Tài liệu Nâng cao chất lượng Tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư và phát triểnViệt Nam: MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng 1: Kết quả KD của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam năm 2007 32
Bảng 2: Tổng nguồn vốn của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam năm 2006 - 2007 33
Bảng 3: Tình hình đầu tư Tín dụng trung dài hạn 40
Bảng 4: Tình hình cho vay vốn trung- dài hạn 42
Bảng 5: Tình hình Nợ quá hạn tại Sở giao dịch 44
Bảng 6: Tình hình Nợ quá hạn cho vay trung dài hạn 46
Bảng 7: Nợ quá hạn theo thời gian 46
MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang tr... Ebook Nâng cao chất lượng Tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư và phát triểnViệt Nam
65 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng Tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư và phát triểnViệt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong giai đoạn đổi mới, đổi mới về cơ chế quản lý cũng như cơ chế thị trường đồng thời mở ra những cơ hội cũng như thách thức cho nền kinh tế nước nhà. Nền kinh tế nước ta đang có những tiến bộ đáng kể, cùng với nó là sự phát triển của các ngành Sản xuất , dịch vụ, trong đó ngành Ngân hàng đã góp một phần không nhỏ vào sự phát triển đất nước.
Ngân hàng là một trong các tổ chức TC của nền kinh tế, là mắt xích quan trọng cấu thành nên sự vận động để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại Ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội; là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước. Bên cạnh đó, Ngân hàng còn thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy đây là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định nền kinh tế.
Trong những năm qua, mặc dù hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói chung và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng đã nỗ lực tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng Tín dụng đối với thành phần kinh tế này nhưng đây là một lĩnh vực khá phức tạp nên khi thực hiện còn gặp nhiều khó khăn và bộc lộ nhiều hạn chế.
Trong thời gian thực tập tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam em đã được tìm hiểu về tình hình hoạt động Tín dụng của Sở giao dịch I nhất là Tín dụng trung dài hạn, em nhận thấy Ngân hàng còn nhiều tiềm năng trong việc nâng cao chất lượng Tín dụng này để hoạt động này nhằm mang lại lợi nhuận cao cho hoạt động KD của Ngân hàng.
Vì vậy em đã lựa chọn đề tài cho chuyên đề thực tập của mình là:
"Giải pháp nâng cao chất lượng Tín dụng trung dài hạn tại
Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam"
Kết cấu đề tài gồm:
Chương I: Lý luận chung về chất lượng Tín dụng trung dài hạn
Chương II: Thực trạng chất lượng Tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng Tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức TC quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống TC nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế.
Theo điều 20 luật các tổ chức Tín dụng sửa đổi bổ sung của Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
“Tổ chức Tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình Ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”.
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động KD tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp Tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Có thể hiểu khái quát rằng: Ngân hàng là các tổ chức TC cung cấp một danh mục các dịch vụ TC đa dạng nhất – đặc biệt là Tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng TC nhất so với bất kì một tổ chức KD trong nào trong nền kinh tế.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu các nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò thủ quỹ của toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước (thành phố, tỉnh..). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cấp Tín dụng để phục vụ mua bán hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Như thế ngân hàng đã đóng vai trò là trung gian TC thực hiện chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư, thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn và cung cấp các công cụ TC đa dạng cho người đầu tư và người sử dụng vốn, thúc đẩy quá trình mở rộng Sản xuất KD phát triển kinh tế đất nước.
Các khoản Tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ (thông qua mua các chứng khoán của Chính phủ) là nguồn TC quan trọng để đầu tư phát triển khi mà khả năng tích lũy của nền kinh tế chưa cao.
Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định nền kinh tế.
Như vậy, những hoạt động của ngân hàng đã đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển thị trường TC nói riêng và sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Các hoạt động chính của ngân hàng:
Bao gồm các hoạt động là huy động vốn, hoạt động Tín dụng, các hoạt động trung gian khác. Trong đó hoạt động Tín dụng đem lại doanh thu lớn nhất cho ngân hàng. Cụ thể của các hoạt động đó là:
Thực hiện vai trò trung gian TC thực hiện chuyển vốn từ người tiết kiệm sang người đi vay. Vì vậy hoạt động cơ bản đầu tiên của ngân hàng là hoạt động huy động vốn. Đây là hoạt động rất quan trọng đem lại phần lớn cho các ngân hàng.
Ngân hàng thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Ngân hàng huy động vốn từ tiền gửi của các cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác trong toàn xã hội. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng lớn nhất và quan trọng nhất trong danh mục các nguồn huy động của ngân hàng của các Ngân hàng thương mại. Qua hình thức huy động này ngân hàng đã huy động được lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội, đưa lượng tiền đó cho vay giúp phát triển Sản xuất. Trong bối cảnh hội nhập cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều ngân hàng thì các ngân hàng phải cạnh tranh gay gắt với nhau. Để có thể thu hút được vốn các ngân hàng phải đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau để gia tăng tiền gửi và nâng cao chất lượng của các nguồn tiền. Các hình thức huy động của ngân hàng như: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các ngân hàng khác…
Ngân hàng còn thực hiện đi vay khi lượng tiền gửi không đáp ứng đủ nhu cầu vốn. Tuy nhiên nghiệp vụ này chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu chi trả của ngân hàng khi khả năng huy động bị hạn chế. Ngân hàng có thể đi vay Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức TC khác và vay trên thị trường vốn.
Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện huy động vốn chử sở hữu thông qua hình thức phát hành cổ phiếu ra thị trường TC. Lượng vốn trên chiếm tỷ trọng không lớn nhưng cũng là rất cần thiết cho ngân hàng trong những trường hợp bất ngờ hoặc khủng hoảng.
Hoạt động Tín dụng và đầu tư: Khi đã huy động được nguồn vốn ngân hàng thực hiện cho vay, đầu tư và một số hoặt động trung gian khác.
Ngân hàng thương mại đầu tư vào chứng khoán trên thị trường chứng khoán với mục đích tăng tín thanh khoản và đa dạng hóa tài sản. Ngân hàng nắm giữ nhiều loại chứng khoán khác nhau như chứng khoán của Chính phủ, chứng khoán của các công ty, các tổ chức TC và cả chứng khoán của các ngân hàng khác. Chứng khoán mang lại thu nhập cho ngân hàng và có thể chuyển đổi thành tiền khi ngân hàng cần.
Hoạt động Tín dụng mà chủ yếu là nghiệp vụ cho vay là hoạt động KD chính đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng. Hoạt động Tín dụng diễn ra giữa một bên là ngân hàng với một bên là bên đi vay. Ngân hàng chuyển tạm quyền sử dụng vốn cho người đi vay và sau một khoảng thời gian theo thỏa thuận bên đi vay phải trả cả gốc và lãi.
Ngoài ra ngân hàng còn tiến hành các hoạt động trung gian khác. Ngân hàng cung cấp các dịch vụ kèm theo cho khác hàng và thu lợi nhuận từ phí hoa hồng. Ngân hàng không chỉ cung cấp các dịch vụ truyền thống mà còn phát triển các dịch vụ hiện đại như: dịch vụ ủy thác, bảo lãnh, tư vấn… Đa dạng hóa các dịch vụ giúp ngân hàng có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và nâng cao được vị thế của mính trong toàn hệ thống.
1.1.2 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.2.1 Khái niệm và phân loại Tín dụng của Ngân hàng thương mại:
Khó có thể đưa ra một định nghĩa chính xác về Tín dụng, thuật ngữ này có các ý nghĩa khác nhau thùy theo góc độ nghiên cứu.
Thuật ngữ Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ Latinh là Credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ Tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau; ngay cả trong quan hệ TC, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ Tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ TC, Tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau:
Xét trên gốc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì Tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người vay sang người cho vay.
Trong một quan hệ TC cụ thể, Tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Phổ biến nhất là giao dịch giữa ngân hàng và các định chế TC khác với các doanh nghiệp và các cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền cho bên đi vay và sau một thời hạn nhất định người đi vay phải thanh toán vốn gốc và lãi.
