đồng bảo hiểm coi như đã được kí kết khi người bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm bằng văn bản.Người bảo hiểm sẽ căn cứ vào giấy yêu cầu bảo hiểm để cấp đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm.
Trừ khi có thoả thuận khác,người được bảo hiểm phải thanh toán phí bảo hiểm cho người bảo hiểm ngay khi nhận đơn bảo hiểm hay giấy chứng nhận bảo hiểm.Người bảo hiểm có quyền huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm nếu phí bảo hiểm không thanh toán đúng thời hạn quy định.
Nếu sau khi hợp đồng bảo hiểm được ký kết mà có bât kì thay đổi nào về rủi ro được bảo hiểm,đặc biệt nếu vì thày đổi đó mà làm tăng thêm nguy hiểm thì người được bảo hiểm có trách nhiệm thông báo cho người được bảo hiểm biết sự thay đổi đó ngay khi họ được biết. Khi nhận được thông báo này,người bảo hiểm sẽ cấp giấy sửa đổi,bổ sung và có thể căn cứ vào sự việc thay đổi đó mà yêu cầu người được bảo hiểm phải trả thêm phí.
Sau khi các điều kiện đã được thống nhất, công ty bảo hiểm tiến hành cung cấp hợp đồng bảo hiểm cho người mua bảo hiểm. HĐBH hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển là một văn bản,trong đó công ty bảo hiểm cam kết sẽ bồi thường cho người tham gia bảo hiểm các tổn thất của hàng hoá theo các điều kiện bảo hiểm đã ký kết,còn người tham gia bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm.
Hiện nay có hai loại hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng bảo hiểm chuyến và hợp đồng bảo hiểm bao.
+ HĐBH chuyến: là HĐBH cho một chuyến hàng chuyên chở từ địa điểm này đến địa điểm khác ghi trong HĐBH.Công ty bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm về hàng hoá trong phạm vi một chuyến.
HĐBH chuyến thường được trình bày dưới hình thức đơn bảo hiểm hay giấy chứng nhận bảo hiểm do công ty bảo hiểm cấp.Đơn bảo hiểm chính là một HĐBH chuyến đầy đủ.Nội dung gồm hai phần:Mặt trước và mặt sau của đơn bảo hiểm.Mặt trước của HĐBH thường ghi các chi tiết về hàng,tàu,hành trình.Mặt sau của hợp đồng thường ghi các điều lệ hay quy tắc bảo hiểm của công ty bảo hiểm.Nội dung của HĐBH chủ yếu bao gồm:
- Ngày cấp đơn bảo hiểm.
- Nơi ký kết HĐBH
- Tên và địa chỉ của người mua bảo hiểm
- Tên hàng được bảo hiểm
- Qui cách đóng gói, loại bao bì và kí mã hiệu của hàng
- Số lượng,trọng lượng của hàng
- Tên tàu hoặc phương tiện vận chuyển hàng.
- Cách xếp hàng lên tàu
- Cảng khởi hành,cảng chuyển tải và cảng cuối.Trong trường hợp nơi đến của hàng ghi trong đơn bảo hiểm là một điểm nằm sâu trong nội địa, nghĩa là sau khi đến cảng cuối, phải chuyển tiếp bằng phương tiện khác đến địa điểm đã định và đến đây mới hết trách nhiệm của công ty bảo hiểm,thì phải tăng thêm phụ phí bảo hiểm vì ngoài rủi ro hàng hải còn có thêm rủi ro trên đoạn đường phụ trong toàn bộ hành trình được bảo hiểm.
- Ngày tàu khởi hành
- Giá trị bảo hiểm và STBH
- Điều kiện bảo hiểm
- Phí bảo hiểm
- Địa chỉ của giám định viên bảo hiểm
- Phương thức và địa điểm trả tiền bồi thường,do người được bảo hiểm lựa chọn
- Số bản đơn được phát hành
+ HĐBH bao(HĐBH mở): là HĐBH cho một khối lượng hàng hoá vận chuyển trong nhiều chuyến kế tiếp nhau trong một thời gian nhất định( thường là một năm) hoặc nhận bảo hiểm cho một lượng hàng vận chuyển nhất định(không kể đến thời gian)
Nội dung của một HĐBH hợp đồng bảo hiểm bao bao gồm:Nguyên tắc chung, phạm vi trách nhiệm,tên hàng được bảo hiểm, việc đóng gói hàng,loại phương tiện vận chuyển,cách tính GTBH và STBH tối đa cho mỗi chuyến hàng,điều kiện bảo hiểm,tỷ lệ phí bảo hiểm và thanh toán phí bảo hiểm,giám định,khiếu nại đòi bồi thường,hiệu lực của hợp đồng,xử lý tranh chấp …Trong hợp đồng,nhất thiết phải có ba điều kiện sau:
- Điều kiện xếp hạng tàu được thuê chuyên chở hàng hoá sẽ được bảo hiểm:Tàu phải có cấp hạng cao và nếu do 10 hãng đăng kiểm nổi tiếng trên thế giới cấp thì mới được chấp nhận một cách tuyệt đối.Tàu phải có khả năng đi biển bình thường và tuổi tàu thấp(dưới 10 năm).
- Điều kiện về GTBH : Người được bảo hiểm phải kê khai gái trị hàng theo từng chuyến về số kiện,giá CIF hoặc giá FOB,số hợp đồng mua bán,số thư tín dụng(L/C),ngày mở và trị giá L/C,số vận đơn B/L…
- Điều kiện về quan hệ trên tinh thần thiện chí:Nghĩa là đã mua bảo hiểm bao của người bảo hiểm nào thì trong thời gian đó người được bảo hiểm không được phép mua bảo hiểm hàng hoá của người bảo hiểm khác.
Trong thời gian có hiệu lực của HĐBH bao, mỗi lần vận chuyển hàng hoá,người tham gia bảo hiểm phải gửi giấy báo vận chuyển cho người bảo hiểm.Nếu có thay đổi đặc biệt về số lượng,giá trị hàng…phải tiến hành kí kết HĐBH khác.
Đơn bảo hiểm có thể được chuyển nhượng từ người đứng tên trong đơn cho một người khác được hưởng quyền lợi của đơn bảo hiểm.Người được bảo hiểm chỉ cần ký hậu vào đơn rồi trao lại cả đơn và các giấy tờ liên quan khác cho người được nhượng.Ví dụ khi bán hàng theo giá CIF, người bán hàng sau khi mua bảo hiểm cho hàng sẽ ký hậu vào đơn bảo hiểm rồi chuyển nhượng cho người mua.
1.2.Công tác khai thác trong bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển.
