Phần mở đầu
Các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp luôn có mối quan tâm hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Tất nhiên họ còn quan tấm đến nhiều mục đích khác nhau như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, cung cấp nhiều sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ với chi phí thấp, đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường... Tuy nhiên, một doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện được các mục tiêu này nếu đáp ứng được hai thử thách sống còn và là hai mục tiêu cơ bản: ki
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về quản lý & nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công ty hàng hải Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh doanh có lãi và thanh toán được nợ. Chính vì vậy đã đến lúc họ phải tập trung sự chú ý nhiều hơn vào việc quản lý và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn của mình. Bởi vì vốn là một trong hai yếu tố quan trọng quyết định sản xuất và lưu thông hàng hoá. Do vậy bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển đều phải quan tâm đến vấn đề tạo lập vốn, quản lý và sử dụngvốn sao cho có hiệu quả nhất nhằm đem lại lợi nhuận nhiều nhất.
Trước kia trong thời kỳ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đại bộ phận các doanh nghiệp quốc doanh ra đời và hoạt động trong điều kiện nhà nước giao vốn, bao cấp về giá, sản xuất và tiêu thụ theo đơn đặt hàng của Nhà nước, lãi nhà nước thu, lỗ nhà nước bù... do đó doanh nghiệp chẳng mấy quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn, thậm chí có doanh nghiệp "lỗ giả lãi thật" để được nhà nước bù lỗ chênh lệch, chạy đua thành tích. Tình trạng doanh nghiệp nhà nước sử dụng vốn kém hiệu quả so với các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế khác biểu hiện rất rõ rệt trong môi trường cạnh tranh khốc liệt ngày nay khi mà đất nước ta đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN "các DNNN không còn được bao cấp về giá và vốn, phải chủ động kinh doanh với quyền tự chủ đầy đủ, đảm bảo tự bù đắp chi phí, nộp thuế đầy đủ và có lãi..." Theo tinh thần đó nhà nước tạo hành lang pháp lý, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải gắn với thị trường, bám sát thị trường, tự chủ trong sản xuất kinh doanh và về vốn. Bởi vậy một vấn đề nổi lên trong nền kinh tế là phải khai thác được vốn, bảo toàn và phát triển đồng vốn. Do đó tất cả các quyết định sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp phải được phân tích trên cơ sở hiệu quả đồng vốn bỏ ra.
Trong lĩnh vực hàng hải có rất nhiều các công ty ở cả trong nước và trên thị trường quốc tế. Do vậy sự tồn tại hữu ích luôn bị đe doạ bởi cuộc cạnh tranh giành thị trường vận tải hàng hoá, dịch vụ hàng hải ngày càng đi vào chiều sâu và sôi động. Tổng công ty Hàng hải Việt Nam là một trong những Tổng Công ty nhà nước thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển ngành hàng hải theo hướng phát triển kinh tế đất nước, cung ứng ra thị trường dịch vụ vận tải biển, khai thác cảng, sửa chữa tàu biển, đại lý môi giới và các dịch vụ hàng hải khác với chất lượng cao. Với nhiệm vụ nặng nề như vậy việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trở thành vấn đề thường liên của ban lãnh đạo và toàn bộ cán bộ công nhân viên. Nếu chúng ta không đề ra những giải pháp kịp thời để quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì Tổng Công ty sẽ khó đứng vững trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Với tất cả những lý do trên minh chứng cho tính bức thiết của đề tài: "Một số vấn đề về quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam"
Hướng nghiên cứu là kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Từ việc khảo sát tình hình thực tế của Tổng Công ty qua các năm, kết hợp với lý luận kinh tế mà cụ thể là lý luận về quản lý, về vốn, về cạnh tranh... để tiến hành phân tích tình hình thực tế của Tổng Công ty. Và qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam.
Với những lý do đó và phương hướng như vậy, luận văn gồm 3 phần như sau:
Chương I:
Vai trò và nội dung của quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp sản xuất.
Chương II:
Phân tích thực trạng quản lý và sử dụng vốn ở Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam.
Chương III:
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam.
Trước sự thay đổi về chất trong hoạt động của các Tổng công ty Việt Nam, cùng với việc áp dụng đầy đủ chế độ kế toán mới ở doanh nghiệp, vấn đề quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đã thay đổi sâu sắc cả về phương pháp luận và chỉ tiêu đánh giá. Do đó, tạo nên khó khăn rất lớn trong quá trình nghiên cứu đề tài và mắc những sai sót không tránh khỏi. Vì vậy rất mong sự đóng góp của các thầy, cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo và các cô chú cán bộ Cục Hàng hải giúp hoàn thành bài luận văn này.
Sinh viên thực hiện: Bùi Văn Tiệp
Chương I
Vai trò và nội dung của quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp sản xuất
I/ Vốn và vai trò của vốn trong kinh doanh
1. Khái niệm về vốn sản xuất kinh doanh
Bất cứ một doanh nghiệp nào lúc đầu cũng phải có một lượng tiền vốn nhất định để thực hiện những khoản đầu tư ban đầu cần thiết cho việc xây dựng và khởi động doanh nghiệp. Vốn là yếu tố vật chất cần thiết nhất và cần được sử dụng có hiệu quả. Doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ vật tư, để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, để chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh và được thể hiện ở nhiều hình thái vật chất khác nhau. Do có sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động thì hàng hoá và dịch vụ được tạo ra nhằm tiêu thụ trên thị trường. Sau cùng các hình thái vật chất khác nhau sẽ lại được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Quá trình trao đổi đó đảm bảo cho sự ra đời, vận hành và phát triển của doanh nghiệp có thể diễn tả như sau:
Tài sản thực tế
Tiền Tài sản thực tế - Tài sản có tài chính Tiền
Tài sản có tài chính
Sự thay đổi trên làm thay đổi số dư ban đầu (đầu kỳ) của ngân quỹ và sẽ dẫn đến số dư cuối kỳ lớn hơn số dư đầu kỳ - tạo ra giá trị thặng dư. Điều đó có nghĩa là số tiền thu được do tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ phải đảm bảo bù đắp toàn bộ chi phí và có lãi. Như vậy số tiền đã ứng ra ban đầu không những chỉ được bảo tồn mà còn được tăng thêm do hoạt động kinh doanh đem lại. Toàn bộ giá trị ứng ra cho sản xuất kinh doanh đó được gọi là vốn. Tuy nhiên giá trị ứng trước đó không đơn thuần là vật chất hữu hình, mà một số tài sản không có hình thái vật chất cụ thể nhưng nó chứa đựng một giá trị đầu tư nhất định như: tên doanh nghiệp, nhãn hiệu sản phẩm, lợi thế thương mại, đặc quyền kinh doanh... cũng có giá trị như vốn. Những phân tích khái quát trên đây cho ta quan điểm toàn diện về vốn: "Vốn là một phạm trù kinh tế cơ bản. Trong doanh nghiệp vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả các loại tài sản và các nguồn lực mà doanh nghiệp sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư".
Như vậy việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp là hết sức quan trọng, vừa đem lại hiệu quả kinh tế vừa đem lại hiệu quả xã hội.
2. Vốn cố định:
Có nhiều giác độ khác nhau để xem xét vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đôi khi nó được khắc hoạ trong luật kinh tế như là vốn pháp định và vốn điều lệ. Một số khác theo nhu cầu nghiên cứu đứng trên giác độ hình thành vốn lại thể hiện vốn gồm có vốn đầu tư ban đầu, vốn bổ sung, vốn liên doanh và vốn đi vay. Sở dĩ tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau là xuất phát từ sự khác nhau về triển vọng hay quan điểm sử dụng. Với bài luận văn này, chúng ta sử dụng quan điểm làm quyết định về vốn qua con mắt quản trị vốn ở công ty sản xuất. Với quan điểm đó, vốn được xem xét trên giác độ chu chuyển. Quan tâm đến vấn đề này chúng ta cần chú ý đến vốn cố định và vốn lưu động.
a) Khái niệm và đặc điểm vốn cố định:
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định, đó chính là số vốn doanh nghiệp đầu tư mua sắm, trang bị cơ sở vật chất. Để là tài sản cố định phải đạt được cả hai tiêu chuẩn. Một là, phải đạt được về mặt giá trị đến một mức độ nhất định (ví dụ hiện nay giá trị của nó phải lớn hơn hoặc bằng 5.000.000đồng). Hai là, thời gian sử dụng phải từ trên 1 năm trở lên. Với những tiêu chuẩn như vậy thì hoàn toàn bình thường với đặc điểm hình thái vật chất của tài sản cố định giữ nguyên trong thời gian dài. Tài sản cố định thường được sử dụng nhiều lần, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và chỉ tăng lên khi có xây dựng cơ bản mới hoặc mua sắm. Qua quá trình sử dụng, tài sản cố định hao mòn dần dưới hai dạng là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình chủ yếu do tiến bộ khoa học công nghệ mới và năng suất lao động xã hội tăng lên quyết định. Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào mức độ sử dụng khẩn trương tài sản cố định và các điều kiện ảnh hưởng tới độ bền lâu của tài sản cố định như chế độ quản lý sử dụng, bảo dưỡng, điều kiện môi trường... Những chỉ dẫn trên đưa ra tới một góc nhìn về đặc tính chuyển đổi thành tiền chậm chạp của tài sản cố định. Tuy thế, các tài sản cố định có giá trị cao có thể có giá trị thế chấp đối với ngân hàng khi vay vốn.
b) Cơ cấu vốn cố định:
Cơ cấu vốn cố định là tỉ lệ phần trăm của từng nhóm vốn cố định chiếm trong tổng số vốn cố định. nghiên cứu cơ cấu vốn cố định có một ý nghĩa quan trọng là cho phép đánh giá việc đầu tư có đúng đắn hay không và cho phép xác định hướng đầu tư vốn cố định trong thời gian tới. Để đạt được ý nghĩa đúng đắn đó, khi nghiên cứu cơ cấu vốn cố định phải nghiên cứu trên hai giác độ: nội dung cấu thành và mối quan hệ tỉ lệ trong mỗi bộ phận so với toàn bộ. Vấn đề cơ bản trong việc nghiên cứu này phải là xây dựng được một cơ cấu hợp lý phù hợp với trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sản xuất, trình độ quản lý, để các nguồn vốn được sử dụng hợp lý và có hiệu quả nhất. Cần lưu ý rằng quan hệ tỷ trọng trong cơ cấu vốn là chỉ tiêu động. Điều này đòi hỏi cán bộ quản lý phải không ngừng nghiên cứu tìm tòi để có được cơ cấu tối ưu.
Theo chế độ hiện hành VCĐ của doanh nghiệp được biểu hiện thành hình thái giá trị của các loại tài sản cố định sau đây đang dùng trong quá trình sản xuất:
1) Nhà cửa được xây dựng cho các phân xưởng sản xuất và quản lý
2) Vật kiến trúc để phục vụ sản xuất và quản lý
3) Thiết bị động lực
4) Hệ thống truyền dẫn
5) Máy móc, thiết bị sản xuất
6) Dụng cụ làm việc, đo lường, thí nghiệm
7) Thiết bị và phương tiện vận tải
8) Dụng cụ quản lý
9) Tài sản cố định khác dùng vào sản xuất công nghiệp
Trên cơ sở các hình thái giá trị của tài sản cố định như trên chỉ ra rõ ràng cơ cấu vốn cố định chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Quan tâm nhất là đặc điểm về kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp, sự tiến bộ kỹ thuật, mức độ hoàn thiện của tổ chức sản xuất, điều kiện địa lý tự nhiên, sự phân bổ sản xuất. Vì vậy khi nghiên cứu để xây dựng và cải tiến cơ cấu VCĐ hợp lý cần chú ý xem xét tác động ảnh hưởng của các nhân tố này. Trong kết quả của sự phân tích, đặc biệt chú ý tới mối quan hệ giữa các bộ phận VCĐ được biểu hiện bằng máy móc thiết bị và bộ phận VCĐ được biểu hiện bằng nhà xưởng vật kiến trúc phục vụ sản xuất.
c) Nguồn vốn cố định
Mỗi khoản vốn cố định hay tài sản cố định trong doanh nghiệp không tự nhiên mà có, nó nhất thiết phải được hình thành từ một nguồn đầu tư nhất định. Nguồn vốn cố định chính là nguồn gốc tạo dựng, đầu tư để hình thành nên các tài sản cố định của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp, VCĐ dùng để hoạt động sản xuất, kinh doanh được hình thành từ các nguồn sau:
Nguồn vốn pháp định: gồm vốn cố định do ngân sách, do cấp trên cấp phát cho doanh nghiệp, vốn cổ phần do xã viên hợp tác xã và các cổ đông đóng góp bằng tài sản cố định, hoặc vốn pháp định do chủ xí nghiệp bỏ ra ban đầu khi thành lập xí nghiệp tư nhân.
Nguồn vốn tự bổ xung: gồm vốn cố định của những tài sản cố định đã được đầu tư hoặc mua sắm bằng quỹ công ty.
Nguồn vốn liên doanh: gồm các khoản vốn do các đơn vị tham gia liên kết gặp bằng tài sản cố định và bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn thành.
3. Vốn lưu động:
a) Khái niệm và đặc điểm của vốn lưu động
Vốn lưu động và biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu thông. Đó là số vốn doanh nghiệp đầu tư để dự trữ vật tư, để chi phí cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chi phí cho hoạt động quản lý của doanh nghiệp. Hoàn toàn khách quan không như vốn cố định, VLĐ tham gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất kinh doanh, chuyển qua nhiều hình thái giá trị khác nhau như tiền tệ, đối tượng lao động, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm và trở lại hình thái tiền tệ ban đầu sau khi tiêu thụ sản phẩm. Như vậy vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định, quá trình vận động của VLĐ thể hiện dưới hai hình thái:
- Hình thái hiện vật: đó là toàn bộ nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm.
- Hình thái giá trị: là toàn bộ giá trị bằng tiền của nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm, giá trị tăng thêm do việc sử dụng lao động sống trong quá trình sản xuất và những chi phí bằng tiền trong lĩnh vực lưu thông.