Trên góc độ là một chức năng cơ bản của ngân hàng thì Tín dụng được hiểu như sau: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế TC khác), trong đó bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Hình thức Tín dụng truyền thống của Ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn có đảm bảo bằng tài sản, giúp khách hàng mua hàng hóa, nguyên, nhiên, vật liệu; sau đó mở rộng thành nhiều hình thức khác nhau như cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng các chứng khoán, bằng các giấy tờ lưu kho hoặc không cần thế chấp. Các Ngân hàng thương mại lớn hiện nay thực hiện đa dạng các hình thức Tín dụng từ cho vay (tiền) ngắn, trung và dài, bảo lãnh cho khách hàng (để khách hàng có thể phát hành các chứng khoán huy động vốn, mua hàng mà chưa cần trả tiền ngay hoặc vay của người thứ ba…), mua các tài sản để cho thuê… Các hình thức Tín dụng này, một mặt đem lại thu nhập, mặt khác chứa đựng rủi ro cho ngân hàng.
Có nhiều cách phân loại Tín dụng khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lí của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại:
Phân loại theo hình thức: bao gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê
Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Về mặt pháp lí thì ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền.
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ TC hộ khác hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
Phân loại theo tài sản đảm bảo
Tài sản đảm bảo các khoản Tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình Sản xuất KD) không có hoặc không đủ.
Tín dụng có thể được phân chia thành Tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng, có bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
Phân loại theo rủi ro
Để phân loại Tín dụng này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro.Cách phân loại rủi ro giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản Tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
Tín dụng lành mạnh: các khoản Tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề: các khoản Tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiên kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo TC…
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
Phân loại theo thời gian (thời hạn Tín dụng)
Thời hạn Tín dụng là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay được thỏa thuận trong hợp đồng Tín dụng giữa tổ chức Tín dụng và khách hàng.
Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-Ngân hàng Nhà nước thì theo thời hạn Tín dụng có các loại Tín dụng:
Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống.
Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm.
Tín dụng dàn hạn: trên 5 năm.
Như vậy có thể hiểu Tín dụng trung dài hạn là Tín dụng có thời hạn Tín dụng từ 1 năm trở lên. Tìm hiểu sâu hơn về Tín dụng trung và dài hạn ta thấy:
1.1.2.2 Tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng thương mại
Mục đích của Tín dụng trung và dài hạn
Đối với khách hàng: các đối tượng có nhu cầu vay vốn thỏa mãn nhu cầu về vốn cho các khoản đầu tư như mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất… và có thể là một phần vốn lưu động nếu đó là doanh nghiệp. Trong nền kinh tế, nhu cầu Tín dụng trung dài hạn luôn phát sinh do các doanh nghiệp luôn tìm cách phát triển mở rộng Sản xuất, đổi mới công nghệ, đổi mới các phương tiện vận chuyển, kĩ thuật tin học…
Trên góc độ ngân hàng: hoạt động Tín dụng trung và dài hạn đem lại nguồn thu lớn cho ngân hàng. Lợi nhuận từ hoạt động này giúp ngân hàng có thể phát triển thêm các dịch vụ mới làm tăng tính cạnh tranh của ngân hàng.
Thời hạn cho vay
Thời hạn sử dụng vốn trung dài hạn phụ thuộc vào tính chất đặc điểm của chu kỳ Sản xuất KD, thời gian xây dựng công trình, công nghệ Sản xuất…
Rủi ro và lãi suất cho vay cao
Lãi suất cho vay Tín dụngH = lãi suất huy động vốn + phí ngân hàng + lợi nhuận ngân hàng
Lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất ngắn hạn do đặc điểm cho vay trung và dài hạn dài, trong thời hạn cho vay có thể xảy ra nhiều biến động không mong muốn. Do đó rủi ro khi cho vay trung và dài hạn là cao. Cùng với đó ngân hàng không thể sử dụng vốn theo ý thích và tùy tiện trong thời gian dài.
Các khoản Tín dụng trung và dài hạn có tính thanh khoản thấp. Chỉ tiêu về thanh khoản được đánh giá thông qua thời gian và những chi phí dễ chuyển hàng hóa đó thành tiền. Các khoản cho vay trung và dài hạn có thời gian dài nên khả năng chuyển đổi thành tiền của nó thấp hoặc chịu chi phí cao. Đây cũng là lý do quan trọng để các ngân hàng đặt mức lãi suất cao cho các khoản cho vay trung và dài hạn.
Nguồn vốn cho vay trung và dài hạn
Các nguồn vốn được cho vay trung và dài hạn chủ yếu là vốn tự có của các Ngân hàng thương mại do góp vốn hoặc do tích lũy được trong quá trình KD. Tuy nhiên nguồn vốn của các ngân hàng thường nhỏ bé trong khi nhu cầu vay trung và dài hạn lại rất lớn nên trong thực tế ngân hàng còn huy động thêm vốn dân cư dưới hình thức phát hành trái phiếu dài hạn, nguồn huy động dài hạn định kì và nguồn ngắn hạn định kì. Theo quy định về các tỷ lệ an toàn trong hoạt động của tổ chức Tín dụng (Quyết định số 457/2005/QĐ-Ngân hàng Nhà nước), tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn tổ chức Tín dụng được sử dụng để cho vay trung và dài hạn đối với Ngân hàng thương mại là 40%.
Ngoài ra ngân hàng có thể vay Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên vốn này cũng bị hạn chế do phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của Nhà nước, nhất là trong những trường hợp như hiện tại khi lạm phát đang ở mức cao rất khó có thể thuyết phục được Ngân hàng Nhà nước cho vay.
Các hình thức cho vay trung và dài hạn
Cho vay bằng cách mua các trái phiếu
Các ngân hàng mua trái phiếu trung và dài hạn doanh nghiệp nhằm tài trợ cho quá trình hình thành Tài sản cố định. Kì hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất trái phiếu, tình hình TC doanh nghiệp, các kế hoạch tương lai… đều được ngân hàng tính toán khi mua trái phiếu.
Cho vay theo các dự án
Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm xây dụng Tài sản cố định… nhằm thực hiện dự án nhất định, có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu của ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án. Thẩm định dự án là điều kiện để ngân hàng quyết định phân vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp.
Dự án được xây dựng gồm nhiều mục như phân tích thị trường, nguồn nhân lực, địa điểm, công nghệ, qui trình Sản xuất, phân tích TC… trong đó phân tích TC là mục tiêu qua tâm hàng đầu của ngân hàng.
Có nhiều phương pháp phân tích TC để đánh giá hiệu quả của dự án như thông qua các chỉ số NPV, IRR, thời gian hoàn vốn… Bên cạnh đó ngân hàng đặc biệt quan tâm tới thời gian và các nguồn có thể dùng để trả nợ ngân hàng. Một doanh nghiệp có tình hình TC mạnh là cơ sở quan trọng để ngân hàng quyết định cho vay để thực hiện dự án.
Nhu cầu đầu tư theo dự án = Nhu cầu đầu tư vào Tài sản cố định + Nhu cầu đầu tư vào Tài sản lưu động
Nhu cầu đầu tư này được tính dựa trên tổng hợp các chi phí về xây dựng, giải phóng mặt bằng, mua và lắp đặt các thiết bị… và các Tài sản lưu động dự trữ cần thiết để bắt đầu quá trình hoạt động Sản xuất KD. Sau khi phân tích nhu cầu vốn đầu tư của người vay, ngân hàng sẽ xem xét kĩ lưỡng các nguồn vốn tài trợ như nguồn tự có, chiếm dụng của người cung cấp, vay các tổ chức Tín dụng khác… Các yếu tố sau sẽ được ngân hàng phân tích khi xem xét nguồn tài trợ:
Qui mô và thời hạn của mỗi nguồn
Tính khả thi của mỗi nguồn và các điều kiện để dự án tiếp cận được nguồn
Nhiều nguồn tài trợ được thực hiện dưới hình thái hiện vật như vốn góp dưới hình thức sở hữu công nghệ, quyền sử dụng đất… Việc tính giá trị các loại tài sản này rất phức tạp, nhưng cần thiết với ngân hàng. Trong nhiều trường hợp, các tài sản góp này sẽ trở thành vật thế chấp cho ngân hàng.
