Nâng cao chất lượng Phân tích tín dụng tại Sở giao dịch, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Tài liệu Nâng cao chất lượng Phân tích tín dụng tại Sở giao dịch, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, lĩnh vực tiền tệ, hoạt động Ngân hàng và thị trường tài chính đã trở thành một trong những lĩnh vực kích thích nhất của nền kinh tế. Thị trường tài chính đang thay đổi nhanh chóng với những phương tiện tài chính hiện đại và hữu ích, hoạt động Ngân hàng ngày càng sôi động và thường xuyên được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có thể nói Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế, đóng vai trò là thủ quỹ cho toàn ... Ebook Nâng cao chất lượng Phân tích tín dụng tại Sở giao dịch, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1348 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng Phân tích tín dụng tại Sở giao dịch, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xã hội và là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm ổn định kinh tế. Trong các hoạt động của Ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung thì tín dụng là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Mức tăng trưởng tín dụng hiện nay tăng lên nhanh chóng, nhưng lại làm nảy sinh nhiều e ngại do sự yếu kém trong hoạt động tín dụng ở Việt Nam. Vậy làm sao để hoạt động tín dụng trong hệ thống Ngân hàng phát triển mạnh nhưng vẫn hỗ trợ cho sự phát triển của nền kinh tế là một vấn đề nan giải. Bởi đó không chỉ là khoa học mà còn bao hàm cả tính nghệ thuật. Có rất nhiều biện pháp đã được đưa ra và một trong những biện pháp được xem là khá quan trọng và hiệu quả là “Nâng cao chất lượng phân tích tín dụng”. Trong suốt 7 kì học ngồi trên ghế giảng đường trường Đại học Kinh tế quốc dân, em đã được học nhiều điều, tiếp thu nhiều kiến thức từ thầy cô và các bạn, tuy nhiên phần lớn chỉ dừng lại ở tính lý thuyết. Trong kì cuối này, có cơ hội được áp dụng lý thuyết vào thực tế khi thực tập ở phòng tín dụng, Sở giao dịch, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, em càng hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của hoạt động tín dụng, đặc biệt là hoạt động phân tích tín dụng. Nếu ngân hàng cân nhắc kĩ, ước lượng chính xác khả năng rủi ro và sinh lời trước khi quyết định tài trợ, tức là có chất lượng phân tích tín dụng tốt thì sẽ có được hiệu quả tín dụng cao và từ đó sẽ xây dựng một kết quả kinh doanh tốt. Chính vì vậy, em xin chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng phân tích tín dụng tại Sở giao dịch, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam” để làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Chuyên đề gồm có 3 chương: Chương I : Các vấn đề cơ bản về chất lượng phân tích tín dụng Chương II : Thực trạng chất lượng phân tích tín dụng tại Sở giao dịch, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích tín dụng tại Sở giao dịch, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. CHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÍN DỤNG 1.1. Khái quát về Ngân hàng Thương Mại 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của Ngân hàng Thương Mại 1.1.1.1. Khái niệm: Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Ngân hàng thương mại được định nghĩa dựa vào tính chất và mục đích của nó trên thị trường tài chính, thêm vào đó mỗi nước sẽ đưa ra những khái niệm riêng cho phù hợp với đặc điểm của nước mình. Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Theo đó thì: Ngân hàng thương mại là tổ chức cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Trải qua rất nhiều sự thăng trầm của lịch sử, cùng với sự phát triển của kinh tế và công nghệ, hoạt động Ngân hàng thương mại đã có những bước tiến rất nhanh. Nhiều dịch vụ truyền thống vẫn đươc giữ vững bên cạnh các dịch vụ mới đang ngày càng phát triển. Ngân hàng thương mại từ chỗ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản… các hình thức huy động cũng ngày càng phong phú. Các loại hình tiền gửi khác nhau được đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Công nghệ ngân hàng cũng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động cơ bản của Ngân hàng. Thanh toán điện tử đang thay thế dần thanh toán thủ công, đẩy nhanh tốc độ, tính thuận tiện, an toàn trong thanh toán. Các loại thẻ đang thay thế dần tiền giấy và dịch vụ Ngân hàng 24 giờ, Ngân hàng tại nhà… đang tạo ra các tiện ích ngày càng lớn cho dân chúng. 1.1.1.2. Đặc điểm: Quá trình phát triển của Ngân hàng diễn ra nhanh chóng như vậy nhưng các Ngân hàng thương mại vẫn luôn giữ được những đặc điểm chung mang tính đặc thù: - Thực hiện chức năng trung gian tài chính: + Trung gian tín dụng: Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư giữa các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu với các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu. + Trung gian thanh toán: Ngân hàng đã trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, Ngân hàng thực hiện thanh toán dưới nhiều hình thức như: Séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…Các Ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc các trung tâm thanh toán. Ngày nay, công nghệ thanh toán hiện đại qua Ngân hàng, cũng như sự chuyển hoá nhiều hình thức thanh toán đã được quan tâm để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm chi phí và biến Ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. + Trung gian rủi ro: Hầu hết các lý thuyết hiện đại đều giải thích sự tồn tại của Ngân hàng bằng cách chỉ ra sự không hoàn hảo trong hệ thống tài chính. Một đóng góp khác của Ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền + Trung gian thông tin: Một lý do nữa làm cho Ngân hàng phát triển mạnh và thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường, nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho Ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ với các yếu tổ rủi ro – Lợi nhuận hấp dẫn nhất. - Ngân hàng thực hiện kinh doanh có điều kiện: + Điều kiện về vốn: Để bắt đầu hoạt động, Ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định để hình thành các trang thiết bị ban đầu. Sau đó, để duy trì hoạt động của mình, các Ngân hàng không ngừng gia tăng vốn chủ sở hữu và huy động các nguồn vốn khác. + Điều kiện về nhân lực: Bất cứ Ngân hàng nào muốn tồn tại và phát triển cũng cần phải có nguồn nhân lực giàu kinh nghiệm, đạo đức tốt và nắm vững được các nghiệp vụ Ngân hàng. + Điều kiện về chi nhánh: Việc mở nhiều chi nhánh sẽ giúp cho Ngân hàng dễ dàng thực hiện được vai trò là thủ quỹ trong nền kinh tế của mình, đi đến với khách hàng một cách nhanh chóng và thuận tiện. - Ngân hàng thực hiện các hoạt động về Vốn và Tài sản: Nói chung, các Ngân hàng đều hoạt động chủ yếu ở thị trường tiền tệ. Nó thu lợi nhuận bằng cách bán những tài sản nợ có một số đặc tính (một kết hợp riêng về tính lỏng, rủi ro và lợi tức) và dùng tiền thu được để mua những tài sản có một số đặc tính khác. Như thế, Ngân hàng cung cấp một dịch vụ chuyển một loại tài sản thành một loại tài sản khác cho công chúng. - Ngân hàng cung cấp một loạt các sản phẩm dịch vụ như mua bán ngoại tệ, nhận tiền gửi, cho vay, bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, tài trợ hoạt động của chính phủ, bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, dịch vụ ủy thác và tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, bảo hiểm, các dịch vụ đại lý… Nếu một Ngân hàng tạo ra những dịch vụ hữu ích với chi phí thấp và có được doanh thu cao nhờ vào tài sản có của mình, thì ngân hàng đó thu được lợi nhuận, nếu không, Ngân hàng sẽ phải chịu tổn thất. 