1.2.1.Vai trò của công tác khai thác
Một hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ thực sự tốt khi nó có khởi đầu tốt,chính vì vậy trong quy trình của một nghiệp vụ bảo hiểm,khâu khai thác có một vai trò rất quan trọng.Đặc biệt đối với sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình thì để sản phẩm tiếp cận được với khách hàng thì khâu khai thác là khâu đóng vai trò chủ đạo và quyết định đến sự thành công của việc triển khai một sản phẩm ra thị trường.Chính sự khéo léo hiểu biết của cán bộ khai thác đã giới thiệu đến khách hàng những tính năng ưu việt của sản phẩm bảo hiểm và những lợi ích to lớn mà các cá nhân, tổ chức sẽ nhận được khi họ tham gia mua bảo hiểm và sau đó mới đến lượt các bộ phận khác thực hiện chức năng của mình để hoàn thành một nghiệp vụ bảo hiểm và để chứng minh đầy đủ tính ưu việt của một sản phẩm bảo hiểm.
Đứng trên góc độ của nhà bảo hiểm thì khâu khai thác là cực kì quan trọng vì nó mang lại doanh thu cho công ty bảo hiểm. Mặc dù doanh thu chưa phải là lợi nhuận và nó chưa phản ánh hiệu quả kinh doanh nhưng nó lại phản ánh khả năng của một công ty trong việc thu hút khách hàng vì vậy doanh thu cũng là một chỉ tiêu rất quan trọng để so sánh các công ty.Bên cạnh đó theo nguyên tắc số đông bù số ít, doanh thu cao cũng có nghĩa là một số lượng lớn khách hàng tham gia vào nghiệp vụ và điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nó tạo ra một quỹ lớn thực hiện chức năng đề phòng, hạn chế tổn thất cũng như thực hiện chức năng quan trọng nhất của bảo hiểm là nó được dùng để hỗ trợ tài chính cho người tham gia khi tổn thất không may xảy ra với họ.Như vậy trên góc độ của nhà bảo hiểm thì khai thác có ý nghĩa vô cùng to lớn, thực hiện công tác này tốt thì mới mong các khâu khác được thực hiện tốt và mới đảm bảo cho sự thành công của một nghiệp vụ.
Đứng trên góc độ của khách hàng thì không phải là họ không có lợi. Theo thông lệ quốc tế hiện nay tất cả các hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển đều phải tham gia bảo hiểm, điều này có nghĩa là khách hàng trong lĩnh vực này là rất tiềm năng, vấn đề là họ sẽ mua bảo hiểm của công ty nào mà thôi.Chính điều này tạo ra động lực phấn đấu cho các công ty bảo hiểm và họ đều cố gắng hết sức để có được một chất lượng khai thác là tốt nhất.Nếu quá trình khai thác được thực hiện tốt nó sẽ góp phần cung cấp kiến thức chung về bảo hiểm cũng như bảo hiểm xuất nhập khẩu một cách hiệu quả cho khách hàng, nâng cao hiểu biết chung của khách hàng về bảo hiểm, mà cụ thể hơn là bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển.
1.2.2.Quy trình khai thác.
Quy trình khai thác đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển của các công ty bảo hiểm nói chung thường bao gồm các nội dung sau:
Thu phí bảo hiểm và tiến hành theo dõi sau cấp đơn
Cấp đơn bảo hiểm
Đánh giá rủi ro và chào phí bảo hiểm
Tìm kiếm và tiếp cận khách hàng
Bước 1:Tìm kiếm và tiếp cận khách hàng
Trên cơ sở kế hoạch chung của công ty và những quy tắc chuẩn mực có sẵn, các nhân viên khai thác có nhiệm vụ thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, gửi hoặc trao đổi thông tin về bảo hiểm đồng thời nắm bắt các nhu cầu khách hàng cũng như thu thập những thông tin cần thiết về loại hình công ty, về tình hình xuất nhập khẩu.Từ những thông tin này khai thác viên bảo hiểm có thể tư vấn những sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất cho khách hàng.
Bước 2: Đánh giá rủi ro và chào phí bảo hiểm
Sau khi khách hàng được tư vấn ,nhu cầu mua bảo hiểm của công ty có thể nảy sinh.Khi đó cán bộ khai thác sẽ cấp cho khách hàng giấy yêu cầu bảo hiểm trong đó khách hàng sẽ điền đầy đủ các thông tin cần thiết về đối tượng bảo hiểm để trên cơ sở đó cán bộ khai thác có thể bước đầu đánh giá được tình hình rủi ro của khách hàng.Kết hợp với các phương pháp đánh giá rủi ro khác và sau khi có sự đồng ý thông qua của cấp trên,cán bộ khai thác đưa ra một mức phí bảo hiểm để tiến hành chào phí tới khách hàng.
Bước 3: Cấp đơn bảo hiểm
Với mức phí được đưa ra, khách hàng có thể đồng ý hoặc không đồng ý hoặc cũng có thể có một vài yêu cầu điều chỉnh phí.Khi đó cán bộ khai thác phải dựa vào tình hình thực tế để xem xét có thay đổi phí hay không,tất cả những sự thay đổi này bắt buộc phải có sự đồng ý của cấp trên.Nếu sự đồng ý đạt được thì cán bộ khai thác sẽ tiến hành cấp hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng.
Bước 4: Thu phí và tiến hành theo dõi sau khi cấp đơn
Việc thu phí cũng là một công việc vô cùng khó khăn nhất là đối với những khách hàng đang trong giai đoạn khó khăn về tài chính hoặc những khách hàng làm ăn không chuyên nghiệp, cố tình chây ỳ, chậm đóng.Những trường hợp như vậy cần có sự khéo léo và kiên trì của cán bộ khai thác trong việc nhắc nhở khách hàng nộp phí đúng hạn.Nếu trong quá trình theo dõi sau khi cấp đơn cán bộ khai thác phát hiện những sai phạm của khách hàng cũng như việc khách hàng không chịu đóng phí như quy định, họ có thể yêu cầu chấm dứt hợp đồng với khách hàng này.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả của công tác khai thác.
Việc đánh giá hiệu quả công tác khai thác là rất quan trọng, nó là thước đo khả năng của một công ty trong việc khai thác một nghiệp vụ nào đó,nó cho biết vị trí của công ty trên thị trường và có thể là cơ sở để công ty tiến hành những cải cách phù hợp để nâng cao chất lượng khai thác của mình.Để đánh giá kết quả và hiệu quả của công tác khai thác thì có rất nhiều chỉ tiêu khác nhau tuy nhiên trong khuôn khổ của bài viết này xin chỉ ra một vài chỉ tiêu quan trọng như sau:
- Doanh thu khai thác: Đây là chỉ tiêu trực tiếp nhất cho thấy quy mô,kết quả của công tác khai thác.Doanh thu lớn cho thấy công tác khai thác đang được tiến hành trên diện rộng và nó là cơ sở để công ty bảo hiểm có thể thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình trong việc tạo nên một quỹ tài chính lớn từ đó có thể san sẻ,bù đắp những rủi ro giữa những người tham gia lập nên quỹ khi họ tham gia mà bị gặp rủi ro.Doanh thu là một chỉ tiêu rất quan trọng, nó cho thấy vị trí của công ty bảo hiểm trên thị trường và thị phần của công ty.