Các nguồn tài trợ đều gắn với những điều kiện nhất định như vốn nhà nước cấp phụ thuộc vào kế hoạch và khả năng chi ngân sách; khoản tài trợ để mua thiết bị chỉ được thực hiện khi nhà xưởng đã xây xong… Nếu ngân hàng là người cấp Tín dụng duy nhất, trong trưởng hợp qui mô Tín dụng lớn, rủi ro của ngân hàng sẽ rất cao. Việc nhiều bên tham gia cấp Tín dụng sẽ san sẻ rủi ro cho ngân hàng song lại đòi hỏi ngân hàng phải phân tích kĩ nguồn vốn và chủ tài trợ.
Tín dụng còn có thể được phân chia theo các chỉ tiêu khác như: mức độ tín nhiệm với khách hàng, phương pháp hoàn trả, xuất xứ Tín dụng…
1.2 CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Khái niệm chất lượng Tín dụng
Khái niệm chất lượng Tín dụng trung và dài hạn:
Chưa có một định nghĩa đầy đủ về chất lượng Tín dụng của Ngân hàng thương mại nhưng có thể hiểu như sau: “Chất lượng Tín dụng là sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng góp phần vào sự phát triển xã hội đồng thời đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng”.
Chất lượng Tín dụng là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của Ngân hàng thương mại đối với sự thay đổi của thị trường phản ánh sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Chất lượng Tín dụng phản ánh kết quả hoạt động Tín dụng của ngân hàng, khả năng thu hồi đầy đủ, đúng hạn cả vốn, gốc vã lãi theo dự định. Hiệu quả và khả năng thu hồi nợ càng cao thì chất lượng Tín dụng càng cao.
Tóm lại chất lượng Tín dụng trung và dài hạn: “là sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng góp phần vào sự phát triển xã hội, đồng thời đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng thương mại trong thời gian trung và dài hạn”.
Chất lượng Tín dụng trung và dài hạn phản ánh kết quả hoạt động Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng.Chất lượng Tín dụng trung và dài hạn thể hiện trên từng góc độ cụ thể:
Chất lượng Tín dụng trung, dài hạn xét từ góc độ của Ngân hàng thương mại: thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn của Tín dụng trung, dài hạn phải phù hợp với khả năng theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn, hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. Thu hồi đầy đủ vốn, hạn chế được rủi ro trong hoạt động Tín dụng, như thế sự tồn tại và phát triển của ngân hàng mới được đảm bảo.
Tín dụng trung, dài hạn khi đầu tư cho nền kinh tế sẽ tạo ra những sản phẩm cho xã hội, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, góp phần tăng trưởng nền kinh tế và khai thác khả năng tiềm tàng cho nền kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vốn vay nước ngoài có lợi cho nền kinh tế phát triển. Chất lượng Tín dụng trung, dài hạn đối với nền kinh tế đó là việc vốn cho vay trung, dài hạn được an toàn, làm cho tỷ trọng Tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng được nâng cao thu được lợi nhuận lớn khiến cho hoạt động của ngân hàng được an toàn từ đó làm cho hệ thống ngân hàng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, hoà nhập với cộng đồng quốc tế.
Chất lượng Tín dụng trung, dài hạn xuất phát từ góc độ của khách hàng: Tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng phải đáp ứng đầy đủ kịp thời yêu cầu hợp lý của khách hàng với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản, không gây phiền hà cho khách hàng. Điều đó làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng đối với hoạt động Tín dụng trung và dài hạn.
Thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đủ nguyên tắc, quy định của Tín dụng trung, dài hạn và phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế xã hội, đảm bảo được sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, góp phần đẩy mạnh TC cho ngân hàng.
Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng Tín dụng trung và dài hạn
Hoạt động Tín dụng trung và dài hạn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng và đối với sự phát triển kinh tế. Có thể thấy được sự cần thiết nâng cao chất lượng Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng ở các điểm sau:
Chất lượng Tín dụng trung và dài hạn phản ánh khả năng cho vay và thu hồi vốn của ngân hàng. Khả năng cho vay tốt thì có thể thu được lợi nhuận cao. Trong khi nếu khả năng thu hồi vốn không tốt ngân hàng có thể đứng trước nguy cơ bị mất vốn, ảnh hưởng xấu tới hoạt động của ngân hàng. Do đó chất lượng Tín dụng trung và dài hạn sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng thương mại.
Chất lượng Tín dụng trung và dài hạn tốt làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các Ngân hàng thương mại. Nguyên nhân do ngân hàng tăng thêm vốn từ việc tăng vòng quay vốn, thu hút được nhiều khách hàng.
Chất lượng Tín dụng trung và dài hạn tốt cũng sẽ làm tăng khả năng sinh lời của các dịch vụ ngân hàng do giảm được sự chậm trễ trong phân tích Tín dụng, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn cho vay.
Thêm vào đó, một chất lượng Tín dụng tốt tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của ngân hàng, cho phép ngân hàng có những khách hàng truyền thống và uy tín đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng, củng cố thêm mối quan hệ xã hội của ngân hàng.
Về mặt lý thuyết, nguồn vốn chủ yếu của Ngân hàng thương mại là tiền gửi do đó có tính chất không ổn định nên để giảm thiểu rủi ro Tín dụng, Ngân hàng thương mại nên tập trung cấp Tín dụng ngắn hạn. Nhưng những khoản cho vay ngắn hạn thường có lãi suất thấp, đem lại thu nhập không cao và các khoản vay ngắn hạn để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Trong khi đó Tín dụng trung và dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu mua sắm thiết bị, xây dựng, cải tiến khoa hoc kĩ thuật, mua công nghệ… của các doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn có chi phí thấp, có thể huy động nhanh, nên được các doanh nghiệp khá ưa thích. Nhà nước vay trung dài hạn để đầu tư phát triển. Như thế cho vay trung và dài hạn chủ yếu để xây dựng cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, tăng cường vai trò của nhà nước trong phát triển. Điều này làm cho nguồn vốn trung và dài hạn trở nên rất quan trọng đối với những nước đang phát triển nơi mà cơ sở hạ tầng nền kinh tế chưa hoàn chỉnh, khả năng tích lũy của các doanh nghiệp chưa cao. Ở nước ta tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của các ngân hàng đang ngày càng tăng chất lượng Tín dụng trung và dài hạn đang được các ngân hàng quan tâm sâu sắc hơn. Vì những sự cần thiết trên, việc nâng cao chất lượng Tín dụng trung và dài hạn đối với các ngân hàng là tất yếu, cần thiết đối với sụ tồn tại và phát triển của ngân hàng. Để làm dược điều này ta cần phải phân tích được các chỉ tiêu phản ánh chất lượng Tín dụng trung và dài hạn.
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng Tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại
Như đã đề cập ở trên, chất lượng Tín dụng trung và dài hạn được thể hiện ở sự thỏa mãn của khách hàng, sự đảm bảo cho ngân hàng tồn tại và phát triển (thực chất là có lãi lớn), sự phát triển của xã hội. Những điều này tác động tới chất lượng Tín dụng trung và dài hạn thể hiện ở những chỉ tiêu.
1.2.2.1 Khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng
Chỉ tiêu này không thể hiện qua các chỉ số mà dựa trên đánh giá của khách hàng trên các tiêu chí:
Khoản vay được cấp kịp thời, phù hợp với nhu cầu vay vốn của khách hàng. Thông thường khách hàng vay vốn để đầu tư khi có những cơ hội KD mới, vì thế nguồn vốn được cấp kịp thời, phù hợp sẽ giúp khách hàng có thể nắm bắt được cơ hội làm ăn, điều này làm tăng sự thỏa mãn của khách hàng đối với hoạt động Tín dụng của ngân hàng.
Khoản vay có lãi suất thích hợp. Một khoản vay có lãi suất thấp sẽ giúp khách hàng có chi phí thấp hơn khi vay vốn, điều này làm tăng sự thỏa mãn của khách hàng. Nhưng một khoản vay có lãi suất quá thấp cũng sẽ ảnh hưởng tới thu nhập của ngân hàng. Vì thế cần có một sự thỏa thuận giữa ngân hàng để có một lãi suất hợp lý nhất đáp ứng được nhu cầu của cả khách hàng cũng như không ảnh hưởng tới việc KD của ngân hàng.