Sự lưu thông về mặt hiện vật và giá trị của VLĐ ở các doanh nghiệp sản xuất có thể biểu diễn bằng công thức chung:
T - H - SX - H' - T'
Trong quá trình vận động, đầu tiên VLĐ biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và khi kết thúc cũng lại bằng hình thức tiền tệ. Một vòng khép kín đó gợi mở cho chúng ta thấy hàng hoá được mua vào để doanh nghiệp sản xuất sau đó đem bán ra, việc bán được hàng tức là được khách hàng chấp nhận và doanh nghiệp nhận được tiền doanh thu bán hàng và dịch vụ cuối cùng. Từ các kết quả đó giúp ta sáng taọ ra một cách thức quản lý vốn lưu động tối ưu và đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
b) Cơ cấu vốn lưu động
Xác định cơ cấu VLĐ hợp lý có ý nghĩa tích cực trong công tác sử dụng hiệu quả vốn lưu động. Nó đáp ứng yêu cầu vốn cho từng khâu, từng bộ phận, đảm bảo việc sử dụng tiết kiệm hợp lý VLĐ. Trên cơ sở đó đáp ứng được phần nào yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong điều kiện thiếu vốn cho sản xuất.
Cơ cấu VLĐ là quan hệ tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại và nhóm đó so với toàn bộ giá trị VLĐ. Tỉ lệ giữa giá trị mỗi loại và nhóm trong toàn bộ VLĐ hợp lý thì chỉ hợp lý tại mỗi thời điểm naò đó và tính hợp lý chỉ mang tính nhất thời. Vì vậy trong quản lý phải thường xuyên nghiên cứu xây dựng một cơ cấu hợp lý đảm bảo độ "khoẻ mạnh" đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh từng thời kỳ. Để thuận lợi cho việc quản lý và xây dựng cơ cấu vốn như thế, người ta thường có sự phân loại theo các quan điểm tiếp cận khác nhau:
- Tiếp cận theo quá trình tuần hoàn và luân chuyển, VLĐ chia thành 3 loại:
+ Vốn trong dự trữ: là bộ phận vốn dùng để mua nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế, dự trữ... chuẩn bị đưa vào sản xuất.
+ Vốn trong sản xuất: là bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản xuất như: sản phẩm dở dang, chi phí phân bổ, bán thành phẩm, tự chế tự dùng.
+ Vốn trong lưu thông: là bộ phận trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu thông như tiền mặt, thành phẩm.
- Tiếp cận về mặt kế hoạch hoá, VLĐ được chia thành VLĐ không định mức và VLĐ định mức.
+ VLĐ định mức là số vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, nó bao gồm vốn dự trữ vật tư hàng hoá và vốn phi hàng hoá.
+ VLĐ không định mức là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá trình kinh doanh và trong sản xuất, dịch vụ phụ thuộc nhưng không đủ căn cứ để tính toán được.
c) Nguồn vốn lưu động:
Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp gồm có vốn tự có, vốn coi như tự có và vốn đi vay. Từ các nguồn vốn khác nhau này doanh nghiệp có phương cách huy động trên nhiều nguồn, hỗ trợ lẫn nhau đảm bảo cho yêu cầu của doanh nghiệp.
- Vốn tự có bao gồm:
+ Nguồn vốn pháp định: chính là vốn lưu động do ngân sách hoặc cấp trên cấp cho đơn vị thuộc khối nhà nước; nguồn vốn cổ phần nghĩa vụ do xã viên hợp tác xã và các cổ đông đóng góp hoặc vốn pháp định của chủ doanh nghiệp tư nhân.
+ Nguồn vốn tự bổ sung: Nguồn này hình thành từ kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị thông qua quỹ khuyến khích phát triển sản xuất và các khoản chênh lệch hàng hoá tồn kho theo cơ chế bảo toàn giá trị vốn.
+ Nguồn vốn lưu động liên doanh: gồm có các khoản vốn của các đơn vị tham gia liên doanh, liên kết góp bằng tiền, hàng hoá, sản phẩm, nguyên vật liệu, công cụ lao động nhỏ v.v...
- Vốn coi như tự có: được hình thành do phương pháp kết toán hiện hành, có một số khoản tiền tuy không phải của doanh nghiệp nhưng có thể sử dụng trong thời gian rỗi để bổ sung vốn lưu động. Thuộc khoản này có: tiền thuế, tiền lương, bảo hiểm xã hội, phí trích trước chưa đến hạn phải chi trả có thể sử dụng và các khoản nợ khác.
- Vốn đi vay: nhằm đảm bảo nhu cầu thanh toán bức thiết trong khi hàng chưa bán đã mua hoặc sự không khớp trong thanh toán. Nguồn vốn đi vay là nguồn vốn cần thiết, song cần chú ý tới các hình thức vay khác nhau với tỉ lệ lãi suất khác nhau và phải trả kịp thời cả vốn và lãi vay.
Bằng cách nghiên cứu các nguồn của cả vốn lưu động và vốn cố định như trên, người kinh doanh có thể đạt được sự tổng hợp về các nguồn vốn theo các chỉ dẫn của kế toán tài chính. Nguồn vốn ở các doanh nghiệp giờ đây trở thành nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu thể hiện ở khoản "có"; nợ phải trả chính là khoản vay, nợ của doanh nghiệp đối với các tổ chức, cá nhân... để đầu tư, hình thành tài sản của doanh nghiệp, được sử dụng trong một thời gian nhất định và sau đó phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi như đã cam kết. ý nghĩa của việc nghiên cứu này cho ta tạo quan hệ giữa vốn và nguồn vốn về phương diện giá trị đầu tư như sau:
Giá trị TSCĐ + Giá trị TSLĐ = Nguồn vốn chủ sở hữu + Nợ phải trả
II/ Nội dung của hoạt động quản lý vốn trong kinh doanh
1. Nội dung hoạt động quản lý vốn cố định
Quản lý VCĐ nghĩa là phải đi đến các quyết định. Giống như việc quản lý hoạt động kinh doanh của công ty, việc quản lý VCĐ ảnh hưởng quan trọng đến sự tồn tại và hiệu quả sử dụng vốn. Quản lý VCĐ thành công đòi hỏi các nhà quản lý phải gắn liền sự vận động của VCĐ với các hình thái biểu hiện vật chất của nó. Hơn thế nữa, để quản lý có hiệu quả VCĐ trước hết cần nghiên cứu những tính chất và đặc điểm của tài sản cố định trong doanh nghiệp. Trong khoa học quản lý VCĐ thường đi vào những nội dung cụ thể sau:
a) Hao mòn và khấu hao tài sản cố định
* Hao mòn tài sản cố định
Như đã đề cập sơ lược ở trên, trong quá trình sử dụng cũng như không sử dụng tài sản cố định đều bị hao mòn dưới hai hình thức: hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Giống như hai khía cạnh của một vấn đề, cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình đều làm cho giá trị tài sản cố định giảm xuống và chịu ảnh hưởng bởi những nhân tố nào đều thể hiện dưới những dạng khác nhau.
Hao mòn hữu hình là sự hao mòn về vật chất, tức là sự tổn thất dần về chất lượng, tính năng kỹ thuật của TSCĐ. Thực chất kinh tế của hao mòn hữu hình là giá trị của tài sản cố định dần dần giảm đi cùng với việc chuyển dần giá trị của nó vào giá trị sản phẩm được sản xuất ra. Khi tài sản cố định không được sử dụng, hao mòn hữu hình được thể hiện ở chỗ tài sản cố định bị mất dần thuộc tính do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, do quá trình xảy ra trong nội tại nguyên liệu cấu thành tài sản cố định đó. Như vậy hao mòn hữu hình có ảnh hưởng quyết định tới độ bền của tài sản cố định và do đó nó chịu ảnh hưởng của ba nhóm nhân tố.
Nhóm một thuộc chất lượng chế tạo như: vật liệu dùng để chế tạo ra tài sản cố định, trình độ kỹ thuật, công nghệ chế tạo, chất lượng xây dựng và lắp đặt.
Nhóm hai thuộc quá trình sử dụng: được xem xét về mức độ đảm nhận về thời gian và cường độ sử dụng, tay nghề công nhân, việc chấp hành quy tắc, quy trình kỹ thuật, chế độ bảo dưỡng, sửa chữa.
Nhóm ba thuộc các yếu tố tự nhiên như độ ẩm, khí hậu, thời tiết...
Hao mòn vô hình là sự hao mòn chủ yếu do năng suất lao động xã hội tăng lên và sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, tổ chức sản xuất. Hệ quả của hai nguyên do này dẫn đến việc người ta sản xuất ra tài sản cố định cùng loại nhưng lại có chất lượng cao hơn mà giá lại rẻ hơn. Và như thế tài sản cố định của ta nghiễm nhiên bị sụt giá.
Xuất phát từ việc nghiên cứu hao mòn tài sản cố định cung cấp cho chúng ta những luận cứ cần thiết minh chứng cho việc "bảo vệ" tài sản cố định nhằm giảm tối đa tổn thất hữu hình và hao mòn vô hình. Những biện pháp thường được sử dụng như nâng cao cường độ và thời gian sử dụng, nâng cao chất lượng, hạ giá thành chế tạo và xây lắp tài sản cố định, tổ chức tốt việc bảo quản và sửa chữa máy móc thiết bị, nâng cao ý thức trách nhiệm của công nhân. Một ý nghĩa khác là nó cũng cung cấp cho ta cơ sở tốt để lập nên kế hoạch khấu hao tài sản cố định, kế hoạch bảo toàn và phát triển vốn cố định.
* Khấu hao tài sản cố định:
Trong quá trình tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, hình thái vật chất của tài sản cố định không thay đổi nhưng giá trị của nó hao mòn dần và chuyển từng phần vào giá thành sản phẩm mới được sản xuất ra. Phần giá trị này được thu hồi dưới hình thức khấu hao và được hạch toán vào giá thành sản phẩm. Như vậy khấu hao tài sản cố định là một khoản cấu thành phí lưu thông và được bù đắp bằng doanh thu bán hàng. Về thực chất, khấu hao là quá trình giảm giá trị của tài sản cố định. Việc suy giảm giá trị của tài sản cố định cuối cùng sẽ dẫn đến khấu hao hết tài sản cố định, khi đó phải đầu tư để có được tài sản cố định khác. Vậy quá trình này diễn ra trong bao lâu? Sở dĩ đòi hỏi yêu cầu chính xác tương đối về thời gian như vậy bởi hai nguyên nhân: thứ nhất nếu xác định không đúng thời gian sử dụng dẫn đến còn đang sử dụng đã khấu hao hết, thứ hai chưa khấu hao hết đã hỏng. Cả hai nguyên nhân này đều có ảnh hưởng không tốt tới sự vận động của vốn cố định và giá thành sản phẩm làm ra. Để xác định đúng đắn thời hạn sử dụng tài sản cố định chúng ta phải dựa vào cơ sở đã chỉ ra là phải xác định đúng được hao mòn của tài sản cố định hay khấu hao tài sản cố định.
Khấu hao tài sản cố định được phân bổ trên hai hình thức là khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn. Khấu hao cơ bản nhằm tái bồi hoàn lại giá trị tài sản cố định đã hao mòn. Khấu hao sửa chữa lớn nhằm bảo vệ duy trì và kéo dài năng lực sử dụng bình thường của TSCĐ. Như vậy hai hình thức khấu hao này có phương thức bù đắp và mục đích khác nhau, do đó tiền trích khấuhao tài sản cố định được chia thành hai bộ phận theo phương pháp xác định tỷ lệ:
+
_
Tỉ lệ khấu hao cơ bản
=
Nguyên giá Chi phí thanh lý Giá trị đào thải
TSCĐ (ước tính) (ước tính)
Nguyên giá TSCĐ x Thời hạn sử dụng TSCĐ
Tỉ lệ khấu hao sửa chữa lớn
=
Phí tổn sửa chữa lớn (ước tính)
Nguyên giá TSCĐ x Thời hạn sử dụng TSCĐ
Bộ phận thứ nhất của tiền trích khấu hao là tiền trích khấu hao cơ bản, dùng để bù đắp TSCĐ sau khi bị đào thải đã mất giá trị sử dụng. Theo quy định của Nhà nước về chế độ khấu hao cơ bản trong các doanh nghiệp nhà nước, từ ngày 1/1/1995 các doanh nghiệp nhà nước được phép giữ lại toàn bộ khấu hao cơ bản đã trích để đầu tư thay thế, đổi mới tài sản cố định. Còn các doanh nghiệp khác phải lập quỹ khấu hao để duy trì hoạt động của doanh nghiệp, thực hiện yêu cầu tái sản xuất mở rộng.
Bộ phận thứ hai là tiền khấu hao sửa chữa lớn nhằm sửa chữa tài sản cố định một cách có hệ thống và kế hoạch để duy trì khả năng sản xuất của tài sản cố định trong suốt thời kỳ sử dụng. Doanh nghiệp trích tiền khấu hao sửa chữa lớn gửi vào một tài khoản riêng ở ngân hàng đầu tư và phát triển để dùng làm nguồn vốn cho kế hoạch sửa chữa lớn TSCĐ.
Giờ đây ta có thể thấy mối quan hệ giữa thời hạn sử dụng TSCĐ và tỉ lệ trích khấu hao, do đó có thể chỉ ra ý nghĩa cụ thể ở phần hao mòn đã đề cập đến. Rõ ràng nếu tỉ lệ khấu hao quá thấp hay thời hạn sử dụng quá dài, sẽ không đủ bù đắp hao mòn thực tế của TSCĐ, vì vậy không đảm bảo được công tác bảo toàn và phát triển vốn. Ngược lại nếu tỉ lệ khấu hao quá cao hay thời hạn sử dụng TSCĐ được xác định quá ít, sẽ làm tăng giá thành sản phẩm một cách giả tạo, tạo ra những khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hoá.
b) Kế hoạch khấu hao tài sản cố định
Bằng cách lập lên kế hoạch khấu hao tài sản cố định, doanh nghiệp đã có thể định ra được tiến độ và mức trích khấu hao tài sản cố định từng nhóm và toàn bộ doanh nghiệp. Để lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định cần phải xác định được tổng giá trị TSCĐ đầu kỳ, tổng giá trị TSCĐ tăng thêm và giảm đi trong kỳ, mức khấu hao phải trích trong năm và tình hình phân phối sử dụng các quỹ khấu hao. Theo quy định số 517/TTg ngày 21/10/1995 kế hoạch khấu hao TSCĐ bao gồm:
- TSCĐ không phải tính khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn (đất đai).
