Một số giải pháp thúc đẩy sự hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam

Lời mở đầu Phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) là việc rất quan trọng và cần thiết khi nước ta phát triển một nền kinh tế hàng hoá. Vốn tư bản sẽ trở thành hàng hoá và tất yếu phải có một thị trường để có thể thực hiện việc trao đổi. Với lịch sử phát triển hàng trăm năm và được tổ chức một cách hết sức chặt chẽ, TTCK từ lâu nay đã được coi là một thể chế tài chính bậc cao và hoàn thiện nhất của nền kinh tế thị trường, nếu thiếu nó, như nhiều chuyên gia kinh tế học vẫn nói, nền kinh tế thị

doc46 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1366 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp thúc đẩy sự hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường thiếu tính hoàn hảo. Vai trò cơ bản của thị TTCK đối với nền kinh tế được thể hiện rất rõ bằng việc tạo dựng một kênh huy động vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp (DN) từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó phải kể đến các nguồn vốn nước ngoài.Thực tế hiện nay, nhu cầu vè vốn của các DN rất lớn. Thống kê từ những thông tin điều tra do các DN cung cấp cho thấy, trong năm 2000, nhu cầu vốn hoạt động kinh doanh của các DN cần khoảng 20 nghìn tỷ đồng Việt Nam,tính bình quân mỗi DN cần khoảng 84 tỷ đồng. Nếu tính đến 2005 con số này vào khoảng 30 nghìn tỷ đồng,trung bình mỗi DN cần khoảng 100 tỷ đồng. Mặt khác, các DN có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng huy động vốn lại chủ yếu từ vay vốn ngắn hạn ngân hàng, lượng vốn vay lại không được đáp ứng đầy đủ. Từ những khó khăn đó, TTCH với tư cách là kênh huy động vốn dài hạn sẽ tháo gỡ được những khó khăn trên. Hiện nay, ngoài sự quan trọng và cần thiết, TTCK cũng là vấn đề thời sự, nóng bỏng trong nền kinh tế Việt Nam. Đây cũng là vấn đề khá mới mẻ đối với người Việt Nam.Với tư cách là một sinh viên-một nhà đầu tư tương lai, em rất quan tâm tới vấn đề này.Vì vậy, em cũng mạnh dạn viết đề tài “Một số giải pháp thúc đẩy sự hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam”. Do trình độ và thời gian có hạn, nên không thể tránh được những sai sót, em rất mong nhận được ý kiến của cô giáo TS- Lê Thị Anh Vân, người đã hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, Tháng 10 năm 2000. Nội dung Chương I. Tổng quan về thị trường chứng khoán I. Khái niệm về thị trường chứng khoán 1. Khái niệm về chứng khoán. Chứng khoán là những giấy tờ có giá trị, được xác nhận quyền sở hữu hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành chứng khoán. Chứng khoán bao gồm các loại như: Cổ phiếu, Trái phiếuvà các loại giấy tờ khác có giá trị. 2. Khái niệm về thị trường tài chính. Thị trường tài chính (TTTC) là nơi cung và cầu về vốn gặp nhau, nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất định. Cấu trúc của thị trường tài chính: Thị trường chứng khoán Thị trường vay nợ dài hạn TTCK dài hạn (trên một năm) TTCK ngắn hạn (dưới một năm) Thị trường tiền tệ TTCK 3. Thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán, chuyển nhượng các loại cổ phiếu, trái phiếu và một số loại giấy tờ có giá trị khác nhăm mục đích kiếm lợi. Thị trường chứng khoán theo tiếng Latinh là Bursa, nghĩa là các ví đựng tiền, còn gọi là sở giao dịch ckứng khoán, là một thị trường có tổ chức và hoạt động có điều khiển. II. Lịch sử hình thành thị trường chứng khoán 1. Thời kỳ phôi thai (từ giữa thế kỷ 15 đến năm 1929). Trong thời kỳ này, thị trường chứng khoán hưng thịnh nhất vào thế kỷ 19. Nhưng đến giữa thế kỷ 19, nó đã bắt đầu thể hiện các mặt tiêu cực, như những cuộc khủng hoảng có tính chu kỳ, đỉnh cao là đầu thế kỷ 20-được kết thúc bằng cuộc khủng hoảng nền kinh tế toàn cầu (1929-1933). Các đặc điểm nổi bật thời kỳ này: Việc hình thành thị trường chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán là mang tính chất tự phát, Nhà nước không can thiệp vào mà thừa nhận vai trò tất yếu của nó trong nền kinh tế. Thị trường chứng khoán ở thời kỳ này là thuộc về tầng lớp thương gia, mang nhiều tính chất đầu cơ. Hoạt động của thị trường chứng khoán dựa trên cơ sở tính chất hiệp hội ngành nghề với các qui định tự đặt ra. 2. Thời kỳ phục hưng (1930-1970). Thời kỳ này nhà nước bắt đầu can thiệp vào thị trường chứng khoán và thị trường chứng khoán là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong cuộc khủng hoảng tài chính.Vì thế mà thị trường chứng khoán trở thành công cụ trong việc quản lý thúc đẩy nền kinh tế. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán được chuyển về tay Nhà nước bằng sự ra đời của Uỷ ban Chứng khoán quốc gia. Vào những năm 50-60 của thế kỷ này, nền kinh tế thế giới bắt đầu phục hồi với sự hoạt động rất sôi động trở lại của thị trường chứng khoán . 3. Thời kỳ quốc tế hoá và công chúng hoá thị trường chứng khoán (1971 đến nay). Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ đã tạo ra việc ứng dụng công nghệ tin học vào thị trường chứng khoán . Những đặc điểm nổi bật là: Hoạt động của sở giao dịch chứng khoán sôi động hơn và chất lượng cao hơn. Thị trường luôn đáp ứng thông tin đầy đủ và công khai tới công chúng đầu tư qua các phương tiện hiện đại, được cập nhật thường xuyên và được công chúng tham gia rộng rãi. Các sàn giao dịch trên thế giới được kết nối cho phép hoạt động liên tục 24/24. Với những đặc điểm như vậy cho phép mọi công dân đầu tư chứng khoán bất cứ ở đâu và bất cứ khi naò mà họ muốn. III. Vai trò và chức năng của thị trường chứng khoán. 1. Chức năng của thị trường chứng khoán . 1.1. Chức năng thu hút vốn nhàn rỗi vào đầu tư phát triển. Ta biết muốn đầu tư phát triển thì phải tự tích luỹ hoặc huy động từ bên ngoài. Vốn huy động từ bên ngoài bao gồm vốn vay tín dụng của các tổ chức tài chính và phát hành cổ phiêú, trái phiếu. Ưu điểm của phát hành trái phiêú, cổ phiếu đối với dân chúng là họ dễ dàng đầu tư vào bất cứ DN nào họ muốn hoặc mua bán kiếm lợi. Còn đối với các DN là họ không phải trả lãi suất hàng tháng và không phải trả nợ gốc khi bị thua kỗ. Do tính chất của chu kỳ kinh doanh nên vốn tạm thời nhàn rỗi trong các DN là rất lớn, bên cạnh, còn có một lượng vốn lớn nằm rải rác trong dân chưa được huy động. Tất cả những tiềm năng này sẽ được phát huy hiệu quả nếu có thị trường chứng khoán .Vì thị trường chứng khoán với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và bộ má quản lý hữu hiệu, với sự phổ biến và hướng dẫn rộng rãi , người dân sẽ dễ dàng sử dụng nguồn tiết kiệm của họ hơn. Đây là tác nhân kích thích ý thức tiết kiệm và tạo thói quen đầu tư trong công chúng. Ngoài ra, trong xã hội cồn có các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi như: quỹ bảo hiểm, quỹ phúc lợi tập thể…một phần vốn của quỹ này được gửi vào Nhân hàng để thực hiện vệc thanh toán, phần còn lại, những người quản lý quỹ luôn tự hỏi làm thế nào cho vốn của họ có khả năng sinh lãi nhiều nhất và vừa an toàn vừa có tính tạm thời…và thị trường chứng khoán có khả năng đáp ứng yêu cầu này. Tóm lại,thị trường chứng khoán có chức năng thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô doanh nghiệp góp phần giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp. 1.2. Chức năng điều tiết các nguồn vốn. Phải thừa nhận rằng, một DN không phải lúc nào cũng thiếu hoặc thừa vốn. Thừa hay thiếu là phụ thuộc vào tính chất của chu kỳ kinh doanh.Khi cần đầu tư mua nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, các khoản phải thu lớn, thì đây là lúc mà DN đang thiếu vốn. Khi quá trình sản xuất kết thúc, sản phẩm được bán ra và thu vốn về, các khoản phải thu được thu về, lúc này DN lại tạm thời thừa vốn. Trên thị trường vốn, luôn luôn có sự điều tiết vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu. ở đây thị trường chứng khoán đóng vai trò rất quan trọng. 