Thủ tục các khoản vay nhanh chóng, đơn giản. Một khoản Tín dụng từ khi khách hàng tới ngân hàng xin vay cho tới khi được cho vay trải qua rất nhiều khâu khác nhau, kéo dài trong một thời gian, giảm bớt thời gian các khâu này, đơn giản hóa các khâu sẽ giúp khách hàng giảm thiểu thời gian chờ đợi, tăng sự thỏa mãn của khách hàng. Tuy nhiên việc đơn giản hóa thủ tục vẫn phải đảm bảo sự chặt chẽ của quy trình, tránh cho ngân hàng những rủi ro đáng tiếc.
Cán bộ hướng dẫn tận tình chu đáo. Các bước trong quy trình cho vay có những thủ tục khác nhau, việc giúp đỡ khách hàng thực hiện các thủ tục như làm các tờ khai, đi đến các phòng ban… giúp khách hàng thuận tiện hơn khi giao dịch cùng ngân hàng, sự thỏa mãn của khách hàng tăng, chất lượng Tín dụng tăng.
Ngân hàng tồn tại và phát triển tốt khi có một mức lợi nhuận cao, Nợ quá hạn thấp. Các chỉ tiêu sau được ngân hàng tính toán một cách cụ thể và ừ đó có thể đánh giá một cách chính xác dựa trên các kết quả KD trong kỳ. Các chỉ tiêu đó là:
1.2.2.2 Tỷ trọng dư nợ cho vay trung và dài hạn
Tỷ lệ Nợ quá hạn trung dài hạn =
Nợ quá hạn của Tín dụng trung dài hạn
Tổng dư nợ Tín dụng trung dài hạn
Tổng dư nợ cho vay là chỉ tiêu mang tính thời điểm phản ánh lượng vốn ngân hàng đã giải ngân cho các khoản Tín dụng mà khách hàng còn nợ ngân hàng tại thời điểm cuối kì.
Tổng dư nợ cho vay phản ánh quy mô Tín dụng, sự tăng trưởng Tín dụng. Tổng dư nợ cho vay lớn phản ánh quy mô Tín dụng của ngân hàng lớn, khối lượng cho vay của ngân hàng lớn. Thông qua chỉ tiêu này cũng đánh giá được khả năng huy động vốn của ngân hàng. Ngân hàng có tổng dư nợ cho vay cao chứng tỏ khả năng huy động vốn là tốt.
Dư nợ cho vay trung dài hạn phản ánh lượng vốn khách hàng đang còn nợ ngân hàng trong hoạt động Tín dụng trung và dài hạn tại một thời điểm. Dư nợ cho vay trung và dài hạn phản ánh quy mô cho vay trung và dài hạn tại một thời điểm.
Tỷ trọng dư nợ cho vay trung và dài hạn cho biết dư nợ trung và dài hạn chiếm bao nhiêu trong tổng dư nợ. Tỷ trọng này cao chứng tỏ khả năng đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn của ngân hàng là tốt, tác động tốt tới chất lượng Tín dụng trung và dài hạn.
Ngân thể hiện chính sách Tín dụng của ngân hàng mở rộng hay thu hẹp từ chỉ tiêu trên. Tỷ trọng này cao chứng tỏ hoạt động Tín dụng trung và dài hạn là chủ yếu trong hoạt động Tín dụng của ngân hàng. Tỷ trọng này cao chứng tỏ ngân hàng cho vay trung dài hạn nhiều, có thể chất lượng Tín dụng trung dài hạn tăng lên nhưng thế là chưa đủ mà còn phụ thuộc vào các chỉ tiêu khác.
1.2.2.3 Chỉ tiêu lợi nhuận
Phản ánh khả năng sinh lời của Tín dụng trung và dài hạn, khi bỏ một đồng vốn cho vay ngân hàng sẽ thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu lợi nhuận Lợi nhuận từ Tín dụng trung dài hạn
từ Tín dụng trung dài hạn Tổng dư nợ Tín dụng trung và dài hạn
Ở vị thế của ngân hàng thì tỷ lên này càng cao chứng tỏ lợi nhuận thu về từ Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng càng lớn. Nhưng điều này không đảm bảo doanh nghiệp vay vốn làm ăn có hiệu quả.
Khi khoản Tín dụng được đầu tư có hiệu quả, doanh nghiệp có lợi và hoàn trả ngân hàng gốc cùng tiền lãi đúng hạn, thì khoản Tín dụng trung và dài hạn đã phát huy được giá trị của mình. Chỉ tiêu lợi nhuận của ngân hàng tăng đồng thời chất lượng Tín dụng của ngân hàng cũng được cải thiện theo.
Nhưng nếu doanh nghiệp sử dụng không hiệu quả nguồn vốn, đến hạn trả nợ phải trả bằng nguồn khác không phải là lợi nhuận thu được từ dự án đầu tư. Lúc đó chỉ tiêu lợi nhuận ngân hàng tăng nhưng không kết luận được khoản đầu tư đó có chất lượng là tốt được.
Dựa trên chỉ tiêu lợi nhuận, để đánh giá được chất lượng khoản đầu tư trung và dài hạn ta phải nhìn từ hai phía người cho vay và chủ thể đi vay để có được đánh giá khách quan nhất về chất lượng Tín dụng trung dài hạn.
Ngoài hai chỉ tiêu trên để đánh giá chất lượng Tín dụng trung và dài hạn các ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ Nợ quá hạn được ._.trình bày dưới đây.
1.2.2.4 Tỷ lệ Nợ quá hạn
Khi thực hiện một hoạt động Tín dụng cụ thể, ngân hàng luôn quan tâm tới khả năng trả nợ đúng hạn của khách hàng hay chính là khả năng thu hồi vốn và có lãi từ khoản cho vay. Đối với các khoản cho vay trung và dài hạn, độ rủi ro là cao hơn so với cho vay ngắn hạn, do đó ngân hàng luôn cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn cao và giảm thiểu được rủi ro ở mức thấp nhất. Tuy nhiên, rủi ro Tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan, do khả năng hoàn tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi bởi nhiều nguyên nhân.
Để đánh giá về tính an toàn và khả năng thu hồi vốn của hoạt động Tín dụng các ngân hàng thường sử dụng tỷ lệ Nợ quá hạn.
Tỷ lệ Nợ quá hạn trung dài hạn =
Nợ quá hạn của Tín dụng trung dài hạn
Tổng dư nợ Tín dụng trung dài hạn
Nếu ngân hàng có nhiều khoản nợ trung và dài hạn quá hạn, tỷ lệ này sẽ cao, ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn và đứng trước nguy cơ mất vốn. Tỷ lệ này càng cao thì khó khăn của ngân hàng càng lớn do đối tượng vay vốn có khả năng mất hoàn toàn khả năng thanh toán. Nếu kéo dài sẽ ảnh hưởng xấu đến ngân hàng.
Tỷ lệ Nợ quá hạn trung và dài hạn của ngân hàng thấp cho thấy chất lượng Tín dụng cao, ngân hàng đã thu được đầy đủ lãi và vốn các khoản vay, chi phí quản lý Nợ quá hạn giảm.
Tuy nhiên cũng phải tính đến các yếu tố làm sai lệch tỷ lệ này. Do các hiện tượng như đảo nợ, giãn nợ đã không phản ánh đũng thực trạng Nợ quá hạn và tình an toàn của khoản cho vay. Khi khách hàng không trả được nợ, họ sử dụng vốn mới được vay để trả khoản nợ cũ để không gây ra Nợ quá hạn tránh được lãi suất phạt cao hơn lãi suất vay của ngân hàng. Điều này sẽ làm tổng dư nợ của ngân hàng tăng. Hiện tượng này có thể khiến cho ngân hàng mất vốn, lún sâu vào rủi ro, mất khả năng thanh khoản cao.
Chỉ tiêu này phản ánh rõ nhất về chất lượng Tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng, nếu tỷ lệ này cao thì chứng tỏ ngân hàng đó hoạt động kém hiệu quả và ngược lại.