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại Ngân hàng là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách hiệu quả. 1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn - Huy động vốn chủ sở hữu: Để bắt đầu hoạt động, các ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định để sử dụng lâu dài, hình thành nên các trang thiết bị, nhà cửa cho Ngân hàng. Nguồn hình thành loại vốn này rất đa dạng: + Nguồn hình thành ban đầu: Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nó có thể do Ngân sách Nhà nước cấp nếu là Ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, thông qua mua cổ phần hay cổ phiếu nếu là Ngân hàng cổ phần, do các bên liên doanh góp nếu là Ngân hàng liên doanh, hoặc là vốn thuộc sở hữu tư nhân đối với Ngân hàng tư nhân. + Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng gia tăng vốn chủ sở hữu theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể. Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư (Nguồn từ lợi nhuận). Hoặc nguồn được bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… + Các quỹ: Các quỹ này thuộc sở hữu của chủ Ngân hàng, nguồn hình thành là từ thu nhập của ngân hàng và được trích lập hàng năm nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. + Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: Nguồn này có thể được coi là vốn sở hữu của Ngân hàng do có thể sử dụng lâu dài và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. - Nguồn tiền gửi: Đây là nguồn tài nguyên quan trọng nhất và chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng thương mại. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng cao, các Ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau nhằm gia tăng tiền gửi và có được nguồn tiền chất lượng ngày càng cao. + Tiền gửi thanh toán: Là tiền của các cá nhân hoặc doanh nghiệp gửi, nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ trong phạm vi số dư cho phép với lãi suất rất thấp hoặc có thể bằng không. + Tiền gửi có kì hạn: Là khoản tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội gửi vào ngân hàng với kì hạn nhất định (có thể 1 tháng, 3 tháng…, 1 năm, 2 năm…) với một lãi suất tương ứng với kì hạn đó nếu khách hàng rút tiền đúng hạn. Nếu cần chi tiêu, người gửi vẫn có thể rút tiền ra trước hạn nhưng sẽ hưởng mức lãi suất thấp hơn. + Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Là khoản tiền tiết kiệm của dân cư vào ngân hàng nhằm mục đích bảo toàn và sinh lời với những khoản thu nhập tạm thời chưa dùng đến. Để khuyến khích dân cư đi gửi tiết kiệm, các Ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. + Tiền gửi của các Ngân hàng khác: nhằm mục đích thanh toán hộ và một số mục đích khác ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, nguồn này thường không lớn. - Nguồn đi vay: Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại, song khi cần, Ngân hàng vẫn có thể vay mượn thêm. + Vay Ngân hàng Nhà nước (Vay Ngân hàng trung ương): Khi cần giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả, trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), các ngân hàng thương mại có thể vay Ngân hàng Nhà nước với hình thức cho vay chủ yếu là tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn + Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Nguồn này dùng để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách. Trong nhiều trường hợp nó có thể bổ sung và thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước. + Vay trên thị trường vốn: Đây là nguồn vay nợ bổ sung nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung dài hạn của ngân hàng với hình thức chủ yếu là phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tin phiếu, trái phiếu). - Các nguồn khác: + Nguồn ủy thác: Việc thực hiện các dịch vụ như cho vay, ủy thác đầu tư, giải ngân và thu hộ…hình thành nguồn ủy thác, làm gia tăng vốn của ngân hàng + Nguồn trong thanh toán: Các hoạt động trong thanh toán có thể hình thành trong nguồn thanh toán (séc trong chi trả, tiền kí để quỹ mở L/C…) + Nguồn khác: Gồm các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả… 1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, hoạt động chính là tìm kiếm các khoản vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. - Hoạt động Ngân quỹ: Ngân quỹ của ngân hàng thường bao gồm: + Tiền mặt trong két: Các ngân hàng thương mại luôn phải giư một lượng tiền trong két để chi trả nhanh chóng khi cần, đặc biệt với thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán của đại đa số dân chúng và doanh nghiệp nhỏ. + Tiền gửi tại Ngân hàng khác: Không chỉ có tiền mặt trong két, các ngân hàng thương mại dũng cần phải gửi tiền tại ngân hàng Nhà nước, tại ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, có thể do bắt buộc hoặc vì mục tiêu thanh toán tiện lợi. - Hoạt động chứng khoán: Ngân hàng thương mại nắm giữ chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản. Các chứng khoán mà ngân hàng thường nắm giữ là: chứng khoán chính phủ, chứng khoán của các ngân hàng khác, các công ty tài chính và của các công ty khác. Ngân hàng nắm giữ chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho ngân hàng (lớn hơn so với tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng) và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Nhưng ta cần chư ý rằng đầu tư chứng khoán ở đây là đầu tư vào trái phiếu, tín phiếu... chứ không phải là đầu tư vào cổ phiếu. Đầu tư vào cổ phiếu thuộc hoạt động hùn vốn của ngân hàng. - Hoạt động tín dụng: Đây là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn nhất và phản ánh hoạt động đặc trưng của Ngân hàng. Loại hoạt động này được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau: + Theo thời gian: Gồm tín dụng ngắn hạn (từ 12 tháng trở xuống), tín dụng trung hạn (trên 1 năm đến 5 năm), tín dụng dài hạn (trên 5 năm). + Theo hình thức tài trợ tín dụng: Được chia thành cho vay, bảo lãnh và cho thuê… + Tín dụng được chia theo đảm bảo: Gồm có không đảm bảo và có đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố. + Tín dụng phân loại theo rủi ro: Bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. + Tín dụng theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp…), theo đối tượng tài trợ (hàng hóa,bất động sản...) hoặc theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng…) - Các hoạt động khác: Ngân hàng có thể thực hiện một số hoạt động khác như thanh toán, ủy thác, hùn vốn (tham gia góp vốn với các tổ chức khác), các hoạt động sử dụng khác như mua sắm nhà cửa, trang thiết bị phục vụ cho quá trình kinh doanh của ngân hàng và cho thuê. 1.1.2.3. Các hoạt động khác: Bên cạnh các hoạt động mang tính truyền thống và đặc trưng, ngân hàng thương mại còn tiến hành các hoạt động khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận như: cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý, dịch vụ ủy thác, dịch vụ tư vấn... 1.2. Chất lượng phân tích tín dụng của Ngân hàng thương mại: 1.2.1. Khái quát về hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại: 1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tín dụng Khó có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về tín dụng. Thuật ngữ này được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tùy góc độ nghiên cứu, nhưng nhìn chung thì: Tín dụng là quan hệ giao dịch giữa hai bên, họ cam kết với nhau như sau: - Một bên trao một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hoặc tiền tệ - Còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại lượng giá trị đó sau một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định nào đó (nhưng lượng giá trị hoàn lại phải lớn hơn lượng giá trị ban đầu) Như vậy, tín dụng là quan hệ vay mượn