1.3.Chức năng hoà nhập nền kinh tế thế giới. Một DN có thể thu hút vốn bất vứ nơi nào và bằng con đường nào mà họ có thể thu hút một cách dễ dàng thông qua thị trường chứng khoán. Nhờ vào hệ thống máy tính mà thị trường chứng khoán cho phép bất cứ ai, ở nơi nào trên thế giới và mua một loại cổ phiếu của bất kỳ một công ty nào mà họ thích. Từ đó hình thành mối liên hệ tiền tệ quốc tế, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển nguồn vốn giữa các nước, thực hiện quan hệ vay mượn lâu dài trên thế giới tạo điều kiện cho việc hoà nhập nền kinh tế thế giới. 1.4. Chức năng điều tiết vĩ mô. Thị trường chứng khoán là công cụ của Nhà nước thông qua Uỷ ban chứng khoán nhà nước, và Ngân hàng trung ương. Nghiệp vụ chủ yếu là thắt chặt hay nới lỏng sự đầu tư trên thị trường. Khi sản xuất sa sút, thiếu vốn, Nhà nước tung tiền ra mở rộng cho vay để khuyến khích sản xuất thông qua việc mua vào những lô chứng khoán có giá trị lớn. Khi hiện tượng đầu tư quá mức, đầu cơ thịnh hành, thì bán chứng khoán nhằm thắt chặt tín dụng giảm bớt đầu tư kinh tế.Vậy thị trường chứng khoán là công cụ hữu hiệu để nhà nước kịp thời điều tiết nguồn vốn trên thị trường. 2. Vai trò của thị trường chứng khoán. Các vai trò của thị trường chứng khoán rất đa dạng nhưng thông qua những chức năng của nó thì có những vai trò sau: 2.1. Tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân. Do có thị trường chứng khoán nên việc đầu tư các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi dễ dàng hơn. Từ việc nguồn vốn bị ứng đọng từ nhiều nơi, không có khả năng sinh lời, cho đến khi có thị trường chứng khoán việc đầu tư, tích luỹ vốn sôi động và dồi dào hẳn lên. Thông qua đó nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, công ăn việc làm được giải quyết, thất nghiệp giảm. Bên cạnh, thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn từ dân chúng, như một nam châm cực mạnh hút các nguồn vốn từ nước ngoài. Ngoài ra còn giúp Nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách, có thêm vốn xây dựng hạ tầng cơ sở. 2.2. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và có hiệu quả hơn. Khi DN cần vốn để mở rộng qui mô sản xuất họ có thể phát hành chứng khoán, vào thị trường để huy động vốn. Đây là phương thức tài trợ vốn qua phát hành và lúc đó nguồn vốn của DN tăng lên. Lúc này rủi ro đối với doanh nghiệp là rất nhỏ vì những cổ đông của họ đã gánh đỡ thay. Một điều thuận lợi nữa, khi DN chưa có cơ hội sản xuất kinh doanh, các DN có thể dự trữ chứng khoán như là một tài sản kinh doanh và các chứng khoán đó sẽ được chuyển nhượng thành tiền khi cần thiết thông qua thị trường chứng khoán. Ngoài ra, khi DN niêm yết trên thị trường chứng khoán, có nghĩa là đã có chữ tín đối với công chúng đầu tư. Như vậy các công ty chứng khoán sẽ là tác nhân kích thích giúp DN tạo vốn nhanh chóng hơn. 2.3. Thị trường chứng khoán là công cụ đánh gía DN, dự đoán tương lai. Thị trường chứng khoán ngày càng đa dạng và phức tạp, liên quan đến vận mệnh của nền kinh tế quốc dân. Sự hình thành thị giá chứng khoán của một DN trên thị trường chứng khoán đã bao hàm sự hoạt độngcủa DN đó trong hiện tại và dự doán tương lai. Khi giá cổ phiếu của một DN cao (hay thấp) biểu hiện trạng thái kinh tế tức là khả năng mang lại cổ tức cao (hay thấp) cho các cổ đông của DN đó. Triển vọng tương lai của các DN cũng được thể hiện một cách trực tiếp trên thị giá cổ phiếu và cũng như sự biến động của nó. Ngoài ra, với phương pháp chỉ số hoá thị giá của các loại chứng khoán chủ yếu trong nền kinh tế và việc nghiên cưú phân tích một cách khoa học hệ thống chỉ số giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán ở từng nước trong mối quan hệ với thị trường thế giới, đã dự đoán được trước sự biến động kinh tế của một hoặc hàng loạt các nước trên thế giới. IV. Một số hạn chế của thị trường chứng khoán 1. Thị trường chứng khoán là nơi cung cấp sự đầu cơ. Điểm yếu của thị trường chứng khoán là giá của các chứng khoán có