- Doanh thu khai thác trên một nhân viên khai thác =
Tổng doanh thu khai thác
Tổng nhân viên khai thác
Chỉ tiêu này cho biết một nhân viên trung bình khai thác được bao nhiêu doanh thu.Một chỉ tiêu cũng có ý nghĩa tương tự là số hợp đồng khai thác được trên một nhân viên khai thác,cho biết năng suất khai thác bình quân của một nhân viên khai thác.Chỉ tiêu này rất quan trọng vì nó cho thấy hiệu quả khai thác của công ty là cao hay thấp.
- Tỉ lệ doanh thu/hợp đồng bị huỷ bỏ=Số doanh thu,hợp đồng bị huỷ bỏ/tổng doanh thu, hợp đồng khai thác được
Tỉ lệ này càng thấp chứng tỏ các hợp đồng được kí kêt có chất lượng càng cao.
- Tỉ lệ lợi nhuận trên doanh thu thu được từ các hợp đồng=Lợi nhuận thu được/doanh thu thu được
Tỉ lệ cho thấy khả năng thu lợi từ các hợp đồng thu được. Tỉ lệ này càng cao chứng tỏ lợi nhuận thu được càng cao và hiệu quả của công tác khai thác là càng lớn.
Chương II- THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KHAI THÁC NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XNK VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ HÀ NỘI.
2.1.Giới thiệu về công ty bảo hiểm Dầu Khí Hà Nội.
2.1.1.Giới thiệu về tổng công ty bảo hiểm Dầu Khí Việt Nam(PVI )
2.1.1.1.Sơ lược về lịch sử công ty.
Dầu Khí là một ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước,giá trị tài sản rất lớn song cho đến năm 1995 vẫn chưa có công ty bảo hiểm chuyên ngành để đáp ứng nhu cầu về bảo hiểm của ngành .Điều này không chỉ gây bất lợi đối với riêng ngành Dầu Khí mà còn gây tổn hại chung đến nền kinh tế khi hằng năm có một khối lượng lớn các dịch vụ bảo hiểm bị chuyển ra nước ngoài.Vì vậy thành lập công ty bảo hiểm dầu khí là một nhu cầu lớn đặt ra và có tính cấp thiết.Đứng trước thực tế đó lãnh đạo tổng công ty Dầu Khí Việt Nam đã kịp thời nắm bắt nhu cầu và mạnh dạn đưa ra đề án thành lập một công ty bảo hiểm chuyên ngành nhằm ngày càng nâng cao ưu thế của mình.
Trên cơ sở đó Công ty Bảo Hiểm Dầu Khí Việt Nam được thành lập theo quyết định số 12/BT của bộ trưởng,chủ nhiệm văn phòng chính phủ và được được bộ tài chính cấp chứng nhận đủ tiêu chuẩn và đăng kí kinh doanh bảo hiểm số 07 TC/CNG ngày 02/12/1995
Phương châm phục vụ khách hàng của công ty là :”Trung thành và tận tuỵ với khách hàng” BH dầu khí ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu về phát triển của ngành dầu khí,một ngành kinh tế trọng điểm của đất nước với lượng vốn đầu tư rất lớn và mang tính quốc tế cao.Trong quá trình xây dựng một tập đoàn dầu khí quốc gia,ngoài việc quản lý các dự án dầu khí trong nước tổng công ty dầu khí Việt Nam đang từng bước mở rộng hoạt động và vươn ra thị trường thế giới.Để đảm bảo định hướng phát triển của ngành dầu khí, PETRO Việt Nam đã quyết định thành lập công ty bảo hiểm dầu khí với tên giao dịch quốc tế là PVI. Với nhiệm vụ xây dựng chương trình quản lý rủi ro,đảm bảo tài sản cũng như các hoạt động của ngành đồng thời trực tiếp kinh doanh sinh lợi để tăng tiềm lực về tài chính,kể từ khi thành lập đến nay công ty bảo hiểm dầu khí đã trưởng thành và phát triển mạnh mẽ khẳng định là một trong những nhà bảo hiểm phi nhân thọ hàng đầu tại Việt Nam.
Liên tục trong nhiều năm gần đây tổng công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam đã phát huy lợi thế về thương hiệu,năng lực tài chính và tính chuyên nghiệp đạt chuẩn quốc tế để vươn lên dẫn đầu thị trường bảo hiểm Việt Nam trong lĩnh vực bảo hiểm năng lượng,xây dựng lắp đặt,tài sản,tranh thủ sự ủng hộ của của các chủ công trình trọn._.ên nghiệp hoá các đại lý đã có chứng chỉ đại lý bảo hiểm để tăng cường hỗ trợ cho các đại lý cá nhân làm cộng tác viên không thường xuyên nhưng lại có các đầu mối khách hàng lớn.
+ Tạo cơ chế khuyến khích,động viên cho các đại lý phát triển.
Kế hoạch phát triển nhân sự và thành lập các phòng kinh doanh:
Ban đầu PVI Hà Nội đã xây dựng được bộ máy tổ chức gồm 2 phòng quản lý, 3 phòng kinh doanh và 4 phòng kinh doanh khu vực cùng một số điểm bán lẻ trên địa bàn.Để hoàn thành kế hoạch kinh doanh mà công ty giao, việc bổ sung nhân sự cho các bộ phận còn thiếu và yếu là rất cần thiết.Vì vậy PVI Hà Nội sẽ lên kế hoạch tuyển dụng và nâng số cán bộ lên 68 người vào cuối năm 2008.Cụ thể:
Bảng 15 : Kế hoạch phát triển nhân sự năm 2008 của cty bảo hiểm DKHN
Đầu năm
Quý I
Quý II
Quý III
Quý IV
Cả năm
45
54
62
66
68
62.5
Nguồn: Kế hoạch kinh doanh cty bảo hiểm DKHN
PVI Hà Nội sẽ củng cố các phòng chuyên sâu về nghiệp vụ ,bên cạnh việc khai thác còn đảm nhận chức năng hướng dẫn,hỗ trợ cho các phòng khai thác khu vực.Đồng thời công ty có kế hoạch trong quý I năm 2008 sẽ thành lập thêm một số văn phòng kinh doanh khu vực nhằm mở rộng phạm vi bao phủ thị trường.Công ty cũng đang có chiến lược dài hơi để thu hút thêm các lao động có kinh nghiệm,các cán bộ giỏi ở các đơn vị bảo hiểm khác bằng môi trường làm việc tốt và cơ hội thăng tiến đồng thời hoàn thiện hơn nữa cơ chế thưởng phạt nghiêm minh để tạo động lực làm việc tích cực cho người lao động.
Các giải pháp thực hiện kế hoạch kinh doanh:Để thực hiện tốt kế hoạch kinh doanh đã đặt ra thì PVI Hà Nội đưa ra các giải pháp thực hiện như sau:
+ Xây dựng mạng lưới các phòng kinh doanh khu vực và hệ thống văn phòng tổng đại lý.
+ Tổ chức đào tạo,tự đào tạo,đào tạo lại nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp trong kinh doanh bảo hiểm cho cán bộ,chuyên môn hoá các phòng kinh doanh tại PVI Hà Nội.