gồm cả đi vay và cho vay nhưng hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản và cũng là hoạt động mạng lại lợi nhuận chủ yếu cho các Ngân hàng . Vì lẽ đó nên khi nhắc đến tín dụng Ngân hàng người ta thường hiểu là hoạt động cho vay. Quan hệ tín dụng của Ngân hàng có những đặc trưng sau: - Tín dụng Ngân hàng là quan hệ giao dịch giữa một bên là Ngân hàng và một bên là các thành phần còn lại của nền kinh tế, gồm Nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội, cá nhân… Tài sản tín dụng trong quan hệ tín dụng bao gồm hai hình thức cho vay (bằng tiền), cho thuê (máy móc, thiết bị..) - Quan hệ tín dụng xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, người đi vay chỉ được sử dụng trong một thời gian nhất định, sau khi hết hạn, người đi vay phải trả cho người vay, do đó khi Ngân hàng xem xét việc cho vay thì điều quan trọng nhất là xem xét yếu tố trả nợ của khách hàng vay. - Nguyên tắc của quan hệ tín dụng là giá trị thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, tức là người đi vay phải trả thêm một phần lãi, phần lãi này được Ngân hàng xác định dựa trên phần lãi suất cho vay. Thông thường Ngân hàng phải xác định một mức lãi suất danh nghĩa cao hơn tỷ lệ lạm phát để đạt một lãi suất thực dương. 1.2.1.2. Phân loại tín dụng: - Phân chia theo thời gian: Đây là một trong những cách phân chia phổ biến vì có liên quan mật thiết tới tính an toàn, sinh lợi của Ngân hàng và khả năng hoàn trả của khách hàng. + Tín dụng ngắn hạn: Nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn (từ 12 tháng trở xuống). Ngân hàng có thể cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món, theo hạn mức, có hoặc không đảm bảo. + Tín dụng trung hạn: Thường từ trên 1 năm – 5 năm và tài trợ cho các tài sản cố định như máy móc thiết bị vận tải, thiết bị chống hao mòn. + Tín dụng dài hạn: Có thời gian trên 5 năm, thường tài trợ cho các công trình, máy móc thiết bị có giá trị sử dụng lớn và thời gian sử dụng lâu Tuy vậy, việc xác định thời hạn nhiều khi cũng chỉ tương đối. - Phân chia theo hình thức tài trợ tín dụng + Chiết khấu thương phiếu: Là việc Ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng khi cầm thương phiếu chưa đến hạn (hoặc giấy nợ) đến xin chiết khấu, khoản tiền ứng trước được xác định dựa trên giá trị thương phiếu trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng (có tính đến các yếu tố rủi ro) + Cho vay: Là việc Ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian xác định. Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng. + Cho thuê: Hoạt động của Ngân hàng chủ yếu là cho khách hàng vay bằng tiền để mua tài sản, nhưng trong trường hợp khách hàng không đủ điều kiện để vay, Ngân hàng đứng ra mua tài sản rồi cho khách hàng thuê lại. + Bảo lãnh: Là hoạt động cam kết của Ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nhiệm vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng như đã cam kết. - Phân loại theo mức tín nhiệm với khách hàng. + Cho vay không có đảm bảo: Là hình thức cho vay tín chấp, thường áp dụng với những khách hàng có uy tín hay các khoản cho vay theo chỉ thị của Nhà nước không cần tài sản đảm bảo + Cho vay có đảm bảo: Là các khoản vay đối với các khách hàng có tài sản cầm cố hoặc thế chấp hay có bảo lãnh của người thứ ba. - Căn cứ vào đối tượng khách hàng vay: + Cho vay chính phủ: Là hoạt động cho vay đối với Nhà nước để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên thông qua việc mua trái phiếu do kho bạc phát hành. + Cho vay các đơn vị kinh doanh: Đối tượng vay là các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh. + Cho vay các tổ chức tài chính khác (Ngân hàng, Công ty Tài chính, quỹ tín dụng…) là hoạt động cho vay chủ yếu để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc thanh toán liên Ngân hàng. + Cho vay cá nhân: Là hoạt động cho vay đối với khách hàng là các cá nhân, người tiêu dùng để mua sắm tài sản, tiêu dùng hoặc kinh doanh – Căn cứ theo phương thức cho vay + Cho vay thấu chi: Là nghiệp vụ cho vay mà Ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số tiều gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định (Hạn mức thấu chi) và trong khoảng thời gian xác định. + Cho vay từng lần: Là phương thức cho vay đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, chỉ khi vào thời vụ kinh doanh hoặc mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay Ngân hàng + Cho vay theo hạn mức tín dụng: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó Ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng một hạn mức về số dư. + Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. + Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng, theo đó Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận, thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định… - Căn cứ vào mục đích sử dụng: + Cho vay sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng cấp cho các chủ thể kinh tế với mục đích tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa. + Cho vay tiêu dùng: Là tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cũng như mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại…Cho vay tiêu dùng được cấp phát dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc bán chịu hàng hoá Ngoài ra, tín dụng Ngân hàng còn một số cách phân loại khác như: Phân loại theo rủi ro, theo nền kinh tế, theo mục đích… 1.2.2. Chất lượng phân tích tín dụng của Ngân hàng thương mại 1.2.2.1. Khái niệm, mục tiêu và yêu cầu Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho Ngân hàng thương mại. Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân nhưng đều gây ra tổn thất lớn, thậm chí đẩy ngân hàng đến phá sản. Do vậy, các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ. Đó chính là quá trình phân tích tín dụng, bao gồm qúa trình thẩm tra trước, trong và sau khi cho vay, chiết khấu, cho thuê, bảo lãnh. Và khi sự cân nhắc, ước lượng khả năng sinh lời cũng như khả năng rủi ro được đo lường chính xác, đầy đủ là Ngân hàng đã có một chất lượng phân tích tín dụng tốt. Quan hệ tín dụng phần lớn được xác lập thông qua hợp đồng tín dụng với trọng tâm là xác định khả năng và ý muốn của người nhận tín dụng trong việc thực hiện hợp đồng. Do đó, mục tiêu của phân tích tín dụng là thu thập và phân tích thông tin nhằm xác định nội dung của hợp đồng tín dụng bao gồm xác định vị trí thị trường so sánh của người nhận tín dụng, sức cạnh tranh, rủi ro, mức độ thay đổi kỹ thuật, sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của người vay… trong quá khứ, hiện tại và tương lai, cho phép ngân hàng để điều chỉnh các giá trị trong quan hệ tín dụng với khách hàng. Phân tích tín dụng là công việc nghiêm túc, không thể làm chiếu lệ, quy trình tín dụng phải đáp ứng các yêu cầu sau: Được xây dựng và thống nhất toàn ngân hàng, tránh tùy tiện, duy ý chí. Quy trình này phải được ban lãnh đạo ngân hàng thông qua và phổ biến đến các phòng có liên qua cũng như các cán bộ tín dụng Được xây dựng chi tiết trong nội dung phân tích, tránh chung chung. Mỗi phòng chức năng trong ngân hàng cũng như cán bộ ngân hàng cần biết mình phải làm gì, đến mức nào. Toàn bộ quy trình phải nhằm thực hiện nguyên tắc tín dụng ngân hàng 1.2.