thể bị đẩy lên hoặc dìm xuống bởi các thương gia chứng khoán lớn để nhằm mục đích kiếm lợi. Các nhà đầu tư nhỏ sẽ bị thiệt hại. Ví dụ như các nhà đầu cơ thường đưa ra những thông tin lệch lạc làm rối loạn thông tin tới công chúng đầu tư từ đó làm rối loạn mất ổn định quan hệ cung cầu chứng khoán trên thị trường nhân cơ hội đó mà kiếm lợi. Tình trạng đầu cơ có thể dẫn tới sự khan hiếm giả tạo trên thị trường, làm cho giá chứng khoán tăng vọt lên so với giá trị thực của nó. Lúc này hàng loạt chứng khoán này được tung ra trên thị trường nhưng giá quá cao nên không có người mua dễ dẫn đến sự sụp đỏ của thị trường chứng khoán . 2. Thị trường chứng khoán làm cho mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt hơn. Do sự tập trung tư bản làm cho một số người ngày càng giàu có, khống chế nhiều chứng khoán hơn và có thể trở thành cổ đông lớn nhấn chìm những cổ đông nhỏ khác , dẫn đến khống chế thị trường, lũng đoạn giá cả và phá hoại sự ổn định của thị trường chứng khoán. Trong khi đó nhiều người bị thôn tính trở nên nghèo hơn, gây nên mâu thuẫn xã hội ngày thêm gay gắt. 3. Thị trường chứng khoán làm cho nền kinh tế dễ mất ổn định. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng không ổn định, sản xuất trì trệ, thị trường tiêu điều, vay vốn khó khăn doanh nghiệp và ngân hàng bị phá sản. Lúc này giá cả của thị trường chứng khoán bị đảo lộn nghiêm trọng, đầu cơ điên cuồng, gây nên khủng hoảng kinh tế. V. Cơ cấu tổ chức thị trường chứng khoán 1. Uỷ ban chứng khoán quốc gia (UBCKQG) UBCKQG là cơ quan Nhà nước điều hành hoạt động thị trường chứng khoán. UBCKQG ở các nước khác nhau có các cách thức tổ chức và hoạt động khác nhau nhưng về bản chất là cơ quan có chức năng đặt ra các qui định thị trường, khuôn khổ pháp lý cho thị trường chứng khoán. Nó cũng là cơ quan điều hành cao nhất, kiểm tra, giám sát các hoạt động thị trường. Trong UBCKQG, các thành viên của Chính phủ chiếm số đông và giữ các chức vụ chủ yếu. 2. Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK). SGDCK có thể có tên là Trung tâm giao dịch chứng khoán với nghĩa hẹp hơn. SGDCK được tổ chức dưới dạng công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn và hoạt động vói mục đích phi lợi nhuận. Đây là trung tâm đầu não của thị trường chứng khoán. Đại diện cho SGDCK trước pháp luật là ban quản lý sở giao dịch chứng khoán, họ được các thành viên trong SGD bầu ra. Các thành viên của SGD là các công ty chứng khoán. Ban quản lý SGD có trách nhiệm điều hành SGD để thực hiện đúng các qui định về giao dịch mà pháp luật và các qui định chung của các thành viên đẵ đặt ra. 3. Các nhà đầu tư. Đối với các nhà đầu tư tham gia trên SGDCK, thông thường là các tổ chức đầu tư, các quĩ hưu trí, các quĩ bảo hiểm, cac ngân hàng…Việc tham gia giao dịch tại SGD phải thông qua các công ty chứng khoán thành viên. Các tổ chức này do có nguồn vốn to lớn từ dân cư và các nhà đầu tư uỷ thác nên mới có thể đáp ứng được các yêu cầu của SGD. Đối với các nhà đầu tư cá nhân, họ tham gia váo thị trường chứng khoán chủ yếu trên thị trường giao dịch qua quầy hoặc thông qua các tổ chức đầu tư để tham mua các lô chứng khoán trên thị trường. 4. Các đơn vị phát hành chứng khoán . Họ là người tạo ra hàng hoá cho thị trường chứng khoán bao gồm Nhà nước, các loại hình DN phát hành chứng khoán …Hàng hoá chứng khoán có phong phú hay không là phụ thuộc vào các đơn vị phát hành. Việc khuyến khích một thi trường năng động và có hiệu quả không thể thiếu được các chính sách khuyến khích phát triển các DN hoạt động mạnh mẽ và có triển vọng phát triển lớn trên thị trường. 