Tỷ lệ Nợ quá hạn 3% là mức an toàn.
Tỷ lệ 3%- 5% là mức bình thường.
Tỷ lệ 5%- 7% ở mức này có thể thấy hoạt động Tín dụng ngân hàng có nhiều rủi ro.
Tỷ lệ 7% ở mức này chất lượng Tín dụng của ngân hàng được đánh giá là yếu kém.
Để đánh giá một cách sát thực nhất chất lượng Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng không chỉ dựa vào một chỉ số mà ta phải cùng đồng thời tổng hợp các chỉ tiêu trên. Nhưng để có thể nâng cao được chất lượng Tín dụng trung và dài hạn thì ta phải biết được các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng Tín dụng trung và dài hạn.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Chất lượng Tín dụng trung dài hạn là sự thỏa mãn của khách hàng khi được cấp vốn phù hợp với nhu cầu với dịch vụ tốt và thủ tục nhanh gọn, đó cũng đồng thời với việc ngân hàng có lãi. Những nhân tố ảnh hưởng tới điều trên có thể làm chất lượng Tín dụng trung và dài hạn tăng hoặc giảm là:
1.3.1 Nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Khả năng thu thập thông tin Tín dụng của ngân hàng
Thông tin luôn là yếu tố cơ bản cần thiết cho công tác quản lý dù ở bất kì lĩnh vực nào. Trong hoạt động Tín dụng trung dài hạn cũng vậy, để thẩm định dự án thẩm định khách hàng trước hết phải có thông tin về dự án và thông tin về khách hàng đó để làm tốt công tác giám sát sau khi cho vay, theo dõi việc sử dụng vốn vay và tiến độ trả nợ của khách hàng.Thông tin chính xác kịp thời đầy đủ còn giúp ngân hàng xây dựng hay điều chỉnh kế hoạch KD, chính sách Tín dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế.
Thông tin về khách hàng phải được thu thập đầy đủ và chính xác. Có đánh quá tốt về khách hàng thì ngân hàng mới có thể giảm thiểu được những rủi ro do nguyên nhân chủ quan từ khách hàng, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng từ đó cải thiện chất lượng Tín dụng.
Nắm bắt được thông tin về nhu cầu của khách hàng sẽ giúp ngân hàng đáp ứng tốt hơn, tăng sự thỏa mãn với các dịch vụ của ngân hàng làm tăng chất lượng Tín dụng trung và dài hạn.
Nếu thông tin về khách hàng bị sai lệch thì việc phân tích khi cấp Tín dụng sẽ không chính xác dẫn đến hiệu quả cho vay giảm, ngân hàng sẽ đối mặt với rủi ro cao, giảm lợi nhuận, ngân hàng đối mặt với khả năng mất vốn, chất lượng Tín dụng thấp.
1.3.1.2 Chiến lược KD và chính sách Tín dụng của ngân hàng
Trong xu thế hội nhập khi sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng càng cao, xu hướng phân khúc thị trường ở các ngân hàng ngày càng rõ. Ngân hàng phải đưa ra được những chiến lược KD phù hợp như hướng tới ngành nghề nào là chính, đầu tư vào lĩnh vực nào là chú trọng hay nhóm khác hàng nào là chủ yếu…
Một chiến lược KD hiệu quả, đúng đắn sẽ góp phần nâng cao chất lượng Tín dụng, cải thiện hình ảnh của ngân hàng. Ngược lại nếu chiến lược KD không hợp lý, không phù hợp với những điều kiện của môi trường kinh tế sẽ ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả hoạt động Tín dụng, chất lượng Tín dụng thấp.
Hoạt động Tín dụng bao trùm các hoạt động của ngân hàng vì thế khi hoạch định chiến lược KD ngân hàng cũng cần phải có một chiến lược Tín dụng thật rõ ràng và cụ thể.Chính sách này là cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hưỡng dẫn chung cho cán bộ Tín dụng và các chuyên viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích Tín dụng, tạo sự thống nhất chung cho hoạt động Tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
Chính sách Tín dụng bao gồm : chính sách khách hàng, quy mô giới hạn Tín dụng, lãi suất và phí suất Tín dụng, thời hạn Tín dụng và kỳ hạn nợ, chính sách bảo đảm tiền vay… Cụ thể là:
Chính sách khách hàng: ngân hàng tiến hành phân loại khách hàng truyền thống, khách hàng quan trọng, khách hàng khác. Với những khách hàng truyền thống và khách hàng quan trọng sẽ được hưởng chính sách ưu đãi của Ngân hàng thương mại. Ngân hàng duy trì được mối quan hệ với khách hàng truyền thống đồng thời thu hút thêm các khách hàng tiềm năng. Một khả năng Maketing tốt cũng sẽ hướng sự chú ý của mọi người vào ngân hàng tăng, tạo thêm uy tín cho ngân hàng. Điều này sẽ làm mở rộng quy mô quan hệ Tín dụng của ngân hàng, tăng lợi nhuận và giảm chi phí quản lí cho ngân hàng.
Quy mô và giới hạn Tín dụng: các ngân hàng có quy định riêng về quy mô và giới hạn để không làm giảm khả năng sinh lời trong những hoàn cảnh cụ thể. Chính sách này chặt chẽ sẽ giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng nhưng cùng với điều đó ngân hàng có thể bỏ qua những khoản đầu tư có lợi nhuận cao. Sự giới hạn Tín dụng có thể khiến ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu vay của khách hàng, điều đó làm ảnh hưởng tới tâm lý khách hàng, khách hàng không thỏa mãn, làm giảm chất lượng Tín dụng trung và dài hạn. Tuy nhiên nếu chính sách này lỏng lẻo sẽ làm tăng rủi ro cho ngân hàng mà điều này cần phải tránh đối với Tín dụng trung và dài hạn vì các khoản Tín dụng này có độ rủi ro rất cao.
Lãi suất và phí suất Tín dụng: một mức lãi suất và biểu phí thấp sẽ là cơ hội hấp dẫn cho các doanh nghiệp nhưng điều đó lại ảnh hưởng trực tiếp giảm lợi nhuận của ngân hàng. Nếu lãi suất quá cao thì ngân hàng thu được nhiều lãi nhưng lại đối mặt với nguy cơ rủi ro cao và tâm lý của khách hàng. Cả hai điều trên đều ảnh hưởng xấu tới chất lượng Tín dụng vì thế cần phải phối hợp linh hoạt đa dạng để đảm bảo khả năng sinh lời cũng như sự hấp dẫn của các khoản Tín dụng.
Thời hạn Tín dụng và kì hạn trả nợ: một chính sách Tín dụng đúng đắn sẽ giúp ngân hàng giải quyết mối quan hệ thời hạn của nguồn và thời hạn tài trợ, làm giảm rủi ro ngân hàng đồng thời tăng tính thanh khoản của các khoản tài trợ, góp phần nâng cao chất lượng Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng.
Chính sách bảo đảm tiền vay: bao gồm các quy định về trường hợp tài trợ cần tài sản đảm bảo, các loại đảm bảo cho mỗi loại hình danh mục… Không có các loại hình đảm bảo tiền vay, thì ngân hàng có thể sẽ gặp những rủi ro Tín dụng, nhưng có nhiều khách hàng lại không thể đáp ứng được yêu cầu bảo đảm tiền vay của ngân hàng, họ không thể vay vốn của ngân hàng. Tất cả các điều trên đều làm giảm chất lượng Tín dụng. Ngân hàng cần có một chính sách bảo đảm tiền vay hợp lý như đảm bảo tiền vay dựa trên uy tín đối với các khách hàng truyền thống, giảm tỷ lệ đảm bảo bắt buộc đối với những khách hàng tiềm năng…
Chính sách đối với các tài khoản có vấn đề: chính sách này sẽ ảnh hưởng tới chi phí của hoạt động Tín dụng và chất lượng Tín dụng của ngân hàng. Thông qua việc đánh giá các khoản Tín dụng có vấn đề, ngân hàng có thể phòng ngừa rủi ro, thực hiện phòng ngừa rủi ro.