+ Giao kế hoạch kinh doanh cho từng đơn vị,các phòng kinh doanh phải giao doanh thu đến từng cá nhân.Bắt buộc các cán bộ nhân viên phải có kế hoạch công việc cụ thể cho từng tuần, từng tháng.
+ Xây dựng cơ chế khoán kinh doanh cho các phòng,các tổng đại lý,chi phí khoán dựa trên cơ sở hoàn thành kế hoạch từng quý và tỷ lệ hạn chế bồi thường.
+ Xây dựng đội ngũ bồi thường đạt chất lượng và hiệu quả để quảng bá thương hiệu phục vụ công tác kinh doanh.Tôn trọng cao nhất quyền lợi của khách hàng trên cơ sở theo đúng nguyên tắc pháp luật và quy định của tổng công ty.
Đó là các giải pháp được đưa ra tuy nhiên để thực hiện được cũng không phải dễ dàng và vì vậy PVI Hà Nội vẫn rất cần có sự hỗ trợ sát sao và kịp thời từ phía tổng công ty trên các mặt như marketing,quảng cáo,thiết lập quan hệ,hỗ trợ đào tạo và đào tạo lại,tăng chi phí khai thác cho một số nghiệp vụ khó khăn v.v…
Là một công ty bảo hiểm ngành đặc thù,PVI Hà Nội đang có được những lợi thế hết sức quan trọng để phát triển. Thế mạnh lớn nhất đó là PVI là thành viên của tổng công ty bảo hiểm Dầu Khí quốc gia Việt Nam.Thứ hai là tập thể lãnh đạo PVI Hà Nội am hiểu thị trường,biết xác định các bước đi chính xác đảm bảo sự phát triển bền vững cho công ty.Thứ 3 là đội ngũ cán bộ và nhân viên của công ty được đào tạo bài bản,năng động, sáng tạo và có khả năng làm việc độc lập cao.Với những lợi thế đó công ty đang tiến những bước dài trên con đường phát triển và tự tin với những mục tiêu đặt ra,phấn đấu trở thành chi nhánh hàng đầu của tổng công ty bảo hiểm Dầu khí Việt Nam, góp phần cùng tổng công ty thực hiện mục tiêu là trở thành nhà bảo hiểm phi nhân thọ chuyên nghiệp hàng đầu Việt Nam.
3.1.2. Định hướng phát triển bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển và tình hình khai thác nghiệp vụ này.
Hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO và ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, lượng hàng hoá XNK ra vào Việt Nam ngày càng tăng lên nhanh chóng. Đây là điều kiện thuận lợi để tổng công ty bảo hiểm Dầu khí nói chung và công ty bảo hiểm Dầu khí Hà Nội nói riêng tăng cường mở rộng khai thác nghiệp vụ bảo hiểm cho hàng hoá XNK. Nắm bắt được xu hướng phát triển này, ban lãnh đạo tổng công ty bảo hiểm Dầu khí Hà Nội đã đặt ra những định hướng phát triển công tác khai thác nghiệp vụ này như sau :
- Do đặc điểm của công ty là lượng khách hàng trong ngành chiếm một tỉ lệ lớn trong khi đó lượng khách hàng ngoài ngành so với các công ty bảo hiểm khác còn rất hạn chế nên công ty sẽ tập trung khai thác nhóm khách hàng này đồng thời không ngừng quan tâm duy trì những khách hàng truyền thống vì họ chính là những khách hàng lớn và đem lại nhiều lợi nhuận cho công ty, trở thành lợi thế của riêng của công ty trong cuộc cạnh tranh gay gắt với các công ty bảo hiểm khác. Hiện nay do khối lượng hàng hoá XNK ngày càng lớn, quy mô các công ty XNK cũng ngày càng đa dạng nên công ty nên có chính sách tập trung vào những khách hàng tiềm năng. Tình hình thực tế hiện nay là nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK của bảo hiểm Dầu khí không mạnh bằng của các công ty bảo hiểm ngang tầm khác và số khách hàng là các công ty XNK lớn đã bị các nhà bảo hiểm khác khai thác mất.Chính vì vậy mà trong định hướng phát triển, ban lãnh đạo công ty cũng đã có những lưu ý đặc biệt đến nhóm khách hàng này, coi nó là đoạn thị trường tiềm năng mà công ty cần hướng đến.
- Đầu tư vào các chi nhánh cũng là một định hướng quan trọng của công ty trong thời gian tới. Cả tổng công ty và chi nhánh bảo hiểm Dầu khí Hà nội đang có kế hoạch gia tăng số lượng các chi nhánh trên phạm vi toàn quốc. Điều này là do đặc điểm của công ty là số lượng các hợp đồng bảo hiểm hàng hoá chủ yếu được khai thác qua hệ thống đại lý chứ chính vì vậy chính sách tăng số lượng đại lý, chi nhánh và đầu tư đào tạo nâng cao nghiệp vụ và trình độ cho đội ngũ nhân viên ở đây là một định hướng tốt của công ty.
3.2.Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển.
Hoạt động khai thác là khâu quan trọng nhất đóng vai trò quyết định thành công trong một doanh nghiệp bảo hiểm.Nó bao gồm nhiều mặt như nghiên cứu thị trường, thiết kế sản phẩm tối ưu, quảng cáo tiếp thị,công tác khách hàng ở các chi nhánh,văn phòng, duy trì mối quan hệ để duy trì các hợp đồng cũ đồng thời tăng cường hoạt động khai thác để tìm ra các hợp đồng mới… rõ ràng để làm tốt công tác khai thác đòi hỏi rất nhiều nỗ lực của công ty và cần tập trung toàn diện vào tất cả các khâu.
Sau khi phân tích và nghiên cứu thực trạng khai thác tại tổng công ty bảo hiểm Dầu khí Việt Nam và chi nhánh hội sở bảo hiểm Dầu khí Hà Nội và thấy được nguyên nhân của những tồn tại theo em để đẩy mạnh hoạt động khai thác tại công ty bảo hiểm Dầu khí nói chung cũng như tại chi nhánh bảo hiểm Dầu khí Hà Nội nói riêng cần xem xét các giải pháp sau:
3.2.1.Xây dựng chiến lược kinh doanh chung về nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển.
Chiến lược kinh doanh là vấn đề cực kỳ quan trọng, mang tính chất hướng dẫn và chỉ đường,chiến lược kinh doanh chỉ thực sự tốt khi nó dựa trên cơ sở phân đoạn thị trường tốt để xác định ra đâu là nhóm khách hàng mà doanh nghiệp cần tập trung phục vụ để có được kết quả tốt nhất.Bên cạnh tập trung vào các khách hàng trong ngành và các khách hàng truyền thống thì công ty cũng cần phải hướng đến các công ty XNK ngoài ngành vì đây là nhóm khách hàng chiếm số lượng lớn và rất tiềm năng, dễ khai thác.Chỉ khi mục tiêu về khách hàng tiềm năng rõ ràng thì chiến lược kinh doanh mới phát huy hết tác dụng của nó.Trên cơ sở kế hoạch và định hướng kinh doanh chung của công ty,lãnh đạo công ty và phòng bảo hiểm hàng hoá sẽ lên kế hoạch kinh doanh cụ thể trong đó đề ra các mục tiêu cần được thực hiện và các giải pháp để thực hiện mục tiêu đó.Về vấn đề này, công tác tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích thị trường cần được tiến hành trên cơ sỏ thu thập thông tin thực tế về tình hình diễn biến của thị trường.Bên cạnh đó, các chiến lược phải dựa trên nền tảng là định hướng và cương lĩnh chung của công ty nhằm đảm bảo sự thống nhất trong các cấp quản lý và trong từng khâu của từng nghiệp vụ.