- TSCĐ tăng thêm trong năm kế hoạch, nếu tăng vào một ngày nào đó của tháng thì tháng sau mới tính khấu hao.
Giá trị bình quân của TSCĐ tăng thêm trong năm KH
=
Giá trị TSCĐ tăng trong năm x Số tháng sử dụng TSCĐ
12
- TSCĐ giảm bớt trong năm kế hoạch, nếu giảm bớt từ một ngày nào đó của tháng thì tháng sau không tính khấu hao.
Giá trị bình quân của TSCĐ giảm trong năm KH
=
Giá trị TSCĐ giảm trong năm x Số tháng không sử dụng TSCĐ
12
- Tổng giá trị bình quân TSCĐ phải tính khấu hao trong năm được xác định theo công thức:
Tổng giá trị bình quân TSCĐ phải tính khấu hao trong năm KH
=
Tổng giá trị TSCĐ có đầu kỳ
+
Tổng giá trị TSCĐ bình quân tăng trong kỳ
-
Tổng giá trị TSCĐ bình quân giảm trong kỳ
Cùng với các yêu cầu trên, ta còn phải xác định được chỉ tiêu tổng quỹ khấu hao cơ bản và quỹ khấu hao sửa chữa lớn. Sau đó phải xác định được chỉ tiêu quỹ khấu hao cơ bản trích nộp vào quỹ khấu hao của kỳ kế hoạch theo công thức sau:
Quỹ khấu hao cơ bản phải trích kỳ kế hoạch
=
Quỹ khấu hao cơ bản năm trước chuyển sang
+
Tổng giá trị khấu hao cơ bản kỳ kế hoạch
-
Quỹ khấu hao cơ bản chuyển sang năm sau
Nghiên cứu các chỉ tiêu của kế hoạch khấu hao TSCĐ cho ta một ý nghĩa đáng lưu ý trong việc đề xuất các ý kiến cho quản lý vốn cố định ở doanh nghiệp. Bằng việc xem xét mức độ tăng giảm của các chỉ tiêu và xác định các nguyên nhân tăng giảm đó, người quản lý thấy rõ được phần nào cảnh quan và tình hình TSCĐ của doanh nghiệp để có các biện pháp điều chỉnh hợp lý. Một ý nghĩa khác là cung cấp những thông số cần thiết cho việc lập các kế hoạch, chương trình khác của doanh nghiệp về thị trường, cạnh tranh...
c) Bảo toàn và phát triển vốn cố định
Trong quá trình tham gia vào cạnh tranh với các doanh nghiệp khác nhằm phục vụ tốt cho nhu cầu của khách hàng, doanh nghiệp cần có một hậu phương với tiềm lực vững mạnh, đó chính là vốn. Để phát huy được ý nghĩa đó doanh nghiệp không những một mặt phải duy trì và phát triển các hoạt động kinh doanh, mặt khác quan trọng hơn là phải bảo toàn và phát triển được vốn nói chung và vốn cố định nói riêng.
Vấn đề đặt ra như trên không có nghĩa rằng việc doanh nghiệp làm ăn có lãi thực thì không phải bảo toàn và phát triển vốn. ý kiến đó xuất phát từ việc hiểu không đầy đủ về vấn đề bảo toàn vốn. Nếu chúng ta tiếp cận theo quan điểm nhân quả thì thấy rõ vấn đề bảo toàn vốn luôn cần thiết trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của công ty. Được tồn tại trong môi trường kinh tế tự do, hoạt động kinh doanh không tránh khỏi những biến động về giá cả, lạm phát... mà gây tác động không nhỏ tới tiền vốn của công ty. Lạm phát tăng làm cho sức mua của đồng tiền và giá trị của đồng vốn giảm xuống so với thực tế. Mặt khác, bất kỳ một tác động chủ quan nào thể hiện tính vô trách nhiệm, buông lỏng quản lý đều dẫn đến hư hỏng, mất mát tài sản cố định. Tất cả những nguyên nhân đó đưa ta đến kết quả phải bảo toàn và phát triển vốn. Bảo toàn vốn là quá trình thu hồi lại vốn đã bỏ ra ban đầu, phát triển vốn là lấy lợi nhuận để bổ sung vốn kinh doanh làm tăng vốn kinh doanh. Bảo toàn và phát triển vốn được phải thông qua sử dụng có hiệu quả vốn, tức là với một lượng vốn như cũ nhưng tạo ra nhiều lợi nhuận hơn.
Như chúng ta đã biết, vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Tài sản cố định có đặc điểm tham gia vào nhiều chu kỹ kinh doanh và thu hồi dần dưới dạng khấu hao. Việc bảo toàn vốn phải lấy cả từ hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình, bất kỳ một sự thiếu sót nào đều có thể mắc lỗi.
Về mặt hữu hình: thì doanh nghiệp phải giữ cho TSCĐ không bị loại khỏi sản xuất kinh doanh trước khi hết niên hạn sử dụng, không sử dụng vốn cố định sai mục đích hoặc đi mua bán lại TSCĐ tạo chênh lệnh giá để ăn chia vào vốn, phải duy trì và nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ.
Về mặt vô hình: đòi hỏi công ty phải có tỉ lệ khấu hao hợp lý bảo đảm cho tái sản xuất TSCĐ mới.
Tuy vậy, chúng ta cần phải xác định được số vốn cố định cần phải bảo toàn đến cuối kỳ theo công thức:
Vốn cố định phải bảo toàn
=
Vốn cố định được giao đầu kỳ
-
Khấu hao đã trích trong kỳ
x
Hệ số điều chỉnh TSCĐ
±
Giá trị TSCĐ (tăng, giảm trong kỳ)
Những thành công trong công tác bảo toàn VCĐ sẽ tạo cơ sở tốt cho kế hoạch phát triển VCĐ. Phát triển VCĐ được doanh nghiệp trích từ lợi nhuận để lại doanh nghiệp và phần khấu hao cơ bản để lại đầu tư xây dựng cơ bản, thực hiện tái sản xuất mở rộng và mua sắm mới TSCĐ.
2. Nội dung hoạt động quản lý vốn lưu động
a) Xác định vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch
Xuất phát từ vai trò không thể thiếu của vốn lưu động đòi hỏi chúng ta phải luôn có một lượng vốn lưu động để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của doanh nghiệp. Nhưng lượng vốn lưu động đó là bao nhiêu thì phù hợp bởi nếu VLĐ thừa quá hoặc thiếu quá đều không có lợi, VLĐ thừa quá sẽ gây ứ đọng vốn và ngược lại nếu ít quá sẽ gây cho doanh nghiệp những khó khăn, tác động xấu đến hoạt động kinh doanh. Những khía cạnh đó đòi hỏi chúng ta phải xác định được lượng VLĐ định mức cho kỳ kế hoạch. VLĐ định mức được hiểu là số VLĐ có thể quy định mức tối thiểu, cần thiết thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo chế độ hiện hành, Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam là Tổng công ty nhà nước, VLĐ định mức của Tổng công ty được nhà nước cấp một lần. Trường hợp nhà nước điều chỉnh giá trị thì mức vốn đó được nhà nước xác định và bổ sung kịp thời.
Để xác định được VLĐ định mức kỳ kế hoạch, doanh nghiệp phải lần lượt tính toán VLĐ ở từng khâu từ dự trữ, sản xuất, tiêu thụ, đối với từng loại nguyên vật liệu, sau đó tổng hợp lại thành VLĐ định mức kỳ kế hoạch.
Thứ nhất, vốn lưu động định mức ở khâu dự trữ. Việc xác định VLĐ định mức ở khâu dự trữ cần phải kết hợp chặt chẽ với kế hoạch thu mua nguyên vật liệu và dự tính chi phí sản xuất của doanh nghiệp. VLĐ định mức ở khâu dự trữ được tính toán căn cứ vào mức luân chuyển kế hoạch hàng ngày và định mức số ngày dự trữ. Mức luân chuyển hàng ngày được tính bằng cách lấy mức luân chuyển chia cho 360 ngày. Còn định mức số ngày dự trữ xác định như sau:
- Đối với nguyên vật liệu nhập khẩu (Nhà nước độc quyền quản lý) định mức số ngày dự trữ được cơ quan cấp trên quy định cho doanh nghiệp.
- Đối với nguyên vật liệu mua trong nước có thể áp dụng công thức sau:
Định mức số ngày dự trữ
=
Số ngày cách nhau giữa 2 lần mua
x
Hệ số thu mua xen kẽ
+
Số ngày vận chuyển
+
Số ngày chỉnh lý chuẩn bị
+
Số ngày bảo._. hiểm
Thứ hai, VLĐ định mức ở khâu sản xuất: được xác định riêng cho sản phẩm dở dang, nửa thành phẩm tự chế, chi phí chờ phân bổ.
- VLĐ định mức cho sản phẩm dở dang được xác định theo công thức:
Định mức VLĐ cho sản phẩm dở dang
=
Mức luân chuyển cả năm của thành phẩm theo giá thành công xưởng
:
360
x
Hệ số thành phẩm dở dang
x
Chu kỳ sản xuất sản phẩm
- VLĐ định mức cho nửa thành phẩm tự chế xác định theo công thức:
Định mức VLĐ cho nửa thành phẩm tự chế
=
Mức luân chuyển cả năm của thành phẩm theo giá thành công xưởng
:
360
x
Định mức ngày dự trữ
x
Hệ số thành phẩm tự chế
Trong đó số ngày dự trữ của nửa thành phẩm phụ thuộc vào mức độ sản xuất có nhịp nhàng không.
- VLĐ định mức cho chi phí chờ phân bổ được tính theo công thức:
Định mức VLĐ cho chi phí chờ phân bổ
=
Mức dự trữ đầu năm của chi phí chờ phân bổ
+
Số phát sinh chi phí chờ phân bổ trong năm
-
Số phải phân bổ trong năm
Thứ ba, VLĐ định mức ở khâu tiêu thụ: bao gồm VLĐ định mức cho thành phẩm và hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm.
- VLĐ định mức cho thành phẩm được xác định theo công thức:
Vốn lưu động định mức cho thành phẩm
=
Tổng giá thành công xưởng của số lượng hàng hoá
:
360
x
Định mức số ngày dự trữ thành phẩm
- Đối với hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm (là hàng hoá doanh nghiệp mua rồi tiêu thụ ngay), VLĐ định mức xác định theo công thức:
Định mức VLĐ cho hàng hoá mua ngoài tiêu thụ
=
Tổng giá thành cả năm theo giá mua
:
360
x
Định mức số ngày dự trữ hàng hoá mua ngoài
Trong ba bộ phận trên, tuỳ theo đặc điểm của từng ngành thì mức độ quan trọng của từng bộ phận sẽ khác nhau. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì VLĐ ở khâu sản xuất là quan trọng nhất. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp trong quá trình quản lý và sử dụng vốn phải ưu tiên cho bộ phận này một tỉ lệ hợp lý, không ngừng tăng vốn cho sản xuất, giảm ở mức cho phép với vốn dự trữ và lưu thông.
b) Kế hoạch nguồn VLĐ định mức
Như chúng ta đã biết, VLĐ của doanh nghiệp được hình thành từ các 3 nguồn khác nhau như nguồn vốn tự có, vốn coi như tự có và vốn đi vay. Để lập được kế hoạch nguồn VLĐ định mức đòi hỏi tất yếu là phải căn cứ vào tình hình thực tế VLĐ năm trước và nhu cầu về vốn trong năm kế hoạch.
c) Bảo toàn và phát triển VLĐ
Một số lý do dẫn đến tất yếu phải bảo toàn vốn nói chung đã được đề cập trong phần bảo toàn và phát triển VCĐ. Song do xuất phát từ đặc trưng của VLĐ là chu chuyển toàn bộ, môt lần vào giá thành sản phẩm và hình thái vật chất VLĐ thường xuyên biến đổi. Do vậy mà trạng thái tài sản lưu động và vốn lưu thông cũng thường xuyên biến đổi. Theo quan điểm tiếp cận như vậy thì các quyết định về bảo toàn và phát triển vốn lưu động phải được thực hiện trên cả hai phương diện là hiện vật và giá trị. Vốn lưu động sẽ được bảo toàn khi và chỉ khi bảo toàn được cả hai mặt này.
Bảo toàn về mặt hiện vật: phải bảo đảm cho VLĐ đầu kỳ bằng VLĐ cuối kỳ để thoả mãn đẳng thức:
Số VLĐ đầu kỳ
=
VLĐ cuối kỳ
Đơn giá sản phẩm mà doanh nghiệp KD
Giá 1 SP kinh doanh tại thời điểm đó
Bảo toàn vốn lưu động về mặt giá trị, thực chất không cần thiết số VLĐ đầu kỳ phải bằng số VLĐ cuối kỳ, mà đòi hỏi doanh nghiệp phải giữ được giá trị thực tế hay sức mua của vốn, thể hiện ở khả năng mua sắm vật tư cho khâu dự trữ và tài sản lưu động định mức nói chung, duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Do vậy trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải thường xuyên thực hiện việc hạch toán đúng giá trị thực tế của vật tư, hàng hoá theo mức diễn biến giá cả trên thị trường nhằm tính đúng, tính đủ chi phí vật tư, hàng hoá vào giá thành sản phẩm, giá vốn hàng hoá và phí lưu thông để thực hiện bảo toàn vốn lưu động.