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tín dụng: Để đánh giá chất lượng phân tích tín dụng có tốt hay không, người ta sẽ xem xét thông qua các chỉ tiêu được hình thành trong quy trình phân tích tín dụng. Vì vậy, để biết được các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tín dụng, ta nghiên cứu quy trình phân tích tín dụng như sau: Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu là thu nhập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay. - Trước khi phân tích tín dụng, công việc đầu tiên cần làm là phải thu thập thông tin qua các phương pháp sau: + Phỏng vấn trực tiếp là rất quan trọng, bao gồm việc gặp gỡ trực tiếp giữa ngân hàng và người vay vốn: Thăm quan nhà xưởng, văn phòng, nói chuyện với giám đốc và người lao động, xem xét vật thế chấp…. + Mua hoặc tìm kiếm thông tin qua các trung gian (qua các cơ quan quản lý, qua các bạn hàng, chủ nợ khác của người vay, qua các trung tâm thông tin hoặc tư vấn). Phương pháp này giúp phân tích người vay qua các mối liên hệu của họ, cho thấy uy tín, tình trọng rủi ro, phát triển hay suy thoái. + Thông qua các thông tin có được từ các báo cáo do người vay cung cấp. Ngân hàng luôn yêu cầu người vay vốn phải gửi cho ngân hàng các báo cáo tài chính như bảng cân đối kế toán (bảng cân đối tài sản, báo cáo kết quả kinh doanh,…). Phương pháp này giúp ngân hàng có cơ sở dự đoán về tình hình của khách hàng trong tương lai gần, ước tính nhu cầu vay vốn, đánh giá khả năng sinh lời và khả năng trả nợ, các thiệt hại có thể xảy ra nếu khách hàng không trả đầy đủ, giá trị các tài sản có thể phát mại khi cẩn thiết… - Từ những thông tin thu thập được, ngân hàng sẽ tiến hành xử lý và phân tích theo các nội dung: + Đánh giá tài sản của khách hàng: Các thông tin về tài sản cho thấy quy mô, khả năng quản lý của khách hàng. Tài sản của khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu hồi nợ khi khách hàng mất khả năng sinh lời nên rất quan trọng đối với quyết định cho vay. Những khoản mục cần lưu ý khi đánh giá tài sản của khách hàng: Ngân quỹ: Bao gồm tiền gửi ngân hàng, tiền mặt trong két, các khoản phải thu (chủ yếu là tiền bán hàng hóa và dịch vụ chưa thu được tiền), ngân hàng cần xem xét kỹ để lại trừ các khoản bán chịu không thu được, khó thu được hoặc đã bán lại cho người khác. Các khoản cho vay ngắn hạn liên quan chặt chẽ tới tình hình ngân quỹ của khách hàng, đặc biệt thời hạn cho vay có thể tính toán dựa trên số ngày của kỳ thu tiền. Các chứng khoán có giá: Là các tài sản tài chính của doanh nghiệp. Các tài sản này làm tăng nguồn thu và có thể mạng bán khi cần tiền để chi trả. Hàng hóa trong kho: Nhiều các món vay ngắn hạn với mục tiêu tăng dự trữ hàng hóa. Do đó, ngân hàng quan tâm tới số lượng, chất lượng, giá cả, bảo hiểm, tủi ro đối với hàng hoá trong kho để loại trừ hàng kém chất lượng, hàng người khác gửi... phòng trường hợp biến động giá. Tài sản cố định: Gồm nhà cửa, sân bãi, trang thiết bị, phương tiện vận chuyển, thiết bị văn phòng... thường là đối tượng tài trợ trung và dài hạn. - Đánh giá các khoản nợ: Ngân hàng quan tâm đến các khoản nợ của người vay dưới nhiều tiêu thức khác nhau: Về thời gian: Gồm nợ ngắn hạn (vay ngắn hạn) và nợ trung và dài hạn (vay trung và dài hạn); khoản nợ đến hạn trong năm và khoản nợ phải trả trong các năm sau. Nhìn chung, các khoản vay ngắn hạn thường dùng tài trợ cho tài sản chố dịnh. Do đó, tính tương quan giữa chúng là đối tượng phân tích của ngân hàng. Tất cả các chủ nợ của khách hàng: Các khoản nợ cũ, các khoản nợ của các ngân hàng khác, nợ ngời cung cấp, nợ người lao động. vị trí của ngân hàng trong danh sách chủ nợ cũng luôn được nghiên cứu kỹ. Nếu ngân hàng giành vị trí quan trọng sẽ dễ thu được nợ hơn. Các khoản nợ ưu đãi, nợ có đảm bảo và nợ khác. Các tài sản đã làm đảm bảo cho khoản vay cũ cần phân được tính lại theo giá thị trường và bị loại trừ, nếu chúng được lấy làm tài sản đảm bảo cho khoản vay mới thì cần tính toán giá trị dôi thừa so với tiền vay cũ. - Phân tích luồng tiền: Những khách hàng tạo ra lợi nhuận trong quá khứ, thậm chí cả trong tương lai, tuy nhiên lợi nhuận chỉ là chỉ tiêu quan trọng phản ánh khản năng sinh lời, còn việc trả nợ ngân hàng lại liên quan chặt chẽ tới ngân quỹ của người vay, nên chênh lệch dòng tiền vào ra là chỉ tiêu quan trọng nhất đối với việc dự đoán các vấn đề tín dụng trong tương lai. Để hỗ trợ cho ngân hàng và khách hàng, các luồn tiền trong tương lai cần được dự kiến nhằm giúp ngân hàng quyết định cho vay hay không. - Sử dụng các tỷ lệ: Sau khủng hoảng 1929 – 1932, nhiều ngân hàng không thu được nợ ngay cả khi cho vay các khoản vốn lưu động phù hợp. Cùng với các khoản cho vay ngắn hạn, đã xuất hiện ngày càng nhiều các khoản cho vay dài hạn mà mối tương quan với vốn của chủ sở hữu và luồng trả nợ trở nên rất quan trọng. Để quá trình phân tích tín dụng được thực hiện với thời gian ngắn và phần nào được tiêu chuẩn hóa, các ngân hàng cố gắng xây dựng các tỷ lệ phản ánh năng lực tài chính của người vay có liên quan đến khả năng trả nợ. Các tiêu chí khi phân tích cần phân tích, đánh giá: Tỷ suất tài trợ. Nguồn vốn chủ sở hữu Tỷ suất tài trợ = ----------------------------- x 100% Tổng nguồn vốn Tiêu chí này nhằm xác định khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và mức độ độc lập về mặt tài chính từ nội lực doanh nghiệp. Tỷ suất này càng cao, thì khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp càng lớn, tỷ lệ bảo đảm theo khuyến cáo ít nhất là 8%. Về khả năng thanh toán và sự ổn định: Để đo khả năng thanh toán ngắn hạn, khi phân tích phải tính các chỉ tiêu: Tài sản ngắn hạn Hệ số thanh toán ngắn hạn = -------------------------- Tổng nợ ngắn hạn Hệ số ngày xác định khả năng thanh toán các khoản nơi ngắn hạn (trong một năm hay chu kỳ sản xuất kinh doanh) cao thay thấp. Nếu chỉ tiêu này lớn hơn hoặc bằng 1, doanh nghiệp có thể thanh toán các khoản nợ ngắn hạn đúng hạn, tình hình tài chính bình thường theo hướng khả quan. Tuy nhiên hệ số này còn phụ thuộc vào chất lượng tài sản ngắn hạn, như chất lượng hàng tồn kho, chất lượng nợ phải thu. Tổng vốn bằng tiền Hệ số thanh toán tài sản ngắn hạn = ---------------------------- Tổng tài sản ngắn hạn Hệ số này phản ánh khả năng sẵn có của tài sản ngắn hạn. Hệ số hợp lý trong khoảng lớn hơn 0,1 và nhỏ hơn 0,3. Nếu hệ số nhỏ hơn 0,1 là không tốt, thiếu tiền để thanh toán, nếu hệ số lớn hơn 0,3 cũng không tốt, gây ứ đọng vốn, không đưa trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh Khi tính hệ số thanh toán tài sản ngắn hạn, cần lưu ý đến tính thanh khoản của các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn vị trong thực tế việc chuyển đổi ngay các khoản đầu tư chứng khoán cũng là vấn đề cần bàn, nó còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, kể cả việc mất giá... Tổng vốn bằng tiền + các khoản tương đương tiền Hệ số thanh toán nhanh = ------------------------------------------------------------ Tổng nợ ngắn hạn Chỉ tiêu này phản ánh khả năng có thể thanh toán các khoản nợ ngắn hạn, nếu hệ số này lớn hơn 0,1 thì tình hình thanh toán khả quan, nếu có hệ số nhỏ hơn 0,1 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong thanh toán, dẫn đến doanh nghiệp có thể phải bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ vì không đủ tiền thanh toán. Mặt khác nếu hệ số này quá cao thì cũng không tốt, vì vốn bằng tiền quá nhiều dẫn đến ứ đọng vốn. Tài sản ngắn hạn Hệ số đảm đương tài sản ngắn hạn = ----------------------- Nợ ngắn hạn Hệ số này thông thường phải > 1, trường hợp = 1 chứng tỏ không có vốn chủ sở hữu tham gia hình thành tài sản ngắn hạn, trường hợp < 1 chứng tỏ một phần nợ ngắn hạn đã đầu tư vào tài sản cố định và kinh doanh bất động sản, mất cân đối về cơ cấu nguồn vốn. Khi hệ số trên < 1 ta phải cân đối lại nguồn vốn hình thành lên tài sản cố định và bất động sản._. đầu tư để phát hiện những vấn đề nảy sinh về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nợ vay ngắn hạn Hệ số vay nợ ngắn hạn = ---------------------- Tài sản ngắn hạn Hệ số này phản ánh nợ vay ngắn hạn tham gia hình thành