Theo tình hình thực tế hiện nay, bảo hiểm Dầu Khí cần có chiến lược tập trung khai thác những khách hàng ngoài ngành vì đây đang là mảng mà công ty đang yếu. Bên cạnh đó, để tránh trình trạng cạnh tranh gay gắt trên những mảnh thị trường như hiện nay các công ty đang tập trung khai thác thì bảo hiểm DKHN cần tìm cho mình một đoạn thị trường mà tại đó công ty có thể thể hiện ưu thế của mình hơn hẳn đối thủ cạnh tranh. Theo em, hiện nay các công ty XNK của Việt Nam chủ yếu là các công ty vừa và nhỏ, nên chăng công ty tập trung vào đây là một chính sách khôn ngoan bởi vì các công ty XNK lớn thường được các công ty bảo hiểm khác săn đón rất kĩ và rất khó để khai thác thành công nếu công ty chưa đủ khả năng về tài chính và kinh nghiệm cũng như hiểu biết về thị trường và đối thủ cạnh tranh. Vì vậy tập trung sức lực vào nhóm thị trường là các công ty XNK vừa và nhỏ là một chiến lược kinh doanh được coi là thông minh đối với bảo hiểm DKHN trong thời gian này.
3.2.2.Tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo.
Truyên truyền quảng cáo là một trong những chính sách marketing hiệu quả nhất để đưa sản phẩm đến với khách hàng. Đặc biệt với sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình, khách hàng không thể cảm nhận được tính năng và hiệu quả của sản phẩm khi không có công tác tiếp cận, tuyên truyền của cán các bộ kinh doanh.Thông qua tuyên truyền quảng cáo,khách hàng không chỉ được cung cấp những thông tin về công ty mà quan trọng hơn là họ được tiếp cận và hiểu hơn về dịch vụ bảo hiểm.Họ sẽ hiểu bảo hiểm là gì, các điều lệ, nguyên tắc trong bảo hiểm là như thế nào đồng thời họ sẽ có những hiểu biết về những lợi ích cụ thể khi mua các sản phẩm bảo hiểm của công ty như thế nào. Đặc biệt với Việt Nam là nước có điều kiện kinh tế chưa cao, hiều biết cũng như nhu cầu về các sản phẩm, dịch vụ bảo hiểm còn thấp thì công tác tuyên truyền quảng cáo lại càng cần thiết.Theo nhận xét chung hiện nay của em thì hoạt động tuyên truyền quảng cáo của các doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay còn chưa nhiều nếu không muốn nói là ít ỏi, hiện nay mỗi Bảo Việt là có quảng cáo trên các kênh của đài truyền hình và báo chí một cách thường xuyên còn các công ty khác hầu như là thưa thớt hoặc không có. Đối với Công ty bảo hiểm Dầu khí nói chung và bảo hiểm Dầu khí khu vực Hà Nội nói chung công tác tuyên truyền quảng cáo còn chưa tốt lắm mặc dù cũng có được để ý tới,chủ yếu là thông qua áp phích, ca-nô quảng cáo trên đường phố và hầu như không để lại nhiều ấn tượng đặc biệt. Nhất là bảo hiểm DKHN chưa có những cách tuyên truyền quảng cáo nổi bật nên hầu như khách hàng chưa biết đến công ty nhiều mà chỉ quen thuộc với những thành viên, đơn vị của tổng công ty ra đời trước hoặc có hoạt động kinh doanh nổi bật hơn.Điều này quả thật rất đáng để công ty lưu ý vì công ty hoạt động ở địa bàn thủ đô là nơi mà hoạt động tuyên truyền quảng cáo đến khách hàng tiềm năng của mình là không quá khó khăn nhưng công ty vẫn chưa tận dụng được lợi thế này mà vẫn còn đang bỏ ngỏ và chưa đầu tư cho hoạt động tuyên truyền quảng cáo đúng với tầm quan trọng của nó.Bên cạnh đó trong thời gian qua công tác quan hệ khách hàng đối với các công ty ngoài ngành còn tốt nhưng đối với khách hàng ngoài ngành thì chưa tốt lắm.Theo tình hình cạnh tranh chung của thị trường hiện nay, nếu công ty không có chương trình quảng cáo về bản thân tốt hơn thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hội nghị khách hàng, hướng dẫn nghiệp vụ thì khó mà có được nhiều hợp đồng bảo hiểm, thậm chí còn bị mất khách hàng vào tay của các công ty có năng lực cạnh tranh tốt hơn.Do đó, để tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh thì bảo hiểm DKHN cần đầu tư thích đáng cho công tác truyên truyền, quảng cáo, chủ yếu cần tập trung vào khâu quảng bá hình ảnh chung của công ty cũng như quảng cáo cụ thể cho từng nghiệp vụ như nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển, bảo hiểm cháy … thông qua việc mô tả cũng như nêu bật những lợi ích của sản phẩm vì điều này không chỉ giúp khách hàng hiểu rõ hơn về bảo hiểm, về công ty mà còn giúp họ hình dung ra những lợi ích mà họ có thể nhận được khi mua bảo hiểm tại công ty.Bên cạnh đó cần tăng cường việc xúc tiến đưa sản phẩm bảo hiểm đến tay khách hàng bằng nhiều hình thức như tặng quà kèm theo sản phẩm, tạo điều kiện ưu đãi cho các đơn vị tham gia bảo hiểm tại bảo hiểm tại công ty.Riêng đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển, công ty nên tăng cường quảng cáo thông qua áp phích, pa no, bảng hiệu…chăng gần các công ty xuất nhập khẩu, các cảng biển, cảng sông,các công ty đóng tàu…vì nó sẽ có tác động trực tiếp đến khách hàng tiềm năng của công ty.Theo nhận xét sơ bộ thì hoạt động này chưa được các công ty bảo hiểm khác triển khai nhiều nên nếu bảo hiểm Dầu khí đi trước một bước nó sẽ có tác dụng rất lớn mặc dù nó chỉ là hành động nhỏ và chi phí cũng không lớn.
3.2.3.Làm tốt hơn nữa công tác phục vụ khách hàng.
