Lời nói đầu
Đối với bất kỳ một tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nào thì vốn cũng là yêu cầu, mục tiêu hàng đầu cho sự tồn tại và phát triển. Riêng đối với lĩnh vực ngân hàng thì vốn lại càng đóng một vị trí quan trọng hơn vì nó vừa là phương tiện vừa là đối tượng kinh doanh của ngân hàng.
Theo một nguyên lý phát triển kinh tế nói chung, để có tăng trưởng kinh tế thì phải có vốn. Để góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế của nước ta năm 2004 là 7,7% và định hướng cho năm 2005 là 8,5% thì lại cà
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động huy động vốn & hoàn thiện Kế toán huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng cần phải có nguồn vốn lớn. Tuy thị trường tài chính, tiền tệ của nước ta đã phát triển hơn, nhiều tổ chức trung gian tài chính ra đời, mở rộng hoạt động nhưng nguồn vốn cho tăng trưởng vẫn chủ yếu là từ nguồn của hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, thị trường chứng khoán của nước ta chưa phát triển, điều này càng làm tăng áp lực cho việc cung ứng vốn tín dụng của toàn bộ hệ thống NHTM, đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của nguồn vốn hoạt động trong những năm qua các ngân hàng thương mại đã tập trung làm tốt công tác kế toán huy động vốn nên nguồn vốn của các hệ thống NHTM (trong đó có hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam) không ngừng tăng lên, nhờ đó các NHTM đã đẩy mạnh cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Tuy nhiên, theo nhận định của các nhà kinh tế thì vốn nằm trong dân cư và các tổ chức kinh tế còn nhiều. Trong khi các NHTM vẫn còn thiếu vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn. Hơn nữa, trong những năm gần đây, thị trường tài chính tiền tệ của nước ta tồn tại một thực trạng, đó là, tốc độ tăng trưởng vốn huy động luôn thấp hơn tăng trưởng dư nợ cho vay. Năm 2004 ước tính vốn huy động tăng khoảng 23%, nhưng dư nợ cho vay tăng lên 27%. Đặc biệt, là nguồn vốn huy động từ đồng nội tệ còn tăng chậm, mặc dù các NHTM có nhiều biện pháp đặt ra nhưng cũng không cải thiện được tình hình nhiều. Chính vì vậy, việc tăng cường huy động vốn và tổ chức tốt công tác kế toán huy động vốn đã được đặt ra đối với tất cả các ngân hàng thương mại, trong đó có chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.
Vì những lý do nêu trên nên trong quá trình thực tập tốt nghiệp tại NHNo&PTNT Láng Hạ với sự hướng dẫn của thầy giáo hướng dẫn; của các cô chú, anh chị trong chi nhánh em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động huy động vốn và hoàn thiện kế toán huy động vốn tại NHNo&PTNT Láng Hạ” làm đề tài khoá luận của mình.
Đối tượng và phạm vi của đề tài là những ngiệp vụ phát sinh và quy trình kế toán huy động vốn của của Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ (nơi em thực tập tốt nghiệp) trong ba năm gần đây năm 2002, năm 2003, năm 2004. Nó được thể hiện cụ thể ở nghiệp vụ nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá và tổ chức hạch toán những nghiệp vụ này…
Những đặc điểm của đối tượng, những mặt mạnh, mặt yếu của phạm vi đề tài sẽ được làm rõ bằng những phương pháp truyền thống như duy vật biện chứng, thống kê, tổng hợp phân tích,… Các phương pháp này được vận dụng đan xen với nhau kết hợp những vấn đề về lý luận và con số làm nổi bật lên tính cấp thiết của đề tài.
Kết cấu đề tài gồm có ba phần:
Chương 1: Tổng quan về nguồn vốn huy động và kế toán huy động vốn của ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn và kế toán huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn và hoàn thiện kế toán huy động vốn chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ
Do sự hạn chế về kiến thức và thời gian nên đề tài không tránh khỏi những sai sót, em mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn cũng như tất cả những ai quan tâm đến đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn.
Chương 1: Tổng quan về nguồn vồn huy động, kế toán nguồn vốn huy động của ngân hàng
1. Khái niệm, chức năng của ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Đến lượt mình sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Hình thức ngân hàng đầu tiên tồn tại trong lịch sử phát triển được gọi tên là ngân hàng thợ vàng.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng. Sự giao lưu thương mại, quốc tế đã thúc đẩy người làm nghề đổi tiền, đúc tiền thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại, từ đó thu được lợi nhuận từ chênh lệch mua bán. Bên cạnh đó, họ còn thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Nghiệp vụ này làm tăng khả năng đa dạng các loại tiền, quy mô tài sản, từ đó hình thành nên nghiệp vụ thanh toán hộ và cho vay.
Hình thức thứ hai tồn tại trong quá trình phát triển đó ngân hàng thương mại, nó được thành lập do nhiều nhà buôn góp vốn lại với nhau.
Ngân hàng thương mại với chức năng chính là tài trợ ngắn hạn, thanh toán hộ, gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp. Tức là các khoản tín dụng ngắn hạn của loại hình ngân hàng này dựa trên quá trình luân chuyển hàng hoá với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra từ việc sử dụng tiền vay.
Hình thức ngân hàng thứ ba tồn tại trong quá trình phát triển đó là ngân hàng tiền gửi. Loại hình này ra đời nhằm hạn chế sự phá sản của nhiều ngân hàng thương mại do gặp rủi ro trong hoạt động cho vay.
Đặc trưng của loại hình này là chỉ thực hiện giữ hộ, thanh toán hộ để lấy phí, không thực hiện nghiệp vụ cho vay. Tuỳ từng vùng mà có những tên gọi khác nhau, song giữa chúng có đặc điểm chung nhất là trung gian tài chính thực hiện kinh doanh tiền tệ.
Đến những năm cuối thế kỷ XX, cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế và khoa học công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh về mọi mặt, đa dạng cả về loại hình cũng như các nghiệp vụ trong từng ngân hàng.
Trên đây là sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của NHTM trên thế giới, từ những sự hình thành đó cũng làm nảy sinh nhiều khái niệm về NHTM, tuỳ theo từng thời kỳ, từng nơi nhất định. Đơn cử, đưa ra một khái niệm được xem là chính xác nhất khi định nghĩa về ngân hàng thương mại.
1.1.2. khái niệm
NHTM là một tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho vay cũng như cung cấp dịch vụ thanh toán.
1.2. Chức năng của NHTM
1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng
Như chúng ta đã biết trong nền kinh tế luôn luôn tồn tại hai đối tượng đối lập nhau, đó là các cá nhân, tổ chức tạm thời thâm hụt tài chính để phục vụ sản xuất, kinh doanh tiêu dùng và các cá nhân, tổ chức đang thặng dư tài chính sau quá trình sản xuất, kinh doanh. Một câu hỏi đặt ra là làm như thế nào để hai chủ thể trong nền kinh tế có thể tiếp xúc với nhau để giải quyết mâu thuẫn đó (do giữa họ có giới hạn vì sự không phù hợp về qui mô, thời gian, không gian…). Đây là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính, trong đó NHTM có vai trò chủ yếu.
Mặt khác, hoạt động chính của NHTM là đi vay để cho vay. Điều đó, chứng tỏ rằng một trong những chức năng quan trọng của NHTM là trung gian tín dụng. Tức là NHTM làm nhiệm vụ huy động những nguồn vốn dư thừa trong nền kinh tế và sau đó cho vay các chủ thể cần vốn trong nền kinh tế. Hay nói cách khác là NHTM đã chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
Qua chức năng trung gian tài chính của mình NHTM đã đem lại lợi ích cho cả ba chủ thể tham gia đó là: người gửi tiền, người vay tiền, và NHTM. Người gửi tiền sẽ nhận lợi tức và các tiện ích đi kèm như thanh toán, cất trữ. Người vay tiền sẽ thoã mãn được nhu cầu bổ sung nguồn vốn của mình cho kinh doanh và tiêu dùng. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả xã hội. Còn về phía ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất đi vay.
Nhìn chung sự tồn tại của NHTM cũng như chức năng trung gian tín dụng của nó đều được các lí thuyết hiện đại giải thích do sự không hoàn hảo của thị trường tài chính. Như vậy, với sự tồn tại của mình NHTM nói chung cũng như chức năng này nói riêng làm phong phú thêm hệ thống kênh dẫn vốn, điều chuyển vốn phục vụ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán
Nền kinh tế phát triển mạnh đồng nghĩa với hoạt động thanh toán ngày càng nhiều hơn. Song, hoạt động này của các chủ thể trong nền kinh tế gặp phải rất nhiều khó khăn do hạn chế về không gian, thời gian, về phương thức thanh toán … Nhận thức được điều đó các dịch vụ thanh toán của ngân hàng ra đời và phát triển, ngày càng được ưa chuộng vì nó đem lại sự thuận tiện, nhanh chóng, an toàn, tiết kiệm chi phí cho chủ thể trong nền kinh tế.
Thông qua việc mở tài khoản tiền gửi ở một ngân hàng nào đó, các NHTM có thể thực hiện thanh toán hộ chủ tài khoản thông qua việc trích tài khoản tiền gửi của người phải trả sang tài khoản tiền gửi của người được hưởng trên cở sở những phương tiện thanh toán khác nhau, với kỹ thuật ngày càng hiện đại và thủ tục thanh toán đơn giản.
Các phương tiện thanh toán của NHTM ngày càng đa dạng và phong phú như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ thanh toán...
Mặt khác, đối với chức năng này của NHTM sẽ thúc đẩy thêm doanh số hoạt động tín dụng. Bởi lẽ muốn thanh toán thông qua NHTM, khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi tại NHTM. Trên cơ sở đó giúp ngân hàng huy động số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng để cho vay, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Nhìn chung, thực hiện chức năng này đã giúp tiết kiệm cho nền kinh tế một lượng chi phí lớn phục vụ cho hoạt động thanh toán.
1.2.3. Chức năng tạo tiền (bút tệ)
Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng – ngân hàng phát hành tiền và ngân hàng trung gian thì NHTM không còn thực hiện chức năng phát hành tiền. Nhưng với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán thì các ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên số dư các tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền giao dịch. Từ tài khoản tiền gửi ban đầu thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng thương mại có khả năng tạo nên số tiền gửi gấp nhiều lần số tiền gửi ban đầu.
việc tạo bút tệ phải có những ràng buộc và giới hạn nhất định. Bởi vì bút tệ của người gửi tiền có tính chất chuyển đổi ra tiền mặt. Nếu những người gửi tiền bằng bút tệ đồng loạt yêu cầu rút tiền mặt sẽ dẫn đến tình trạng ngân hàng mất khả năng thanh toán. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi (công thức ở dưới). Hệ số này chịu sự tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dư thừa, tỷ lệ dự trữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán.
Hệ số mở rộng tiền gửi được tính theo công thức:
Hệ số mở rộng tiền gửi
=
1
rd + c +re
Trong đó,
rd
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
c
Tỷ lệ sử dụng tiền mặt của khách hàng trên tiền gửi thanh toán
re
Tỷ lệ dự trữ dư thừa trên tiền gửi thanh toán không vay hết
Khi đó, tiền gửi mở rộng được tính theo công thức
Tiền gửi mở rộng
=
Hệ số mở rộng tiền gửi
x
Tiền gửi ban đầu
Phân tích quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại chúng ta sẽ thấy những đặc trưng của chức năng này.
2. Nguồn vốn huy động của NHTM
2.1. Vốn, vai trò của vốn
2.1.1. Vốn là gì?
Như chúng ta đã biết, vốn là một trong những điều kiện tiên quyết hàng đầu cho sự hình thành, tồn tại cũng như phát triển của một tổ chức kinh tế. Từ yếu tố vốn người ta mới định hướng được quy mô hoạt động, chiến lược phát triển, tổ chức hoạt động kinh doanh cũng như quyết định năng lực cạnh tranh trên thị trường để từ đó thu được mức lợi nhuận tối đa.
Một tổ chức kinh tế có thể tạo lập nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau, tuỳ vào đặc điểm của từng loại hình cụ thể. Đơn cử như: doanh nghiệp Nhà nước thì nguồn vốn tạo lập chủ yếu do Nhà nước cấp; doanh nghiệp cổ phần, liên doanh, tư nhân thì nguồn vốn được tạo lập từ các cổ đông, từ các bên liên doanh liên kết hay từ các cá nhân riêng lẻ.
NHTM cũng là một tổ chức kinh tế, đặc biệt NHTM khác các tổ chức kinh tế khác đó là nguồn vốn của ngân hàng vừa là phương tiện vừa là đối tượng kinh doanh. NHTM có thể tạo lập nguồn vốn của mình từ nhiều nguồn khác nhau như: vốn huy động, vốn đi vay, vốn chủ sở hữu và vốn khác. Trong những nguồn vốn đó nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng cao nhất vì nó là nguồn vốn đem lại thuận lợi nhiều nhất trong hoạt động kinh doanh. NHTM nào càng có thế mạnh về vốn càng có cơ hội mở rộng thị phần, đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp và ngày càng có một vị trí quan trọng trên thị trường tài chính-tiền tệ.