5. Các trung gian tài chính (TGTC). Bao gồm các công ty chứng khoán , các Ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng…Vai trò của chúng là làm chức năng lưu chuyển vốn và chứng khoán từ các nhà đầu tư tới những DN phát hành chứng khoán tại thị trường thứ cấp. Mặt khác, các TGTC gồm vốn từ dân chúng nhỏ lẻ tạo ra nguồn vốn lớn, có thời hạn dài để mua chứng khoán từ các nhà phát hành-các DN cần vốn lớn. Mặt khác, các TGTC cũng là người đứng ra bảo lãnh phát hành cho các DN cần phát hành và đem bán lại cho các nhà đầu tư , hay TGTC là bạn hàng của cả hai bên (nhà đầu tư ,DN) trong hoạt động chứng khoán. Đối với các nhà đầu tư , không phải ai cũng có kiến thức và kinh nghiệm về đầu tư chứng khoán. Qua các TGTC họ có thể mua được những loại chứng khoán có chất lượng cao, rủi ro thấp. Đối với các đơn vị phát hành, việc gia nhập thị trường chứng khoán thông qua huy động vốn từ thị trường này đòi hỏi phải sự tư vấn hỗ trợ từ phía các TGTC. 6. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán . Với sự tham gia đa dạng của các TGTC trên thị trường chứng khoán, cần thiết phải có một tổ chức đứng ra định chế, điều hành và giám sát ngoài cơ quan nhà nước. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự định chế, có tính hiệp hội được thành lập ở hầu hết các nước và nhiệm vụ là đặt ra qui định nghề nghiệp bọc các tổ chức TGTC phải tuân theo, cao hơn là bảo vệ các nhà đầu tư. Ngoài ra, còn có nhiệm vụ tập hợp thị trường, không để tình trạng xé lẻ và kinh doanh lộn xộn trên thị trường mà phải theo trình tự, địa điểm, phương thức về nghề nghiệp do hiêp hội đặt ra. VI. Hoạt động của thị trường chứng khoán . Hoạt động của thị trường chứng khoán có thể chia làm 3 loại hoạt động chủ yếu: Các nghiệp vụ chủ yếu của thị trường chứng khoán, các nghiệp vụ liên quan và các nghiệp vụ kỹ thuật. 1. Các nghiệp vụ trực tiếp của thị trường chứng khoán. 1.1. Phát hành chứng khoán: Là nghiệp vụ của các đơn vị phát hành chứng khoán, còn các phương thức, trình tự phát hành phải tuân thủ theo qui định của thị trường chứng khoán. Để được phát hành chứng khoán, đơn vị phải có đơn xin kèm theo hồ sơ phát hành gửi UBCKQG xem xét. Chỉ khi được sự chấp thuận thì đơn vị mới được phát hành chứng khoán ra thị trường. Nghiệp vụ phát hành liên quan đến việc tính toán phức tạp, nên phát hành chứng khoán nào, số lượng, thời hạn, giá cả, việc trả lãi suất, lãi tức… đòi hỏi không chỉ các chuyên gia của các công ty phát hành mà còn cần tới sự hỗ trợ của các chuyên gia từ các công ty chứng khoán hoặc các TGTC khác với tư cách là tư vấn và trợ giúp phát hành. 1.2. Nghiệp vụ trợ giúp phát hành. Đây là nghiệp vụ của các công ty chứng khoán và các trung gian tài chính khác. Nghiệp vụ trợ giúp phát hành bao gồm hai loại: Đại lý phát hành và tư vấn phát hành. Đại lý phát hành: các công ty chứng khoán hoặc các trung gian tài chính khác đứng ra mua số chứng khoán của công ty phát hành và đem bán lại cho nhà đầu tư trên thị trường. Trong nghệp vụ này, công ty trợ giúp phát hành là người gánh chịu rủi ro trong việc bán chứng khoán nhưng bù lại họ được hưởng phần chênh lệch từ giá mua và bán chứng khoán. Tư vấn phát hành: là các công ty trợ giúp phát hành đơn thuần là tư vấn cho công ty phát hành về các vấn đề quan trọng trong hoạt động phát hành và được hưởng một khoản phí dịch vụ do công ty phát hành trả. 1.3. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Đây là việc các công ty chứng khoán làm trung gian giữ người mua và người bán chứng khoán. Môi giới là việc đưa người cần bán một loại chứng khoán nào đó với giá đưa ra đến với người mua loại chứng khoán đó với giá đó. Trên thị trường có rất nhiều cung và cầu về chứng khoán, nhưng để họ gặp nhau ở một mức giá, với một khối lượng cụ thể là công việc rất khó khăn đối với mỗi cá nhân cần mua và bán. Để giảm bớt chi phí này, các nhà môi giới là người nắm chắc được những ai cần mua và cần bán với số lượng và giá cả cụ thể. Từ đó, họ làm trung gian để môi giới, liên hệ cho những người này gặp nhau và để bù đắp cho việc dàn xếp này, người môi giới chứng khoán được hưởng một khoản phí hay là hoa hồng trong môi giới giao dịch. 1.4. Nghiệp vu kinh doanh chứng khoán. Đây là nghiệp vụ của các công ty chứng khoán tiến hành giao