Đây cũng là công tác vô cùng quan trọng khi muốn triển khai thành công một dịch vụ nào đó vì đối với ngành dịch vụ như bảo hiểm thì công tác dịch vụ khách hàng sẽ tạo sự khác biệt với các công ty khác và nó sẽ được sử dụng như một vũ khí cạnh tranh sắc bén của công ty.Công tác dịch vụ khách hàng sẽ góp phần tăng tính hữu hình cho sản phẩm bảo hiểm, khách hàng sẽ thấy rằng họ được quan tâm như thế nào, nhu cầu của họ được giải đáp thế nào thông qua công tác này.Hiện nay, công tác dịch vụ khách hàng của bảo hiểm Dầu khí được thực hiện khá tốt và hiệu quả, trong thời gian tới công ty nên tập trung thêm về các mặt sau:
- Tư vấn cho khách hàng thuê tàu chở hàng là những tàu có mua bảo hiểm P&I, những tàu có chất lượng tốt.
- Tư vấn cho khách hàng cách bốc xếp, vận chuyển hàng hoá một cách tốt nhất, tránh trường hợp hàng hoá bị bốc xếp không đúng cách và gây tổn hại, ảnh hưởng đến việc bồi thường sau này.
- Khi có khiếu nại hay tổn thất xảy ra đối với khách hàng, công ty cần nhanh chóng cử giám định viên xuống hiện trường đê giám định và hướng dẫn cho khách hàng chuẩn bị những thủ tục cần thiết để khiếu nại đòi bồi thường.Nếu công tác này làm tốt sẽ tăng sự tin tưởng về trách nhiệm của công ty đối với khách hàng và giảm phiền hà cũng như tiết kiệm thời gian cho khách hàng.
- Một vấn đề quan trọng nhất là làm thế nào để tư vấn cho khách hàng xuất hàng theo giá CIF và nhập hàng theo giá FOB nhằm tăng tỉ lệ mua bảo hiểm trong nước.Điều này có vẻ đơn giản nhưng thực ra không hề đơn giản một tí nào vì các doanh nghiệp Việt Nam vốn đã quen với cách cũ, không dễ gì thay đổi điều đó trong một sớm một chiều.Hơn nữa phải hiểu ngọn nguồn của vấn đề là năng lực của các công ty XNK Việt Nam còn hạn chế, đôi khi họ không thể tự thuê tàu và mua bảo hiểm được mà đành phải dựa vào các bạn hàng nước ngoài.Thêm vào đó, các bạn hàng nước ngoài thường là không tin tưởng vào chất lượng các công ty chuyên chở và bảo hiểm ở Việt Nam, lại không muốn bị gặp phiền hà khi có khiếu nại xảy ra nên họ không muốn thay đổi cách trao đổi, điều này ảnh hưởng rất lớn vì các doanh nghiệp Việt Nam thường là ở vào thế yếu trong quan hệ kinh tế nên họ đành phải làm theo các yêu cầu của các bạn hàng nước ngoài là mua bảo hiểm và thuê tàu ở nước họ. Để thay đổi được vấn đề này cần có sự cố gắng rất lớn của các công ty bảo hiểm nói chung và bảo hiểm DKHN nói riêng. Bảo hiểm DKHN cần đánh vào lợi ích bằng cách chào các mức phí bảo hiểm phù hợp và cung cấp những lợi ích đi kèm cho khách hàng như tỉ lệ hoa hồng, giải quyết khiếu nại trong nước sẽ đơn giản và thuận tiện hơn rất nhiều đối với các công ty mua bảo hiểm trong nước.Công tác này cần đến sự nỗ lực lớn của cả ban lãnh đạo công ty về mặt chính sách của nghiệp vụ và sự chăm chỉ, chịu khó, năng động của các cán bộ bảo hiểm, đặc biệt là cán bộ khai thác.
3.2.4.Mở rộng và nâng cao chất lượng mạng lưới đại lý, cộng tác viên khai thác.
Hệ thống đại lý và cộng tác viên khai thác được coi như là mạch máu của các công ty bảo hiểm.Đây là lực lượng hỗ trợ đắc lực giúp cho khách hàng tiếp cận dễ dàng với các công ty bảo hiểm và giúp công ty phục vụ khách hàng tốt hơn vì công ty nắm nhu cầu và thông tin của khách hàng tốt hơn. PVI Hà Nội hiện nay có hoạt động khai thác chủ yếu dựa vào các đại lý, đặc biệt nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển được khai thác hầu hết là thông qua hệ thống đại lý, thậm chí tỉ lệ khai thác qua đại lý đạt mức tuyệt đối 100% vào năm 2007.Tuy nhiên vấn đề cần đầu tư hơn nữa là chất lượng của các đại lý và cộng tác viên này,họ cần phải được trang bị những kiến thức chuyên môn cũng như những kiến thức về kĩ năng chăm sóc và phục vụ khách hàng.Để làm được vấn đề này thì PVI Hà Nội cần chú trọng thực hiện các vấn đề sau:
- Trang bị và không ngừng cập nhật cho đại lý và cộng tác viên những kiến thức cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ, họ phải nắm chắc nghiệp vụ mà họ muốn tư vấn cho khách hàng, công tác này có thể được thực hiện thông qua việc áp dụng các buổi đào tạo nâng cao chuyên môn, cac buổi giao lưu học hỏi kinh nghiệm.Ví dụ nếu họ muốn tư vấn cho khách hàng về nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK thì họ phải nắm rõ các điều khoản, điều kiện bảo hiểm cũng như những thủ tục cần thiết cho việc kí kết hợp đồng bảo hiểm hàng hoá XNK hay thủ tục của việc giải quyết khiếu nại khi tổn thất xảy ra…Bên cạnh đó họ còn có thể tư vấn cho khách hàng trong việc chọn loại tàu, cách bốc xếp vận chuyển hàng hoá tốt nhất…Đồng thời họ cũng cần được trang bị những kiến thức cơ bản về luật kinh doanh bảo hiểm vì Việt Nam ngày càng mở cửa so với thế giới nên kinh doanh bằng luật sẽ là cách kinh doanh chuyên nghiệp và cần thiết, chỉ có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, đủ sức cạnh tranh với các công ty bảo hiểm quốc tế và phù hợp với nhu cầu của thời đại. Đi liền với tăng trách nhiệm, công ty cũng cần phải tăng quyền lợi cho đại lý và cộng tác viên bằng cách tăng tỉ lệ hoa hồng phù hợp và hỗ trợ các chi phí khác, quan tâm đến quyền lợi và các mặt khác, phải coi đại lý và cộng tác viên cũng là một bộ phận quan trọng của công ty.
- Cần mở rộng quyền hạn cho đại lý một cách phù hợp đồng thời tăng cường trách nhiệm của họ đối với khách hàng vì như thế họ sẽ đủ điều kiện và khả năng giải quyết những vụ việc không quá lớn và phức tạp, tăng tính thuyết phục đối với khách hàng và giảm sự mất thời gian của khách hàng.
Hiện nay thị trường bảo hiểm nói chung đang dựa rất nhiều vào sự tích cực của các đại lý và cộng tác viên vì họ là cầu nối vô cùng hữu hiệu giữa công ty bảo hiểm và khách hàng.Vì thế PVI Hà Nội cần nhận biết đúng vai trò của hệ thống đại lý và cộng tác viên để có chính sách hợp lý đối với hệ thống này từ đó tăng thêm sức mạnh cho mình trong môi trường cạnh tranh gay gắt như ngày nay.