Tuy vậy, chúng ta cần phải xác định được số vốn lưu động cần phải bảo toàn theo công thức sau:
Số VLĐ phải bảo toàn đến cuối kỳ
=
Số VLĐ được giao đầu kỳ
x
Hệ số trượt giá VLĐ
Quan tâm đến công thức này cần chú ý đến: số vốn được giao, hệ số trượt giá. Số vốn đã được giao là số vốn lưu động giao lần đầu cho doanh nghiệp đã xác định trong biên bảo giao nhận vốn. Còn khi nói tới hệ số trượt giá VLĐ do cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính xác định cho doanh nghiệp, nó dựa trên cơ sở mức tăng (giảm) giá thực tế cuối năm so với đầu năm của một số vật tư chủ yếu tính theo cơ cấu kế hoạch vốn lưu động định mức của từng doanh nghiệp, phù hợp với đặc điểm, cơ cấu TSLĐ của từng ngành, từng doanh nghiệp.
Khi đã có được những kết quả quan trong công tác bảo toàn vốn, doanh nghiệp sẽ rất thuận lợi trong việc thực hiện phát triển vốn. Phát triển VLĐ được lấy từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trích từ lợi nhuận để lại.
III/ Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh
Bất kỳ hoạt động nào của con người, hoạt động nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng, đều mong muốn đạt được những kết quả hữu ích nào đó. Kết quả đạt được trong kinh doanh mới chỉ đáp ứng được phần nào yêu cầu của cá nhân và xã hội. Tuy nhiên kết quả đó được tạo ở mức nào với giá nào là vấn đề cần được xem xét vì nó phản ánh chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả đó. Mặt khác, nhu cầu của con người bao giờ cũng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của họ. Bởi thế, con người cần phải quan tâm đến việc làm sao với khả năng hiện có, có thể làm ra được nhiều sản phẩm nhất. Do đó nảy sinh vấn đề là phải xem xét lựa chọn cách nào để đạt được hiệu quả lớn nhất. Chính vì thế khi đánh giá hoạt động kinh tế người ta thường sử dụng hiệu quả kinh tế cùng với các chỉ tiêu của nó. Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực xã hội để đạt được kết quả cao nhất với chi phí nguồn lực thấp nhất. Hiệu quả kinh tế có thể tính theo công thức sau:
Kết quả đầu vào
Hiệu quả kinh tế =
Yếu tố đầu ra
Xuất phát từ những nguyên lý chung như vậy, trong lĩnh vực vốn kinh doanh định ra hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn chính là quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình kinh doanh, hay cụ thể là quan hệ giữa toàn bộ kết quả kinh doanh và toàn bộ chi phí của quá trình kinh doanh đó được xác định bằng thước đo tiền tệ. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn không chỉ thể hiện đơn thuần ở kết quả kinh doanh và chi phí kinh doanh, mà còn thể hiện ở nhiều chỉ tiêu liên quan khác.
1. Một số chỉ tiêu chung về tình hình sử dụng vốn
a) Cơ cấu vốn
Sức mạnh tiềm ẩn của một doanh nghiệp nhiều khi được thể hiện thông qua cơ cấu vốn. Chứng minh cho luận điểm này chúng ta thấy rằng trình độ sử dụng vốn của ban lãnh đạo doanh nghiệp và tình hình sản xuất kinh doanh là những yếu tố quan trọng khắc hoạ nên sức mạnh của doanh nghiệp. Đồng thời chính những yếu tố đó tạo nên một cơ cấu vốn đặc trưng cho doanh nghiệp, không giống các doanh nghiệp cùng loại khác. Như vậy tỉ số cơ cấu vốn không phải là một con số ngẫu nhiên mà là con số thể hiện ý chí của doanh nghiệp. Về mặt giá trị, tỉ số đó cho ta biết trong tổng số vốn ở doanh nghiệp đang sử dụng có bao nhiêu đầu tư vào vốn lưu động, có bao nhiêu đầu tư vào tài sản cố định. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng được cơ cấu vốn khoẻ, hợp lý.
Cơ cấu cho từng loại vốn được tính như sau:
Tỉ trọng VCĐ (Tỉ trọng TSCĐ)
=
TSCĐ và đầu tư dài hạn
Tổng vốn
Tỉ trọng VLĐ
(Tỉ trọng TSLĐ và vốn lưu thông)
=
1- Tỉ trọng vốn cố định
b) Vòng quay toàn bộ vốn
Đây là chỉ tiêu đo lượng hiệu quả sử dụng vốn trong kỳ, nó phản ánh một đồng vốn được doanh nghiệp huy động vào sản xuất kinh doanh mang lại mấy đồng doanh thu
Doanh thu thuần
Vòng quay toàn bộ vốn =
Tổng số vốn
c) Kỳ thu tiền trung bình
Trong quá trình tiến hành sản xuất kinh doanh, việc phát sinh các khoản phải thu, phải trả là điều tất yếu. Khi các khoản phải thu càng lớn, chứng tỏ vốn của doanh nghiệp đang bị ứ trong khâu thanh toán. Nhanh chóng thu được vốn bị ứ đọng trong khâu thanh toán là bộphận quan trọng trong công tác tài chính nói chung và công tác quản lý, sử dụng vốn nói riêng. Vì vậy, sẽ không ngạc nhiên khi các nhà quản lý, các nhà kinh doanh, rất quan tâm tới thời gian thu hồi của các khoản phải thu. Để nắm chắc thông tin về khả năng thu hồi vốn và làm cơ sở cho việc dự tính các quyết định của mình, các nhà phân tích đã đưa ra chỉ tiêu "kỳ thu tiền trung bình". Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Kỳ thu tiền trung bình
=
Các khoản phải thu
=
Các khoản phải thu x 360
Doanh thu bình quân ngày
Doanh thu năm
2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ
a) Sức sản xuất của TSCĐ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại mấy đồng giá trị sản lượng (hay doanh thu thuần)
Sức sản xuất của tài sản cố định
=
Tổng doanh thu thuần (hay giá trị tổng sản lượng)
Nguyên giá bình quân TSCĐ
b) Sức sinh lời của TSCĐ
Chỉ tiêu sức sinh lời của TSCĐ cho biết một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại mấy đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp.
Sức sinh lợi của tài sản cố định
=
Lợi nhuận thuần (hay lãi gộp)
Nguyên giá bình quân TSCĐ
c) Suất hao phí tài sản cố định:
Chỉ tiêu này cho thấy để có một đồng doanh thu thuần hoặc lợi nhuận thuần cần có bao nhiêu đồng nguyên giá TSCĐ
Suất hao phí tài sản cố định
=
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Giá trị tổng sản lượng (hay doanh thu thuần, lợi nhuận thuần)
d) Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Hiệu quả sử dụng vốn cố định
=
Giá trị tổng sản lượng (hay DT thuần, lợi nhuận)
Số vốn cố định
3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
a) Sức sản xuất của vốn lưu động
Sức sản xuất của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động đem lại mấy đồng doanh thu thuần (giá trị tổng sản lượng)
Sức sản xuất của vốn lưu động
=
Tổng doanh thu thuần (hay giá trị tổng sản lượng)
Vốn lưu động bình quân
b) Sức sinh lời của vốn lưu động
Sức sinh lời của vốn lưu động cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra mấy đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp trong kỳ.
Sức sinh lời của vốn lưu động
=
Lợi nhuận thuần (hay lãi gộp)
Vốn lưu động bình quân
c) Số vòng quay của vốn lưu động (hệ số luân chuyển)
Số vòng quay của vốn lưu động
=
Tổng doanh thu thuần
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng và ngược lại.
d) Thời gian của một vòng luân chyyển
Thời gian một vòng luân chuyển
=
Thời gian của kỳ phân tích
Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ
Chỉ tiêu này cho chúng ta biết số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn.
e) Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động
=
Vốn lưu động bình quân
Tổng doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần bao nhiêu vốn lưu động bình quân.
Trong khi phân tích để tìm ra một kết luận về tính hiệu quả hay không hiệu quả, cần tính ra các chỉ tiêu trên rồi so sánh giữa kỳ phân tích với kỳ gốc. Khi tính các chỉ tiêu cần chú ý các nhân tố sau:
+ Tổng doanh thu thuần = Tổng doanh thu bán hàng trong kỳ - (Thuế VAT hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu+ chiết khấu hàng bán + giảm giá hàng bán + doanh thu hàng đã bán bị trả lại).
+ Thời gian của kỳ phân tích: quy định một tháng là 30 ngày, một quý là 90 ngày và một năm là 360 ngày.
Tổng vốn lưu động 4 quý
+ Vốn lưu động bình quân =
4
V1/2 + V2 + V3 ... + Vn/2
Hoặc =
n-1
Với V1, V2, V3... là vốn lưu động hiện có vào đầu các tháng
n là số thứ tự các tháng.
4. Phân tích tình hình thanh toán và khả năng thanh toán
a) Phân tích tình hình thanh toán
Như chúng ta đã biết, các giao dịch kinh tế tài chính trong kinh doanh ở mọi doanh nghiệp thường xuyên phát sinh các khoản phải thu, phải trả và cần một thời gian nhất định mới thanh toán được. Các quan hệ nợ nần lẫn nhau giữa các doanh nghiệp về các khoản tiền mua bán hàng, giữa các doanh nghiệp với ngân sách về các khoản phải nộp thuế theo luật định, giữa doanh nghiệp với người lao động về tiền lương... là các quan hệ tất yếu khách quan. Tuy nhiên, trong kinh doanh các doanh nghiệp phải ngăn ngừa và giảm tối đa các khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn vẫn chưa trả được hoặc chưa đòi được. Bởi vì, sự chiếm dụng vốn quá hạn của khách hàng, một mặt gây khó khăn về vốn cho doanh nghiệp, mặt khác do thiếu vốn, thiếu tiền mặt để thanh toán các khoản phải trả, doanh nghiệp sẽ phải đi vay, chịu lãi suất tín dụng, điều đó làm giảm tỉ suất lợi nhuận, làm chậm tốc độ luân chuyển vốn. Chính vì vậy, phân tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp trở lên tối cần thiết nhằm xem xét mức biến động của các khoản phải thu, phải trả, tìm ra nguyên nhân của các khoản nợ đến hạn chưa đòi được hoặc nguyên nhân của việc tăng các khỏan nợ đến hạn chưa trả được.
b. Phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp :
Khả năng thanh toán phản ánh tình trạng tài chính tốt hay xấu của doanh nghiệp và có ảnh hưởng đến tình hình thanh toán. Khả năng thanh toán xác định như sau:
Số tiền có thể dùng để thanh toán
K =
Các khoản nợ phải trả
Trong đó: - K là hệ số khả năng thanh toán
- Số tiền có thể dùng thanh toán bao gồm toàn bộ số vốn bằng tiền và những tài sản có thể chuyển hoá thành tiền một cách nhanh chóng.
- Các khoản nợ phải trả gồm phải trả người bán, người mua, nộp ngân sách trả cho cán bộ CNV, vay ngắn hạn ngân hàng, phải trả khác.
Khi đã có được kết quả hệ số thanh toán.
- Nếu K ³ 1, chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán và tình trạng tài chính của doanh nghiệp bình thường hoặc tốt.
- Nếu K < 1, chứng tỏ doanh nghiệp không có khả năng thanh toán công nợ và tình trạng tài chính ở mức không bình thường hoặc xấu.
5. Mức độ bảo toàn và phát triển vốn.
Chỉ tiêu mức độ bảo toàn vốn sử dụng trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, giá cả biến động lớn nhằm quy định trách nhiệm của doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp phải quan tâm đến việc phản ánh đúng giá trị các loại vốn sản xuất kinh doanh , tính đúng, tính đủ các chi phí vào giá thành sản phẩm để bảo toàn được vốn.
Khi phân tích chỉ tiêu này cần so sánh giữa số vốn phải bảo toàn, đến cuối năm và số vốn thực tế bảo toàn được trong năm để xác định mức độ bảo toàn vốn của doanh nghiệp là bảo toàn cao hơn hay chưa bảo toàn đủ. Khi bảo toàn được cao hơn có nghĩa doanh nghiệp đã có thành tích trong quản lý và sử dụng vốn. Với kết quả khả quan này sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có vốn để dùng vào sản xuất kinh doanh, phát triển được vốn. Ngược lại, chưa bảo toàn đủ so với số vốn phải bảo toàn phản ánh sự yếu kém của doanh nghiệp trong việc quản lý, sử dụng vốn.
IV. Các giải pháp nhằm quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Các giải pháp nhằm quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thường là các công cụ quản lý, các phương pháp, biện pháp tập trung vào các lĩnh vực như nguồn vốn hiện có, các tiềm năng về kỹ thuật , công nghệ, lao động và các lợi thế khác của doanh nghiệp nhằm sử dụng một cách tiết kiệm nhất các nguồn tiềm năng đó mà đem lại được hiệu quả kinh tế cao nhất. Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu.
1. Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm
Nền tảng căn bản cho sự tồn tại của doanh nghiệp, sự cạnh tranh với doanh nghiệp khác, cho sử dụng vốn có hiệu quả là doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra sản phẩm và được người tiêu thụ chấp nhận sản phẩm đó. Do vậy hoàn toàn bình thường khi thấy rằng bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải quan tâm đến việc sản xuất cái gì, bao nhiêu , tiêu thụ ở đâu, với giá nào để huy động được mọi nguồn lực vào hoạt động, có được nhiều thu nhập. Khẳng định như thế có nghĩa là việc lựa chọn phương án kinh doanh như thế nào, phương án sản phẩm ra sao sẽ có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả kinh doanh nói chung cũng như việc quản lý và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng.
Biết được vai trò quan trọng như vậy thì phương án kinh doanh, phương án sản phẩm phải được xây dựng như thế nào? Đáp số của bài toán đã chỉ rõ sản phẩm làm ra phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường , được thị trường chấp nhận. Do vậy các phương án kinh doanh , phương án sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn, suy cho cùng, phải thể hiện được ý chí đó. Nói cách khác, doanh nghiệp phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường để quyết định quy mô, chủng loại, mẫu mã, chất lượng và giá bán sản phẩm . Làm tốt được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải hiểu biết và vận dụng tốt phương pháp Marketing.