dịch mua bán chứng khoán bằng tài khoản của mình và tự gánh chịu rủi ro. Chỉ có công ty chứng khoán mới được phép thực hiện nghiệp vụ này. Mục đích của nghiệp vụ này là thu lợi nhuận và làm ổn định thị trường. Tại thời điểm thị trường đang lên cơn sốt về giá chứng khoán, ngoài các biện pháp khác, thì công ty chứng khoán tham gia bán chứng khoán để bình ổn giá cả, nhằm giảm sự căng thẳng của thị trường cũng như để kiếm lời. Trong những thời điểm suy giảm, giá chứng khoán giảm thì các công ty chứng khoán mua vào để tăng sự sôi động của thị trường. Vì vậy công ty chứng khoán là lực lượng dự bị làm đối trọng với các áp lực thị trường. 2. Các nghiệp vụ khác liên quan. 2.1. Nghiệp vụ tín thác đầu tư chứng khoán. Đây là việc các cá nhân, tổ chức cùng gom vốn và thành lập một công ty hoặc dưới dạng các quỹ và họ uỷ thác quyền sử dụng vốn cho hội đồng quản trị công ty tín thác đầu tư hoặc uỷ ban quản lý tín thác đầu tư. Số lượng vốn góp trên được đầu tư vào chứng khoán, lãi và vốn gốc sẽ được thanh toán cho các cổ đông khi kết thúc hợp đồng. 2.2. Tư vấn đầu tư. Đây là nghiệp vụ của các công ty chứng khoán, các công ty tài chính khác. Hoạt động tư vấn đầu tư là việc cung cấp thông tin, cách thức, đối tượng chứng khoán, thời hạn, khu vực…các vấn đề có tính qui định của luật pháp về hoạt động chứng khoán. Các loại dịch vụ tư vấn bao gồm: + Tư vấn đầu tư mua bán chứng khoán . + Tư vấn quản lý doanh mục đầu tư. + Tư vấn thông tin về hoạt động chứng khoán. Mục đích của hoạt động tư vấn nhằm thúc đẩy các nhà đầu tư trên thị trường hiểu biết về thị trường chứng khoán để đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư của mình có hiệu quả nhất. 2.3. Nghiệp vụ tín dụng chứng khoán. Đây là nghiệp vụ của các công ty chứng khoán, các công ty tài chính khác nhằm cho các nhà đầu tư vay tiền để mua chứng khoán. Vì không phải nhà đầu tư nào cũng có đủ tiền mới đi mua chứng khoán hoặc lúc nào cũng đủ tiền để mua một loại chứng khoán mong muốn. Vậy nghiệp vụ này là để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư . Điều kiện của loại tín dụng này cũng như loại tín dụng thông thường tức là phải có năng lực trả nợ, phải có tài sản để thế chấp. Ngoài ra, các chứng khoán mua được phải dùng để thế chấp cho khoản vay của khách hàng cho đến khi các chứng khoán này được bán trên thị trường. Tại một số nước, tỷ lệ cấp tín dụng chứng khoán của các tổ chức này cho khách hàng được pháp luật giới hạn ở mức tối đa là 60 % tổng giá trị chứng khoán cần mua. Mục đích của nghiệp vụ này là nhằm thu lợi dựa trên mức hoa hồng thu được, kích thích các nghiệp vụ khác hoạt động và nhằm tạo sự sôi động, sự phong phú về cầu hàng hoá chứng khoán. 3. Các yếu tố kỹ thuật nghiệp vụ. 3.1. Phân tích chỉ số chứng khoán. Đó là việc sử dụng các công thức toán học để tính toán và xác định độ biến động của giá cả chứng khoán dựa trên tiêu chuẩn và điều kiện thị trường nhất định. Đòi hỏi là các chuyên gia về chứng khoán, có đầy đủ thông tin chính xác về thị trường, có các kỹ thuật thiết bị tiên tiến và đòi hỏi phải nghiên cứu thường xuyên, liên tục, sâu sắc để đưa các số liệu chính xác về các chỉ số chứng khoán và tình hình thị trường. Vai trò: + Cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin trung thực nhất về tình hình thị trường và có các quyết định đầu tư đúng đắn. + Giúp các cơ quan chứng khoán Nhà nước xác định được các giới hạn biến động từ đó có thể đưa ra các chính sách phù hợp. + Giúp các nhà đầu tư chứng khoán đối phó với những thay đổi của thị trường hiện tại cũng như trong tương lai. 3.2. Xác định giá chứng khoán. Bao gồm việc xác định giá phát hành và giá bán trên thị trường. Nghiệp vụ này ảnh hưởng đến khả năng hấp đẫn đối với nhà đầu tư cũng như khả năng thu hút vốn của doanh nghiệp. Đó là việc tính toán yếu tố có lợi nhuận chứng khoán tạo ra và các yếu tố rủi ro của chứng khoán đó. Ngoài ra, để mua chứng khoán trên thị trường, các nhà