3.2.5.Nâng cao chất lượng cán bộ, nhân viên khai thác.
Bên cạnh đại lý và cộng tác viên khai thác thì cán bộ và nhân viên là lực lượng chủ chốt trong quá trình khai thác. Đây là lực lượng đóng vai trò nòng cốt trong hoạt động của công ty, là trụ cột của công ty trong quá trình khai thác. Đối với PVI Hà Nội, lực lượng khai thác chủ yếu của công ty chính là lực lượng cán bộ, nhân viên của công ty. Yêu cầu đặt ra đối với lực lượng này là họ phải có trình độ chuyên môn cao đồng thời am hiểu về các lĩnh vực đa dạng của đời sống xã hội cũng như có khả năng trong giao tiếp và thuyết phục khách hàng.Chính vì vậy PVI Hà Nội cần nhận thức được vai trò to lớn của đội ngũ cán bộ và nhân viên khai thác để có chiến lược đầu tư đào tạo nâng cao chất lượng của đội ngũ này.Hiện nay bảo hiểm Dầu khí vẫn thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, điều này là rất tốt và nó đã có tác dụng tích cực đối với chất lượng khai thác của công ty. Trong tương lai công ty cần có chính sách đối đãi tốt hơn với những cá nhân xuất sắc trong công tác đồng thời tổ chức các lớp đào tạo dài hạn và đào tạo nâng cao trình độ quản lý cho các cá nhân có khả năng vươn lên làm quản lý.Thông qua những buổi học như thế, không chỉ trình độ chuyên môn của nhân viên được nâng cao mà khả năng của họ về thuyết phục khách hàng, về hiểu biết chung đối với xã hội còn được nâng lên không ngừng.Đây là những điều kiện cần thiết để công ty ngày càng nâng cao chất lượng khai thác của mình.
3.2.6.Thực hiện tốt công tác đánh giá rủi ro trước khi kí kết hợp đồng
Trong quá trình khai thác để tiến tới kí kết hợp đồng với khách hàng thì công tác đánh giá rủi ro là một công tác vô cùng quan trọng.Nó chỉ ra những đặc tính quan trọng nhất của đối tượng cần bảo hiểm và giúp nhà bảo hiểm quyết định được xem có nên bảo hiểm cho hàng hoá đó hay không đồng thời trên cơ sở những rủi ro được đánh giá 2 bên có thể thống nhất một phạm vi bảo hiểm và mức phí bảo hiểm phù hợp, đảm bảo lợi ích cho các bên.Đây cũng là giai đoạn có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của toàn công ty vì vậy khâu này cần được thực hiện một cách bài bản, khoa học.Theo em hiện nay để nâng cao chất lượng công tác này thì PVI Hà Nội nên tập trung vào làm tốt những vấn đề sau đây:
- Giáo dục tốt tư cách đạo đức cho cán bộ khai thác, tránh trường hợp có sự thông đồng giữa cán bộ khai thác và khách hàng trong việc làm sai lệch thông tin về đối tượng bảo hiểm để trục lợi. Bên cạnh đó cán bộ khai thác cần phải có kiến thức chuyên môn tốt để có thể khai thác được những thông tin cần thiết một cách tối đa.
- Công ty nên hợp tác với các đội tàu và các công ty đăng kiểm tàu để họ có thể tư vấn cho công ty về chất lượng tàu, từ đó công tác đánh giá rủi ro có thể tốt hơn.
- Cần giải thích rõ ràng cho khách hàng hiểu rằng bất kì những thông tin không chính xác nào mà họ cung cấp sẽ là những trở ngại lớn trong quá trình giải quyết tranh chấp khi có rủi ro xảy ra và khi đó họ sẽ phải chịu trách nhiệm về toàn bộ những thông tin sai lệch mà họ đã cung cấp.
3.2.7.Cải tiến, đa dạng hoá sản phẩm.
Sản phẩm đa dạng là một trong những điểm hấp dẫn đối với khách hàng, vì họ có thể lựa chọn những sản phẩm phù hợp nhất với mình. Hiện nay bảo hiểm Dầu khí cũng đã có những biểu phí cụ thể cho từng mặt hàng cụ thể tuy nhiên để tăng cường thêm tính đa dạng cho sản phẩm thì thiết nghĩ công ty nên xây dựng những bảng điều chỉnh tỉ lệ phí phù hợp với từng nhóm điều kiện và tình trạng của đối tượng bảo hiểm, tổ chức tốt khâu thống kê để biết được kếu quả kinh doanh của từng loại hình hàng hoá, từng chuyến hàng, từng phương tiện vận chuyển, cách thức đóng gói của từng nhóm khách hàng từ đó có những tư vấn giúp khách hàng lựa chọn được sản phẩm tốt nhất cho họ có như vậy mới mong cạnh tranh được với những công ty khác. Bên cạnh đó xu hướng mới hiện nay là bảo hiểm và ngân hàng đang hợp tác với nhau để hoạt động,đây là hiện tượng đã khá phổ biến và thành công tại các nước phát triển vì vậy đây cũng là một cách hiệu quả để tăng tính đa dạng cho sản phẩm. Một lợi ích nữa khi hợp tác với ngân hàng là công ty có thể bán các sản phẩm của mình qua hệ thống ngân hàng vì đặc trưng của hoạt động XNK là thường thanh toán qua hệ thống ngân hàng vì vậy nếu bảo hiểm được bán qua ngân hàng chắc chắn công ty sẽ giảm được nhiều chi phí trong việc thu phí và tiếp thị sản phẩm.Hiện nay bảo hiểm Dầu khí nói chung và PVI Hà Nội nói riêng cũng đang có chính sách hợp tác với ngân hàng quốc tế VIBank để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình.
3.2.8.Kiến nghị của công ty đối với tổng công ty.
Vì là đơn vị mới được thành lập, kinh nghiệm hoạt động và khả năng tài chính còn hạn chế nên PVI Hà Nội vẫn đang rất cần có sự hỗ trợ tích cực từ phía tổng công ty. Tổng công ty cần phải phối hợp và giúp đỡ PVI Hà Nội trong việc tăng cường công tác marketing, thực hiện một chính sách marketing phù hợp và nhất quán với tổng công ty và các công ty thành viên khác nhất là với mục đích quảng bá thương hiệu của bảo hiểm Dầu Khí .Bên cạnh đó tổng công ty cũng cần có những biện pháp hỗ trợ PVI Hà Nội thiết lập các mối quan hệ với các tổ chức tín dụng, ngân hàng, thuê mua tài chính trên địa bàn Hà Nội và một số tỉnh lân cận thông qua hình thức đầu tư.Về mặt đào tạo cán bộ, vì cơ sở vật chất của công ty cũng còn hạn chế nên công ty rất cần được tổng công ty giúp đỡ để có thể đào tạo nâng cao và chuyên sâu về bảo hiểm,quản trị doanh nghiệp cho cán bộ công nhân viên.
3.2.9.Đối với các cơ quan chức năng.