Sự phân tích trên chỉ ra cho chúng ta ý nghĩa rằng không chỉ lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm tốt (với tư cách là biểu hiện của marketing) đem lại hiệu quả trong quản lý và sử dụng vốn mà sự tác động ngược trở lại cũng trở lên có ý nghĩa.
2. Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn lực:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh , bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần huy động những nguồn vốn bổ sung nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh tiến hành bình thường, đồng thời đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô hay đầu tư chiều sâu. Như đã biết, các nguồn huy động thì có rất nhiều, việc lựa chọn nguồn vốn nào rất quan trọng và phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế . Nếu nhu cầu đầu tư chiều sâu hoặc mở rộng thì trước hết cần huy động nguồn vốn tự bổ sung từ lợi nhuận để lại, từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất , phần còn lại có thể vay tín dụng, vay ngân hàng thu hút vốn liên doanh, liên kết... Nếu nhu cầu bổ sung vốn lưu động thì trước hết doanh nghiệp cần sử dụng linh hoạt các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các quỹ trích lập theo quy định (NĐ 59 và TT70) nhưng chưa sử dụng, lợi nhuận chưa phân phối, các khoản phải trả nhưng chưa đến hạn trả, phần còn lại có thể vay ngân hàng hoặc các đối tượng khác. Việc đi vay đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự cân nhắc, lựa chọn và đặc biệt là có một quan điểm rõ ràng trong chính sách nguồn tài trợ của doanh nghiệp, bởi vì việc phải chịu lãi từ các khoản vay có thể gây trở ngại cho phát huy hiệu quả đồng vốn. Ngược lại, đối với doanh nghiệp thừa vốn thì tuỳ từng điều kiện cụ thể để lựa chọn khả năng sử dụng. Nếu đưa đi liên doanh, liên kết hoặc cho vay thì cận phải thận trọng, thẩm tra kỹ các dự án liên doanh, kiểm tra tư cách khách hàng nhằm đảm bảo liên doanh có hiệu quả kinh tế, cho vay không bị chiếm dụng vốn do quá hạn chưa trả hoặc mất vốn do khách hàng không có khả năng thanh toán,
3. Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh .
Nhu cầu thị trường tồn tại khách quan, luôn luôn biến động và phát triển Xét một cách toàn diện, quy mô, trình độ của quá trình sản xuất là do thị trường quy định. Để đáp ứng được những yêu cầu khách quan của thị trường , một mặt đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho nội trình đó được tiến hành thông suốt, đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu dự trữ, sản xuất, tiêu thụ, đảm bảo sự phối hợp ăn khớp, chặt chẽ giữa các bộ phận, đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp; mặt khác cũng đòi hỏi doanh nghiệp đảm bảo các yếu tố mang tính tĩnh đó vận động phù hợp với sự biến động, phát triển liên tục của thị trường. Kết quả tốt của việc điều hành và quản lý sản xuất kinh doanh là hạn chế tối đa tình trạng ngừng làm việc của máy móc, thiết bị, ứ đọng vật tư dự trữ, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được do chất lượng không đảm bảo, gây lãng phí, làm giảm tốc độ chu chuyển của vốn . Để đạt được các mục tiêu trên, các doanh nghiệp phải tăng cường quản lý từng yếu tố của quá trình sản xuất .
Đối với quản lý TSCĐ, vốn cố định: đòi hỏi doanh nghiệp phải có một hệ thống các biện pháp. Một là phải bố trí dây chuyền sản xuất hợp lý , khai thác hết công suất thiết kế và nâng cao hiệu suất công tác của máy móc, thiết bị, sử dụng triệt để diện tích sản xuất, giảm chi phí khấu hao trong giá thành phẩm. Hai là , xử lý dứt điểm những TSCĐ không cần dùng, hư hỏng chờ thanh lý nhằm thu hồi vốn cố định chưa sử dụng vào luân chuyển, bổ sung thêm vốn cho sản xuất kinh doanh . Ba là quy định rõ trách nhiệm vật chất, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong quản lý, sử dụng, bảo dưỡng, sửa chữa TSCĐ. Bốn là có sự quan tâm thường xuyên đến bảo toàn vốn cố định.
Đối với quản lý TSCĐ, vốn lưu động thì nguyên tắc chung là phải sử dụng tiết kiệm và tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Để quán triệt nguyên lý đó doanh nghiệp nên tăng cường các biện pháp quản lý. Một là xác định đúng nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho từng kỳ sản xuất, kinh doanh nhằm huy động hợp lý các nguồn vốn bổ sung. Hai là tổ chức tốt quá trình thu mua, dự trữ vật tư nhằm đảm bảo hạ giá thành thu mua vật tư, hạn chế tình trạng ứ đọng vật tư dự trữ, dẫn đến kém hoặc mất phẩm chất vật tư, gây ứ đọng vốn lưu động. Ba là quản lý chặt chẽ việc tiêu dùng vật tư theo định mức nhằm giảm chi phí nguyên, nhiên, vật liệu trong giá thành sản phẩm. Bốn là tổ chức hợp lý quá trình lao động, tăng cường kỷ luật sản xuất và các quy trình về kiểm tra, nghiệm thu số lượng, chất lượng sản phẩm nhằm hạn chế đến mức tối đa sản phẩm xấu, sai quy cách bằng các hình thức kích thích vật chất thông qua tiền lương, thưởng , kích thích tinh thần. Năm là tổ chức đa dạng các hình thức tiêu thụ sản phẩm nhằm tiêu thụ nhanh, số lượng nhiều. Sáu là xây dựng quan hệ bạn hàng tốt với các khách hàng nhằm củng cố uy tín trên thương trường, chú ý đến thanh toán, tránh giảm các khoản nợ đến hạn. Bảy là tiết kiệm các yếu tố chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí lưu thông nhằm góp phần giảm chi phí sản xuất tăng lợi nhuận.
4. Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh
Mặc dù tính ưu việt của sản phẩm phần nào bị xoá nhoà bởi sự bùng nổ của khoa học, công nghệ. Nhưng ở một nơi nào đấy, với tiến bộ khoa học kỹ thuật ở một giai đoạn nào đó, doanh nghiệp vẫn có thể phát huy được những lợi thế về sản phẩm đưa lại. Kỹ thuật tiến bộ và công nghệ hiện đại nói chung là điều kiện vật chất để doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm mới, hợp thị hiếu, chất lượng cao, đồng thời có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm , giảm tiêu hao nguyên vật liệu hoặc sử dụng loại vật tư thay thế nhằm tăng tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm vật tư , hạ giá thành sản phẩm . Chính vì vậy, trong điều kiện công nghệ ở đa số các doanh nghiệp của nước ta hiện nay rất lạc hậu, các doanh nghiệp cần mạnh dạn đầu tư đổi mới TSCĐ cũ, lạc hậu bằng TSCĐ mới, hiện đại, thay đổi công nghệ sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cả về chất lượng, kiểu dáng và giá bán. Đạt được quá trình này có thể làm cho tỉ trọng vốn cố định trên tổng vốn sản xuất kinh doanh tăng lên, tổng chi phí khấu hao cũng như chi phí về khấu hao TSCĐ trong giá thành đơn vị sản phẩm tăng lên, nhưng đồng thời các chi phí khác về vật liệu, lương công nhân sản xuất... giảm đáng kể. Kết quả cuối cùng là sản xuất và tiêu thụ được nhiều sản phẩm chất lượng cao, tăng lợi nhuận thu được và tăng hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh .
5. Tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán và phân tích hoạt động kinh tế
Qua số liệu kế toán như các báo tài chính, bảng tổng kết tài sản, kết quả kinh doanh , chi phí sản xuất theo yếu tố, bản giải trình về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh... doanh nghiệp có thể thường xuyên nắm được số vốn hiện có cả về mặt giá trị và hiện vật, nguồn hình thành và các biến động tăng giảm trong kỳ, mức độ bảo đảm vốn lưu động, tình hình và khả năng thanh toán,... nhờ đó doanh nghiệp nắm chắc tình hình tài chính. Tuy nhiên số liệu kế toán, tự nó chưa thể chỉ ra những biện pháp cần thiết để tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, mà đòi hỏi phải thực hiện phân tích hoạt động kinh tế , trong đó chú ý đến phân tích tình hình tài chính và hiệu quả sử dụng vốn. Thông qua phân tích, đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn trong kỳ, tìm ra nguyên nhân yếu kém để có biện pháp khắc phục, thành tích để có biện pháp phát huy.
Tóm lại, các giải pháp tập trung đi sâu vào một số yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quản lý và hiệu quả sử dụng vốn. Hơn thế nữa, hệ thống kinh doanh là một hệ thống biến đổi, do vậy để các giải pháp phát huy ưu thế của mình cần phải có kế hoạch cụ thể, tiến hành thường xuyên và có hệ thống.
Chương II
Phân tích thực trạng quản lý và sử dụng vốn
ở tổng công ty hàng hải Việt Nam
I/ Quá trình hình thành và phát triển của tổng công ty hàng hải
Tổng công ty Hàng hải Việt Nam được thành lập theo quyết định số 250/TTg ngày 29/04/1994 của Thủ tướng chính phủ bao gồm các thành viên là doanh nghiệp hạch toán độc lập, doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc và đơn vị sự nghiệp có gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế , tài chính, công nghệ , thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động trong ngành hàng hải để tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất , nâng cao hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng công ty, thực hiện nhệm vụ xây dựng, phát triển ngành hàng hải theo định hướng phát triển kinh tế của đất nước. Cũng theo nghị định đó Tổng công ty Hàng hải là Tổng công ty nhà nước hoạt động kinh doanh , có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự theo luật định, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do Tổng công ty quản lý. Hiện tại, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam có tên giao dịch quốc tế là VIET NAM NATIONAL SHIPPING LINES, viết tắt VINALINES bao gồm các thành viên sau:
Khối vận tải biển gồm 7 doanh nghiệp:
1. Công ty vận tải biển Việt Nam
Viet nam Ocean Shipping Company (VOSCO), có trụ sở chính tại 215 Trần Quốc Toản, Hải phòng.
2. Công ty Vận tải và thuê tàu biển Việt nam
Vietnam Sea Transport Chartering Company (VITRANSCHART), có trụ sở chính 248 Nguyễn Tất Thành, Q4 Thành phố Hồ Chí Minh
3. Công ty vận tải biển III
Vietnam Shipping Company (VINASHIP), số 01 Hoàng Văn Thụ, Quận Hồng Bàng, Hải Phòng.
4. Xí nghiệp liên hợp vận tải biển pha sông
Vietnam Sea & River Transports Corporation (VISERITRANS), 80B Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
5. Công ty vận tải dầu khí Việt Nam
Falcon Shipping Company (FALCON), 36 Nguyễn thị Minh Khai Quận 1, Thành phố Hồ chí Minh.
6. Công ty Vận tải và cung ứng xăng dầu đường biển
Maritime petrolemn Transport Company (MAPETRANCO)
46 Trần Khánh Dư, Ngô Quyền, Hải phòng
7. Công ty vận tải thủy Bắc.
Northeru Waterways Transport Corporation (NORWAT)
278 Tôn Đức Thắng, Đóng Đa, Hà nội
Khối cảng gồm 5 doanh nghiệp:
Cảng Hải phòng (Hải phong Port) : 08 A Trần phú, Hải phòng
Cảng Sài gòn (Sai Gon Port): 03 Nguyễn Tất Thành , Q4, TP. HCM
Cảng Quảng Ninh (Quang Ninh Port) :06 Lê thánh Tông, phường Hồng Hà, thành phố Hạ Long.
Cảng Đã Nẵng (Da Nang Port)
Cảng Cần Thơ (Can Tho Port)
Khối dịch vụ gồm 15 doanh nghiệp:
1. Đại lý hàng hải Việt nam
Vietnam Ocean Shipping Agency (VOSA) , 07 Nguyễn Huệ, Q1, Thành phố Hồ chí Minh.
2. Công ty container phía Bắc
VICONSHP - HAI PHONG : 11 Võ Thị Sáu, Ngô Quyền, Hải phòng
3. Công ty container phía Nam
VICONSHIP - SAIGON; 11 Nguyễn Huệ, Q1, TP Hồ chí Minh
4. Công ty phát triển hàng hải.
VI MADECO: 11 Võ thị Sáu, Ngô Quyền, Hải phòng
5. Công ty tin học và công nghệ hàng hải
MITECO: 12 Trần khánh Dư, Ngô Quyền, Hải phòng
6. Trung tâm thương mại hàng hải I
MATRA - HA NOI ;1A đường Giải phóng, Đống đa, Hànội
7. Trung tâm thương mại hàng hải II
MATRA - NHATRANG ; 36 Trần phú, TP . Nha trang
8. Công ty cung ứng và dịch vụ hàng hải I
MASERCO - 282 Đà nẵng , Ngô Quyền, Hải phòng
9. Công ty cung ứng và dịch vụ hàng hải phía nam
MARISERCO - 442 Nguyễn Tất thành , Q4, TP . Hồ Chí Minh
10. Công ty xuất nhập khẩu và cung ứng vật tư kỹ thuật phía nam
MARIMEX - 36 Nguyễn Trường Tộ, Q4, TP. Hồ Chí Minh
11. Công ty hợp tác lao động với nước ngoài.
INLACO - HAIPHONG - 04 Nguyễn Trãi, Hải phòng
12. Công ty Hợp tác lao động với nước ngoài phía Nam
INLACO - SAIGON - 63, Sương Nguyệt ánh, Q1, TP. Hồ Chí Minh
13. Công ty tư vấn hàng hải.
MARINECONSUL - 201 Khâm thiên , Hà Nội
14. Công ty dịch vụ công nghiệp hàng hải.
INSECO - 1A Phan Chu Chinh, Phường Hải Cảng, TPQuy Nhơn
15. Công ty xuất nhập khẩu vật tư đường biển.
MARINESUPPLY - 276A, Đà nẵng, Hải phòng.