Từ những vấn đề nêu trên ta có thể đưa ra một khái niệm về vốn như sau:
Vốn là giá trị tiền tệ mà tổ chức kinh tế (hoặc NHTM) tạo lập được đưa vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Qua đó ta cũng có thể nhận thấy, vốn đóng một vị trí vô cùng quan trọng đối với một tổ chức kinh tế. Xét riêng đối với lĩnh vực kinh doanh tiền tệ (ngân hàng) vốn lại càng đóng một vị trí quan trọng hơn.
2.1.2. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh danh của NHTM
Thứ nhất, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình
Bất kỳ một tổ chức kinh tế nào muốn tồn tại đều phải có vốn, và NHTM cũng không nằm ngoài qui luật đó. Mặt khác, từ những đặc trưng riêng của ngành nên vốn vừa là phương tiện kinh doanh vừa là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Vì thế vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của NHTM. Những ngân hàng nào càng trường vốn thì càng nhiều thế mạnh trong hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ hai, vốn quyết định qui mô tín dụng, khả năng sinh lời cũng như các hoạt động khác của ngân hàng
Đối với một ngân hàng có vốn lớn sẽ có danh mục đầu tư và cho vay đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cũng lớn hơn, còn có khả năng nhạy bén với những sự biến động về lãi suất… và tạo khả năng thu hút vốn đầu tư từ các tầng lớp dân cư và thành phần kinh tế tốt hơn. Từ đó, cũng thấy rằng ngân hàng có qui mô lớn thì có khả năng sinh lời cao hơn.
Thứ ba, nguồn vốn quyết định năng lực thanh toán, khả năng chống đỡ rủi ro thanh khoản, đảm bảo uy tín của NHTM trên thị trường
Uy tín đó phải được thể hiện trước hết ở khả năng thanh khoản cho khách hàng của ngân hàng. Mà khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng. với tiềm năng vốn lớn, NHTM có thể hoạt đông kinh doanh với qui mô ngày càng lớn, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả nhằm vừa giữ chữ tín vừa nâng cao vị thế trên thị trường.
Thứ tư, vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
NHTM với tiềm lực vốn lớn sẽ rất thuận lợi trong nghiệp vụ huy động vốn và cho vay. NHTM có thể giảm lãi suất cho vay và tăng lãi suất huy động, song với tiềm lực vốn lớn nên có thể huy động nguồn lớn và cho vay khối lượng lớn hơn nên cả chi phí cho vay và chi phí huy động đều giảm trên một đơn vị nguồn vốn huy động hay cho vay.
2.2. Nguồn vốn huy động của NHTM
Như đã nói ở trên vốn của NHTM được cấu thành bằng nhiều nguồn khác nhau như nguồn vốn huy động, nguồn vốn đi vay, vốn tự có và vốn khác. Nhưng trong những nguồn ấy thì nguồn vốn huy động là phương tiện kinh doanh chủ yếu của ngân hàng vì tính chất của hoạt động kinh doanh của ngân hàng là “đi vay để cho vay”. Hơn nữa, xuất phát từ những đặc điểm của nó là dễ tập trung, chi phí thấp, và là nguồn tạo cho ngân hàng thế chủ động hơn những nguồn khác. Chính vì thế nguồn vốn huy động là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các NHTM.
2.2.1. Khái niệm nguồn vốn huy động của NHTM
Nguồn vốn huy động là giá trị tiền tệ mà các NHTM huy động được trên thị trường thông qua nghiệp vụ tiền gửi, tiền vay và một số nguồn khác. Đây là bộ phận vốn quyết định khả năng hoạt động của ngân hàng.
2.2.2.Đặc điểm của nguồn vốn huy động
- Qui mô của nguồn huy động rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường chiếm từ 70%-80% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của NHTM.
- Là tài sản của các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu.
- Đây là nguồn phải dự trữ bắt buộc do vậy chi phí nguồn này thường cao hơn trả lãi cho tiền gửi. Ngoài ra, còn phải mua bảo hiểm cho tiền gửi.
- Nguồn vốn này thường nhạy cảm với những biến động của nền kinh tế như lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu và nhiều nhân tố khác.
- Đặc điểm chung nhất là sự thay đổi chúng, đặc biệt là nguồn huy động ngắn hạn sẽ làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng.
2.2.3. Phân loại nguồn vốn huy động của NHTM
2.2.3.1. Căn cứ theo hình thức huy động
Theo cách phân loại này, nguồn vốn huy động của NHTM được phân thành:
a.Tiền gửi thanh toán
- Khái niệm: Là khoản tiền gửi mà người gửi tiền vào NHTM với mục đích thanh toán. Chủ tài khoản có quyền phát hành séc hoặc chứng từ khác để chi trả cho bên thứ ba hoặc rút tiền ra bất cứ lúc nào để đáp ứng nhu cầu sử dụng, ngân hàng phải có trách nhiệm thoã mãn nhu cầu đó của khách hàng.
- Đặc điểm:
*Về phía khách hàng:
+ Khách hàng được hưởng lãi suất thấp thậm chí là lãi suất bằng không, nhưng bù lại họ lại được hưởng những dịch vụ miễn phí, đó cũng là một hình thức trả lãi gián tiếp.
+ Chủ sở hữu của những tài khoản nay thường là những doanh nghiệp nhằm phục vụ về nhu cầu chi trả thường xuyên và thuộc vốn lưu động của họ. Đối với cá nhân tuy có phát sinh nhưng thường chiếm tỷ trọng thấp trong tổng nguồn vốn không kỳ hạn trên báo cáo tài chính của ngân hàng nhất là trong điều kiện hệ thống thanh toán kém phát triển, người dân ưa dùng tiền mặt như tình hình thị trường tiền tệ của Việt Nam hiện nay.
*Về phía ngân hàng
+ Thông thường NHTM không phải trả lãi hoặc vẫn trả lãi với mức lãi suất thấp nhưng vẫn phải chịu một khoản chi phí huy động như: phí như nhân sự, thiết bị, duy trì dự trữ bắt buộc, cung cấp dịch vụ miễn phí, hay rủi ro thanh khoản.
+ Mặc dù càng ít lệ thuộc vào nguồn này nhưng đối với ngân hàng chúng vẫn được duy trì vì các nhu cầu giao dịch và nói chung so với những nguồn vốn khác chúng vẫn là nguồn vốn rẻ đối với ngân hàng. Và nó là cầu nối để phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.
b.Tiền gửi có kỳ hạn
- Khái niệm: là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ được lĩnh tiền khi đáo hạn.
- Đặc điểm:
*Về phía khách hàng
+ Người gửi tiền không vì mục đích thanh toán mà vì mục đích an toàn và hưởng lãi suất cao hơn lãi suất không kỳ hạn.
+ Người gửi tiền không được sử dụng những hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán chỉ được lĩnh tiền khi đến hạn. Một số trường hợp rút tiền trước hạn thì phải chịu mức lãi suất khác bằng không hoặc thấp hơn..
*Về phía ngân hàng
+ Đây là nguồn vốn ổn định trong kinh doanh, vững chắc nên ngân hàng áp dụng nhiều mức lãi suất khác nhau cho những kỳ hạn khác nhau.
c.Tiền gửi tiết kiệm
- Khái niệm: là loại tiền gửi của các tầng lớp dân cư trong xã hội với mục đích tích luỹ và hưởng lãi.
Loại hình này được chia làm hai loại đó là:
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là loại tiền gửi mà mà người gửi tiền chỉ có thể rút ra khi đáo hạn.
Mục đích của loại tiền gửi này là nhằm mục đích mua sắm, xây dựng nhà ở trong tương lai, nó có mức lãi suất tiết kiệm cao hơn các loại khác.
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào trong giờ giao dịch của ngân hàng. Tuy là loại tiền gửi không kỳ hạn song nó không được hưởng những tiện ích thanh toán như loại hình tiền gửi thanh toán.
*Về phía ngân hàng: đây là nguồn vốn khá ổn định cho phép ngân hàng chủ động trong việc đầu tư chúng vào các kế hoạch sinh lời.Tuy nhiên, ngoài những chi phí như tiền gửi không kỳ hạn, nó lại còn phải trả mức lãi suất cao hơn nên chi phí thu hút nguồn này là cao hơn đối với nguồn tiền gửi thanh toán trên.
d.Phát hành giấy tờ có giá
- Khái niệm:
GTCG là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn trong đó xác định nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các khoản khác cam kết giữa người bán và người mua.
(Theo quyết định 1287/2002/QĐ-NHNN của thống đốc NHNN ban hành)
- Phân loại:
+ GTCG ngắn hạn: là GTCG có thời hạn <12 tháng.
Bao gồm: kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu và các giấy tờ có giá khác.
+ GTCG dài hạn: là GTCG có thời hạn > hoặc bằng 12 tháng.
Bao gồm: trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi(CDs), các GTCG dài hạn khác.
+ GTCG ghi danh: là GTCG phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có tên người sở hữu. TCTD phát hành GTCG ghi danh phải mở sổ đăng ký quyền sở hữu và tiến hành đăng ký lại khi khách hàng có yêu cầu chuyển nhượng quyền sở hữu.
+ GTCG vô danh: là GTCG theo hình thức chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. GTCG vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ GTCG .
Thời gian phát hành thường nhỏ hơn 60 ngày.
ở Việt Nam chỉ một số NHTM nhà nước tổ chức nhiều đợt phát hành CDs để huy động vốn ngắn hạn, trái phiếu kỳ phiếu để huy động vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên hình thức này chưa thường xuyên và các NHTM cổ phần chưa có “sân chơi bình đẳng” trong lĩnh vực phát hành các công cụ huy động vốn trung dài hạn.
2.2.3.2. Căn cứ theo tính chất kỳ hạn
Theo cách phân loại này nguồn vốn huy động của NHTM được phân loại thành
a. Nguồn vốn huy động không kỳ hạn
- Là nguồn vốn huy động của ngân hàng từ cá nhân, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp với đặc điểm là người gửi tiền có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào trong phạm vi tài khoản.
- Mặt khác là nguồn huy động không kỳ hạn nên nó có mức lãi suất rất thấp.
- Có các loại nguồn huy động không kỳ hạn như: Tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và một số loại tiền gửi không kỳ hạn khác.
b. Nguồn vốn huy động có kỳ hạn
- Là nguồn vốn huy động được của ngân hàng từ các nguồn cá nhân, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp mà trong đó người gửi tiền chỉ được lĩnh tiền khi đáo hạn.
- Đặc điểm của loại hình này là tạo nguồn vốn ổn định cho NHTM nên được trả lãi suất cao hơn.
- Có các loại nguồn vốn huy động có kỳ hạn như: Tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, giấy tờ có giá phát hành.
2.2.3.3. Căn cứ vào thành phần gửi tiền
a. Nguồn vốn từ tổ chức kinh tế
- Là số tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình thực hiện sản xuất kinh doanh và nó được gửi tại ngân hàng. Đây là lượng tiền tạm thời được giải phóng khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng hoặc sử dụng cho những mục tiêu định sẵn vào một thời điểm nhất định.
- Có các loại tiền gửi thuộc loại này như sau: Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn.
Tuỳ những loại tiền gửi khác nhau, với những đặc điểm khác nhau mà ngân hàng sẽ áp dụng một mức lãi suất theo nguyên tắc kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao và ngược lại.
b. Nguồn vốn từ dân cư
Là bộ phận thu nhập bằng tiền của dân cư gửi tại ngân hàng.
Nguồn này bao gồm: Tiền gửi tiết kiệm, tài khoản tiền gửi cá nhân, giấy tờ có giá phát hành.
2.2.4. Các yếu tố liên quan đến nguồn vốn huy động của NHTM
2.2.4.1. Những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn
Khi nói đến những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tạo vốn của một tổ chức kinh tế thì có thể chia làm hai nhóm, đó là nhân tố: chủ quan và nhân tố khách quan. Vì thế, những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại cũng không nằm ngoài qui luật đó.
Những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động của NHTM đó là chính trị, pháp luật, môi trường kinh tế, xã hội và công nghệ.
Khi một nền kinh tế với các yếu tố như lạm phát, thất nghiệp, … cũng như các yếu tố xã hội: dân số, kết cấu, giới tính, tập quán… ổn định, thuận lợi cho phát triển thì rõ ràng hoạt động huy động vốn trong nền kinh tế đó của NHTM là hết sức thuận lợi. Bên cạnh đó, khi khoa học công nghệ phát triển, NTHM sẽ tăng được diện tiếp xúc với khách hàng nên tạo được sự thuận lợi hơn trong quá trình tạo vốn như có thể huy động vốn qua các kênh: POS, ATM, INTERNET, AUTOBANK…
Tuy nhiên với sự ảnh hưởng của các nhân tố khách quan, NHTM khó có thể điều chỉnh theo định hướng của mình vì nó chịu điều khiển trực tiếp của qui luật thị trường hay NHNN.