- Cần có chính sách nhằm nâng cao tỉ trọng hàng hoá XNK tham gia bảo hiểm trong nước: Đây là vấn đề hết sức quan trọng đối với không chỉ đối với lợi ích của một công ty bảo hiểm riêng biệt nào mà nó còn góp phần giảm hiện tượng chảy máu ngoại tệ ra nước ngoài.Không những thế khi các công ty XNK mua bảo hiểm trong nước họ cũng được nhận nhiều lợi ích hơn khi thủ tục pháp lý đơn giản hơn, không phải gặp phiền phức về ngôn ngữ, địa lý và sẽ rất phiền hà khi phải giải quyết tranh chấp, khiếu nại khi rủi ro, tổn thất xảy ra. Kim ngạch hàng hoá XNK tham gia bảo hiểm trong nước tăng có ý nghĩa quan trọng giúp ngành bảo hiểm phát triển. Theo nguyên lý số đông, lượng khách hàng tham gia càng lớn công ty bảo hiểm càng có điều kiện phân chia rủi ro giữa các đối tượng bảo hiểm. tránh cho công ty những tổn thất lớn ảnh hưởng đến tình hình tài chính công ty.
Hiện nay đã có các quy định về bắt buộc phải mua bảo hiểm trong nước cho hàng hoá XNK.Điều 4 Nghị định 42/2001/NĐ-CP ngày 07/8/2001 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm có ghi nguyên tắc tham gia bảo hiểm là các tổ chức cá nhân có hàng hoá XNK có nhu cầu tham gia bảo hiểm cho hàng hoá chỉ được tham gia bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam trừ các trường hợp đặc biệt theo luật định.Mặc dù luật đã quy định bắt buộc nhưng vẫn có rất nhiều trường hợp vi phạm vì chế tài xử phạt còn chưa chặt chẽ và hầu như không thể kiểm soát nồi trong khi các doanh nghiệp XNK thì đã quá quen với các kiểu mua bán hàng hoá mà quyền mua bảo hiểm thường thuộc về bên phía nước ngoài. Vì vậy kiến nghị đối với các cơ quan chức năng có thẩm quyền là phải thắt chặt hơn nữa việc quản lý mua bảo hiểm của các doanh nghiệp XNK trong nước.Các chế tài xử phạt cũng như việc giám sát thực thi luật phải được tiến hành một cách nghiêm túc và có khoa học như vậy mới mong cải thiện được tình hình hiện nay của bảo hiểm Việt Nam là tiềm năng thì rất lớn nhưng lại không thể triển khai được.
- Để tăng hiệu quả của các quy định bắt buộc trên theo em nhà nước nên dùng các chính sách đòn bẩy để khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm trong nước. Theo đó thì nhà nước nên có chính sách khuyến khích các công ty XNK ký kết hợp đồng theo điều kiện xuất khẩu CIF và nhập khẩu FOB để họ có thể mua bảo hiểm cho hàng hoá tại các công ty bảo hiểm trong nước thông qua các biện pháp như giảm thuế cho các chủ hàng tham gia bảo hiểm tại Việt Nam, giảm thủ tục hải quan và giảm phiền hà cho họ, hoặc các chủ hàng mua bảo hiểm tại Việt Nam sẽ được ưu tiên hơn trong việc giao hạn ngạch XNK v.v… Chỉ với những chính sách tác động trực tiếp đến lợi ích của các chủ hàng như thế này có hiệu lực thì mới mong cải thiện được thói quen cũ hiện nay của các nhà XNK và nâng cao tỉ lệ mua bảo hiểm tại Việt Nam.
KẾT LUẬN
Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Dầu Khí Hà Nội là một nghiệp vụ có tiềm năng phát triển rất lớn . Mặc dù những khó khăn mà công ty gặp phải trong quá trình tổ chức khai thác nghiệp vụ này không phải là nhỏ nhưng những giải pháp được nêu ra là hoàn toàn có thể thực hiện được vì vậy em hi vọng những đề xuất này sẽ sớm được công ty xem xét và áp dụng để nâng cao hơn nữa chất lượng khai thác nghiệp vụ này tại công ty.
Trong chuyên đề này, em đã tập trung vào hai nội dung chính:
- Trên cơ sở lý luận được học ở trường và thực tiễn thực tập tại công ty để nghiên cứu về thực trạng công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Dầu khí Hà Nội từ đó đánh giá những kết quả đạt được và một số mặt còn tồn tại trong công tác khai thác nghiệp vụ này tại công ty.
- Thông qua những nghiên cứu, đánh giá ở trên, em đưa ra một số kiến nghị với công ty bảo hiểm Dầu khí Hà Nội và các cơ quan nhà nước có liên quan với mục đích góp phần hòan thiện công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá XNK vận chuyển bằng đường biển tại công ty.
Do thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế, chắc rằng chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô cũng như ban Giám Đốc công ty để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TH.S Nguyễn Thị Chính cùng các anh chị thuộc công ty bảo hiểm Dầu khí Hà Nội đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em trong việc hoàn thành chuyên đề thực tập này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.PGS.TS. Nguyễn Văn Định- Giáo trình bảo hiểm- Trường Đại học kinh tế quốc dân - Nhà xuất bản thống kê 2005.
2.PGS.TS. Nguyễn Văn Định- Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm-Trường Đại học kinh tế quốc dân- Nhà xuất bản thống kê 2003.
3.Dương Hữu Hạnh – Vận tải, giao nhận quốc tế và bảo hiểm hàng hải-Nhà xuất bản thống kê 2004.
4.PGS.TS. Nguyễn Hồng Đàm-Vận tải và bảo hiểm trong ngoại thương- Nhà xuất bản giáo dục 1994
5.PGS.TS.Hoàng Văn Châu- Bảo Hiểm trong kinh doanh- Nhà xuất bản khoa học và kĩ thuật 2002.
6.Các báo cáo thường niên của công ty bảo hiểm Dầu Khí.
7.Các bản tin của hiệp hội bảo hiểm.
8.Trang web: pvi.com.vn
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
Em tên là : Vũ Thị Tâm . Em xin cam đoan tất cả những nội dung viết trong chuyên đề: “ Nâng cao hiệu quả công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm XNK vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Dầu khí Hà Nội” mang tính xác thực, do sự nghiên cứu tìm tòi, học hỏi của bản thân trong thời gian thực tập và tất cả các nhận định, giải pháp đều là quan điểm của cá nhân em trên cơ sở nhận thức về lý luận, thực trạng doanh nghiệp, sự đóng góp ý kiến của thầy giáo hướng dẫn và đơn vị thực tập.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.
- CBKT: Cán bộ khai thác
- CN: Chi nhánh
- DKHN: Dầu khí Hà Nội.
- ĐL: Đại lý
- GĐ: Giám đốc
- GCNBH: Giấy chứng nhận bảo hiểm
- KT/KTCN: Kế toán/ Kế toán chi nhánh.
- KD: Kinh doanh
- LĐ: Lãnh đạo
- MG: Môi giới.
- MTN: Mức trách nhiệm
- Phòng KD: Các phòng trực tiếp kinh doanh bảo hiểm
- YCBH: Yêu cầu bảo hiểm
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12488.doc