Khối các đơn vị liên doanh gồm 8 doanh nghiệp:
1. Công ty liên doanh vận tải biển Việt Pháp - GEMATRANS
Lầu 15, Habour View Buiding , 35 Nguyễn Huệ , Q1, TP. Hồ Chí Minh
2. Công ty liên doanh vận tải và khai thác Container Vietnam (VINABRIDGE)
11 Võ thị Sáu, Ngô Quyền, Hải phòng.
3. Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - MARITIME BANK
25 Điện biên Phủ, Hồng Bàng, Hải phòng.
4. Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển - GEMADEPT
Lầu 3 số 27, 28 Tôn đức Thắng, TP Hồ Chí Minh
5. Công ty vận tải quốc tế Nhật Việt - VIJACO
Chùa Vẽ, Ngô Quyền, Hải phòng
6. Công ty TNHH vận tải hàng công nghệ cao.
201 Khâm thiên, Đống Đa, Hà nội
7. Công ty cổ phần cảng container Đồng nai - ICD DONG NAI
8. Phili - 0rien lines Vietnam . ltđ
153 Nguyễn Tất Thành, Q4, TP. Hồ Chí Minh
II/ Kết quả hoạt động kinh doanh của Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam
1. Những thuận lợi và khó khăn của TCT HHVN
a) Những thuận lợi của Tổng công ty.
- Việt Nam là một trong số ít nước được thiên nhiên ưu đãi để trở thành một quốc gia kinh tế biển phát triển . Vị trí địa lý của Việt Nam và chính sách mở cửa hiện nay của Đảng và nhà nước ta là những yếu tố rất thuận lợi cho việc xây dựng một ngành công nghiệp hàng hải với chức năng không chỉ phục vụ các nhu cầu phát triển kinh tế , xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng của chính mình mà còn tham gia cung cấp dịch vụ cho hoạt động hàng hải quốc tế.
- Sau hơn 40 năm xây dựng, chiến đấu và phát triển , ngành hàng hải Việt Nam đã tích luỹ được một số cơ sở vật chất , phương tiện, lao động kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh ban đầu, rất có giá trị để bước vào một giai đoạn phát triển mới theo hướng "chuyên dùng hoá - hiện đại hoá".
- Đảng và nhà nước đã có một số chính sách cụ thể, nhằm tạo điều kiện để ngành hàng hải Việt Nam phát triển với tư cách là một ngành kinh tế mũi nhọn. Đặc biệt là nghị quyết 03, ngày 06/05/93 của Bộ chính trị về phát triển kinh tế biển đã xác định mục tiêu là phải xây dựng nước ta thành một "quốc gia mạnh về biển".
b. Những khó khăn chủ yếu.
- Ngành hàng hải là một ngành kinh tế đặc thù, sản phẩm chủ yếu là dịch vụ , phụ thuộc nhiều vào biến động của thị trường quốc tế cũng như các rủi ro thiên nhiên. Mặt khác, cơ sở vật chất kỹ thuật luôn đòi hỏi nhu cầu đầu tư vốn khá lớn nhưng thời hạn thu hồi vốn thường kéo dài hơn so với nhiều ngành kinh doanh dịch vụ khác. Hiện nay, hai lĩnh vực hoạt động kinh doanh quan trọng nhấ._. này, trích khấu hao hàng năm dựa vào tỉ lệ khấu hao luỹ thoái giảm dần so với nguyên giá tài sản cố định.
Tỉ lệ khấu hao giảm dần đựơc xác định theo công thức:
TKt =
2 (T - t + 1)
T(T + 1)
Trong đó: TKt : tỉ lệ khấu hao năm t
T: Tổng thời gian hoạt động máy móc
t: Số năm trích khấu hao (t = 1:T)
Ví dụ: Một máy có nguyên giá là 42.000.000 VNĐ, thời gian sử dụng là 6 năm, áp dụng công thức trên ta có tỉ lệ trích và mức trích khấu hao trong 6 năm sử dụng như sau:
Năm thứ nhất T = 6 , t = 1 , thay vào công thức ta có
TK1 =
=
2 ( 6 - 1 + 1) 6
6
21
6 ( 6 + 1) 21
Mức trích khấu hao : = x 421.000.000 = 12.000.000 VNĐ
Các năm còn lại được thể hiện qua biểu đồ dưới:
Biểu 16: Trích khấu hao cơ bản theo tỷ lệ quy định của Nhà nước
Số năm trích (t)
1
2
3
4
5
6
Tổng
Tỉ lệ khấu hao (TK)
6/21
5/21
4/21
3/21
2/21
1/21
21/21
Mức trích
12.000
10.000
8.000
6.000
4.000
2.000
42.000
c) áp dụng phương pháp này cho Tổng công ty
Do việc mua sắm tài sản cố định của Tổng công tại các thời điểm khác nhau có nhiều loại khác nhau, vì thế Tổng công ty cần áp dụng phương pháp khấu hao tỉ lệ giảm dần tính cho từng loại tài sản cố định hoặc tài sản cố định mua cùng một đợt có chức năng tương tự nhau.
áp dụng phương pháp này để trích khấu hao cho một chiếc tàu do Tổng công ty mua năm 1996, hiện do công ty VOSCO quản lý và sử dụng trên tuyến vận tải quốc tế từ thành phố Hồ Chí Minh đi Singapore.
Nguyên giá của chiếc tàu: 48.036 triệu VNĐ
Theo công thức trên thì mức khấu hao trong các năm: 1996, 1997, 1998, 1999, 2000 của chiếc tàu này:
Biểu 17: Trích khấu hao cơ bản theo tỷ lệ giảm dần
Đơn vị : 1.000.000 VNĐ
Số năm trích
1
2
3
4
5
6
Tổng
Tỉ lệ khấu hao (TK)
6/21
5/21
4/21
3/21
2/21
1/21
21/21
Mức trích
13.725
11.437
9.150
6.863
4.575
2.286
48.036
Như vậy, nếu tính theo cách tính của Tổng công ty đang áp dụng, mức trích khấu hao là 4. 323 triệu VNĐ thì Tổng công ty cần 11 năm mới thu hồi được vốn đầu tư ban đầu. Với phương pháp tính mới, sau 6 năm sử dụng Tổng công ty đã có thể thu hồi được vốn đầu tư cho chiếc tàu trên. Điều này hạn chế được hao mòn vô hình và sự tác động của giá cả tới vốn cố định.
Tuy nhiên phương pháp này đã đội chi phí khấu hao trong giá thành sản phẩm tăng hơn so với phương pháp cũ trong năm đầu tiên là=13.725-4.323=9.402 (triệuVNĐ) làm ảnh hưởng đáng kể đến việc định giá. Song theo phương pháp này Tổng công ty có điều kiện thu hồi sớm vốn đầu tư ban đầu, có điều kiện đổi mới, cải tiến thiết bị công nghệ và do vậy có thể cạnh tranh tốt hơn với các hãng tầu nước ngoài. Đặc biệt với quy định an toàn vận tải biến quốc tế thì chỉ có những tàu đạt chuẩn khắt khe mới được hoạt động.
3. Thanh lý, bán bớt một số tàu quá cũ hoặc không còn phù hợp với yêu cầu của khách hàng.
Đổi mới để đáp ứng những yêu cầu của khách hàng luôn là vấn đề thường xuyên đối với đội ngũ tàu của Tổng công ty. Trong khi đó, ngoài những chiếc tàu mà Tổng công ty đã vay mua, thuê mua trong 3 năm hoạt động vừa qua thì còn lại là các tàu cao tuổi (có những chiếc tuổi tàu đã vượt quá 27, trong thiết bị lạc hậu, khả năng chuyên dùng thấp, không còn phù hợp với tình hình hiện tại. Tổng quan ra thì bản thân đội tàu của Tổng công ty không có đủ năng lực cạnh tranh cần thiết, đặc biệt mà khi đội tàu này đang bị gần 30 hãng tàu nước ngoài thường xuyên hoạt động trên các tuyến vận tải đến Việt Nam, trong đó có khoảng 17 hãng được cấp giấy phép hoạt động trên tuyến liner cạnh tranh quyết liệt, kể cả trên các tuyến nội địa Việt Nam mà xưa nay vốn là vị trí độc tôn của các hãng tàu trong nước.Tình trạng như vậy xuất pháp từ nhiều nguyên nhân, mà chủ yếu là trong nhiều năm qua chưa xây dựng được một quy hoạch phát triển đội tàu hợp lý ở phạm vi quốc gia, đầu tư manh mún trên một diện rộng và không kịp chủ động thay đổi cơ cấu đội tàu cho phù hợp với xu thế phát triển công nghệ vận tải theo các phương thức mới trên thế giới mà suy cho cùng là xu thế yêu cầu thực tế của khách hàng.
Khắc phục tình trạng đó, bước đi chiến lược cơ bản của Tổng công ty là tập trung xây dựng phát triển đội tàu theo hướng đi thẳng lên hiện đại nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, từng bước giành lại và tăng thêm thị phần, tiến tới chia sẻ thị phần của khu vực. Để làm được điều này, Tổng công ty cần chủ trương tận dụng cơ hội tạo ra những đột khởi, trước hết phải ưu tiên tìm mọi cách hiện đại hoá ngay đội tàu chuyên dụng container, tàu chở hàng rời cỡ từ 25.000 DWT á 30.000DWT, tàu chở dầu thô bằng các phương thức vay mua, thuê mua và đóng mới. Tuy nhiên, việc cụ thể cần làm ngay là phải thanh lý, bán bớt một số tàu đã quá cũ hoặc không còn phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Điều này tự bản thân nó có lý do của nó:
Một là, đối với những tàu quá cũ thì chi phí cho hoạt động cao, năng suất lại kém, chi phí sửa chữa cũng quá cao (bình quân một tàu hàng năm chi phí sửa chữa là 1 tỉ đến 1,5 tỉ VNĐ), không đảm bảo an toàn trong qúa trình vận tải, dẫn đến giá thành cao và giá cước cũng tăng theo. Trong khi đó trên thực tế giá cước đang ngày càng có xu hướng giảm do khủng hoảng của ngành Hàng hải trên thế giới. Đây là một điều mà tự bản thân những chiếc tàu thấy cần phải loại bỏ.
Hai là, đối với những tàu không còn phù hợp với yêu cầu của khách hàng thì rất khó xác định được nguồn hàng hoặc nguồn hàng không đều khi có khi không. Nếu không bán, thanh lý chúng đi để đầu tư tàu mới thì đồng nghĩa với việc trì trệ trong kinh doanh, dẫn tới tự đào mồ chôn mình.
Ba là, việc thanh lý, bán bớt các tàu sẽ làm giảm đáng kể chi phí, đồng thời Tổng công ty có thể tập trung vốn đầu tư nâng cấp các tàu còn lại phù hợp với yêu cầu hiện nay, thuê mua các tàu khác.
Tuy nhiên khi thực hiện công việc này, vấn đề về người lao động dôi dư ra từ đó tàu đó sẽ trở thành gánh nặng đối với công việc vận tải biển. Trong số lao động này có: Số lượng lao động dôi dư do tuổi tác, số lượng lao động dôi dư do trình độ chuyên môn không phù hợp với công nghệ mới nhưng lại có nhiều năm cống hiến không nhỏ. Do vậy Tổng công ty có thể giải quyết vấn đề này theo hướng sau: Với những người tuổi tác không phù hợp thì bố trí nghỉ hưu hoặc là bố trí công việc khác. Với những người trình độ chuyên môn tuy không phù hợp nhưng còn trong độ tuổi phù hợp thì cho đi đào tạo lại hoặc đào tạo nâng cao cho phù hợp với tình hình hiện nay. Những công nhân đã đào tạo lại có thể cho đơn vị khác thuê hoặc xuất khẩu lao động. Làm như vậy Tổng công ty vừa đảm bảo việc làm cho người lao động, vừa có những khoản thu từ việc cho thuê này.
4. áp dụng mô hình quản lý tiền mặt MILLER - ORR
a) Cơ sở của phương pháp
Trong năm qua Tổng công ty giữ một lượng tiền mặt tương đối lớn (bao gồm tiền gửi không có lãi và tiền trong các két sắt), điều này đã ảnh hưởng không tốt đến việc quản lý và sử dụng vốn lưu động. Nếu giữ một lượng tiền mặt lớn thì sẽ tránh được tình trạng thiếu tiền mặt một cách tạm thời và tránh đi vay ngắn hạn. Tuy nhiên giữ tiền mặt cũng có chi phí bởi lượng tiền mặt đó không sinh lãi. Vấn đề đặt ra là Tổng công cần giữ một lượng tiền mặt vừa để đảm bảo không thiếu vốn tạm thời, vừa đảm bảo giá của việc giữ tiền này là ít nhất. Mô hình MILLER - ORR cho phép Tổng công ty làm được điều đó.
b) Nội dung của mô hình MILLER - ORR
Miller - orr đã cùng nghiên cứu một vấn đề là: Làm thế nào để doanh nghiệp có thể quản lý được việc cân đối tiền mặt nếu như doanh nghiệp không thể dự đoán được mức thu - chi ngân quỹ hàng ngày ? để trả lời cho câu hỏi trên chúng ta hãy xem đồ thị dưới đây:
Thời gian
Mức cân đối tiền mặt
Giới hạn dưới
Giới hạn trên
Mức cân đối tiền mặt theo thiết kế
0
Đồ thị cho thấy mức cân đối tiền mặt dao động lên xuống và không thể nào dự đoán được cho đến khi nó đạt giới hạn trên. Tại giới hạn trên, doanh nghiệp dùng số tiền vượt quá mức tiền mặt theo thiết kế để mua chứng khoán và cân đối tiền mặt trở về mức dự kiến. Mặt khác, trong quá trình kinh doanh rất có thể cân đối dao động tụt xuống giới hạn dưới, là điểm cần bổ sung tiền mặt để đáp ứng cho những hoạt động cần thiết, do vậy tại giới hạn dưới doanh nghiệp phải bán chứng khoán để có lượng tiền mặt ở mức dự kiến.