Những nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM đó là trình độ của ban lãnh đạo, đội ngũ nhân viên, hệ thống mạng lưới, uy tín, qui mô, danh mục sản phẩm cũng như hoạt động tín dụng, kết quả kinh doanh của ngân hàng.
Những nhân tố chủ quan là những nhân tố mà bản thân ngân hàng có thể điều chỉnh theo từng môi trường để sao cho hoạt động huy động vốn đạt hiệu quả cao nhất. NHTM nào tổ chức tốt được những nhân tố trên kết hợp cùng với những nhân tố chủ quan thì hiệu quả huy động vốn sẽ đạt kết quả cao.
2.2.4.2. Chi phí huy động vốn
Khi xét đến chi phí huy động vốn, nó thường được thể hiện ở hai khoản chi phí đó là chi phí lãi suất và chi phí phi lãi suất. Câu hỏi đặt ra là tại sao một ngân hàng lại phải quan tâm đến việc xác định chi phí huy động vốn?
Thứ nhất, một ngân hàng bao giờ cũng cố gắng kiếm tìm cho mình một tổ hợp các nguồn vốn khác nhau trên thị trường với mức chi phí là thấp nhất.
Thứ hai, là việc tính toán chính xác một cách tương đối chi phí huy động vốn được coi là yếu tố cơ bản để xác định mức lợi nhuận mà ngân hàng cần thu được từ những tài sản có sinh lời của mình.
Thứ ba, loại hình nguồn vốn mà ngân hàng huy động được cũng như việc sử dụng những nguồn này ảnh hưởng đáng kể đến rủi ro thanh khoản, lãi suất, rủi ro vốn.
Vậy những công tác quản lý nguồn vốn huy động khi nào được đánh giá là tốt? Khi mà chi phí vốn huy động đạt được những lợi ích cơ bản sau:
Thứ nhất, tìm được nguồn vốn có chi phí nhỏ nhất để đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư, trong khi vẫn thoã mãn các yêu cầu tương ứng giữa huy động và sử dụng vốn về các phương diện qui mô, thời hạn, tính ổn định.
Thứ hai, tăng được lợi nhuận cho ngân hàng mà không nhất thiết phải chấp nhận những rủi ro do áp lực tăng vốn mang lại.
Khoản chi phí trả lãi phụ thuộc chủ yếu vào hình thức, cơ cấu và lãi suất thị trường của từng loại nguồn. Chính vì thế, nó do cơ quan quản lý tiền tệ quyết định hoặc được thả nổi trên thị trường cho nên một ngân hàng riêng lẻ không thể chủ động kiểm soát.
Khoản chi phí huy động dưới dạng chi phí phi lãi suất đó là những khoản chi phí dưới dạng tiền lương cho nhân viên, tài sản cố định, chi phí ẩn do dự trữ bắt buộc, dự trữ cần thiết… những yếu tố này một ngân hàng riêng lẻ có thể tự mình điều tiết được tuỳ theo chính sách của từng ngân hàng khác nhau.
2.2.4.3. Rủi ro trong huy động vốn
a. Rủi ro thanh khoản
- Rủi ro thanh khoản là rủi ro do xuất hiện khi khách hàng gửi rút tiền vựơt mức dự trữ thanh khoản của ngân hàng hoặc ngân hàng không thu hút đủ số vốn cần thiết với chi phí chấp nhận được để tài trợ cho các nhu cầu sử dụng vốn đã có của mình.
Lý thuyết và thực tiễn đã cho thấy rằng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng, ngân hàng vẫn chủ yếu dựa vào các tài sản Có có tính thanh khoản cao còn tiền gửi chỉ đóng vai trò là nguồn vốn, hơn nữa các các khoản tiền gửi không kỳ hạn còn chính là nguồn gây áp lực chính trong thanh khoản của ngân hàng.
Khi mà khách hàng quản lý những khoản giao dịch của mình tốt hơn thì rủi ro thanh khoản sẽ giảm thấp. Tuy nhiên, khi đó áp lực không hẳn bị triệt tiêu hoàn toàn mà nó chuyển biến sang một hướng khác tức là khi đó lãi suất huy động vốn sẽ mang tính cạnh tranh cao hơn. Và nếu như ngân hàng không tạo đủ thu nhập để bù thì rủi ro thanh khoản vẫn sẽ xảy ra. Mặt khác, nếu như chính sách khách hàng mà không chú ý tới nhóm khách hàng khác thì cũng hoàn toàn có thể dần tới rủi ro thanh khoản.
b. Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là rủi ro xảy ra khi không có sự tương quan giữa độ nhạy cảm lãi suất của việc sử dụng vốn đối với độ nhạy cảm lãi suất của chính các nguồn vốn huy động để tài trợ cho kế hoạch sử dụng nguồn vốn này.
Như vậy, vấn đề đặt ra là một ngân hàng có thể gặp rủi ro lãi suất nếu không kiểm soát được độ nhạy cảm giữa các tài sản Có và Nợ theo thời gian.
Mặt khác, các loại tài sản Nợ khác nhau thì được sử dụng nhằm đầu tư vào việc nắm giữ những tài sản có khác nhau và tương ứng độ nhạy cảm lãi suất của chúng là khác nhau. Vì thế, muốn hạn chế rủi ro lãi suất ngân hàng tăng khả năng kiểm soát độ nhạy cảm lãi suất của tài sản Có - tài sản Nợ và kiểm soát khe hở nhạy lãi suất.
c. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng liên quan đến tài sản Nợ là rủi ro mà khách hàng chịu tức là ngân hàng không trả tiền cho người gửi tiền hay các chủ nợ khác của ngân hàng.
Tuy nhiên, ngân hàng vẫn phải chịu những tác động gián tiếp khác tức là có trường hợp ngân hàng chịu những chi phí nguồn vốn huy động cao mà mức chênh lệch lãi suất và mức lợi nhuận vẫn như trước thì dường như ngân hàng cũng phải chấp nhận một mức rủi ro tín dụng cao hơn khi cấp tín dụng. Khi đó do chi phí cao làm khách hàng ít tin tưởng vào khả năng trả nợ của ngân hàng và điều đó buộc ngân hàng vào tình trạng phải nâng cao chi phí để có thể huy động được vốn.
d. Rủi ro vốn tự có
Vốn tự có của ngân hàng chính là vốn được đóng góp từ chủ sở hữu ngân hàng. Nguồn vốn này đắt hơn nhiều so với nguồn tiền gửi và tiền vay bởi vì chủ đầu tư ngày càng không chắc chắn về hệ số lãi trên phần vốn góp và bởi vì thu nhập loại này không phải là một khoản chi phí được miễn thuế. Một giải pháp đề ra đó là hạ chi phí nguồn vốn bằng cách tăng mức vay nợ. Tuy nhiên, đó cũng ảnh hưởng trực tiếp lên rủi ro vốn tự có, làm cho rủi ro này tăng lên.
Rủi ro vốn tự có tăng lên ảnh hưởng trực tiếp lên rủi ro huy động vốn, biểu hiện cụ thể là chi phí huy động vốn tăng lên do nền kinh tế giảm “lòng tin” vào ngân hàng đang gặp rủi ro về vốn tự có.
2.2.4.4. Dự trữ trên nguồn vốn huy động
- Dự trữ bắt buộc là khoản tiền NHTM phải duy trì ở tài khoản tiền gửi tại NHTƯ để đảm bảo cho khả thanh khoản của mình .
Quỹ dự trữ bắt buộc = vốn huy động ngắn hạn x tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Ví dụ như theo quyết định 831/2003/QĐ-NHNN Việt Nam đã qui định:
+ Tiền gửi có thời hạn < 12 tháng: đối với NHTM nhà nước (trừ NHNo&PTNT), cổ phần đô thị, liên doanh, công ty tài chính thì tỷ lệ là 2%; NHNNo&PTNH là 1,5%; NHTM cổ phần nông thôn, hợp tác là 1% đối với nội tệ. Đối với ngoại tệ thì tất cả là 4% trên tổng nguồn huy động.
- Dự trữ đảm bảo là quỹ mà ngân hàng phải dự trữ trên toàn bộ nguồn vốn huy động.
Quỹ dự trữ bảo đảm = Nguồn vốn huy động x Tỷ lệ dự trữ bảo đảm
2.2.4.5. Kiểm soát chi phí và rủi ro huy động vốn
a. Kiểm soát chi phí huy động vốn
việc kiểm soát nhằm hạ thấp chi phí đến mức tôí thiểu luôn là một vấn đề khó khăn đối với những nhà quản trị. Bởi vì, nó lệ thuộc vào quá nhiều biến số mà có nhiều biến số thì không thể kiểm soát được. Thông thường, để kiểm soát chi phí, các ngân hàng chỉ có thể kiểm soát được các yếu tố thuộc về chủ quan, các yếu tố thuộc về khách quan thì hạn chế hoặc không kiểm soát được.
Tuy nhiên, thì dù như thế nào thì các nhà quản trị vẫn phải kiểm ._.soát chi phí bằng cách đưa ra các phép đo lường chi phí vốn vay hay đo lường các chỉ tiêu chi phí. Những phép đo này cho nhà quản trị đánh giá về chi phí vốn, quyết định nên huy động nguồn nào, định giá tài sản Có sao cho có thể bù đắp được chi phí, đảm bảo vẫn có lợi nhuận trong khi không vượt quá ngưỡng mà thị trường có thể chấp nhận.
Phương pháp chi phí vốn bình quân gia quyền thực tế
(công thức một)
i0
=
S Lj *ij
S Lj
Trong đó, biến j (1; n).
Lj là doanh số hay số dư bình quân của loại vốn thứ j
io chi phí huy động vốn bình quân gia quyền thực tế
ij chi phí trả lãi của nguồn vốn thứ j và cũng là lãi súât bình quân của loại vốn thứ j
- ưu điểm của phương pháp này:
+ Cung cấp dữ liệu cho phép đánh giá tình hình hoạt động huy động vốn qua một thời kỳ.
- Nhược điểm:
+ Chưa phản ánh được toàn bộ các tác động chuyển hoá nguồn vốn vào các mục đích sinh lời.
+ Chưa phản ánh được tác động của yếu tố chi phí phi trả lãi liên quan tới hoạt động này.
+ Chưa tính chi phí để tạo dựng vốn tự có.
+ Khi có những biến động lớn về lãi suất, thì không thể sử dụng kết quả tính toán, để định giá tài sản Có.
Để hạn chế những hạn chế trên, người ta đưa ra một công thức tính khác trong phương pháp tính này như sau: (công thức hai)
i0
=
S Lj *ij - NIC + Ce
S Ak
Trong đó các biến vẫn giống công thức một, ngoài ra:
Ak tài sản Có sinh lời thứ k
NIC là chi phí phi lãi suất ròng, tính bằng hệ số giữa tổng thu nhập phi lãi và chi phí trả lãi.
Ce chi phí vốn sở hữu
Phương pháp huy động vốn bình quân gia quyền dự kiến
Trong phương pháp này cũng áp dụng công thức tính giống như công thức hai, nhưng các chỉ tiêu được tính ở dự kiến chứ không phải thực tế. Tính theo phương pháp này sẽ cho nhà quản trị biết giá vốn bình quân dự kiến tính trên mỗi đồng tài sản Có dự kiến của ngân hàng. Nếu muốn có lợi nhuận thì ngân hàng phải bù đắp khoản chi phí này từ nguồn thu nhập của những tài sản Có. Những phương án về tài sản Nợ, tài sản Có sẽ được điều chỉnh để ngân hàng đảm bảo các mục tiêu về lợi nhuận.
b. Kiểm soát rủi ro
Để hạn chế một số rủi ro như đã trình bày ở phần trên, có một số giải pháp mang tính định hướng mà các nhà nghiên cứu đưa ra như sau
- Làm tăng tính ổn định của nguồn vốn
Việc làm tăng tính ổn định của nguồn vốn chỉ có thể thực hiện được nhờ sự mở rộng thời hạn của các công cụ huy động vốn; mở rộng tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn hay tăng tỷ trọng vốn vay bằng việc phát hành trái phiếu…
Tất cả những “hoạt động” trên của ngân hàng đều dẫn đến tăng chi phí vốn do các nguồn vốn này đắt tương đối so với nguồn tiền gưỉ không kỳ hạn hay các nguồn tiền gửi ngắn hạn khác. Mặt khác, đây là nguồn huy động mà đòi hỏi mỗi ngân hàng cần phải có uy tín, vị thế trên thị trường tài chính tiền tệ ở một mức nhất định chứ không phải ngân hàng nào cũng làm được.
Đây cũng là một trong những biện pháp làm tăng tính ổn định của nguồn vốn, nhằm có được vốn và giảm rủi ro thanh khoản. Ngoài ra, nhằm mục đích này các ngân hàng cũng có thể tăng cường vay vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ để giải quyết khó khăn về thanh khoản cũng như đáp ứng nhu cầu đầu tư và cho vay trên thị trường. Tuy nhiên, các nguồn này thường có chi phí tính trên mỗi đồng vốn huy động khá cao so với các nguồn vốn tiền gửi thông thường.