1.2.1.3 Hiệu quả huy động vốn
Vốn được sử dụng để cho vay, có được nguồn vốn lớn thì ngân hàng có thể mở rộng cho vay tăng thêm thu nhập. Hiệu quả huy động vốn cao cũng sẽ làm giảm bớt chi phí cho ngân hàng. Ngân hàng huy động được một nguồn vốn có quy mô lớn và ổn định thì hoạt động cấp Tín dụng trung và dài hạn cũng được mở rộng, đáp ứng được nhiều hơn nhu cầu của khách hàng, tăng sự thỏa mãn của khách hàng, đồng thời ngân hàng cũng thu được nhiều lãi hơn nhờ mở rộng hoạt động cho vay. Huy động được nguồn vốn ổn định chi phí thấp sẽ giúp ngân hàng có thể cấp Tín dụng trung và dài hạn với một lượng lớn, ổn định, và có một lãi suất cạnh tranh cho doanh nghiệp. Từ hai phía ngân hàng và doanh nghiệp đều được thỏa mãn nhu cầu của minh. Như thế sẽ có tác động tốt làm tăng chất lượng Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng.
1.2.1.4 Quy trình cho vay
Một quy trình cho vay thông thường gồm năm bước sau:
Lập hồ sơ đề nghị cung cấp Tín dụng.
Phân tích Tín dụng.
Quyết định Tín dụng.
Giải ngân.
Giám sát thu nợ và thanh lý Tín dụng.
Quy trình cho vay với thủ tục đơn giản, nhanh chóng giải quyết được nhu cầu của khách hàng sẽ làm khách hàng hài lòng hơn tăng chất lượng Tín dụng trung và dài hạn.
Đối với ngân hàng, trong quy trình cho vay công tác thẩm định giữ vai trò quan trọng trong việc ra quyết định cấp Tín dụng. Công tác thẩm định dự án thực hiện phân tích tình hình TC, các dòng tiền của dự án, khả năng thu lợi nhuận của dự án, sự an toàn của các khoản Tín dụng. Từ đó có thể chọn đúng được đối tượng khách hàng, đây là cơ sở cho quyết định cấp Tín dụng. Hoạt động này không thể thiếu trong Tín dụng trung và dài hạn, đòi hỏi những cán bộ thẩm định có chuyên môn tốt.
Thực hiện tốt công tác thẩm định giúp ngân hàng loại bỏ được những dự án không khả thi, giảm rủi ro cho ngân hàng đồng thời tiết kiệm chi phí cho ngân hàng.
Một khâu cũng rất quan trọng khác nữa song hành cùng công tác thẩm định đó là hệ thống kiểm soát nội bộ. Hoạt động này nhằm làm hạn chế sai sót của cán bộ Tín dụng nhằm nâng cao chất lượng Tín dụng của ngân hàng.
1.2.1.5 Trình độ cán bộ Tín dụng và công tác tổ chức ngân hàng
Cán bộ Tín dụng giữ một vai trò then chốt trong các khâu của hoạt động Tín dụng. Năng lực của cán bộ Tín dụng ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của việc ra các quyết định cấp Tín dụng từ đó tác động tới chất lượng Tín dụng của ngân hàng.
Ngân hàng luôn muốn có những cán bộ Tín dụng có trình độ chuyên môn cao, năng lực sáng tạo, tận tâm với công việc và có phẩm chất đạo đức. Muốn vậy họ phải được đào tạo và tự đào tạo một cách toàn diện, kĩ lưỡng và liên tục. Bên cạnh đó, việc giám sát quá trình sử dụng vốn của khách hàng đòi hỏi những cán bộ có năng lực, trình độ chuyên môn cao và phẩm chất đạo đức tốt.
Khi nhân viên Tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kĩ lưỡng, rủi ro luôn rình rập họ. Sống trong trong môi trường “tiền bạc”, nhiều nhân viên ngân hàng đã không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho khách hàng rút ruột ngân hàng. Như thế ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng Tín dụng của ngân hàng.
1.2.1.6 Trang thiết bị khoa học kỹ thuật
Với sự tiến bộ của khoa học, máy móc giúp con người giảm bớt khối lượng công việc cũng như làm cho các công việc trong hệ thống được luân chuyển nhanh hơn. Trong ngành ngân hàng cũng vậy, hệ thống trang thiết bị như máy tính, các phần mềm phân tích chuyên dụng, các phần mềm quản lí Tín dụng ngân hàn giúp giảm khối lượng công việc cho cán bộ Tín dụng, tiến độ phê duyệt dự án được nhanh hơn, giảm thiểu được những sai sót không mong muốn cho cán bộ Tín dụng. Hệ thống thông tin nội bộ như mạng nội bộ, giúp sự luôn chuyển thông tin trong hệ thống diễn ra nhanh hơn giảm bớt thời gian cho nhân viên. Cùng với đó sự thống nhất và hoàn thiện hệ thống khoa học kĩ thuật sẽ giúp sự thống nhất trong toàn hệ thống cao hơn.
1.3.2. Nhân tố khách quan.
1.3.2.1 Nhân tố thuộc về khách hàng
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề KD, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ì… là nguyên nhân gây rủi ro Tín dụng.Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kì vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng. Nhiều người không tính toán kĩ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán kĩ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong KD. Bản thân khách hàng không đạt được sự thỏa mãn, ngân hàng không có lãi. Trong trường hợp còn lại, người vay KD có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Họ chây ì với hy vọng có thể trốn nợ, hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
Điều này đã ảnh hưởng xấu tới chất lượng Tín dụng nhất là Tín dụng trung và dài hạn thường là các khoản vay có quy mô lớn.
1.3.2.2 Nhân tố thuộc về môi trường pháp lý
Các chính sách của Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò điều tiết và hướng dẫn các hoạt động của các ngân hàng thương mại. Chính vì vậy, hoạt động ngân hàng trung ương cũng ảnh hưởng tới chất lượng Tín dụng trung và dài hạn. Khi các quy định hợp lý, phù hợp với tình hình chung của các ngân hàng, hướng dẫn các ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn sẽ nâng cao chất lượng Tín dụng, nếu không thì ngược lại.
Các hoạt động điều hành của chính phủ góp phần ổn định môi trường chính trị xã hội. Từ đó giúp các doanh nghiệp yên tâm đầu tư mở rông KD, là cơ hội để các ngân hàng tham gia tài trợ mở rộng quy mô Tín dụng, làm tăng chất lượng Tín dụng. Ngược lại nếu tình hình chính trị bất ổn thì các doanh nghiệp không thể yên tâm Sản xuất, các ngân hàng không dám đầu tư do rủi ro cao, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng Tín dụng.
Ngoài ra còn một yếu tố khách quan nữa là môi trường tự nhiên. Môi trường tự nhiên thuận lợi không có những tác động xấu như thiên tai, bệnh dịch… sẽ làm cho việc Sản xuất KD thuận lợi, ngân hàng tránh rủi ro mất vốn do đó môi trường tự nhiên cũng ít nhiều tác động tới chất lượng Tín dụng.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1 TỔNG QUAN VỀ SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Được thành lập theo thông báo số 76/QĐ_TCCB ngày 28/03/1991 của Tổng giám đốc ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Theo quyết định này, Sở giao dịch là đơn vị trực thuộc, là đại diện pháp nhân của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, thực hiện hạch toán nội bộ, có bảng cân đối tài khoản riêng, có con dấu riêng và trực tiếp giao dịch với khách hàng. Trụ sở theo quy định đặt tại Hà Nội(hiện nay tại toà tháp A Vincom city towers, Bà Triệu, Hà Nội).
Trong quá trình hình thành và phát triển, Sở giao dịch trải qua hai thời kỳ:
Thời kỳ từ 1991 – 1995 : Nhiệm vụ chính trong thời kỳ này là cấp phát vốn ngân sách cho đầu tư XDCB.
Thời kỳ từ 1995 – nay : Thực hiện KD tiền tệ và làm dịch vụ thanh toán, tự cân đối nguồn, tự tìm dự án cho vay.