lên tài sản ngắn hạn. Hệ số này thông thường phải 1 rất nguy hiểm, chứng tỏ một phần vốn vay ngắn hạn đã sử dụng vào đầu tư tài sản cố định & bất động sản, mất cân đối vốn. Đến khi nợ vay ngắn hạn đến hạn không có nguồn trả, trong khi các khoản thu từ đầu tư trung dài hạn chưa cao vì phải có thời gian. Khi trường hợp trên > 1 ta phải cân đối lại nguồn hình thành lên tài sản cố định và bất động sản đẩu tư để phát hiện những vấn đề nảy sinh về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tổng tài sản cố định Hệ số đầu tư = --------------------------- Tổng tài sản Trong tổng tài sản cố định đã có cả phần chi phí xây dựng dở dang, nhưng không bao gồm bất động sản đầu tư. Khi đánh giá, phân tích hệ số này phải căn cứ vào từng ngành, lĩnh vực đánh giá cho phù hợp Tài sản cố định Hệ số tài sản cố định trên chủ sở hữu = ----------------------- Vốn chủ sở hữu Hệ số này phản ánh sự tự chủ về tài sản cố định từ từ chính năng lực của doanh nghiệp. Hệ số này tốt nhất từ 1,5 đến 2 đối với đơn vị sản xuất kinh doanh thông thường không mang tính đặc thù. Tài sản cố định + bất động sản đầu tư Hệ số điều chỉnh dài hạn = ----------------------------------------------- Vốn chủ sở hữu + Vay trung dài hạn Hệ số này phản ánh tài sản cố định và bất động sản đầu tư được đảm đương bằng nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay trung dài hạn, đó là tính chủ động của tài sản cố định và đầu tư bất động sản. Hệ số này < 1 là hợp lý. Nợ phải trả Hệ số nợ = -------------------- Vốn chủ sở hữu Đây là hệ số phụ khi xác định đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp (Tài sản/Vốn chủ sở hữu) 3. Chất lượng tài sản có Tổng doanh thu thuần Hiệu quả Doanh thu/Tài sản cố định = --------------------------------------------- Nguyên giá bình quân tài sản cố định Tổng lợi nhuận trước thuế Hiệu quả Lợi nhuận/Tài sản cố định = --------------------------------------------- Nguyên giá bình quân tài sản cố định Chỉ tiêu tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định đem lại mấy đồng lợi nhuận, hệ số này càng cao, thì sức sản xuất của tài sản cố định phát huy được hiệu quả, khai thác tốt công suất, qua đây đánh giá việc nên hay không nên đầu tư mới tài sản cố định Tổng lợi nhuận trước thuế Hiệu quả Lợi nhuận/Tài sản ngắn hạn = --------------------------------------- Tổng Tài sản ngắn hạn bình quân Chỉ tiêu này phản ánh một đồng tài sản ngắn hạn bình quân đem lại mấy đồng doanh thu thuần hoặc mấy đồng lợi nhuận, hệ số càng cao thì hiệu quả tài sản lưu động càng tốt, ngược lại nếu hệ số này quá thấp, chứng tỏ tài sản lưu động không phát huy được hiệu quả do các nguyên nhân như: Hàng tồn kho khá cao, hàng ứ đọng kém mất phẩm chất lớn, tiền mặt tiền gửi tồn nhiều, vốn bị chiếm dụng lâu ngày, khó thu.... Doanh thu thuần Vòng quay Tài sản có = ------------------------- Tài sản có bình quân Chỉ tiêu này phản ánh một đồng tài sản có mang lại mấy đồng doanh thu thuần Doanh thu thuần Vòng quay của tài sản ngắn hạn (VLĐ) = ----------------------------------------- Tài sản ngắn hạn(TSLĐ)bình quân Chỉ tiêu này cho biết, trong kỳ kinh doanh, tài sản ngắn hạn quay được mấy vòng, nếu vòng quay tăng, chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tăng và ngược lại. Đây cũng là một chỉ tiêu để xác định hạn mức tín dụng vốn ngắn hạn (vốn lưu động) Giá vốn bán hàng Vòng quay của hàng tồn kho = ------------------------------ Hàng tồn kho bình quân Vòng quay này càng nhanh càng tốt, nó thể hiện sự luân chuyển vốn. Dự trữ hàng lâu quá sẽ chịu phí lưu dữ, bảo quản và rủi ro cũng sẽ tăng làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh thu Vòng quay của các khoản phải thu = ------------------------------- Khoản phải thu bình quân Vòng quay này càng cao, thể hiện các khoản phải thu được xử lý kịp thời Giá vốn bán hàng Vòng quay của các khoản phải trả = ------------------------------ Khoản phải trả bình quân Trong tổng số nợ phải trả, cần xác định rõ cơ cấu nợ phải trả như: Phải trả người bán, người mua ứng trước, phải trả về thuế, phải trả cán bộ công nhân viên, phải trả nợ vay và các khoản phải trả khác...để xác định tính hợp lý và những vấn đề liên quan đến nợ các khoản phải trả, nhất là nợ vay các ngân hàng 4. Đánh giá lợi nhuận Mục đính nhằm xác định kết quả tài chính cuối cùng sau mỗi năm hoạt động kinh doanh và lũy kế đến ngày vay. Nếu chỉ nhìn vào kết quả này thôi, thì cũng chưa đủ để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp, vì trong thực tế một số loại hình doanh nghiệp, khi mới đi vào hoạt động thường bị lỗ trong các năm đầu (thường là 2 năm), còn gặp nhiều khó khăn như vừa đầu tư xây dựng, vừa sản xuất, chưa sử dụng hết công suất thiết kế, chi phí ban đầu cao, thị trường thiêu thụ chưa ổn định... Do vậy khi phân tích cho vay cũng cần lưu ý vấn đề này, không nên cứng nhắc, mà phải căn cứ vào tính khả thi, triển vọng kinh doanh, khản năng và phương án khắc phục lỗ để nhận định đánh giá một cách khách quan về hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời kết hợp với các chỉ tiêu phân tích nhứ đã nêu trên để có hướng đề xuất đánh giá về mặt tài chính của doanh nghiệp cho thích hợp. Tuy nhiên đối với những doanh nghiệp, năng lực quản lý kinh doanh yếu kém, thường xuyên làm ăn thua lỗ, các chỉ số phân tích tài chính không bảo đảm yêu cầu thì không nên cho vay, vì nguy cơ rủi ro về phương diện tài chính là quá cao... Các tiêu chí đánh giá về lợi nhuận: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh Hệ số sinh lời từ hoạt động kinh doanh = ------------------------------------------- Doanh thu Tổng lợi nhuận sau thuế Hệ số sinh lời từ doanh thu = ----------------------------- (ROS) Doanh thu Hệ số này thể hiện một đồng doanh thu có thể tạo được bao đồng lợi nhuận ròng trong một chu kỳ kinh doanh, đây là tỷ lệ quan trọng nhất trong việc đánh giá khả năng sinh lời chung. Lợi nhuận sau thuế Hệ số doanh lợi của tài sản có = ----------------------- (ROA) Tài sản bình quân ROA đo lường kết quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp để tạo ra lợi nhuận, không phân biệt tài sản này được hình thành bởi vốn chủ sở hữu hay vốn vay. ROA cho biết một đồng tài sản tạo được bao đồng lợi nhuận ròng, vì vậy, hệ số này càng cao biểu hiện việc sử dụng và quản lý tài sản càng hợp lý. Lợi nhuận sau thuế Hệ số doanh lợi của vốn chủ sở hữu = ------------------------------- (ROE) Vốn chủ sở hữu bình quân ROE cho thấy một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao đồng lợi nhuận ròng cho chủ sở hữu, ROE cao thể hiện hiệu quả kinh doanh cao và ngược lại Lợi nhuận thuần từ HĐKD Sức sinh lời của tài sản cố định = ------------------------------------ Nguyên giá bình quân TSCĐ Lợi nhuận thuần từ HĐKD Hệ số sinh lời của tài sản ngắn hạn = -------------------------------- Tài sản ngắn hạn bình quân Hệ số này phản ánh một đồng tài sản lưu động làm ra mấy đồng lợi nhuận, hệ số này càng cao, thì khả năng sinh lời của tài sản lưu động càng lớn và như vậy tài sản lưu động đưa vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả thiết thực. Nếu hệ số này quá thấp thì ngoài các nguyên nhân nêu trên, còn do giá thành hàng hóa quá cao, chi phí sản xuất thấp, chi phí bán hàng, chi phí quản lý cao... Các hệ số sinh lời nêu trên là chỉ tiêu chất lượng, hệ số càng cao chứng tỏ hoạt động kinh doanh càng tốt, nó phản ánh thực chất hiệu quả kinh doanh về mặt tài chính. Do vậy khi phân tích cho vay cần quan tâm xem xét để đánh giá một cách khách quan, không phụ thuộc vào vốn kinh doanh cao hay thấp. Mặt khác khi phân tích các chỉ tiêu định lượng này cũng cần tính đến thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên/tháng, lợi