- Bảo hiểm tiền gửi
Là những khoản bảo hiểm được thiết lập đối với các khoản tiền gửi của khách hàng gửi tại ngân hàng.
Trong đó, ngân hàng đóng phí bảo hiểm tiền gửi cho các tổ chức bảo hiểm và khi có rủi ro về thanh toán của ngân hàng thì người gửi tiền sẽ được tổ chức bảo hiểm thanh toán thay ngân hàng. Việc tham gia của các ngân hàng vào hoạt động này thường mang tính chất bắt buộc hoặc tự nguyện hoặc theo sự phối hợp giữa hai cơ chế đó.
*Ưu điểm:
+ Giảm mối lo sợ của người tiền về khả năng thanh khoản của ngân hàng
+ Các áp lực về rủi ro rút tiền hàng loạt hay sức ép tâm lý làm tăng giá huy động vốn cũng giảm
+ Bản thân ngân hàng cũng có nhiều khả năng hơn trong việc chống đỡ rủi ro nhờ có sực chia sẻ của các công ty bảo hiểm tiền gửi.
+ Ngân hàng có thể giảm tỷ lệ các khoản dự trữ không sinh lời và mở rộng tài sản sinh lời để cải thiện thu nhập và lợi nhuận
*Nhược điểm:
+ Giá tiền gửi trở nên đắt hơn do ngân hàng phải chịu thêm khoản phí bảo hiểm
+ Do sự hạn chế của phí bảo hiểm thu được, sự hạn chế của quỹ thanh toán bảo hiểm nên số tiền gửi được bảo hiểm thường bị hạn chế và do đó làm hạn chế tác dụng của bảo hiểm.
- Kiểm soát rủi ro lãi suất
Để kiểm soát rủi ro lãi suất người ta sử dụng phương pháp phân tích khe hở rủi ro lãi suất
Theo công thức này, mức thay đổi lợi nhuận do lãi suất thay đổi có thể dự tính theo công thức sau:
ờP = ( SAl - SLl ).ời
Trong đó,
SAl là tổng tài sản có nhạy cảm với lãi suất
ờP là mức thay đổi lợi nhuận khi lãi suất thị trường thay đổi
SLl là tổng tài sản Nợ nhạy cảm với lãi suất
ời mức thay đổi lãi suất
Hiệu số ( SAl - SLl ) gọi là khoảng cách hay khe hở nhạy cảm lãi. Phép phân tích này gọi là phép phân tích cơ bản.
Sau khi dự tính được mức rủi ro lãi suất đi liền với dự đoán lãi suất tăng lên hay giảm xuống, nhà quản lý phải tiến hành các biện pháp khác nhau để loại trừ những hạn chế và rủi ro lãi suất.
Các biện pháp thường áp dụng như:
+ Điều chỉnh cơ cấu bảng tổng kết tài sản
+ Đổi chéo lãi suất
+ Tự bảo vệ bằng cách sử dụng các công cụ trên thị trường tài chính kỳ hạn hoặc các công cụ lựa chọn.
Đây là những kỹ thuật khá phức tạp và bản thân chúng cũng bao hàm nhiều rủi ro.
3. Khái quát nghiệp vụ kế toán huy động vốn
3.1. Khái niệm và những yêu cầu đối với kế toán huy động vốn
3.1.1. Khái niệm
Kế toán huy động vốn là công việc ghi chép, phản ánh một cách chính xác, đầy đủ kịp thời công tác huy động vốn từ khi nhận tiền gửi của khách hàng đến khi hoàn thành việc chi trả gốc, lãi cho khách hàng.
3.1.2. Yêu cầu đối với kế toán huy động vốn
Nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động của NHTM, nó quyết định việc mở rộng hay thu hẹp hoạt động của NHTM. Mặt khác, đây là bộ phận tài sản rất lớn của xã hội bảo quản tại ngân hàng mà trách nhiệm của kế toán NHTM phải quản lý, do vậy kế toán nghiệp vụ huy động vốn của NHTM phải đảm bảo các yêu cầu như sau:
Thứ nhất, chính xác và thận trọng: trong quá trình ghi chép,phản ánh các khoản phát sinh về nghiệp vụ huy động vốn vào các tài khoản thích hợp và sổ sách kế toán phải đảm bảo độ chính xác cao nhằm đảm bảo an toàn tài sản. Khi hạch toán chi tiền nhất là chi trả trước hạn của loại tiền gửi có kỳ hạn, việc hạch toán lãi dự trả phải thận trọng để tránh có những sai sót có thể xảy ra.
Thứ hai, đầy đủ và kịp thời: các nghiệp vụ phát sinh về thu chi tiền và tính, trả lãi phải được hạch toán một cách đầy đủ, kịp thời ngay khi nghiệp vụ phát sinh.
Thứ ba, cập nhật thông tin: để phục vụ chỉ đạo hoạt động huy động vốn cũng như các mặt hoạt động khác có liên quan trong mỗi đơn vị ngân hàng cũng như toàn hệ thống ngân hàng.
3.2. Chứng từ sử dụng và tài khoản
3.2.1. Chứng từ sử dụng
Bao gồm các nhóm chứng từ sau:
- Chứng từ tiền mặt: gồm giấy nộp tiền, giấy lĩnh tiền mặt, séc lĩnh tiền mặt
- Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt: gồm séc chuyển khoản, séc bảo chi, uỷ nhiệm chi, ...
- Các loại kỳ phiếu, trái phiếu, CDs …
- Các loại sổ tiết kiệm…
Yêu cầu về các loại chứng từ phải đảm bảo tính pháp lý cao, không sử dụng lẫn lộn các loại chứng từ do chúng liên quan đến việc lĩnh, nộp tiền từ tài khoản của khách hàng.
Mặt khác, một số loại chứng từ còn được bảo quản theo những chế độ bảo quản chứng từ có giá như các loại séc, các loại thẻ, phiếu thanh khoản, các loại kỳ phiếu, trái phiếu, sổ tiết kiệm…
3.2.2. Tài khoản sử dụng
Theo quyết định 479/2004/QĐ-NHNN, ngày 29/4/2004 của thống đốc NHNN về việc ban hành hệ thống tài khoản của TCTD, tài khoản sử dụng trong nghiệp vụ huy động vốn được bố trí ở loại 4 “các khoản phải trả” thể hiện cụ thể ở những tài khoản sau:
- TK 42: Tiền gửi của khách hàng.
+ TK 421, TK 422: Tiền gửi của khách hàng trong nước bằng VND, ngoại tệ.
+ TK 423, TK 424: Tiền gửi tiết kiệm bằng VND, ngoại tệ.
+ TK 425, TK 426: Tiền gửi của khách hàng nước ngoài bằng VND, ngoại tệ.
Nội dung kết cấu của các tài khoản này như sau:
Bên Nợ: Số tiền khách hàng rút, lĩnh ra.
Bên Có: số tiền khách hàng gửi vào.
Sốdư có: số tiền mà khách hàng còn gửi ở NHTM
- TK 43: phát hành giấy tờ có giá.
+ TK 431: phát hành giấy tờ có giá bằng VND.
+ TK 432: chiết khấu giấy tờ có giá bằng VND.
+ TK 433: phụ trội giấy tờ có giá bằng VND
+ TK 434: phát hành giấy tờ có giá bằng ngoại tệ và vàng.
+ TK 435: chiết khấu giấy tờ có giá bằng ngoại tệ và vàng.
+ TK 436: phụ trội giấy tờ có giá bằng ngoại tệ và vàng.
Nội dung tài khoản 431, tài khoản 434
Bên Nợ: mệnh giá giấy tờ có giá đến hạn và được thanh toán
Bên Có: mệnh giá giấy tờ có giá được phát hành
Số dư có: giá trị của giấy tờ có giá đã phát hành chưa đến hạn thanh toán theo mệnh giá.
Nội dung tài khoản 432, 435.
Bên Nợ: số chiết khấu GTCG phát hành
Bên Có: phân bổ chiết khấu giấy tờ có giá trongkỳ.
Số dư nợ: số chiết khấu giấy tờ có giá phát hành chưa phân bổ hết
Nội dung tài khoản 433, tài khoản 436
Bên Nợ: số phụ trội được phân bổ trong kỳ.
Bên Có: số phụ trội khi phát hành giấy tờ có giá.
Số dư có: số phụ trội về phát hành giấy tờ có giá chưa phân bổ hết
- TK 49: lãi phải trả.
Nội dung TK 49.
Bên Nợ : chi trả lãi cho tiền gửi.
Bên Có: lãi phải trả được dồn tích phát sinh trong kỳ.
Số dư có: lãi phải trả dồn tích phát sinh trong kỳ chưa trả cho khách hàng.
- TK 388: lãi trả trước chờ phân bổ.
Nội dung TK 388.
Bên Nợ: lãi trả trước cho khách hàng.
Bên Có: lãi trả trước được phân bổ trong kỳ.
Số dư Nợ: số lãi trả trước chưa được phân bổ cuối kỳ.
- TK 80: chi phí hoạt động huy động vốn
3.2.3. Qui trình kế toán nghiệp vụ huy động vốn
3.2.3.1. Kế toán tiền gửi
a. Thủ tục mở tài khoản
Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng phải có những giấy tờ đảm bảo tính pháp lý của tài khoản. Những giấy tờ đó như sau: giấy xin mở tài khoản, quyết định thành lập đơn vị, quyết định bổ nhiệm thủ trưởng, kế toán trưởng, mẫu dấu của đơn vị, mẫu và chữ ký của chủ tài khoản và người được uỷ quyền.
Đối với tài khoản đứng tên cá nhân thì chỉ cần giấy xin mở tài khoản, chứng minh thư. không thực hiện việc uỷ quyền người ký thay chủ tài khoản. Tất cả các giấy tờ giao dịch đều phải có chữ ký của chủ tài khoản.
b. Kế toán nhận tiền gửi
Có hai cách nộp tiền vào tài khoản tiền gửi: nộp tiền bằng tiền mặt và chuyển khoản.
- Đối với nộp bằng tiền mặt
căn cứ vào chứng từ thu tiền mặt, sau khi thu đủ tiền kế toán tiến hàng hạch toán
Nợ: TK tiền mặt
Có: TK tiền gửi thích hợp của người nộp tiền.
- Đối với nhận tiền gửi bằng chuyển khoản
Căn cứ vào các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt như bảng kê nộp séc, séc chuyển khoản, séc bảo chi, UNC… Sau khi kiểm tra tính hợp lệ của những chứng từ này, kế toán tiến hành hạch toán
Nợ: TK tiền gửi của người chi trả, hoặc tài khoản thanh toán vốn
Có: TK tiền gửi thích hợp của người nộp tiền.
c. Kế toán chi trả tiền gửi thanh toán
Khi nghiệp vụ chi trả tiền gửi phát sinh có hai cách để chi trả tiền gửi cho khách hàng
- Chi trả bằng tiền mặt
Căn cứ vào tính hợp lệ, hợp pháp của séc phát hành, số dư tài khoản, hạn mức thấu chi đối với tài khoản tiền gửi thanh toán.
Căn cứ vào giấy lĩnh tiền mặt của tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm
Nếu các điều kiện thoả đáng kế toán ghi sổ số tiền khách hàng rút ra.
Nợ: TK tiền gửi thích hợp.
Có: TK tiền mặt
- Chi trả bằng chuyển khoản
Căn cứ vào tính hợp lệ của các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt như trên mà chủ tài khoản phát hành để trả cho người bán đối với tài khoản tiền gửi thanh toán.
Căn cứ vào giấy chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi có kỳ hạn sang tài khoản tiền gửi không kỳ hạn.
Khi các giấy tờ đảm bảo tình hợp lệ, kế toán tiến hành hạch toán
Nợ: TK tiền gửi thích hợp.
Có: TK tiền gửi không kỳ hạn
Nếu khách hàng gửi tiền vào bằng ngoại tệ nhưng rút ra bằng VND khi hạch toán cần lưu ý tới tỷ giá hối đoái hiện hành.
c. Kế toán chi trả lãi
- Các phương pháp tính lãi của các loại tiền gửi như sau
* Phương pháp tích số
Số tiền lãi trong tháng
=
Tổng tích số tính lãi trong tháng
x
Lãi suất tháng
30 ngày
Trong đó tổng tích số tính lãi trong tháng = S (số dư có TK thanh toán x số ngày dư có thực tế trong tháng).
Đây là phương pháp tính lãi đối với tiền gửi không kỳ hạn.
*Phương pháp lãi suất đơn
Lãi cuối mỗi kỳ = Tiền gốc ´ Lãi suất
Tổng tiền lãi khi đáo hạn được tính theo công thức
Tổng số lãi = Tiền gốc ´ Lãi suất ´ Số kỳ
áp dụng công thức tính lãi này cho tiền gửi có kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn. Tiền lãi tính được hàng tháng sẽ được hạch toán vào tài khoản tiền lãi cộng dồn dự trả hoặc trả trực tiếp hàng tháng cho khách hàng.