Câu hỏi cần trả lời là doanh nghiệp nên để mức dao động tiền mặt trong khoảng nào? Mô hình này chỉ ra những khoảng dao động của mức cân đối tiền mặt phụ thuộc vào 3 yếu tố. Nếu như mức dao động của thu chi ngân sách quỹ hàng ngày rất lớn hoặc chi phí cố định của việc mua và bán chứng khoán lớn thì doanh nghiệp nên quy định khoảng dao động tiền mặt lớn. Ngược lại, nếu như lãi suất cao, thì doanh nghiệp nên thu hẹp khoảng dao động tiền mặt. Khoảng dao động tiền mặt được tính theo công thức sau:
3
Khoảng cách của giới hạn trên và dưới của cân đối tiền mặt
=
3
x
Chi phí giao dịch x Phương sai của thu chi ngân quỹ
4
Lãi suất
Mức tiền mặt theo thiết kế = Mức tiền mặt +
Khoảng dao động tiền mặt
3
c) áp dụng mô hình này trong công tác quản lý tiền mặt
Mô hình trên đây đã chỉ ra rằng: nếu doanh nghiệp luôn luôn duy trì được mức cân đối tiền mặt theo như thiết kế ban đầu thì doanh nghiệp sẽ tối thiểu hoá được chi phí giao dịch và chi phí do lãi suất gây ra.
áp dụng mô hình này trên thực tế Tổng công ty Hàng hải cần thực hiện những bước sau:
- Bước 1: Tổng công ty cần xác định giới hạn dưới của cân đối tiền mặt, mức này có thể bằng 0 và cũng có thể lớn hơn 0 để đảm bảo mức an toàn tối thiểu.
- Bước 2: Tổng công ty cần phải ước tính thu - chi của ngân quỹ.
- Bước 3: Là quan sát lãi suất là chi phí giao dịch của mỗi lần mua bán chứng khoán.
- Bước 4: Là tính toán giới hạn trên và mức tiền mặt theo thiết kế, đồng thời đưa ra những thông tin để các nhân viên tài chính thực hiện chiến lược kiểm soát theo giới hạn được xác định bởi mô hình Miller - orr.
5. Hạn chế vốn lưu động bị chiếm dụng nhằm thu hồi vốn nhanh, tăng vòng quay của vốn.
Trong điều kiện hiện nay, việc chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp có xu hướng ngày càng gia tăng. Trong tình hình chung đó, số vốn bị chiếm dụng của Tổng công chiếm tỉ lệ không nhỏ trong tổng số vốn lưu động, thể hiện trong năm 1998 như sau:
Đầu năm : 272. 139 VNĐ
Cuối năm: 284.093 VNĐ
Lượng vốn bị chiếm dụng này không những không sinh lãi mà còn làm giảm vòng quay của vốn, hạn chế hiệu quả sử dụng vốn của Tổng công ty. Do vậy cần thực hiện các biện pháp sau để hạn chế vốn bị chiếm dụng trong khâu lưu thông.
Thứ nhất: Trước khi ký hợp đồng, Tổng công ty cần nắm tình hình tín dụng của các khách hàng về các mặt sau:
- Báo cáo tài chính: Tổng công ty có thể đề nghị khách hàng cung cấp thông tin tài chính như bảng tổng kết tài sản, báo cáo thu nhập, một số tỉ lệ như lợi nhuận vốn, tốc độ chu chuyển vốn lưu động.
- Báo cáo tín dụng về tình hình thanh toán của khách hàng với các doanh nghiệp khác để xem xét lịch sử thanh toán của doanh nghiệp với các khách hàng khác, trả tiền đúng hạn hay không, bao nhiêu lần gây rắc rối trong việc trả tiền...
- Quan hệ tín dụng với các ngân hàng của doanh nghiệp
Thứ hai: là khi ký kết hợp đồng, Tổng công ty cần thoả thuận trong hợp đồng có phần phạt hành chính nếu khách hàng trả tiền chậm tuỳ vào giá trị lô hàng, thời gian khách hàng trả chậm. Làm như vậy sẽ đảm bảo cả hai bên đều có trách nhiệm hơn nữa trong vấn đề thanh toán của mình.
Thứ ba: Là khi xảy ra tranh chấp hợp đồng, cả Tổng công ty và khách hàng cần phải nhanh chóng giải quyết dứt điểm không để xảy ra tình trạng chi phí cho việc giải quyết tranh chấp lớn hơn cả giá trị hợp đồng hoặc dễ gây tình trạng ứ đọng vốn lâu, mất uy tín của Tổng công với khách hàng hiện tại cũng như trong tương lai. Nếu cả hai phía không giải quyết được thì có thể đưa ra toà và chi phí này do hai bên chịu. Mặt khác, phía Tổng công ty phải luôn sẵn sàng tạo các điều kiện cần thiết để khi khách hàng yêu cầu đáp ứng ngay và đúng tiến độ trong hợp đồng đã ký kết. Nên chăng Tổng công ty cũng cần mạnh dạn chi phí để khuyến khích khách hàng thực hiện đúng thời hạn trong hợp đồng, nhằm tăng tốc độ tiêu thụ và thu hút khách hàng ngày càng đông.
Thứ tư, là mục tiêu kinh doanh của Tổng công ty cũng như tất cả các doanh nghiệp khác là lợi nhuận, không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó Tổng công ty còn có nhiệm vụ là bảo đảm công ăn việc làm cho một số lao động tương đối lớn. Do đó trong những năm qua, đôi lúc Tổng công ty đã phải ký kết những hợp đồng không mấy đem lại hiệu quả kinh tế, thậm chí chấp nhận thua lỗ. Như vậy có nghĩa rằng muốn tạo ra một cơ chế thu hồi nhanh vốn, bảo toàn được vốn, tăng vòng quay vốn đòi hỏi phải m ột hệ thống đồng bộ bởi chúng là các chỉ tiêu mang tính chất tổng hợp. ở đây không những là vấn đề việc làm cho người lao động mà còn rất nhiều yếu tố khác nữa.
Tuy nhiên chúng ta cũng cần thấy rằng không phải lúc nào thu tiền ngay cũng có lợi nhất là đối với các bạn hàng truyền thống hoặc những bạn hàng nằm trong diện ưu tiên. Khi đó Tổng công ty nên cho phép khách hàng trả chậm nhưng vẫn phải đảm bảo thu hồi đúng thời hạn và chi phí cho việc khách hàng thanh toán chậm là nhỏ nhất.
6. Hoàn thiện phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch sát với nhu cầu vốn thực tế của Tổng công ty.
a) Sự cần thiết của phương pháp.
Trong thời gian qua việc lập kế hoạch vốn lưu động của Tổng công ty đã bộc lộ một số tồn tại chủ yếu sau:
- Việc xác định vốn lưu động dựa vào doanh thu kế hoạch và số vòng quay của vốn kế hoạch là chưa khoa học, do đó chưa xác định nhu cầu vốn cho từng khâu, từng bộ phận, điều này dẫn đến Tổng công ty phải đi vay ngắn hạn ngân hàng với tỉ lệ lớn.
- Lượng vốn được xác định không sát với thực tế, thấp hơn so với thực tế, duy có nguồn tín dụng sụt giảm. Nguyên nhân chủ yếu là do doanh thu thực tế năm 1998 lớn hơn doanh thu kế hoạch đề ra (kế hoạch là 2.156.000 triệu VNĐ, thực hiện là 2.271.245 triệu VNĐ, tăng 11%) và tình hình suy giảm kinh tế.
Căn cứ vào tình hình thực tế Tổng công ty có thể áp dụng phương pháp phần trăm của tài sản nợ và tài s ản có trong bảng cân đối tài sản trên doanh thu thực tế năm trước đó để xác định nhu cầu vốn lưu động định mức. áp dụng phương pháp này hạn chế được nhược điểm của phương pháp mà Tổng công ty đang áp dụng, giúp cho Tổng công ty xác định một cách chính xác, sát thực tế hơn về nhu cầu vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
b) Nội dung của phương pháp.
Đây là phương pháp dự đoán ngắn hạn và đơn giản có thể sử dụng để xác định nhu cầu tài chính của doanh nghiệp. Trình tự tiến hành như sau:
- Tính số dư trên các tài khoản trong bảng cân đối tài sản trong năm của Tổng công ty.
- Chọn những khoản chịu sự biến động trực tiếp và có quan hệ chặt chẽ với doanh thu và tỉ lệ phần trăm trên doanh thu trong năm.
- Dùng phần trăm đó ước tính nhu cầu đó của năm cần lập kế hoạch.
c) áp dụng để xác định vốn lưu động định mức cho năm 1998.
Năm 1997 doanh thu đạt 1977.551 triệuVNĐ.
* Xét bên tài sản.
Khi doanh thu thì các mục bên tài sản có thể thay đổi tỉ lệ thuận với doanh thu. Tuy nhiên do tính chất và đặc điểm của vốn cố định là không trực tiếp thay đổi tỉ lệ thuận với doanh thu nên ta chỉ xét hai khoản mục đó là:
-Tài sản lưu động.
- Tài sản trong thanh toán.
Ta tính chất chỉ tiêu sau
-Tỉ lệ % tài sản lưu động trên doanh thu là:
x 100% =
x 100% = 17%
Tài sản lưu động 1997 330. 743
Doanh thu năm 1997 1997.551
- Tỉ lệ % tài sản trong thanh toán trên doanh thu là
x 100% =
x 100% = 8%
Tài sản trong thanh toán 1997 159.805
Doanh thu năm 1997 1977.551
* Xét bên nguồn vốn.
Khi doanh thu tăng thì chỉ có nguồn vốn tín dụng gắn hạn và nguồn vốn trong thanh toán chịu sự biến động trực tiếp, do vậy chỉ xét hai khoản mục này.
- Tỉ lệ phần trăm nguồn vốn tín dụng ngắn hạn trên doanh thu là:
x 100% = 2,1%
x 100% =
Tín dụng gắn hạn năm 1997 42.196
Doanh thu năm 1997 1997.551
- Tỉ lệ phần trăm nguồn vốn trong thanh toán trên doanh thu là:
x 100% = 6%
x 100% =
Nguồn vốn trong thanh toán 120.529
Doanh thu năm 1997 1997.551
Qua việc tính toán ta có chênh lệch :
(17 + 8) - (2,1 + 6) = 16,9% cho ta biết cứ 100 đồng doanh thu tăng thêm t hì phải tăng 16,9 đồng vốn lưu động.
Doanh thu kế hoạch năm 1998 là 2.156.000 triệu VNĐ, do đó nhu cầu vốn lưu động năm 1998 so với năm 1997 tăng:
( 2156.000 - 1997.551) x 0,169 ằ 26.778 t riệu VNĐ
Trong cơ cấu vốn lưu động năm 1997 thì tài sản lưu động chiếm
x 100% = 78%
330.743
424.291
Với nhu cầu vốn lưu động định mức xác định lại cho năm 1998 là
330.743 + (26.778 x 0,78) = 351.630 VNĐ
- Hiệu quả đem lại so với cách tính cũ là:
357.982 - 351.630 = 6.352 triệu VNĐ
Như vậy theo cách tính mới này, Tổng công ty sẽ tiết kiệm được 6.352 triệu VNĐ, đây chính là phần chênh lệch giữa hai cách tính mức vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch. Giả sử với lãi suất ngân hàng là 0,95% /tháng, thì trong 1 năm Tổng công ty có thể giảm chi phí trả lãi suất ngân hàng để bổ sung vào lợi nhuận.
6.352 x 0,95% x 12 = 724,128 triệu VNĐ
- Hiệu quả đem lại so với thực tế
394.526 - 351.630 = 42.896 triệu VNĐ
Theo cách tính mới này lượng vốn định mức kế hoạch cho năm 1998 thấp hơn thực tế sử dụng là 42.896 triệu VNĐ, đây chính là phần lãng phí do thực hiện căn cứ vào kế hoạch được xác định theo phương pháp cũ. Nếu số tiền này mà vay ngân hàng với lãi suất 0,95%/tháng thì Tổng công ty có thể giảm chi phí lãi suất ngân hàng bổ sung vào lợi nhuận.
42.896 x 0,95% x 12 = 4.890 triệu VNĐ
II/ Một số kiến nghị với nhà nước
Một trong những nguyên nhân không kém phần quan trọng ảnh hưởng đến việc quản lý và sử dụng vốn của Tổng công ty là Nhà nước có nhiều quy định về chế độ thuế, lệ phí, quản lý đầu tư, bảo vệ thị trường hiện hành không còn phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay và tính chất đặc thù của hoạt động Hàng hải. Thêm vào đó Nhà nước không có vốn đầu tư trực tiếp cho phát triển đội tàu và cũng chưa có một chính sách bảo hộ hợp lý tạo điều kiện bảo vệ thị trường Hàng hải trong nước, chống lại sức ép ngày càng tăng của các hãng tàu nước ngoài và giúp các doanh nghiệp Hàng hải hợp tác đầu tư, phát triển sản xuất. Do vậy, với tư cách đó Nhà nước nên chú ý hơn tới ngành Hàng hải nhằm góp phần cho Tổng công ty Hàng hải quản lý, sử dụng có hiệu quả hơn đồng vốn của mình.
Thứ nhất, là trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh Tổng công ty Hàng hải không sử dụng đường bộ, nhưng các doanh nghiệp vận tải biển đang phải chịu lệ phí đường bộ tính trong giá nhiên liệu. Trong khi đó, chi phí nhiên liệu luôn chiếm khoảng gần 60% giá thành vận tải đường biển. Do đó nhà nước cũng cần có những biện pháp, chính sách giúp các doanh nghiệp không phải chịu lộ phí này. Đặc biệt trong giai đoạn khó khăn hiện nay khi mà các doanh nghiệp vận tải đang phải chịu sức ép giảm giá cước do ảnh hưởng suy thoái của ngành hàng hải và cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực.