Sau hơn 16 năm hoạt động, hiện nay Sở giao dịch là đơn vị có quy mô khá hoàn thiện. Mô hình tổ chức của Sở giao dịch ngoài Ban giám đốc được chia làm 4 khối:
Khối Tín dụng: gồm Phòng Tín dụng 1; phòng Tín dụng 2; phòng Tín dụng 3; Phòng Thẩm định; Phòng quản lý Tín dụng.
Khối dịch vụ: gồm P.Thanh toán quốc tế; P.Dịch vụ khách hàng Doanh nghiệp; P.Dịch vụ khách hàng cá nhân; P.Tiền tệ kho quỹ.
Khối đơn vị trực thuộc: gồm P. Giao dịch I; Giao dịch II; Giao dịch III.
Khối quản lý nội bộ: gồm P. kế hoạch NV; P. TC kế toán; P.Tổ chức cán bộ; P.Hành chính quản trị; P. Điện toán; P. kiểm tra nội bộ.
Các phòng ban Sở giao dịch phân chia về chức năng nhiệm vụ rõ ràng song lại không tồn tại độc lập mà có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Ban giám đốc là bộ phận có quyền quyết định cao nhất về phương hướng phát triển của Sở giao dịch, trực tiếp quản lý và giám sát hoạt động của toàn Sở giao dịch thông qua sự tham mưu, đề xuất của các phòng chức năng.
Là một thành viên trong hệ thống, Sở giao dịch I thực hiện các mục tiêu và chương trình hoạt động của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Các hoạt động chính của Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam:
Sở giao dịch được huy động vốn dài hạn, trung hạn, ngắn hạn bằng Việt NamD và ngoại tệ từ mọi nguồn vốn trong nước dưới các hình thức chủ yếu sau:
Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của tất cả các tổ chức dân cư.
Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu dưới tên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các giấy tờ có giá khác.
Vay vốn của các tổ chức TC trên các loại thị trường.
Sở giao dịch thực hiện các nghiệp vụ Tín dụng và các dịch vụ ngân hàng chủ yếu là :
Cho vay dài hạn, trung hạn, ngắn hạn theo cơ chế hiện hành bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, hộ gia đình và cá nhân.
Chiết khấu các chứng từ có giá.
Các nghiệp vụ bảo lãnh và tái bảo lãnh.
Trực tiếp thực hiện và làm đại lý cho thuê TC theo sự uỷ quyền của Tổng Giám Đốc hoặc công ty cho thuê TC ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Mua bán, chuyển đổi ngoại tệ và các dịch vụ ngoại hối.
Dịch vụ thanh toán trong nước và ngoài nước giữa các khách hàng.
Tham gia đấu thầu mua trái phiếu, tín phiếu Chính Phủ, trái phiếu Ngân hàng Nhà nước, kho bạc nhà nước trên thị trường do Ngân hàng Nhà nước tổ chức khi được Tổng Giám Đốc cho phép.
Dịch vụ ngân hàng đại lý, quản lý vốn dự án đầu tư theo yêu cầu.
Dịch vụ tư vấn TC cho khách hàng.
Sở giao dịch là một pháp nhân có tính độc lập cao trong hệ thống ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, có quyền tổ chức, ra các quyết định quản lý, KD trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ hoạt động của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
2.1.2.1 Kết quả KD năm 2007 của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Bảng 1: Kết quả KD của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam năm 2007
Đơn vị: tỷ VNĐ
STT
Chỉ tiêu
2007
1
Tổng doanh thu
2.237,68
2
Tổng chi
1.432,03
3
Kết quả KD trước thuế
804,64
4
Thuế thu nhập doanh nghiệp
225,55
5
Kết quả KD sau thuế
580,07
(Nguồn: Báo cáo kết quả KD của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam năm 2006-2007)
Như vậy, năm 2007 Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã đạt được kết quả KD đáng khích lệ với lợi nhuận sau thuế đạt 580,07 tỷ VNĐ đóng góp khoảng 20% lợi nhuận sau thuế cho cả hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Ngoài ra, Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã góp phần không nhỏ trong các hoạt động xã hội như tích cực tham gia vào việc đóng góp ủng hộ đồng bào các tỉnh bị thiên tai lũ lụt, ủng hộ các quỹ như Quỹ vì người nghèo, Quỹ khuyến học...
2.1.2.2 Các hoạt động KD cơ bản của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Tình hình huy động vốn
Tổng nguồn vốn quy VNĐ của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đến 31/12/2007 đạt 36.095,59 tỷ VNĐ tăng 20,19% so với cuối năm 2006, trong đó nguồn vốn Việt Nam Đ đạt 16.242,32 tỷ VNĐ tăng 3.797,82 tỷ VNĐ (30,50%) và ngoại tệ quy USD đạt 1.233,81 triệu USD tăng 133,22 triệu USD (12,1%). Nguồn vốn bằng ngoại tệ của Sở giao dịch cuối năm 2007 chiếm tỷ trọng là 55% tổng nguồn vốn của Sở giao dịch.
Bảng 2: Tổng nguồn vốn của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam năm 2006 - 2007
Đơn vị: Tỷ VNĐ, triệu USD
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
Tỷ trọng %
Số tiền
Tỷ trọng %
VNĐ
12.444,50
41,44
16.242,32
45
USD
1.100,59
58,56
1.233,81
55
Tổng nguồn vốn quy VNĐ
30.031,93
100
36.095,59
100
(Nguồn: Báo cáo kết quả KD của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam năm 2006-2007)
Từ bảng trên có thể thấy nguồn vốn bằng ngoại tệ vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn. Tuy nhiên, tốc độ tăng của nguồn ngoại tệ trong mấy năm gần đây đã giảm so với tốc độ tăng của nguồn vốn VNĐ. Điều này đã dẫn đến xu hướng giảm tỷ trọng nguồn vốn ngoại tệ từ 58,56% năm 2006 xuống còn 55% năm 2007.
Tình hình sử dụng vốn
Hoạt động theo phương châm “hiệu quả và an toàn”, Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam biết được sử dụng nguồn vốn là khâu mấu chốt quyết định đến hiệu quả KD, trong những năm qua Ngân hàng đã chú trọng đến việc sử dụng nguồn vốn sao cho có hiệu quả cao nhất, tối đa hoá được giá trị cho Ngân hàng. Diễn biến tình hình dư nợ của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam qua 3 năm như sau:
Tốc độ tăng trưởng dư nợ mạnh, từ 1977 tỷ đồng năm 2007 tăng lên 3517 tỷ đồng năm 2007, tăng 21,5% so với năm 2006 và 4553 tỷ đồng năm 2007, tốc độ tăng 43,7%. Kết quả này là nhờ Ngân hàng ngoài việc cố gắng duy trì quan hệ Tín dụng với khách hàng truyền thống đã mạnh dạn đa dạng hoá các hình thức cho vay đối với mọi đối tượng khách hàng đặc biệt là mở rộng cho vay đối với các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh.
Phân theo thành phần kinh tế ta thấy được đối tượng khách hàng chủ yếu của Ngân hàng là các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh - vừa có dự án Sản xuất KD có hiệu quả, vừa có tài sản bảo đảm, vừa cho vay được với lãi suất phù hợp, vừa hạn chế được rủi ro trong hoạt động. Do đó khối Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh liên tục tăng cả về khối lượng đầu tư và thị phần.
Hoạt động thanh toán
Phương thức thanh toán chuyển tiền đang dần dần chiếm tỷ trọng lớn trong quá trình rút vốn, giải ngân nguồn vốn ODA. áp dụng phương thức chuyển tiền này đã tạo cho Sở giao dịch có cơ hội KD ngoại tệ do tạo nguồn ngoại tệ ổn định hàng tháng/quý/năm cho Sở giao dịch để phục vụ nhu cầu của khách hàng và thu được nhiều lợi nhuận. Trong năm 2007, Sở giao dịch đã mua được khoảng 300 triệu USD thông qua nghiệp vụ chuyển tiền. Sở giao dịch đã cố gắng thực hiện chuyển tiền tốt, an toàn, nhanh chóng, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Sở giao dịch được chỉ định là Ngân hàng phục vụ cho 18 dự án mới với tổng kim ngạch ký vay hơn 994 triệu USD (tăng 12%) so với năm 2006. Sở giao dịch đã tích cực đẩy mạnh và mở rộng công tác Marketing khách hàng sử dụng vốn vay ODA và viện trợ (đặc biệt là các khách hàng mới) nhằm quảng bá hình ảnh, năng lực của Sở giao dịch trong thanh toán quốc tế, quản lý nợ và xử lý để thu hút nguồn vốn ODA.