*Phương pháp tính lãi suất kép
Tổng tiền lãi = Tiền gốc x ( 1 + i )n - Tiền gốc
Trong đó, i là lãi suất khoản tiền gửi
n là số kỳ trả lãi
Phương pháp này áp dụng cho tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
* Lưu ý đối với nghiệp vụ chi trả lãi cho GTCG phát hành thì cũng tiến hành tính lãi suất đơn, sau đó đưa vào tài khoản cộng dồn dự trả, hoặc trả định kỳ cho khách hàng (đối với trường hợp trả lãi sau); còn sẽ đưa vào tài khoản chi phí trả trước tổng số lãi (đối với trường hợp trả lãi trước).
- Kế toán trả lãi TK tiền gửi.
+ Đối với tiền gửi thanh toán: hàng tháng vào ngày cuối tháng, kế toán tính và trả lãi các tài khoản tiền gửi thanh toán. Số lãi này được nhập vào tài khoản của chủ tài khoản của chủ tài khoản.
Phương pháp tính lãi như trên
Bút toán phản ánh
Nợ: TK chi phí trả lãi .
Có: TK tiền gửi thanh toán của khách hàng
+ Đối với tiền gửi có kỳ hạn
hàng tháng tiến hành tính và hạch toán lãi vào tài khoản cộng dồn
Tính lãi theo phương pháp nêu trên
Bút toán phản ánh
Nợ: TK chi phí trả lãi .
Có: TK tiền lãi cộng dồn dự trả
Khi khách hàng đến lĩnh lãi
Nợ: TK tiền lãi cộng dồn dự trả
Có: TK thích hợp
+ Đối với tài khoản tiết kiệm
. Đối với tiết kiệm không kỳ hạn
Hàng tháng tiến hành tính lãi và hạch toán
Nợ: TK chi phí trả lãi .
Có: TK tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
Hoặc hàng tháng trả lãi cho khách hàng, thì hạch toán
Nợ: TK chi phí trả lãi .
Có: TK tiền mặt
. Đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (hoặc có thể là trường hợp tiết kiệm không kỳ hạn) thì hạch toán giống với tiền gửi có kỳ hạn như trên.
3.2.3.2. Kế toán phát hành giấy tờ có giá
Như chúng ta đã biết có ba cách phát hành giấy tờ có giá theo quyết định số 02/2004/QĐ-NHNN ngày 4/1/2004 được thể hiện như sau:
a. Kế toán phát hành GTCG
Theo phương thức trả lãi trước
Có chiết khấu
Nợ: TK tiền mặt (số tiền thực thu)
Nợ: TK lãi trả trước chờ phân bổ
Nợ: TK chiết khấu GTCG (số tiền chiết khấu)
Có: TK mệnh giá GTCG phát hành
Có phụ trội
Nợ: TK tiền mặt (số tiền thực thu)
Nợ: TK lãi trả trước chờ phân bổ
Có: TK phụ trội GTCG (số tiền phụ trội)
Có: TK Mệnh giá GTCG phát hành
Mệnh giá
Nợ: TK tiền mặt (số tiền thực thu)
Nợ: TK lãi trả trước chờ phân bổ (số lãi)
Có: TK mệnh giá
Theo phương thức trả lãi sau
Có chiết khấu
Nợ: TK tiền mặt thực thu
Nợ: TK chiết khấu GTCG (số tiền chiết khấu)
Có: TK mệnh giá GTCG phát hành
Có phụ trội
Nợ: TK tiền mặt (số tiền thực thu)
Có: TK phụ trội phát hành GTCG
Có: TK mệnh giá GTCG
Mệnh giá
Nợ: TK tiền mặt (số tiền thực thu)
Có: TK mệnh giá GTCG
b. Kế toán chi trả lãi GTCG
Theo phương thức trả lãi trước
Có chiết khấu
Tính phân bổ chi phí trả lãi hàng tháng
Nợ: TK chi phí trả lãi
Có: TK lãi trả trước chờ phân bổ
Có: TK chiết khấu GTCG
Có phụ trội
Tính và phân bổ chi phí trả lãi hàng tháng
Nợ: TK chi phí trả lãi
Có: TK lãi trả trước chờ phân bổ
phân bổ dần phụ trội để giảm chi phí trong từng kỳ
Nợ: TK phụ trội GTCG
Có: TK chi phí trả lãi
Mệnh giá
Phân bổ số lãi từng kỳ vào tài khoản chi phí
Nợ: TK chi phí trả lãi
Có: TK lãi trả trước chờ phân bổ
Theo phương thức trả lãi sau
Tổng hợp cả ba phương thức phát hành
*Nếu trả lãi định kỳ hàng tháng
Nợ: TK chi phí trả lãi
Có: TK thích hợp
đồng thời phân bổ dần số phụ trội, chiết khấu vào chi phí
*Nếu trả lãi khi đáo hạn
Hàng tháng, tiến hành hạch toán
Nợ: TK chi phí trả lãi
Nợ: TK phụ trội GTCG (có thể)
Có: TK lãi cộng dồn dự trả
Có: TK phân bổ chiết khấu trong kỳ (có thể)
Khi đáo hạn, tiến hành hạch toán
Nợ: TK lãi cộng dồn dự trả
Có: TK thích hợp
c. Kế toán thanh toán GTCG
Khi đáo hạn thực hiện thanh toán GTCG cho khách hàng và tiến hành hạch toán.
Nợ: TK mệnh giá GTCG phát hành
Có: TK thích hợp
d, Chi phí phát hành GTCG
+ Nếu chi phí phát hành GTCG có giá trị nhỏ thì tính ngay vào chi phí trong kỳ
Nợ: TK chi phí khác Chi phí khác về huy động vốn
Có: TK tiền mặt
+ Nếu chi phí phát hành có giá trị lớn thì phải phân bổ dần
Nợ: TK trả trước chờ phân bổ
Có: TK tiền mặt Tổng chi phí huy động
Trên đây là những lý luận về vấn đề huy động vốn cũng như kế toán vốn huy động trong ngân hàng thương mại. Những vấn đề này sẽ được làm rõ hơn ở những chương sau về phần thực trạng huy động vốn cũng như kế toán huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.
Chương 2:Thực trạng hoạt động huy động vốn và công tác kế toán huy động vốn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ
1. Giới thiệu khái quát về chi nhánh Nhno&PTNT láng Hạ
1.1. Một số nét về môi trường hoạt động của NHNNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ
Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ đóng trên địa bàn một quận của thủ đô Hà Nội, do vậy hoạt động kinh tế của địa bàn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của NHNo&PTNT Láng Hạ. Như chúng ta đã biết, Hà Nội là thủ đô, trung tâm văn hoá kinh tế đầu não của toàn quốc. Hoạt động tài chính nói chung, hoạt động ngân hàng nói riêng trên địa bàn diễn ra vô cùng sôi động, cạnh tranh giữa các ngân hàng trở nên ngày càng gay gắt do xu hướng, tình hình thế giới mới mang lại. Trong xu thế hội nhập và phát triển, cơ chế hoạt động của các NHTM và TCTD ngày càng được Nhà nước tạo hành lang pháp lý thuận lợi. Từ đó, hoạt động ngân hàng trên địa bàn này lại càng phong phú, đa dạng hơn.
Ngoài ra, ở Hà Nội còn có một đặc điểm mà không một nơi nào có được đó là tại đây tập trung đầu mối của NHNN Việt Nam, bốn NHTM quốc doanh, NH chính sách xã hội, quĩ tín dụng nhân dân trung ương, chín quĩ tín dụng nhân dân cơ sở, các ngân hàng thương mại cổ phần và nhiều chi nhánh của các ngân hàng địa phương khác. Ngoài ra, trên địa bàn này còn có hơn 60 TCTD hoạt động, nhiều ngân hàng trong và ngoài nước có trình độ chi nhánh tiên tiến, có bề dày lịch sử trong kinh doanh tạo nên sự cạnh tranh gay gắt nhất là trong lĩnh vực ngân hàng.
Xét phương diện hẹp hơn, chi nhánh NHNNo & PTNT Láng Hạ có trụ sở chính tại Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội. Quận Đống Đa là quận có diện tích lớn nhất nội thành Hà Nội, với diện tích là 14km2; dân số khoảng hơn 45 vạn dân. Quận Đống Đa là nơi tập trung nhiều khu công nghiệp, nhiều doanh nghiệp cũng như dân cư hoạt động kinh doanh khá mạnh. Ngoài ra còn rất nhiều NHTM hoạt động trên địa bàn này, do vậy đòi hỏi NHNo&PTNT Láng Hạ phải vươn lên trong hoạt động kinh doanh mới có thể vững vàng trên thị trường.
1.2. Lịch sử hình thành chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ
Theo quyết định số 280/QĐ-NHNN ngày 15/1/1996 của thống đốc NHNN Việt Nam được thủ tướng Chính Phủ uỷ quyền đổi tên Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT Việt Nam) theo mô hình tổng công ty 90, NHNo&PTNT Việt Nam có đầy đủ những chức năng, nhiệm vụ của một NHTM, đặc biệt địa bàn hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Để mở rộng mạng lưới hoạt động trên địa bàn thủ đô Hà Nội và nhiệm vụ xây dựng một NHTM đa năng, ngày 1/8/1996 trước tình hình nhiệm vụ xây dựng một NHTM đa năng, tổng giám đốc NHNo&PTNT đã ký quyết định số 334/QĐ-NHNN- 02, thành lập chi nhánh Láng Hạ và chi nhánh chính thức đi vào hoạt động từ ngày 17/3/1997.
NHNo&PTNT Láng Hạ là ngân hàng cấp 1 trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam, hoạt động theo luật các TCTD và điều lệ của NHNo&PTNT nhưng có quyền tự chủ trong kinh doanh và có con dấu riêng… Với doanh số hoạt động của chi nhánh và số lượng cán bộ, công nhân trong đơn vị chi nhánh được xếp vào loại hai (theo quyết định số 169/QĐ-HĐBT- 02 ngày 7/9/2000).
1.3. Tổ chức và nhiệm vụ của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ
1.3.1. Mô hình tổ chức
Tổ chức của chi nhánh được thể hiện qua sơ đồ sau:
Ban giám đốc
Giám đốc
PGĐ phụ trách kinh doanh
PGĐ phụ trách kế toán ngân quỹ
Kế hoạch
Tín dụng
Kiểm soát nội bộ
Kế toán ngân quỹ
Thẩm định
Hành chính nhân sự
Thanh toán quốc tế
Tổ chức cán bộ
Cơ cấu tổ chức của chi nhánh bao gồm:
- Ban giám đốc, bao gồm:
+ Giám đốc
+ Hai phó giám đốc
- Các phòng chức năng như sau:
+ phòng kế hoạch: là phòng chịu trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất các chiến lược, các kế hoạch kinh doanh theo từng giai đoạn nhất định. Lập bảng cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn.
+ phòng tín dụng: thực hiện nghiên cứu những chiến lược, kế hoạch thuộc lĩnh vực tín dụng như trực tiếp thực hiện nghiệp vụ cho vay, đầu tư, thẩm định dự án…
+ phòng kế toán ngân quỹ: thực hiện các nghiệp vụ kế toán thánh toán, thu chi tiền mặt một cách đầy đủ chính xác kịp thời. Tổ chức giao dịch phục vụ khách hàng tận tình văn minh lịch sự.
+ phòng thanh toán quốc tế: đảm bảo nghiệp vụ thanh toán quốc tế của chi nhánh từ việc hướng dẫn khách hàng (xuất nhập khẩu) vận dụng các phương thức thanh toán quốc tế một cách khá phù hợp, đến việc theo dõi các khoản thanh toán phát sinh, thu phí dịch vụ thanh toán quốc tế…
+ phòng kiểm tra- kiểm soát nội bộ: thực hiện công tác kiểm tra kiểm soát định kỳ và thường xuyên trong toàn chi nhánh về việc chấp hành các thể lệ, chế độ,quyết định về đảm bảo an toàn trong hoạt động tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng.
+ phòng tổ chức cán bộ và đào tạo: với chức năng tuyển chọn, đào tạo cán bộ, quản lý cán bộ sao cho hiệu quả công việc và “văn hoá tổ chức” đạt hiệu quả cao nhất.
+ Phòng nhân sự
Ngoài trụ sở chính của chi nhánh tại 24 Láng Hạ, chi nhánh còn có các phòng giao dịch tại Hàn Giang, Đoàn Kế Thiện, Trung Kính, Đào Tấn, Hàng Mã. Và một số chi nhánh trực thuộc khác.
1.3.2. Nhiệm vụ của chi nhánh
Nhiệm vụ của chi nhánh được ghi cụ thể trong điều 9 chương II, quyết định số 169/QĐ- HĐB- 02 ngày 7/9/2000.
- Huy động vốn:
+ Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, không kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế và nước ngoài bằng VND hay ngoại tệ.
+ Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động vốn theo quyết định của NHNo&PTNT.
+ Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác của chính phủ và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước theo quyết định của NHNo&PTNT.
+ Được phép vay vốn các tổ chức tài chính tín dụng trong nước khi tổng giám đốc NHNo&PTNT cho phép.
- Cho vay:
+ Cho vay ngắn hạn, trung dài hạn bằng VND và ngoại tệ đối với tổ chức kinh tế, cá nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Kinh doanh ngoại hối: huy động vốn, cho vay, mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế và các dịch vụ về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của Chính phủ, NHNo&PTNT Việt Nam.