Thứ hai, là nhà nước cần thể chế hoá chế độ bảo hộ hợp lý tàu biển quốc gia thông qua việc ban hành chế độ thuế mới và thực hiện quản lý thị trường hàng hải bằng các biện pháp tương tự như trong ngành hàng không, dầu khí, bưu chính. Nhà nước cũng nên áp dụng những biện pháp tài chính hợp lý nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp vận tải biển có điều kiện tái đầu tư khôi phục, phát triển đội tàu biển trong giai đoạn từ 10 - 15 năm tới.
Thứ ba, theo dự kiến của cục Hàng Hải Việt Nam đến năm 2000 sẽ phải đầu tư khoảng 2 tỉ USD và đến năm 2010 cần tiếp tục chi thêm ít nhất 5 tỉ USD nữa để có một đội tàu quốc gia mạnh. Trong đó chỉ tính riêng tổng số vốn đầu tư cho việc thực hiện "đề án phát triển đội tàu biển của Tổng công ty đến năm 2000" đã xấp xỉ 500 triệu USD. Nhưng để thực hiện được điều này Tổng công ty cần có nguồn hàng ổn định trong các năm tới, do đó cả về phía Nhà nước lẫn phía Tổng công ty Hàng hải phải có những quy định vừa bắt buộc, vừa khuyến khích đối với các công ty có hàng hoá xuất nhập khẩu dành từ 30 - 35% tổng lượng hàng hoá xuất nhập khẩu cho đội tàu vận tải biển.
Thứ tư, là nhà nước cần điều chỉnh những qui định luật pháp hiện hành trong lĩnh vực đầu tư phát triển đội tàu biển cho phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay, cụ thể:
Một là, về thủ tục trình tự xin phê duyệt và cấp giấy phép mua bán tàu biển có nhiều điểm chưa thật sự phù hợp với tính chất đặc thù của thị trường mua bán tàu biển. Bên cạnh đó một thực tế không thể bác bỏ là các doanh nghiệp hàng hải hiện nay rất thiếu vốn đầu tư phát triển đội tàu nên phần nào phải trông vào khả năng cấp tín dụng ưu đãi của chính người bán hoặc đóng tàu. Do vậy, điều kiện và thời gian giao nhận nhiều khi chưa thể chủ động được. Mặt khác, các nhà máy đóng tàu ở Việt nam chưa có đủ khả năng kỹ thuật, công nghệ, trang thiết bị, tiền vốn để có thể cung cấp các loại tàu mà ngành Hàng hải cần hiện nay. Cho nên, các doanh nghiệp buộc phải tìm kiếm, chọn lựa tàu biển từ thị trường buôn bán tàu biển quốc tế, mà thị trường này có các luật lệ riêng, tập quán riêng và vận hành độc lập, đòi hỏi phải sử dụng dịch vụ tư vấn chuyên ngành. Thực tế đã như vậy nhưng đáng buồn là các thủ tục xét duyệt thật phiền hà và gây cản trở cho các chủ tàu trong việc lựa chọn, đàm phán và ký kết hợp đồng mua - bán tàu. Do vậy đã đến lúc phải xây dựng một quy chế dưới hình thức "Nghị định" nhằm cải tiến quy trình xét duyệt - đấu thầu dự án mua, bán tàu biển, tránh phiền hà, nhanh chóng "Một cửa - một dấu"
Hai là về lệ phí đăng ký và lệ phí trước bạ tàu biển. Theo quy định tại điều 4 - Nghị định 193/CP ngày 29/12/1994 của chính phủ về lệ phí trứơc bạ và các văn bản có liên quan khác của Bộ tài chính thì trước khi được đăng ký chính thức tàu biển mới được vay mua, thuê mua hoặc đóng mới vào "Sổ đăng ký tàu biển quốc gia" các chủ tàu sẽ phải nộp một khoản lệ phí trước bạ tính tỉ lệ % trên giá trị tài sản theo thời giá, thường là 2% hoặc theo mức khống chế tối đa là 500 triệu VNĐ/chiếc. Ngoài ra theo quy định của Bộ tài chính còn phải nộp thêm tiền lệ phí đăng ký tàu biển, lệ phí IMO, lệ phí đăng ký thuyền viên, lệ phí đăng kiểm, phí bảo đảm hàng hải mà các khoản này coi là "lệ phí hành chính" chứ không phải là thuế.
Theo đó trong năm 1998, Tổng công ty đã thuê - mua, vay - mua được 3 chiếc tàu trị giá 8 triệu 150 USD, bằng vốn vay đạt 28% so kế hoạch. Lệ phí trước bạ phải nộp là 163 nghìn USD tương ứng trên 2 tỉ đồng, ngoài ra còn phải nộp thêm 150 triệu. Số lệ phí này buộc phải nộp ngay một lần ngay trước khi được cấp giấy chấp nhận đăng ký tàu biển chính thức và các loại giấy phép hoạt động khác. Tình trạng như vậy sẽ ảnh hưởng đến khả năng tận dụng tiền vốn, tự tích luỹ để tái đầu tư của các chủ tàu trong việc cải tạo, phát triển đội tàu. Như thế, về lâu dài thiết thấy cần sửalại Nghị định 193/CP ngày 29/12/1994 của chính phủ theo hướng huỷ bỏ hoàn toàn chế độ thu "lệ phí trước bạ tàu biển" và "Lệ phí đăng ký tàu biển" hợp thành một loại, loại lệ phí hành chính duy nhất gọi là " lệ phí đăng ký tàu biển", đồng thời phải nghiên cứu để quy định mức thu hợp lý hơn đối với các loại tàu mua về dùng cho mục đích kinh doanh.
Ba là vấn đề giới hạn tuổi tàu đăng ký tại Việt Nam tại điểm (k) điều 10 Nghị định 14CP ngày 25/2/1994 của chính phủ có quy định " Nếu là tàu cũ mua của nước ngoài, lần đầu tiên đăng ký tại Việt Nam, thì không được quá 15 tuổi". Quy định này thể hiện sự mong muốn của nhà nước ta trong việc hạn chế tối đa việc nhập khẩu các con tàu quá cũ. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng thì đã nảy sinh một số mâu thuẫn sau: Các chủ tàu không phải lúc nào cũng có đủ vốn mua các tàu dưới 15 tuổi và bản thân nhà nước cũng không có khả năng cung cấp vốn đầu tư trực tiếp cho đội tàu. Tuổi tàu lại là một trong những yếu tố quyết định giá đầu tư mua bán tàu, phương án khai thác sử dụng, phương án trả nợ tiền vay mua tàu và đặc biệt là giá cước vận chuyển, càng mua tàu mới thì càng lỗ lớn. Chính vì thế chính phủ nên sớm sửa đổi điểm này để cho phép các doanh nghiệp vận tải biển được mua, đăng ký tại Việt Nam những tàu container, tàu chở dầu thô, tàu chở hàng rời cỡ từ 20.000DWT trở lên và cho các tàu chuyên dụng khác trên 15 tuổi nhưng vẫn được cơ quan đăng kiểm tàu biển có thẩm quyền cấp giấy phép chứng nhận an toàn kỹ thuật.
Các chủ tàu còn bị ràng buộc bởi một quyết định hành chính khác là quyết định 1762/QĐ ngày 17/10/1995 của Bộ khoa học công nghệ môi trường. Theo quyết định này, tàu biển cũng được coi như thiết bị toàn bộ và những tàu biển trên 10 tuổi do các nước G7 sản xuất hay tàu biển loại trên 8 tuổi do các nước khác sản xuất đều không được nhập khẩu vào Việt Nam. Họ cho rằng ngoài vấn đề cần phải cân nhắc lại giới hạn đó tuỳ theo từng nhóm thiết bị và khả năng thực tế của người nhập khẩu, thì dường như nội dung văn bản này cũng không còn phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành về thẩm quyền ban hành văn bản hiện nay ở nước ta.
Kết luận
Quản lý và nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn ở bất kỳ một Tổng công ty nào suy cho cùng là một công việc vô cùng khó khăn phức tạp, đặc biệt trong tình hình thị trường đầy biến động, rủi ro bất trắc khó lường trước được, trong tình hình khủng hoảng hiện nay. Các nhà lãnh đạo có thể thấm nhuần lý luận khoa học về quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là gì? Các bộ phận tham mưu đã có thể đã rất nhạy cảm với kết quả cũng như khả năng phân tích tình hình vốn? hay việc tổ chức cả một hệ thống các giải pháp để đạt các chỉ số tài chính hấp dẫn cũng như việc đánh giá những điều đã đạt được ra sao? Tuy vậy thực tế lại luôn chứng minh sự đa dạng vốn có của nó, kỳ vọng tạo ra một lợi thế cạnh tranh tiềm ẩn hơn hẳn các chiến lược con người hay chiến lược marketing ở Tổng công ty Hàng hải Việt nam là chưa rõ ràng, hệ thống tài chính còn nhiều bất hợp lý, mặc dù hiệu quả về mặt kinh tế đang được chú trọng hơn nữa nhưng khả năng bảo toànvà phát triển vốn rất hạn chế. Trên những cơ sở đánh giá đó, một số giải pháp hợp lý được đề xuất nhằm giải quyết những điểm yếu và nâng cao khả năng quản lý vốn ở Tổng công ty Hàng hải Việt Nam.
Một lần nữa em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành của mình tới thầy giáo - PTS Nguyễn Xuân Quang và chú Vương Đình Lam cùng các cô chú trong Cục Hàng hải và Tổng công ty Hàng hải Việt Nam đã giúp em hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Tài liệu tham khảo
Nghị định 59/CP ngày 3-10-1996 của Chính phủ ban hành quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với các DNNN. Dự thảo sửa đổi bổ sung Nghị định 59.
Thông tư số 57TC/TCDN ngày 12/11/1996 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý sử dụng vốn và tài sản trong DNNN.
Thông tư số 70TC/TCDN ngày 5/11/1996 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ phân phối lợi tức sau thuế và quản lý các quỹ của DNNN.
Chế độ báo cáo thống kê Tổng công ty. Tổng cục Thống kê.
Kinh tế thương mại - Khoa Thương mại trường ĐHKTQD.
Quản trị doanh nghiệp thương mại. Khoa thương mại trường ĐH KTQD.
Kiến thức kế toán cần thiết cho các nhà điều hành doanh nghiệp. NXB Thống kê 1994.
Quản lý tài chính doanh nghiệp. NXB Thống kê 1994.
Sổ tay quản lý vốn trong doanh nghiệp. NXB Thống kê 1994.
Tạp chí Hàng hải số 1+2 năm 1998,1999.
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế tháng 5, 8, 11/1994; tháng 2,5/1995.
Tạp chí Tài chính năm 1998.
Tạp chí Kinh tế dự báo năm 1998.
Các tài liệu: Quyết định thành lập, các báo cáo tổng hợp, các đề án phát triển ... của Tổng công ty Hàng hải Việt Nam.
Mục lục
Đề tài: Một số vấn đề về quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở
Tổng công ty Hàng hải Việt Nam"
Trang
Mở đầu
1
Chương I: Vai trò và nội dung của quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp sản xuất
3
I/ Vốn và vai trò của vốn trong kinh doanh
3
1. Khái niệm về vốn sản xuất kinh doanh
3
2. Vốn cố định
4
3. Vốn lưu động
6
II/ Nội dung của hoạt động quản lý vốn trong kinh doanh
9
1. Nội dung hoạt động quản lý vốn cố định
9
2. Nội dung hoạt động quản lý vốn lưu động
15
III/ Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh
18
1. Tình hình sử dụng vốn qua một số chỉ tiêu chung
19
2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
20
3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
21
4. Phân tích tình hình thanh toán và khả năng thanh toán
22
5. Mức độ bảo toàn và phát triển vốn
23
IV/ Các biện pháp quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
24
1. Quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một trong các biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả SXKD
24
2. Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm
25
3. Sử dụng hợp lý các nguồn vốn
25
4. Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh
27
5. Tổ chức tốt công tác kế toán và phân tích hoạt động kinh tế
27
Chương II: Phân tích thực trạng quản lý và sử dụng vốn ở Tổng công ty Hàng hải Việt Nam
29
I/ Quá trình hình thành và phát triển của TCTHHVN
29
II/ Kết quả hoạt động kinh doanh của TCTHHVN
32
1. Những thuận lợi và khó khăn của TCTHHVN
32
2. Những đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của TCTHHVN
35
3. Kết quả hoạt động kinh doanh của TCTHHVN
40
III/ Phân tích hoạt động quản lý vốn kinh doanh của TCTHHVN
42
1. Vốn và cách thức huy động vốn của TCTHHVN
42
2. Tình hình quản lý vốn cố định
45
3. Tình hình quản lý vốn lưu động
52
IV/ Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của TCTHHVN
59
1. Tình hình sử dụng vốn ở TCTHHVN qua một số chỉ tiêu cơ bản
59
2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
61
3. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở TCTHHVN
64
V/ Đánh giá chung công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn ở TCTHHVN
65
1. Những thành tích của TCTHHVN trong quản lý và sử dụng vốn.
65
2. Những tồn tại trong quản lý và sử dụng vốn
66
3. Nguyên nhân của những tồn tại ở TCTHHVN
67
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở TCTHHVN
69
I/ Những giải pháp cho TCTHHVN
69
1. Phát huy cơ chế điều hoà vốn trong Tổng Công ty
69
2. Cải tiến phương pháp khấu hao
71
3. Thanh lý, bán bớt một số tài sản đã quá cũ hoặc không còn phù hợp với yêu cầu của khách hàng
73
4. áp dụng mô hình quản lý tiền mặt MILLER - ORR
75
5. Hạn chế vốn lưu động bị chiếm dụng nhằm thu hồi vốn nhanh, tăng vòng quay của vốn.
77
6. Hoàn thiện phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch sát với nhu cầu thực tế của Tổng công ty
78
II/ Một số kiến nghị đối với nhà nước
81
Kết luận
85
Tài liệu tham khảo
86
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0067.doc