Năm 2007 là năm kim ngạch xuất khẩu của cả nước tăng mạnh. Về thanh toán LC và nhờ thu, năm 2007 doanh số đạt khoảng 459 triệu USD, tăng 63,68% so với năm 2006. Tổng kim ngạch thanh toán Nhập khẩu tại Sở giao dịch đạt USD 2.253 triệu USD, tăng 21% so với năm 2006.
Trong năm 2007, doanh số thanh toán séc nhờ thu tăng 90,2% so với năm trước do chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam bằng hối phiếu cho cá nhân và các đơn vị kinh tế tăng nhanh. Hoạt động chuyển tiền đi nước ngoài bằng điện SWIFT và chi trả kiều hối vẫn phát triển mạnh về số lượng và doanh số giao dịch.
Hoạt động thẻ
Trong năm 2007, số lượng thẻ ATM phát hành và doanh số hoạt động của thẻ ATM tăng mạnh là 24,2% và 52% do có chủ trương chi trả lương qua tài khỏan từ năm 2008. Do các máy Atm luôn phải hoạt động với công suất lớn Sở giao dịch đã thường xuyên phối hợp với nhà cung cấp để bảo trì, bảo dưỡng để bảo đảm phục vụ khách hàng một cách kịp thời, chính xác. Ngoài ra, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã phát hành thêm thẻ ghi nợ quốc tế mới là Visa Debit nên số lượng thẻ ghi nợ quốc tế phát hành mới tăng mạnh so với năm 2006 là 5398 thẻ nhưngvẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra do đây là sản phẩm mới và người sử dụng chưa quen với loại thẻ này.
KD ngoại tệ
Trong năm vừa quá, Sở giao dịch thực hiện tất cả các nghiệp vụ liên quan đến ngoại tệ: mua bán, chuyển đổi theo tỷ giá giao ngay là chủ yếu, thu hộ, chi hộ, bảo lãnh thanh toán cho khách hàng trong quan hệ thanh toán quốc tế, thanh toán các loại chứng từ: séc du lịch, Tín dụng thư, chuyển đổi bằng điện tử hoặc chuyển phát nhanh và luôn bảo đảm tỷ giá của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được điều chỉnh theo sát với tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước công bố.
Bảo lãnh
Hoạt động bảo lãnh tại Sở giao dịch luôn bảo đảm an tòan và không phát sinh khỏan Nợ quá hạn nào do bảo lãnh trong 2007. trong năm, bảo lãnh trong nước chiếm tỷ trọng 87% doanh số phát hành bảo lãnh tại Sở giao dịch và bảo lãnh nước ngòai chiếm tỷ trọng là 12,5% và chủ yếu là bảo lãnh trên cơ sở bảo lãnh đối ứng.
Nhìn chung, hoạt động dịch vụ của Ngân hàng là tương đối tốt, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu mà Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã đề ra.
2.1.3 Một số quy định về Tín dụng trung dài hạn tại Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam xem xét và quyết định cho vay khi các khách hàng thoả mãn các điều kiện:
– Các pháp nhân phải có trách nhiệm dân sự: Các cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Các khách hàng phải mở tài khoản tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nơi vay vốn (không bắt buộc với các cá nhân, hộ gia đình hoặc trường hợp cho vay hợp vốn mà Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam không phải là đầu mối)
– Có khả năng TC trong thời hạn cam kết, tức là tình hình TC lành mạnh, KD có hiệu quả, các báo cáo TC theo định kỳ phải phù hợp với quy định của pháp luật.
– Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp theo đúng hợp đồng ký khi tiến hành vay vốn của Ngân hàng.
– Có dự án đầu tư hoặc phương án KD khả thi, có hiệu quả; tức là dự án đó mang lại lợi ích cho số đông và có khả năng hoàn trả vốn vay khi đến hạn.
Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Thời hạn cho vay
Đối với cho vay trung hạn từ trên 5 năm, nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân.
Đối với cho vay dài hạn từ trên 60 tháng nhưng không vượt quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không vượt quá 15 năm đối với cho vay các dự án phục vụ đời sống.
Mức lãi suất cho vay do Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất cho vay tại thời điểm ký hợp đồng và phù hợp với biểu lãi suất công bố của Ngân hàng do Tổng giám đốc Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam quy định trong từng thời kỳ.
Đối tượng cho vay trung và dài hạn: Cho vay để thanh toán tiền Nhập khẩumáy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ... Cho vay bắt buộc thanh toán nợ nước ngoài do Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam bảo lãnh và cho vay với các đối tượng không trái với quy định về quản lý của Nhà nước và được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp nhận
Mức cho vay: được xác định căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản bảo đảm nợ vay theo đúng luật và tuỳ thuộc vào vốn tự có của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng, khả năng nguồn vốn của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Mức phán quyết cho vay tối đa do Tổng giám đốc Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam quy định. Thông thường là:
Mức cho Tổng nhu cầu Vốn tự có của Nguồn vốn huy
vay = vốn của dự án – các bên tham gia – động khác
Tổng nhu cầu vốn bao gồm cả vốn cố định và vốn lưu động.Việc phát tiền vay, Ngân hàng sẽ tiến hành thực hiện theo quy định của hợp đồng trong thời hạn rút vốn.
Trả gốc và lãi
Do Ngân hàng và khách hàng thoả thuận có thể trả nợ gốc và lãi theo một kỳ hạn hoặc nhiều kỳ hạn
Khi đến kỳ hạn trả nợ hoặc kết thúc thời hạn cho vay, khách hàng phải chủ động chuyển tiền trả nợ. Nợ chưa có khả năng trả nợ đúng hạn thì khách hàng phải gia hạn nợ nếu không Ngân hàng sẽ tự động trích tiền trong tài khoản tiền gửi của khách hàng để thu nợ gốc và lãi. Nếu số dư trong tài khoản không đủ thu nợ thì số nợ này có thể chuyển sang Nợ quá hạn và khách hàng phải chịu lãi suất Nợ quá hạn.
Phương thức cho vay
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên, thì Ngân hàng áp dụng hình thức cho vay từng lần. Trong thời hạn rút vốn của hợp đồng khách hàng có thể rút vốn nhiều lần hoặc một lần nhưng tổng số tiền rút ra không vượt quá số tiền vay. Mỗi lần rút vốn vay, khách hàng phải nhận giấy tờ nhận nợ theo mẫu quy định của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cùng các giấy tờ cần thiết khác.
Trường hợp cho vay ngoại tệ mở LC thanh toán hàng NHậP KHẩU, khách hàng làm thủ tục ký nhận trên giấy nhận khi mở LC; Ngân hàng ghi nợ khách hàng từ ngày chính thức thanh toán cho Ngân hàng nước ngoài hoặc từ ngày Ngân hàng nước ngoài ghi nợ Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam có thể cho vay theo hạn mức khi giữa Ngân hàng và khách hàng có một thoả thuận về một hạn mức cho vay trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ Sản xuất KD áp dụng với khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên và có tín nhiệm với Ngân hàng. Và các cán bộ Ngân hàng luôn phải thực hiện kiểm tra bảo đảm nợ vay bằng phương pháp tính toán cân đối vật tư bảo đảm nợ vay.
Cho vay theo dự án đầu tư để phát triển Sản xuất, cơ sở hạ tầng, KD, phục vụ và các sự án phục vụ đời sống.
Đối với các dự án cải tiến kỹ thuật, mở rộng Sản xuất, hợp lý hoá Sản xuất cần vốn tự có tối thiểu tham dự dự án bằng 15% tổng mức vốn đầu tư. Đối với dự án mới khách hàng phải có tối thiểu bằng 20% tổng mức đầu tư.
Giới hạn cho vay:
Tổng dư nợ cho vay với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam tại thời điểm xét cho vay, trừ trường hợp có chỉ thị của Chính phủ
Ngoài ra còn một số các quy định khác như lập hồ sơ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10482.doc