- Kinh doanh dịch vụ: thu, chi tiền mặt, mua bán vàn bạc, máy rút tiền tự động, két sắt, nhận cất giữ, chiết khấu các loại giấy tờ có giá…Các dịch vụ khác được NHNN và NHNo cho phép .
- Cân đối điều hoà vốn kinh doanh nội tệ đối với chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn.
- Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo qui định của NHNo&PTNT.
- Thực hiện đầu tư dưới các hình thức: hùn vốn liên doanh, mua cổ phần và các hình thức đầu tư khác với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác khi được NHNo&PTNT cho phép.
- Làm dịch vụ cho ngân hàng phục vụ người nghèo .
- Quản lý nhà khách, nhà nghỉ, và đào tạo cán bộ trên điạ bàn (nếu được tổng giám đốc NHNo & PTNT giao cho).
- Thực hiện công tác tổ chức cán bộ, đào tạo, thi đua, khen thưởng theo cấp uỷ quyền của NHNo & PTNT.
2. Khái quát tình hình hoạt động của chi nhánh trong những năm qua
Thực trạng hoạt động của chi nhánh trong những năm qua được thể hiện qua những mặt sau:
2.1. Công tác nguồn vốn huy động (đơn vị tỷ đồng)
Bảng 1: Nguồn vốn huy động của chi nhánh qua các năm.
(đơn vị: tỷ đồng)
chỉ tiêu
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
mức tăng
(03-02)
mức tăng
(04-03)
kế hoạch 2004
So với KH
2004
Tuyệt đối
%
Tuyệt đối
%
I.Tổng nguồn
3812
4037
4470
+225
+5,9
+433
+10,8
5536, 3
81%
1.Nguồn nội tệ
3299
3091
3197
-208
-6,3
+106
+3,43
3666, 1
87%
2.Nguồn ngoại tệ
513
946
1273
+433
+84,4
+327
+34,6
1870, 2
68%
(theo báo cáo kinh doanh của chi nhánh)
Nhìn vào bảng kết quả hoạt động nguồn vốn trong ba năm 2002, năm 2003, năm 2004 ta nhận thấy:
Thứ nhất, về cơ bản nguồn vốn vẫn tăng trưởng đều đặn qua các năm 2003, 2004 với tỷ lệ tăng trưởng tương ứng là 5,9%, 10,73%. Tuy nhiên trong năm 2004 nguồn vốn huy động của chi nhánh chỉ đạt 81% kế hoạch. Nhưng nhìn chung chi nhánh vẫn đạt mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn hàng năm.
Thứ hai, nguồn nội tê ta nhận thấy sự biến động của nguồn nội tệ huy động không có sự biến động lớn giữa các năm và cũng không tăng giảm theo một xu hướng nhất định nào cả. Đó là, năm 2003 giảm so với năm 2002 là 208 tỷ VND (-6,3%), năm 2004 lại tăng 106 tỷ VND (+3,43%) so với năm 2003. Những nguyên nhân tăng giảm này là do những biến động nhất định về tách chuyển chi nhánh làm cho nguồn vốn huy động bị giảm đi, hoặc những thay đổi nhất định về doanh mục sản phẩm… nên kết quả nguồn huy động cũng có những biến động theo.
Thứ ba, ta nhận thấy nguồn vốn ngoại tệ tăng trưởng mạnh qua các năm, đó là năm 2003 tăng 433 tỷ VND quy đổi (+84,4%) so với năm 2002, năm 2004 tăng 327 tỷ VND quy đổi (+34,6%) so với năm 2003. Kết quả này sẽ làm nâng cao khả năng cạnh tranh của chi nhánh trên thị trường tài chính. Trong những năm gần đây Mỹ liên tục cắt giảm lãi suất điều này cũng gây khó khăn cho các ngân hàng trong công tác huy động ngoại tệ do phải điều chỉnh lãi suất xuống thấp cho phù hợp.
2.2. Dư nợ cho vay (tỷ VND)
Bảng 2: Dư nợ cho vay của chi nhánh qua các năm
(đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Mức tăng(03-02)
Mứctăng(04-03)
KH 2004
So với 2004 %
tuyệt đối
tương đối
tuyệt đối
tương đối
Theo cơ cấu loại tiền
I.Tổng dư nợ
1466
1515
2200
+49
+3,3
+685
+45,.2
2032,3
108,25
1.Nội tệ
1090
1005
1066
-85
-7,8
+61
+6,07
2.Ngoại tệ
376
510
1134
+134
+35,6
+624
+122,4
Theo thành phần kinh tế
1. Dư nợ DNNN
1381,8
1238
1752
-143,8
-10,4
+514
+41,52
2.Ngoài quốc doanh
67,2
267
400
+199,8
+297,6
+133
+49,8
3.Tiêu dùng cầm cố
17
10
48
-7
-41,4
+38
+480
Theo thời gian
1.Ngắn hạn
501,7
642
1200
+140,3
+28
+558
+86,9
2.Trung dài hạn
964,3
873
1000
-91,3
-9,5
+127
+14,55
(Theo nguồn báo cáo tài chính của chi nhánh)
Nhìn bảng 2 ta nhận thấy nhìn chung tổng dư nợ tăng trưởng đều đặn qua các năm 2002, năm 2003, năm 2004. Năm 2004 đạt 2200 tỷ tăng 685 tỷ tương đương với 45,2% so với 2003, đồng thời năm 2004 tăng 8,25% so với kế hoạch đề ra. Đây là một kết quả “đáng mừng” khẳng định hoạt động sử dụng vốn của chi nhánh khá tốt.
Tình hình tổng dư nợ tăng mạnh nguyên nhân chủ yếu là do dư nợ ngoại tệ tăng mạnh, trong đó năm 2003 đạt 510 tỷ tăng 134 tỷ so với năm 2002 (376 tỷ), năm 2004 đạt 1134 tỷ tăng 624 tỷ so với năm 2003. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là do sự cân đối của tình hình huy động nguồn và sử dụng nguồn. Do nguồn huy động ngoại tệ tăng nhanh nên dẫn đến dư nợ ngoại tệ cũng tăng cao. Bên cạnh đó mảng dư nợ nội tệ biến động không nhiều và có năm còn có xu hướng giảm, số liệu được thể hiện như trong bảng biểu.
Mặt khác, nhìn vào biểu dư nợ theo thành phần kinh tế ta nhận thấy mảng dư nợ theo thành phần kinh tế cũng có sự biến động theo một xu hướng mới. Dư nợ mảng doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã được chú trọng hơn. Kết quả là năm 2004 dư nợ ngoài quốc doanh đạt 400 tỷ tăng 133 tỷ so với năm 2003 (267 tỷ), năm 2003 tăng 199,8 tỷ so với năm 2002 (đạt 67,2 tỷ đồng).
Xét theo thời gian cho vay, ta nhận thấy, chi nhánh có xu hướng cho vay ngắn hạn ngày càng tăng, trong khi đó dư nợ dài hạn có xu hướng giảm dần theo thời gian.Nguyên nhân chính là do sự chuyển hướng mới của chi nhánh là tập trung cho vay khu vực ngoài quốc doanh, hộ sản xuất nên đối với thành phần kinh tế này thì cho vay ngắn hạn là chủ yếu nên làm cho tổng dư nợ cho vay ngắn hạn tăng lên.
Nhìn chung về cơ bản công tác sử dụng vốn của chi nhánh được đánh giá là tốt, đó là dư nợ trung dài hạn nằm trong giới hạn cho phép của NHTW, phát triển theo một xu hướng mới giúp chuyển dịch dần cơ cấu đầu tư. Tuy nhiên đến năm 2004 đã phát sinh nợ quá hạn là 0,3%/tổng dư nợ. Mặc dù đó là một tỷ lệ rất nhỏ, song, cũng phải có những biện pháp nhất định để đẩy lùi tỷ lệ nợ quá hạn.
2.3. Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ
Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ của chi nhánh được thể hiện qua bảng biểu sau: (đơn vị: tỷ đồng).
Bảng 3: Tình hình hoạt động TTQT và kinh doanh ngoại tệ trong những năm gần đây.
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm
2002
Năm
2003
Năm 2004
Mức tăng
(03-02)
Mức tăng
(04-03)
Tuyệt đối
Tương đối %
Tuyệt đối
Tương đối %
1. Doanh số mua
Triệu USD
266
361,1
565
+95,1
+35,7
+203,9
+56,59
2. Doanh số bán
Triệu USD
274
377,6
569
+103,5
+37,8
+192
+50,7
3. Thu phí KDNT
Triệu VND
700
535
875
-165
-23,6
+322
+60,2
4. Doanh số TTQT
Triệu USD
241
527,4
589
+286,4
+118,8
+61,6
11,69
5. Phí TTQT
Triệu VND
1150
1462
1681
+312
+27,13
+219
+151
(Theo số liệu báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh)
2.3.1. Hoạt động thanh toán quốc tế
Nhìn vào bảng ta nhận thấy, tình hình hoạt động thanh toán quốc tế của chi nhánh được đánh giá là khá ._. hiện tượng thất thoát và khó khăn cho công tác kiểm tra kiểm toán.
Trên đây là toàn bộ thực trạng về nguồn vốn huy động cũng như kế toán huy động vốn của NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ trong những năm gần đây.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và kế toán huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ
1. Định hướng hoạt động huy động vốn của chi nhánh trong thời gian tới
1.1. Một số định hướng phát triển của hệ thống NHNo&PTNT nói chung và chi nhánh Láng Hạ nói riêng
1.1.1. Một số định hướng mục tiêu của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam
Từ mục tiêu mà Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra là tăng trưởng kinh tế 7,5%/năm trong giai đoạn 2001-2005 sẽ tạo cho nền kinh tế có xu hướng chuyển biến mạnh mẽ mà điển hình tăng tích luỹ và đầu tư.
Hoà mình cùng chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2001-2005 của nền kinh tế, dưới sự chỉ đạo của thống đốc NHNN Việt Nam, hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam cũng đề ra những phương hướng, kế hoạch, chiến lược hoạt động riêng của mình trong giai đoạn 2001- 2010 thể hiện ở những phương diện sau:
Thứ nhất: đưa ra những giải pháp nhằm lành mạnh hoá nguồn tài chính
Thứ hai: đưa ra những giải pháp để cơ cấu lại nợ
Thứ ba: đưa ra những giải pháp để cơ cấu lại tổ chức hoạt động trong mối quan hệ với việc hình thành ngân hàng chính sách, xác định, định hướng được tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, dư nợ phát triển mạnh mẽ.
Thứ tư: chú trọng trong công tác phát triển nguồn vốn trung dài hạn để phục vụ cho quá trình phát triển của chi nhánh.
1.1.2. Một số định hướng cho hoạt động của chi nhánh trong thời gian tới
Chi nhánh Láng Hạ là chi nhánh có nhiệm vụ quan trọng là chi nhánh đầu mối theo uỷ quyền của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. Nhiệm vụ đầu mối đó được thể hiện ở những nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất: quản lý và điều hoà nguồn ngoại tệ trong hệ thống
Thứ hai: đại diện NHNo&PTNT Việt Nam tham gia thị trường mở, thị trường liên ngân hàng trong nước và quốc tế.
Thứ ba: đa dạng hoá sản phẩm và hình thức kinh doanh, đầu tư vốn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thanh toán vốn trong nước và quốc tế.
Thứ tư: hạch toán các loại vốn, quỹ của hệ thống
Thứ năm: thực hiện nhiều nhiệm vụ khác mà hệ thống giao cho trong từng thời kỳ
Từ những nhiệm vụ cụ thể của một ngân hàng đầu mối ở trên chi nhánh đã vạch ra cho mình những định hướng phát triển cụ thể như sau:
1.1.2.1. Những mục tiêu cụ thể cho năm 2005
- Về nguồn vốn: nguồn vốn đạt 5450 tỷ đồng tăng 22% so với năm 2004. Trong đó, nguồn tiền gửi từ dân cư tăng lên 30% trong tổng nguồn vốn.
- Dư nợ: 2574 tỷ đồng (tăng 17% so với năm 2004). Trong đó, nâng tỷ trọng cho vay các đối tượng ngoài quốc doanh từ 21% lên 30% trong tổng dư nợ.
- Tỷ lệ nợ quá hạn: dưới 1% trong tổng dư nợ
- Tăng thu dịch vụ từ 14% lên 20% trong tổng thu nhập ròng
- Tài chính: phấn đấu hoàn thành kế hoạch tài chính trên giao, đảm bảo thu nhập cho cán bộ nhân viên theo quy định và làm các nghĩa vụ đối với nhà nước đầy đủ.
1.1.2.2. Các định hướng về nguồn vốn
Thứ nhất, đảm bảo nguồn vốn tăng trưởng đều, qui mô, cơ cấu nguồn vốn phù hợp với cơ cấu sử dụng nguồn của chi nhánh để tránh những rủi ro tiềm ẩn.