đầu tư, các tổ chức môi giới, kinh doanh và tư vấn đầu tư chứng khoán cũng phải xác định được mức giá cụ thể mua được của loại chứng khoán đó trên cơ sở đánh giá hiện tại cũng như tương lai về giá chứng khoán đó. Ngoài các nghiệp vụ trên, còn có các nghiệp vụ như đánh giá rủi ro chứng khoán, các loại chỉ số khác… giúp cho mọi đối tượng có thể tham gia thị trường chứng khoán một cách dễ dàng nhất. Chương II Thực trạng của thị trường chứng khoán việt nam I. sự cần thiết của thị trường chứng khoán Việt Nam 1. Nền kinh tế Việt Nam hơn 10 năm đổi mới. Chủ trương của Đảng và Nhà Nước ta đã đề ra trong Đại hội VI là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ những thành tựu đã đạt được của công cuộc đổi mới nền kinh tế hơn 10 năm qua đã chứng tỏ chủ trương trên là hoàn toàn đúng đắn. Trong thời kỳ 1986 -1990 nền kinh tế nước ta có nhịp độ tăng trưởng bình quân thấp (thấp hơn cả thời kỳ 5 năm trước đó). Cụ thể thời kỳ này chỉ tăng trưởng 3,9 % còn thời kỳ 1981-1985 là 6,4 %. Chỉ số lạm phát năm 1986 lên tới 774,4 %, năm 1990 lạm phát tuy đã được kiềm chế nhưng vẫn ở mức cao (67%). Từ năm 1991 đến nay nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, tốc độ tăng trưởng trong nhiều năm liền khá cao (hơn 8%/năm), lạm phát được kiềm chế ở mức độ cho phép, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Bảng: Tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát. Đơn vị: % Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tốc độ tăng GDP 5,96 8,65 8,07 8,84 9,54 9,34 8,15 5,83 4.99 6,7 Tốc độ lạm phát 67,5 17,5 5,2 14,4 12,7 4,5 3,6 9,2 0,1 - Để đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn. Nghị quyết Đại hội VIII đã đề ra cho giai đoạn 1996-2000 đòi hỏi một nguồn vốn 40-45 tỷ USD, bình quân mỗi năm phải đạt 8 tỷ USD để thúc đẩy CNH-HĐH nhằm từng bước tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, góp phần chống nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. 2. Nhu cầu về vốn trung hạn và dài hạn cho các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn. Về quy mô vốn: Qua điều tra gần đây với 273 DN thì có khoảng 50 % có số vốn chủ sở hữu trên 10 tỷ đồng và hầu hết là các DN Nhà nước. Về cơ cấu vốn: Đối với khối DNNN thì tỷ lệ vốn vay trên tổng vốn kinh doanh thường chiếm trên 70 %. Tỷ lệ vốn Nhà nước chiếm trên 30 % trong tổng số vốn. Còn các công ty cổ phần có tỷ trọng phần vốn tự có trong tổng số vốn kinh doanh cao hơn (60%). Tuy nhiên, họ cũng gặp khó khăn trong vấn đề vay Ngân hàng. Về tình hình huy động vốn của các DN: Mục đích huy động vốn chủ yếu vào bổ sung vốn lưu động và đổi mới công nghệ. Mà nguồn vay vốn chủ yếu lại từ vay vốn ngắn hạn Ngân hàng, và lượng vay lại không được đáp ứng đầy đủ. Do vậy, hiệu quả của đồng vốn vay phục vụ sản xuất kinh doanh của các DN bị hạn chế nhiều. Một xu hướng khá phổ biến là huy động vốn trong nội bộ DN thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Theo thống kê, trong năm 2000, nhu cầu vốn hoạt động kinh doanh của các DN cần khoảng 20 nghìn tỷ đồng Việt Nam, tính bình quân mỗi DN cần khoảng 84 tỷ đồng. Nếu tính đến 2005 con số này vào khoảng 30 nghìn tỷ đồng, trung bình mỗi DN cần khoảng 100 tỷ đồng. Tóm lại, nhu cầu về vốn trung hạn, dài hạn của các DN là rất lớn. Với những khó khăn về lãi suất cao, khó khăn về thủ tục và điều kiện vay vốn, nếu DN chỉ huy động vốn từ các NHTM như hiện nay thì chắc chắn không thể đáp ứng được nhu cầu về vốn hiện nay của các DN. Vậy cần thiết phải có một thị trường chứng khoán có tổ chức và được quản lý chặt chẽ để tạo kênh huy động vốn trung hạn, dài hạn rất lớn cho các DN, đặc biệt là những DN có nhu cầu về vốn lớn. Mặt khác, theo các tài liệu cho biết thì các nguồn vốn trong dân là không nhỏ, (trên 20 000 tỷ Đồng-TBKT 40/97). Số vốn này chủ yếu là để gửi tiết kiệm hoặc tích trữ còn để đầu tư là rất thấp. Vậy nếu có thị trường chứng khoán sẽ kích thích dân chúng có ý thức tiết