tức cổ phiếu.. Lợi nhuận sau thuế Thu nhập cổ phần = ------------------------------------- Số lượng cổ phiếu thông thường Trên thực tế số liệu báo cáo tài chính của doanh nghiệp cũng còn không ít bất cập, việc xử lý tài chính “treo”, hạch toán chi phí chưa đầy đủ, lời giả lỗ thật còn xảy ra ở một số doanh nghiệp. Theo quy định các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bắt buộc phải kiểm toán nhưng tiến độ triển khai việc kiểm toán không kịp thời, nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện kiểm toán, đó là chưa kể có doanh nghiệp kiểm toán hôm nay tốt nhưng ngày mai gải thể phá sản. Do vậy, số liệu báo cáo tài chính của doanh nghiệp có đáng tin cậy hay không? Về lý thuyết là phải tin, Giám đốc doanh nghiệp chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực của số liệu, nhưng trên thực tế còn là vấn đề nan giải. Từ thực trạng trên đòi hỏi cán bộ phân tích phải tinh thông trong việc phân tích tín dụng. Để kiểm tra lại kết quả kinh doanh của doanh nghiệp lãi, lỗ như thế nào ta cần tiến hành tính toán và kiểm tra lại dòng tiền vào, dòng tiền ra của doanh nghiệp trong khoảng thời gian nhất định (dòng tiền ngân lưu) để có kết luận khách quan về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. 5. Nhóm tỷ lệ rủi ro: Rủi ro của người vay rất đa dạng, có thể tiếp cận theo những cách sau: Rủi ro trong sản xuất Rủi ro trong tiếp thị Rủi ro về nhân sự Rủi ro về tài chính Rủi ro thuộc về các chính sách của Chính phủ - Các điều kiện kinh tế: Các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cũng tác động đến chất lượng phân tích tín dụng của Ngân hàng. Các kết quả phân tích ở trên cho thấy một phần quá khứ và hiện tại của khách hàng, nhưng điều Ngân hàng quan tâm hơn là khả năng trong tương lai của khách hàng. Thiên tai, các thay đổi bất thường trong đời sống chính trị, khủng hoảng kinh tế vùng, quốc gia, sự sa sút đột ngột của ngành… làm thay đổi các tính toán ban đầu, dẫn đến giảm hoặc mất khả năng trả nợ của khách hàng. Tổn thất của khách hàng đến tổn thất của Ngân hàng chỉ trong gang tấc. Bước 2: Xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thỏa thuận giữa khách hàng và Ngân hàng về việc ngân hàng cam kết cho khách hàng một khoản tín dụng (Hay hạn mức tín dụng) trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật, xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng. Do vậy, cả Ngân hàng và khách hàng cần cân nhắc kĩ trước khi kí kết hợp đồng tín dụng. Sau đây là những nội dung chính của hợp đồng tín dụng: - Thông tin về khách hàng: Họ tên, địa chỉ, tư cách pháp nhân (nếu có) - Thông tin về Ngân hàng cho vay - Mục đích sử dụng vốn vay: vay để làm gì? - Số lượng tín dụng: Là số tiền (hay hạn mức tín dụng) Ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng - Lãi suất: Ghi rõ lãi suất mà khách hàng trả và xác định tính chất lãi suất (Lãi suất cố định hay biến đổi) - Thời hạn tín dụng: Ghi rõ có thể 6 tháng, 9 tháng, 2 năm… Cũng có trường hợp thời hạn không xác định cụ thể trước mà tùy theo thời gian luân chuyển của vật tư hàng hóa là đối tượng tài trợ của Ngân hàng. - Các loại đảm bảo: Hợp đồng tài chính phải ghi rõ các loại đảm bảo (nếu có) như Hợp đồng bảo lãnh, vật tư hàng hóa trong kho, tài sản cố định… Với những nội dung liên quan đến các đảm bảo như quyền sở hữu, quyền chuyển nhượng hoặc bán, định giá, bảo hiểm… - Giải ngân: Gồm các điều kiện và kì hạn giải ngân - Điều kiện thanh toán: Bao gồm thanh toán tiền gốc và lãi với cách thức theo thỏa thuận giữa Ngân hàng và khách hàng. - Các điều kiện khác: Tùy thuộc vào thỏa thuận của Ngân hàng và khách hàng như ưu tiên thanh toán, kiểm soát vật thế chấp và các hoạt động khác của người vay, phong tỏa tài sản, phạt vi phạm hợp đồng… Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng Sau khi hợp đồng tín dụng được kí kết, Ngân hàng có trách nhiệm cấp tiền (hoặc thanh toán tiền hàng) cho khách hàng và kèm theo đó, Ngân hàng sẽ kiểm soát khách hàng xem sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ không, có dấu hiệu làm ăn thua lỗ hay lừa đảo không… để có biện pháp xử lí kịp thời như thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp, giảm tiền vay nếu thấy cần để đảm bảo an toàn tín dụng. Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới Khi hết hạn hợp đồng tín dụng, khách hàng phải trả hết gốc và lãi. Nếu Ngân hàng thu hồi được gốc và lãi đúng hạn và đầy đủ thì quan hệ tín dụng kết thúc tốt đẹp. Nhưng nếu việc thanh toán của khách hàng có “trục trặc”, Ngân hàng phải xem xét kĩ để kịp thời đưa ra quyết định mới, đảm bảo cho khoản an toàn tín dụng: - Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo, nợ nần dây dưa hoặc làm ăn kém, không thể cứu vãn, Ngân hàng áp dụng phương án thanh lí, gồm phong tỏa, bán các tài sản thế chấp… để thu hồi khoản nợ. - Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả nợ, Ngân hàng thường áp dụng phương án khác, bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm hay tư vấn cách giải quyết cho khách hàng nếu có khả năng. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng phân tích tín dụng 1.3.1. Nhân tố chủ quan 1.3.1.1. Nội dung và phương pháp phân tích tín dụng Có thể nói trong quy trình phân tích tín dụng thì nội dung phân tích đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Mỗi Ngân hàng tùy thuộc vào chính sách tín dụng, vào đăc điểm hoạt động riêng, sẽ đưa ra nội dung phân tích tín dụng phù hợp và cụ thể. Để có được chất lượng phân tích tốt thì nội dung phân tích phải ngắn gọn nhưng cũng vẫn phải đầy đủ các chỉ tiêu để có thể phản ánh đúng được năng lực tín dụng, từ đó mới đưa ra quyết định đúng đắn, giảm thiểu rủi ro. Bên cạnh nội dung phân tích, phương pháp được các cán bộ tín dụng sử dụng để phân tích cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng phân tích tín dụng. Nhưng các phương pháp phân tích phải được sử dụng một cách linh hoạt chứ không cứng nhắc chỉ sử dụng một phương pháp nhất định để phân tích đối với mọi khoản tín dụng. Các khoản tín dụng có mục đích vay khác nhau, khách hàng có đặc thù khác nhau, áp dụng trong những lĩnh vực kinh doanh khác nhau thì sẽ có những phân tích khác nhau để phù hợp với nó. Việc sử dụng phương pháp phân tích nào, thực hiện ra sao đòi hỏi người phân tích phải có trình độ chuyên môn, ứng phó nhanh, biết kết hợp giữa các phương pháp để có được kết quả tốt nhất. 1.3.1.2. Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng: Chất lượng phân tích tín dụng phụ thuộc rất nhiều vào trình độ chuyên môn của người phân tích. Nếu cán bộ tín dụng có năng lực kém thì dù thông tin của doanh nghiệp có cung cấp đầy đủ, chính xác thì hoạt động phân tích cũng chỉ cho chất lượng thấp. Điều này sẽ khiến Ngân hàng đối mặt với những rủi ro lớn trong việc thu hồi những khoản nợ do không đánh giá hết được năng lực chi trả, không đánh giá đúng các khoản tài sản đảm bảo của khách hàng. Ngược lại, cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn cao sẽ cho kết quả phân tích nhanh chóng, chính xác hơn, góp phần tiết kiệm thời gian cũng như chi phí trong khi phân tích. Hơn nữa, với cán bộ tín dụng có trình độ tốt và nhiều kinh nghiệm, họ dễ dàng nhận ra những sai sót, gian lận trong các thông tin thu thập được về tình hình của khách hàng, từ đó có những biện pháp xử lí nhanh chóng, kịp thời, nâng cao chất lượng tín dụng. Tín dụng là một hoạt động nhạy cảm và có nhiều rủi ro đòi hỏi cán bộ tín dụng không chỉ có trình độ, chuyên môn cao mà còn phải có đạo đức nghề nghiệp tốt, công tâm khi tiến hành phân tích. Chỉ cần cán bộ tín dụng câu kết với khách hàng, bỏ qua một vài chi tiết nhỏ nhặt cũng có thể khiến Ngân hàng rơi vào tình trạng vỡ nợ, rủi ro tín dụng là rất cao. Vì vậy, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng phân tích tín dụng. 1.3.1.3. Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ cho việc phân tích tín dụng: Càng ngày, các yếu tố vật chất, khoa học kĩ thuật càng trở thành một nhân tố quan trọng, nhất là trong thời đại Khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão hiện nay. Việc thu thập, xử lí và khai thác các thông tin sao cho chính xác, rút ngắn thời gian, giảm chi phí phân tích, tăng độ tin cậy yêu cầu Ngân hàng phải có một hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật tốt, hiện đại, bắt nhịp với tốc độ phát triển của công nghệ. Khi cơ sở vật chất, phương tiện kĩ thuật phục vụ cho công tác phân tích tín dụng nghèo nàn, lạc hậu sẽ tác động không tốt tới chất lượng của phân tích tín dụng. Hệ thống máy tính, trung tâm lưu trữ thông tin, các phần mềm quản lí, phân tích và đánh giá thông tin là những yếu tố kĩ thuật phục vụ cho quá trình phân tích. Nếu cán bộ Ngân hàng không có được sự hỗ trợ của các phương tiện này, sẽ gặp nhiều khó khăn, dẫn tới những nhầm lẫn, sai sót không đáng có. 1.3.2. Nhân tố khách quan 1.3.2.1. Chất lượng thông tin: Chất lượng thông tin là một yếu tố vô cùng quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp và chủ yếu tới việc phân tích tín dụng. Thông tin được sử dụng đòi hỏi phải chính xác, trung thực và kịp thời, phù hợp với các chỉ tiêu phân tích. Nếu Ngân hàng không nắm bắt được những thay đổi bất thường trong thu nhập hoặc hàng tồn kho… sẽ dẫn đến rủi ro rất cao. Thông tin đầy đủ, chính xác là cơ sở để cán bộ phân tích đưa ra được những kết luận đúng đắn,từ đó có quyết định phù hợp. Tuy nhiên, cán bộ Ngân hàng không chỉ phân tích những thông tin do doanh nghiệp cung cấp mà còn cần tìm hiểu từ nhiều nguồn khác nhau như: thông tin về doanh nghiệp đã được lưu trữ tại Ngân hàng, từ trung tâm thông tin tín dụng CIC hoặc những thông tin có được qua quá trình tiếp xúc, trao đổi trực tiếp với khách hàng. Việc phân tích đạt được chất lượng cao hay thấp cũng phụ thuộc vào sự không ngoan, biết chọn lọc thông tin của cán bộ tín dụng và phải kiểm tra, xác minh tính đúng đắn của các thông tin thu thập được 1.3.2.2. Đạo đức của người đi vay Hầu hết những thông tin Ngân hàng có được về khách hàng đều do khách hàng cung cấp, vì vậy tính chính xác, trung thực và cập nhật phụ thuộc rất nhiều vào khách hàng. Có những thông tin sai lệch do khách hàng không cố ý như doanh nghiệp đưa ra báo cáo tài chính không chính xác vì kế toán viên có trình độ chuyên môn kém….Nhưng cũng có nguyên nhân do chính khách hàng cố ý đưa sai lệch để đạt được mục đích vay tín dụng của mình. Ví dụ: dù làm ăn thua lỗ nhưng trong báo cáo kết quả kinh doanh vẫn là số dương, hay cố tình đưa ra phương án nợ vay hợp lý nhưng thực tế lại đem số tiền Ngân hàng cho vay sử dụng vào mục đích khác có mức độ rủi ro cao hơn…Vấn đề đạo đức không phải là hiếm và cũng là một vấn đề khá khó khăn mà các Ngân hàng luôn phải đối mặt. Do vây, cán bộ tín dụng cần phải hết sức chú ý kiểm tra, xác minh tính trung thực của các thông tin do khách hàng cung cấp. 1.3.2.3. Các quy định của pháp luật Trong các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng phân tích tín dụng thì pháp luật, quy định của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước đối với quy trình cho vay và phân tích tín dụng cũng là một nhân tố quan trọng. Các Ngân hàng thương mại khi phân tích tín dụng đều phải tuân thủ các quy định để đảm bảo có sự thống nhất về quy cách và điều kiện cho vay cũng như kết quả phân tích được trung thực chính xác. Trên thực tế nhiều Ngân hàng không tuân thủ đầy đủ các quy định trong quá trình phân tích, cố tình cho vay những khoản vay có nhiều rủi ro, làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế. Đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, mọi sự biến động của Ngân hàng này có thể kéo theo sự biến động của Ngân hàng khác, dẫn tới sự biến động của nền kinh tế. Vì vậy, chính sách tốt cùng quy định chặt chẽ đối với hoạt động cho vay, quy trình phân tích sẽ góp phần nâng cao chất lượng phân tích tín dụng trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại. 1.3.2.4. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật Khoa hoc kỹ thuật cũng là một yếu tố quan trọng tác động tới hoạt động phân tích tín dụng của Ngân hàng. Khi áp dụng được những công nghệ mới, hiện đại, Ngân hàng sẽ có được quá trình phân tích nhanh chóng và chính xác hơn. Ngoài ra, hệ thống thông tin phát triển sẽ giúp cho việc lưu trữ thông tin về các doanh nghiệp được đầy đủ hơn, giúp Ngân hàng có thể tra cứu dễ dàng, ít tốn thời gian và tiền bạc hơn. Nhờ vậy, sẽ nâng cao được chất lượng phân tích tín dụng của Ngân hàng. 1.3.2.5. Các nhân tố bất khả kháng Trong điều kiện các thông tin được cung cấp đầy đủ, minh bạch, chính xác, trình độ chuyên môn của cán bộ phân tích tín dụng cao thì không phải lúc nào chất lượng phân tích tín dụng cũng được đảm bảo. Vì chúng ta không thể đo lường hết được các rủi ro nằm ngoài kiểm soát, những biến động bất thường của nền kinh tế. Những dự tính về phương án kinh doanh có lãi của Ngân hàng đã được cán bộ tín dụng thẩm định là khả thi nhưng do nguyên nhân nào đó dẫn đến sự biến động thị trường, hoặc thiên tai xảy ra làm doanh nghiệp mất khả năng chi trả thì Ngân hàng cũng phải gánh chịu thiệt hại nặng nề. Khi đó, chất lượng phân tích tín dụng khó có thể đảm bảo là tốt hay xấu. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÍN DỤNG TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM 2.1. Khái quát về Sở giao dịch - Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam 2.1.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của Sở giao dịch Lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của chính bản thân ngân hàng Năm 1988: Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc thành lập các ngân hàng chuyên doanh, trong đó có Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Ngày 14/11/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ký Quyết định số 400/CT thành lập Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thay thế Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam, là Ngân hàng thương mại đa năng, hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, là một pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật. Ngày 15/11/1996, được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký Quyết định số 280/QĐ-NHNN đổi tên Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam. Tháng 2 năm 1999 Chủ tịch Quản trị ban hành Quyết định số 234/HĐQT-08  về quy định quản lý điều hành hoạt động kinh doanh ngoại hối trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Tập trung thanh toán quốc tế về Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam ( Sở giao dịch được thành lập thay thế Sở giao dịch kinh doanh hối đoái, Sở giao dịch là đấu mối vốn cả nội và ngoại tệ của toàn hệ thống) Sở giao dịchI không làm đầu mối thanh toán quốc tế. Tài khoản NOSTRO tập trung về Sở giao dịch. Tất cả các chi nhánh đều nối mạng SWIFT trực tiếp với Sở giao dịch. Các chi nhánh tỉnh thành phố đều được thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại. Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam được thành lập trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại Sở kinh doanh hối đoái NHNo & PTNT Việt Nam theo Quyết định số 235/QĐ/HĐQT- 02 ngày 16/05/1999 của Chủ tịch HĐQT NHNo & PTNT Việt Nam. Tên gọi đầy đủ bằng tiếng Việt: Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Tên viết tắt bằng tiếng Việt: Sở Giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp Tên tiếng Anh: Banking Operations Center Of Vietnam Bank For Agriculture and rural development. Sở giao dịch hiện có 8 phòng chức năng và 3 phòng giao dịch thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại và là một trong những chi nhánh luôn dẫn đầu trong hệ thống Ngân hàng lớn nhất Việt Nam 2.1.2. Cơ cấu tổ chức – Nhân sự: Cơ cấu tổ chức bộ máy của Sở giao dịch gồm: Bảng 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy của Sở giao dịch Trong đó, phòng tín dụng Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam được sắp xếp tổ chức theo cơ cấu như sau: Trưởng phòng Nhân viên Phó trưởng phòng Nhân viên Nhân viên Phó trưởng phòng Nhân viên Nhân viên Bảng 2.2: Cơ cấu tổ chức bộ máy phòng tín dụng 2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh chủ yếu: 2.1.3.1. Huy động vốn: Tổng nguồn vốn huy động của Sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam tính đến 31/12/2007 tăng đáng kể so với cùng kỳ các năm trước, cụ thể, tổng nguồn vốn huy động đạt 10.990 tỷ đồng, tăng 2.770 tỷ đồng (tăng 33,7%) so với 31/12/2006. Đạt 114,5% so với chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2007 của NHNo Việt Nam giao. Trong đó, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2007, tổng nguồn vốn huy động đạt 9.232 tỷ đồng. - Phân tích cơ cấu theo thành phần kinh tế: + Nguồn vốn huy động tiền gửi dân cư đạt 2.615 tỷ đồng, chiếm 28,3% tổng nguồn vốn + Nguồn vốn của các tổ chức đạt 6.617 tỷ đồng, chiếm 71,7% tổng nguồn. - Phân tích cơ cấu theo loại tiền huy động: + Nguồn vốn nội tệ đạt 7.472 tỷ đồng, chiếm 81% trong tổng nguồn vốn + Nguồn vốn ngoại tệ quy đổi đạt 1.760 tỷ đồng (bao gồm 104,45 triệu USD và 3,1 triệu EUR), chiếm 19% tổng nguồn vốn Bảng 2.3: Phân tích cơ cấu nguồn vốn huy động theo thành phần kinh tế Bảng 2.4: Phân tích cơ cấu nguồn vốn huy động theo loại tiền 2.1.3.2.Cho vay vốn Tổng dư nợ đạt 4.290 tỷ đồng, tăng 1.357 tỷ đồng (tăng 46,3%) so với 31/12/2006. Đạt 114,5% so với chỉ tiêu kế hoạch NHNo Việt Nam giao. Riêng 6 tháng đầu năm 2007, tổng dư nợ đạt 3.343 tỷ đồng. Dư nợ cho vay doanh nghiệp nội ngành đạt 307,5 tỷ đồng. Trong đó: - Phân theo thời gian: + Dư nợ ngắn hạn: 896 tỷ đồng, chiếm 26,8% trong tổng dư nợ. Trong đó, Công ty Chứng khoán NHNo giảm 300 tỷ đồng, các doanh nghiệp ngoại ngành tăng 214,3 tỷ đồng + Dư nợ trung, dài hạn: 2.447 tỷ đồng, chiếm 73% tổng dư nợ - Phân loại theo loại tiền: + Dư nợ nội tệ: 1.582 tỷ đồng, chiếm 47,3% tổng dư nợ cho vay + Dư nợ ngoại tệ: 109,1 triệu USD (tương đương 1.760 tỷ đồng), chiếm 52,7% tổng dư nợ + Nợ quá hạn đến 30/6/2007 là 6,1 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 0,18% tổng dư nợ, giảm 0,03% so với đầu năm + Nợ xấu (nhóm 3,4,5) đến 30/6/2007 là 8,1 tỷ đồng, chiếm 0,24% tổng dư nợ. So với 31/12/2006, nợ xấu tăng 2,9 tỷ đồng (0,06%) 2.1.3.3.Thanh toán quốc tế Hoạt động thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch nói chung là tốt và có sự phát triển bền vững trong 3 năm gần đây, cụ thể: Bảng 2.5: Hoạt động thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch (đơn vị: triệu đồng) Năm 2005 2006 6 tháng Đầu 2007 Thanh toán hàng nhập khẩu 188 470,5 493,4 Thanh toán hàng xuất khẩu 14,5 37 73,92 Mua - Bán ngoại tệ 315 840 480 Chi trả kiều hối 14,75 Nguồn : Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch 2.2. Thực trạng chất lượng phân tích tín dụng của Sở giao dịch 2.2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng của Sở giao dịch - Doanh số cho vay đến 31/12/2007 là 4.960 tỷ đồng, tăng 1.900 tỷ đồng so với 31/12/2007 (tỷ lệ tăng 62,1%). Trong đó + Doanh số cho vay ngắn hạn là 4.136 tỷ đồng, chiếm 83,4% trong tổng doanh số cho vay. Tăng 1.777 tỷ so với năm 2006. + Doanh số cho vay trung hạn, dài hạn là 824 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 16,6% trong tổng doanh số cho vay. Tăng 123 tỷ so với năm 2006. + Doanh số cho vay ngoại tệ là 1.548 tỷ đồng (tương đương 96,1 triệu USD), chiếm tỷ trọng 31,2% trong tổng doanh số cho vay. + Doanh số cho vay bằng 3.412 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 68,8% trong tổng doanh số cho vay. + Doanh số cho vay doanh nghiệp Nhà nước (bao gồm cả các công ty TNHH Nhà nước một thành viên, công ty cổ phần Nhà nước chiếm cổ phần chi phối) là 1.457 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 29,4%. + Doanh số cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 2.204 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 44,4%. + Doanh số cho vay hộ gia đình, cá nhân là 1.300 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 26,2% trong tỏng doanh số cho vay. - Doanh số thu nợ đến 31/12/2007 là 3.605 tỷ đồng, tăng 1.413 tỷ đồng so với 31/12/2006 (tỷ lệ tăng 65%). Trong đó doanh số thu nựo ngaọi tệ là 1.191 tỷ đồng (tương đương 74 triệu USD), chiếm tỷ trọng 33% trong tổng doanh số thu nợ. Doanh số thu nợ bằng VND là 2.414 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 67% trong tổng doanh số thu nợ. - Tổng dư nợ đến 31/12/2007 đạt 4.290 tỷ đồng, tăng 1.357 tỷ đồng so so với 31/12/2006, tỷ lệ tăng 46,3% (nếu loại trừ dư nợ cho vay doanh nghiệp nội ngành 80,6% tỷ đồng thì dư nợ cho vay ccs doanh nghiệp khác và cá nhân là 4.209 tỷ đồng (tăng 1.792 tỷ đồng so với 2006), đạt 112,4% so với kế hoạch tăng trưởng trung ương giao và Sở giao dịch giao. Bình quân dư nợ 143 tỷ đồng/CBTD. Trong đó: + Dư nợ cho vay ngắn han: 1.895 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 44,2% trong tổng dư nợ. So với 31/12/2006, dư nợ cho vay ngắn hạn giảm 976 tỷ đồng, tỷ lệ giảm 34%. + Dư nợ cho vay trung hạn: 167 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 3,9% trong tổng dư nợ. So với 31/12/2006, dư nợ cho vay trung hạn giảm 86%, tỷ lệ giảm 34%. + Dư nợ cho vay dài hạn: 2.228 tỷ trọng 51,9 trong tổng dư nợ. so với 31/12/2006, dư nợ cho vay dài hạn tăng 167 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 26,5%. + Dư nợ cho vay ngoại tệ là 1.695 tỷ đồng (tương đương 105 triệu USD), chiếm tỷ trọng 39,5% trong tổng dư nợ. + Dư nợ cho vay doanh nghiệp Nhà nước là 2.595 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 60,5% trong tổng dư nợ. + Dư nợ cho vay doanh nghiệp Nhà nước (bao gồm cả các công ty TNHH Nhà nước một thành viên, công ty cổ phần Nhà nước chiếm chổ phần chi phối) là 2.569 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 60% trong tổng dư nợ. Giảm 24 tỷ so với 31/12/2006 + Dư nợ cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 1000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 23,3% trong tổng dư nợ. Tăng 745,4 tỷ so với 31/12/2006 + Dư nợ cho vay hộ gia đình, cá nhân là 721 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 216,7% trong tổng dư nợ cho vay. Tăng 635,5 tỷ đồng so với 31/12/2006. 2.2.2.Thực trạng chất lượng phân tích tín dụng tại Sở giao dịch Cũng như các ngân hàng thương mại khác, quy trình phân tích tín dụng của Sở giao dịch cũng gồm 4 bước chính như đã được nêu ở chương I, nhưng để phản ánh được rõ nét và cụ thể hơn về thực trạng chất lượng phân tích tín dụng tại đây, ta có thể chia quy trình phân tích thành một số bước như sau: 2.2.2.1. Tiếp nhận và hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn: Khi khách hàng đến vay vốn tại Sở giao dịch, cán bộ tín dụng có trách nhiêm giải thích và hướng dẫn những quy định về cho vay cũng như việc lập hồ sơ vay vốn. Nếu khách hàng lần đầu tiên đến vay vốn tại Sở giao dịch thì cán bộ tín dụng phải hướng dẫn đầy đủ những quy định vay của NHNo cho khách hàng, đồng thời yêu cầu khách hàng cung cấp thôn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10825.doc
Tài liệu liên quan