Thứ hai, tìm ra được một cơ cấu nguồn nội ngoại tệ hợp lý, ổn định. Tránh tình trạng thừa thiếu ngoại tệ. Và từ đó nâng cao vị thế của chi nhánh trên thị trường tài chính.
Thứ ba, có chiến lược phát triển nguồn vốn trung dài hạn để đáp ứng nhu cầu về nguồn trung dài hạn cho thời gian tới.
Thứ tư, chi nhánh cần phải phải có những giải pháp chiến lược cho riêng mình để tìm được nguồn vốn có chi phí thấp, từ đó lợi nhuận thu được mới có thể đạt hiệu quả cao
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và hoàn thiện kế toán huy động vốn
2.1. Nhóm giải pháp về huy động vốn
2.1.1. Giải pháp về sản phẩm sử dụng trong chiến lược huy động vốn của chi nhánh
Về sản phẩm của ngân hàng nói chung hay sản phẩm trong công tác huy động vốn nói riêng đều mang ba đặc điểm, đó là tính vô hình, tính không thể tách biệt, tính không ổn định và khó xác định. Chính vì những đặc điểm trên nên gây ra những khó khăn nhất định cho công tác nghiên cứu, phát triển sản phẩm.Tuy nhiên, với mong muốn góp phần tăng cường nguồn vốn huy động, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp như sau:
Giải pháp chung nhất đó là tiếp tục thực hiện đa dạng hoá hình thức huy động vốn.
Thứ nhất, giải pháp đối với nguồn vốn tiết kiệm: duy trì các hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm truyền thống kết hợp với những hình thức tiền gửi hiện đại để thu hút thêm nguồn tiền gửi từ dân cư là một trong những thị trường chưa được chi nhánh chú trọng trong những năm trước đây.
- tiếp tục duy trì các hình thức tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn với các kỳ hạn khác nhau như 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng… Đồng thời, có thể nghiên cứu các hình thức tiết kiệm khác như tiết kiệm tuổi già, tiết kiệm mua sắm, tiết kiệm nhà ở, tiết kiệm học đường… Đây cũng là một trong những hình thức tiết kiệm gần giống như những dịch vụ của bảo hiểm. Hình thức huy động của loại này đó là từ những món tiền nhỏ lẻ, định kỳ thành một khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn dài, số lượng lớn. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để cho khách hàng biết được chi nhánh hiện tại đang tồn tại những hình thức huy động trên? Câu trả lời sẽ được làm rõ hơn ở phần giải pháp thuộc phương diện quảng cáo khuếch trương của ngân hàng.
- cần tổ chức những đợt huy động tiết kiệm với những hình thức đem lại lợi ích đi kèm cho khách hàng như tiết kiệm dự thưởng, hay những món quà lưu niệm cho khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng (quà tặng có giá trị tăng dần theo kỳ hạn, theo khối lượng tiền gửi).
- Nên phát triển các hình thức tiết kiệm gửi một nơi rút nhiều nơi (gửi tại chi nhánh và có thể rút ở các chi nhánh khác cùng hệ thống). Điều này sẽ tạo tính hấp dẫn hơn cho khách hàng khi gửi tiền.
Thứ hai, giải pháp đối với tiền gửi không kỳ hạn: tăng hình thức huy động không kỳ hạn bằng cách cung cấp sản phẩm tiền gửi không kỳ hạn có thể chuyển sang tiền gửi có kỳ hạn. Cụ thể là, chi nhánh nên áp dụng phần mềm giao dịch, khi nguồn tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng tăng lên đến một giá trị nhất định về thời gian và số lượng thì kiểu lãi suất của nguồn này sẽ được tự động chuyển sang một mức lãi suất ưu đãi hơn một chút. Sự tăng lên về thu nhập cùng với sự linh hoạt về thời hạn là một sự thu hút hấp dẫn đối với khách hàng.
- áp dụng mạnh mẽ hơn nữa hình thức trả lương vào tài khoản tiền gửi không kỳ hạn mở tại chi nhánh. Chi nhánh nên tăng nguồn này bằng cách đưa ra những dịch vụ đi kèm cho khách hàng khi mở tài khoản lương. Đó là, liên kết với các công ty viễn thông, điện lực… để hàng tháng, định kỳ thanh toán hộ khách hàng. Đồng thời, đưa ra được những tiện ích đi kèm của thẻ giao dịch tự động ATM khi khách hàng mở tài khoản này. Những phương thức thanh toán hiện đại đi kèm sẽ thu hút khách hàng mở tài khoản này.
- Mở tài khoản kết hợp giữa tài khoản thanh toán và tài khoản thấu chi. Tài khoản này chỉ thực hiện mở đối với những khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, và hiện tượng thấu chi trên tài khoản này là hạn hữu. Đơn cử như, có những chủ thể kinh doanh, về cơ bản họ có vốn nhàn rỗi trong một thời gian dài, họ chỉ có nhu cầu tập trung một lượng vốn lớn trong một vài ngày trong tháng để thực hiện thanh toán. Tiện ích của loại tài khoản này sẽ có sức thu hút rất lớn đối với đối tượng khách hàng này, vừa giúp họ có thu nhập, an toàn tài sản và tập trung thậm chí là vay vốn khi cần thiết. Thực hiện tốt loại hình huy động này cũng sẽ đẩy nguồn vốn huy động của ngân hàng lên cao.
Thứ ba, tăng cường huy động nguồn vốn trung dài hạn.
- Chi nhánh nên đẩy mạnh hình thức thu hút nguồn tiền gửi trung dài hạn bằng cách đưa ra một biểu lãi suất có sự phân tách rõ ràng về lợi ích giữa tiền gửi có kỳ hạn dài và tiền gửi có kỳ hạn ngắn. Chỉ khi chi nhánh làm được điều đó thì nguồn này mới thu hút được nhiều vì khi đó khách hàng mới nhận thức được lợi ích của mình khi gửi tiền vào hình thức này.
- Đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi để thu hút nguồn vốn trung dài hạn để đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn cho thời gian tới. Đẩy mạnh các đợt phát hành này bằng cách đưa ra được biểu lãi suất đi kèm có tính chất quảng bá rõ ràng về lợi ích của hình này đem lại so với những loại tiền gửi cùng kỳ hạn. Nhưng vẫn phải lưu ý sự tăng lên về lãi suất vẫn đảm bảo cho ngân hàng có lợi nhuận, kinh doanh có lãi.
- Ngân hàng có thể thực hiện dịch vụ hoán đổi lãi suất SWAP đi kèm với những đợt phát hành GTCG. Khi đó khách hàng sẽ thấy được mình có thể tránh được những rủi ro khi mua GTCG với thời hạn dài và lãi suất là cố định. Sự hấp dẫn của lãi suất cao hơn những hình thức huy động khác, kèm theo những rủi ro có thể hạn chế được sẽ thúc đẩy khách hàng tham gia hình thức này nhiều hơn.
- Có thể tiến hành áp dụng hình thức trả lãi định kỳ cho kỳ phiếu vô danh (hiện tại chỉ mới áp dụng cho kỳ phiếu đích danh, còn kỳ phiếu vô danh được trả lãi khi đáo hạn). áp dụng hình thức trả lãi này sẽ tăng sự hấp dẫn về thu nhập đối với loại hình này, từ đó sẽ thu hút nguồn vốn được nhiều hơn. Nhưng khi áp dụng phương thức trên ngân hàng cũng phải có những biện pháp quản lý tốt để tránh những rủi ro có thể xảy ra.
- Thực hiện hình thức mua một nơi chiết khấu nhiều nơi, để từ đó có thể tăng phạm vi huy động vốn của ngân hàng. Hiện tại vẫn duy trì hình thức mua ở đâu chiết khấu tại đó nên khách hàng chủ yếu của những đợt phát hành là tại địa bàn hoạt động của ngân hàng. Bởi vì, duy trì hình thức hiện tại có sự hạn chế về không gian và thời gian. Tổ chức được giải pháp này sẽ giúp ngân hàng tăng phạm vi huy động của ngân hàng, từ đó cũng tăng nguồn vốn huy động.
Thứ tư, đẩy mạnh nghiệp vụ huy động vốn bằng cách phát hiện, triển khai các sản phẩm mới.
- Phát triển dịch vụ thẻ thanh toán từ những đối tượng kinh doanh buôn bán (tức là khách hàng mà nguồn thu nhập không phải là lương tháng, định kỳ). Đối với loại thẻ này khách hàng phải gửi một khoản tiền nhất định, sau đó thực hiện thanh toán qua tài khoản này. Nếu tính toán cân đối nguồn này thì ngân hàng sẽ thu hút một nguồn vốn nhàn rỗi đợi thanh toán khá cao.
- Phát triển công tác chứng khoán hoá các loại GTCG, tức là khách hàng có thể đem những GTCG của mình giao dịch trên thị trường chứng khoán với mệnh giá GTCG bằng mệnh giá của chứng khoán. Điều này, sẽ tạo được tính linh hoạt hay hạn chế được phần nào những hạn chế về tính bất linh hoạt của loại hình huy động này.
- Phát triển hình thức thẻ kết hợp giữa thẻ ATM và thẻ tín dụng, được hình thành trên sự kết hợp giữa tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản thấu chi.
2.1.2. Giải pháp về định giá sản phẩm huy động vốn
Giá của sản phẩm ngân hàng nói chung hay hoạt động huy động vốn nói riêng có ba đặc điểm nổi bật đó là mang tính tổng hợp, khó xác định chi phí chính xác đối với từng sản phẩm dịch vụ riêng biệt; có tính đa dạng phức tạp nên có nhiều cách định giá khác nhau cho những sản phẩm dịch vụ khác nhau; giá của sản phẩm dịch vụ ngân hàng có tính nhạy cảm cao. Từ những đặc điểm đó, đơn cử đưa ra những giải pháp sau:
Thứ nhất, phải phát huy tốt vai trò của công cụ lãi suất, nắm bắt kịp thời biến động lãi suất của thị trường, nghiên cứu biểu lãi suất một cách linh hoạt trong phạm vi và quyền hạn được phép của chi nhánh, vừa đảm bảo phù hợp thu hút khách hàng vừa đảm bảo yêu cầu hiệu quả trong kinh doanh để đảm bảo phát triển ổn định lâu dài.
Thứ hai, chi nhánh nên tiến hành định giá tiền gửi theo số lượng dịch vụ mà khách hàng sử dụng. Nếu khách hàng sử dụng hai dịch vụ trở lên có thể chỉ trả lệ phí ở mức thấp, thậm chí không phải trả lệ phí.
Ví dụ như khách hàng vừa có tài khoản tiền gửi tiết kiệm vừa mở tài khoản thanh toán lương, hay sử dụng thẻ ATM, hay thẻ ghi nợ (debit card), hay mua giấy tờ có giá… cần ưu đãi về một mức giá nhất định.
Thứ ba, khuyến khích mức lãi suất nhất định với những những món huy động có khối lượng lớn và thường xuyên.
Thứ tư, xác định giá của sản phẩm của mình đối với đối thủ cạnh tranh. Với lưu ý rằng sự định giá sản phẩm của chi nhánh không ảnh hưởng quá lớn đến tình hình thị trường tài chính tiền tệ.
Ví dụ như, những sản phẩm dịch vụ truyền thống như các loại tiền gửi, dựa trên uy tín của chi nhánh và của toàn hệ thống thì chi nhánh hoàn toàn có thể định giá cao hơn đối thủ cạnh tranh một chút. Với các sản phẩm mới như ATM thế mạnh chưa bằng các ngân hàng khác thì chi nhánh có thể định giá thấp hơn một chút kèm theo các dịch vụ đi kèm với những đợt khuyến mãi… điều đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng tiềm năng hơn.
Thứ năm, nên có chính sách phạt đối với những trường hợp rút tiền trước hạn một cách mềm dẻo, linh hoạt. Đảm bảo mối quan hệ tốt của khách hàng với ngân hàng sau khi bị ngân hàng phạt đối với hành vi rút tiền trước hạn của họ. Phải tạo được ấn tượng tốt đối với khách hàng, đặc biệt là không được để khách hàng hay ngân hàng quá thiệt trong những trường hợp như thế.
Thứ sáu, có chính sách phạt đối với những khách hàng rút tiền trước hạn, thì cũng nên có những chính sách ưu đãi nhất định đối với những khách hàng kéo dài kỳ hạn (tức là khoản tiền gửi đáo hạn nhưng chưa đến rút).
Thứ bảy, chi nhánh có thể tăng lãi suất huy động mà không ảnh hưởng đến lợi nhuận bằng cách giảm chi phí huy động vốn. Tức là ngân hàng thực hiện quảng bá hình ảnh của mình thường xuyên không chỉ đến những đợt huy động mới tiến hành quảng cáo rầm rộ. Nếu thực hiện tốt, chi phí huy động sẽ giảm đi rất nhiều từ đó tạo thế cạnh tranh trên lĩnh vực huy động vốn rất lớn.