kiệm, đầu tư sinh lợi từ những khoản này. 3. Thị trường chứng khoán là sự đòi hỏi khách quan của nền kinh tế nước ta. Thứ nhất, thị trường chứng khoán góp phần giải quyết bài toán về sự thiếu vốn trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Như trên, thị trường chứng khoán có thể đáp ứng được những nguồn vốn trung hạn, dài hạn rất lớn cho các DN. Việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán sẽ giúp Nhà nước ta có được một công cụ để phát huy nội lực đồng thời giúp nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Thứ hai, sự phát triển thị trường chứng khoán là tất yếu khách quan khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, vì cho phép các chủ thể kinh tế mở rộng quyền tự chủ tài chính với các hình thức huy động vốn da dạng. Như vậy, việc thiết lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam là hết sức cần thiết, nó có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội và đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi cho các luồng vốn ở trong và ngoài nước lưu chuyển thông suốt, góp phần tích cực vào việc đáp ứng nhu cầu về vốn nền kinh tế. II. Những thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán 1. Thuận lợi. Thứ nhất, nước ta có một hệ thống chính trị ổn định. Thu nhập của dân cư gần đây được cải thiện rõ rệt. Uy tín của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân ngày càng cao. Đây là tiền đề vững chắc mà mọi nền kinh tế đều cần đến thể hiện thông qua mối liên hệ biên chứng giữa chính trị và kinh tế. Thứ hai, nền kinh tế nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng, tăng trưởng cao và liên tục trong những năm gần đây. Đây là tiền đề quan trọng cho các DN làm ăn có hiệu quả và có đủ điều kiện tham gia niêm yết chứng khoán. Mức tăng trưởng cao sẽ góp phần tăng mức tiết kiệm, đầu tư trên cơ sở đó tăng mức cầu về chứng khoán trên thị trường. Thứ ba, Đảng và Chính phủ ta đã có tầm nhìn đúng đắn và quan tâm thoả đáng về thị trường chứng khoán. Như đưa ra chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, cải cách hệ thống tài chính, cải cách Ngân hàng, cải cách hệ thống các DNNN. Cụ thể ngày 28/11/1996 Uỷ ban chứng khoán Nhà nước được ra đời và đến ngày 20/7/2000 thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động. Thứ tư, đối với lĩnh vực tài chính Ngân hàng, trong những năm cải cách và đổi mới đã cho ra đời khá nhiều NHTM, các tổ chức Bảo hiểm và các định chế tài chính khác. Đây là các nhân tố và điều kiện quan trọng đối với sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng. Thứ năm, hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng được bổ sung và ngày càng hoàn thiện. Điều này đã tạo ra môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Các văn bản pháp luật quan trọng là: Nghị quyết số 75/CP ngày 28/11/1996 về việc thành lập Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Nghị định số: 48/1998 NĐ-CP ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán… Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng và căn bản đối với quá trình xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta. Thứ sáu, chế độ kế toán DN mới được sửa đổi và ban hành, áp dụng gần gũi hơn đối với các chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó hệ thống kiểm toán, kể cả kiểm toán Nhà nước, phi Nhà nước, kiểm toán nước ngoài đã được hình thành và phát triển. Đây cũng là những mắt xích, đầu mối quan trọngkhông thể thiếu được trong quá trình hình thành và phát triển chứng khoán và thị trường chứng khoán. Thứ bảy, hệ thống thông tin liên lạc, truyền thông ở nước ta đang trên đà phát triển mạnh. Chiến lược tăng tốc độ Bưu điện là điều kiện hỗ trợ quan trọng để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. Có thể nói, trình độ và năng lực của ngành tin học Việt Nam đã đủ khả năng tham gia vào tham gia vào việc xây dựng các ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33767.doc