2.1.3. Giải pháp về chiến lược xúc tiến hỗn hợp
Chiến lược xúc tiến hỗn hợp là tập hợp những hoạt động nhằm kích thích việc sử dụng sản phẩm dịch vụ hiện tại, sản phẩm mới. Đồng thời, làm tăng mức độ trung thành của khách hàng hiện tại, thu hút khách hàng tương lai, tạo điều kiện cho các khách hàng tham gia vào quá trình cung ứng dịch vụ, đặc biệt tăng uy tín hình ảnh của ngân hàng trên thị trường.
Thứ nhất, tập trung vào nghiên cứu hơn nữa khách hàng truyền thống cũng như khách hàng tiềm năng, đưa thêm một số đơn vị có nguồn vốn tiền gửi thanh toán về hoạt động tại chi nhánh. Từ những khách hàng truyền thống sẽ xuất hiện những yếu tố tiềm năng. Đơn cử như khách hàng có tiền gửi truyền thống có thể sử dụng những dịch vụ mới như thẻ, hay mua giấy tờ có giá trong các đợt phát hành. Hay tìm hiểu kỹ những khác hàng tiềm năng như mảng thu hút nguồn vốn từ dân cư là một trong những mảng mà trước đây chi nhánh chưa tập trung.
- Phải thực hiện kết hợp các phòng trong chi nhánh thường xuyên quan tâm tới công tác chăm sóc khách hàng đạt hiệu quả nhằm tăng trưởng nguồn tiền gửi của đơn vị, từ các dự án xuất nhập khẩu, dự án của ADB, WB, Bộ tài chính, các dự án giải toả của Chính phủ nhằm tăng cường thêm nguồn vốn không kỳ hạn với lãi suất thấp.
Thứ hai, nghiên cứu cơ cấu sản phẩm, dịch vụ, thế mạnh, những điểm khác biệt và chiến lược xúc tiến hỗn hợp của đối thủ cạnh tranh, đơn cử như ngân hàng Ngoại Thương có thế mạnh về thẻ, ngân hàng Công thương có thế mạnh về khối lượng khách hàng doanh nghiệp… để đưa ra được biểu lãi suất, tổng mục sản phẩm riêng của mình.
Thứ ba, tiếp tục mở rộng mạng lưới kinh doanh phù hợp với điều kiện cụ thể của chi nhánh. Để hoàn thành kế hoạch năm 2005 dự kiến mở thêm hai phòng giao dịch và nâng một phòng giao dịch lên chi nhánh cấp hai trực thuộc với các điều kiện bố trí mạng lưới thích hợp rải đều trên địa bàn hoạt động, địa điểm đẹp, rộng rãi, gần khu dân cư và nơi chưa có mạng lưới NHNo&PTNT.
- Nên lựa chọn được một thông điệp quảng cáo phù hợp, có tính chất quảng bá, đi sâu vào công chúng nhanh nhất.
Có nhiều kênh để đưa thông diệp quảng cảo tới công chúng nhưng kênh mà nhanh nhất, tạo hiệu quả tốt nhất đó là kênh cá nhân. Bạn thử tưởng tượng bạn nghe một điều gì đó qua quảng cáo chưa chắc bạn đã tin hoặc tác động vào bạn nhưng nếu qua một người thân quen thì điều đó sẽ tác động rất nhanh đến bạn. Điều này rất cần thiết trong những đợt phát hành GTCG, tiết kiệm dự thưởng…
- Nên có biểu tượng riêng cho mình. Dựa vào vị trí của chi nhánh là trên đường Láng Hạ cộng với những đặc tính riêng của chi nhánh, chi nhánh nên đưa ra một biểu tượng riêng (ngoài biểu tượng của toàn hệ thống NHNo&PTNT) để tạo hình ảnh riêng của chi nhánh Láng Hạ.
Thứ tư, nên thực hiện thông báo báo cáo tài chính kết quả kinh doanh trên những phương tiện cần thiết, để từ đó khẳng định sự hoạt động hiệu quả, lành mạnh của chi nhánh, từ đó nâng cao uy tín của chi nhánh trên thị trường tài chính, tiền tệ.
2.1.4. Giải pháp về con người
Vai trò lãnh đạo, quản lý của ban giám đốc cũng như phong cách phục vụ của nhân viên đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao hình ảnh của ngân hàng, đặc biệt là trong nghiệp vụ huy động vốn. Đơn cử, đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả của lĩnh vực này.
Thứ nhất, về ban lãnh đạo của chi nhánh
- Trong những năm qua ban giám đốc đã rất quan tâm đến công tác huy động vốn nên nguồn vốn huy động không ngừng tăng trưởng. Tuy nhiên, trong điều kiện cạnh tranh rất gay gắt trong công tác huy động vốn thì ban giám đốc của chi nhánh cần phải có biện pháp cụ thể hơn trong chỉ đạo điều hành hoạt động huy động vốn. Như vạch ra chính sách huy động vốn một cách thích hợp, làm tốt hoạt động Marketing, tuyên truyền, quảng cáo, tổ chức hội nghị khách hàng…
- Ban giám đốc nên quan tâm hơn nữa tới các phòng ban, nhân viên của mình. Đưa ra những chính sách nhất định về khen thưởng thường xuyên theo tháng, theo quí cho những nhân viên có phong cách giao dịch tốt, hiệu quả công việc cao. Đơn cử như những hình thức tham quan du lịch cuối tuần sẽ giúp nâng cao tinh thần đoàn kết trong toàn cơ quan cũng như hăng say làm việc hơn trong một tuần mới.
- Có chính sách đào tạo bồi dưỡng năng cao trình độ cho cán bộ trong đó có đội ngũ cán bộ kế toán thông qua các lớp học chuyên đề ngắn hạn, cử cán bộ đi học để năng cao những kiến thức cơ bản.
Thứ hai, về đội ngũ nhân viên giao dịch
- Đội ngũ nhân viên trước tiên phải có trình độ, thường xuyên được bồi dưỡng để có thể thực hiện công tác giao dịch nhanh gọn. Đơn cử như các chương trình phần mềm kế toán, nghiệp vụ tính và chi trả lãi GTCG rất phức tạp nên yêu cầu giao dịch viên phải nắm rất vững về nghiệp vụ thì mới tạo được niềm tin cho khách hàng giao dịch.
- Nhân viên phải có phong thái giao dịch văn minh, lịch sự, nhanh nhẹn, tận tình. Đó là cách tạo được hình ảnh, uy tín của chi nhánh đối với khách hàng gửi tiền.
- Nhân viên phải hoà mình vào những hoạt động Marketing, quảng cáo khuếch trương của chi nhánh, điều này càng đặc biệt cần trong những đợt huy động vốn lớn , nhanh như phát hành GTCG hay những đợt cần có tính chất huy động vốn mang tính chất quảng bá nhanh, rộng khắp và đạt hiệu quả cao trong thời gian ngắn hay quảng bá những sản phẩm mới chưa được khách hàng biết đến nhiều.
2.2. Giải pháp về hoàn thiện kế toán huy động vốn
Từ thực trạng của công tác kế toán như đã trình bày ở trên, đơn cử đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán huy động vốn như sau:
2.2.1. Giải pháp về hoàn thiện thủ tục giấy tờ mở tài khoản và giao dịch gửi lĩnh tiền
- Hạn chế bớt những giấy tờ cần xuất trình trong công tác mở tài khoản, phát hành GTCG… để tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng. Điều này đồng nghĩa cần nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cũng như tính linh hoạt nhạy cảm của cán bộ kế toán để hạn chế những rủi ro trong giao dịch.
Ví dụ như: hạn chế những giấy tờ đảm bảo tính pháp lý của khách hàng thì đồng nghĩa với việc nhân viên giao dịch phải nhạy bén, có kinh nghiệm để nhận biết tính trung thực của khách hàng, hạn chế những rủi ro trong giao dịch mang lại.
2.2.2. Giải pháp về tăng cường bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho nhân viên kế toán
- tổ chức những công tác bồi dưỡng cho cán bộ kế toán về những nghiệp vụ ít phát sinh như phát hành, hay chi trả lãi giấy tờ có giá. Đồng thời, tổ chức đưa các văn bản mới về các hình thức huy động vốn để kế toán có thể cập nhập.
- Thực hiện chuyên môn hoá trên đa dạng hoá. Tức là, mặc dù đã thực hiện mô hình giao dịch một cửa, một giao dịch viên đảm nhận nhiều công việc một lúc, nhưng có thể chia nhỏ bộ phận kế toán đào tạo về các nghiệp vụ ít phát sinh, hay nghiệp vụ phức tạp để khi đột xuất có nghiệp vụ này nảy sinh thì từng bộ phận được đào tạo hoàn toàn có thể đảm nhận, xử lý nhanh chóng.
2.2.3. Giải về tiếp tục đầu tư nâng cao chất lượng hiện đại hoá công nghệ ngân hàng nói chung và kế toán nói riêng
- tiếp tục nâng cấp, nghiên cứu những phần mềm giao dịch mới, đặc biệt là những phần mềm giao dịch trong các nghiệp vụ tính lãi cho các loại tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá…
- Chi nhánh cần tiếp tục nâng cấp cơ sở vật chất, tin học để công tác kế toán đạt hiệu quả cao hơn.
2.3.4. Giải pháp về cách tính và hạch toán lãi dự trả
- Từ phần thực trạng ta nhận thấy hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam vẫn thực hiện cách tính lãi vẫn thực hiện hạch toán dự trả một lần (trong niên độ kế toán). Điều này, sẽ gây ra những hạn chế nhất định như đã nêu ở trên. Như vậy, nên thực hiện theo đúng quy định, tức là tiến hành hạch toán dự trả hàng tháng để tránh thất thoát, và thuận tiện cho kiểm tra.
3. Kiến nghị để thực hiện những giải pháp
3.1. Kiến nghị với Chính phủ
Thứ nhất, Chính phủ quan tâm, xây dựng hoàn thiện hơn nữa hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng. Bởi thị trường tài chính tiền tệ nói chung hay đặc thù kinh doanh của ngành ngân hàng nói riêng là một lĩnh vực nhạy cảm và có nhiều rủi ro và quan trọng hơn là sự biến đổi nhỏ của ngành ảnh hưởng đến nhiều chủ thể trong nền kinh tế. Chính vì thế, hoạt động ngân hàng chịu sự quản lý của nhiều cơ quan chức năng.
Tuy luật NHNN và luật TCTD có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/ 01/ 1998 thay thế hai pháp lệnh ngân hàng ban hành năm 1990. Cho đến nay, mặc dù quốc hội sửa đổi, đồng thời ban hành văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành, song vẫn còn nhiều bất cập , chồng chéo, bất cập, về cơ chế lãi suất, tỷ giá, qui chế cho vay…
Thứ hai, bằng những công cụ riêng của mình Chính phủ tạo sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô thể hiện ở sự ổn định của những yếu tố lãi suất, lạm phát, tỷ giá, chỉ số tăng trưởng hàng năm, chỉ số thất nghiệp,... Đây là một trong những điều kiện hàng đầu để ổn định tài chính tiền tệ. Khi thị trường tiền tệ ổn định sẽ tạo được thuận lợi cho công tác huy động vốn vì khi đó khách hàng sẽ giảm sự tích luỹ vàng… tin tưởng hơn vào sự thu nhập từ gửi tiền vào ngân hàng.
Thứ ba, Chính phủ nên cho phép các NHTM được áp dụng chế độ lãi suất bán linh hoạt (thả nổi một phần theo tỷ lệ lợi nhuận của ngân hàng) để tăng tính hấp dẫn và khả năng huy động của ngân hàng.
Thứ tư, có thể miễn giảm thuế thu nhập đối với lợi tức thu được từ phát hành trái phiếu. Điều này sẽ kích thích rất lớn đến khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động huy động vốn trung dài hạn cho ngân hàng.
3.2. Kiến nghị đối với NHNN
Để nghiệp vụ huy động vốn cũng như công tác kế toán huy động vốn ngày càng đạt hiệu quả cao hơn, cá nhân tôi có một số kiến nghị đối với NHNN như sau:
Thứ nhất, NHNN có phương pháp xác định lãi suất giao dịch trên thị trường liên ngân hàng một cách khoa học tạo điều kiện cho các NHTM xác định được lãi suất hoạt động nói chung, lãi suất huy động vốn nói riêng, đạt hiệu quả cao.
Thứ hai, NHNN nên có những chính sách tạo chủ động cho tất cả các NHTM, không phân biệt thành phần kinh tế, tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các NHTM tham gia vào lĩnh vực phát hành các GTCG trung, dài hạn.
Thứ ba, NHNN và Uỷ ban chứng khoán cần có những phương pháp phối hợp với nhau để tạo điều kiện cho các NHTM phát hành GTCG (trái phiếu) trên thị trường chứng khoán tập trung (hiện tại chỉ có ngân hàng đầu tư và phát triển được phát hành trên thị trường chứng khoán tập trung) vì hầu hết trái phiếu được bán lẻ trực tiếp cho khách hàng.
Thứ tư, tạo sự linh hoạt hơn nữa trong công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được xem xét để giảm, tạo điều kiện thúc đẩy hơn nữa nghiệp vụ huy động vốn.
Thứ năm, vận hành thị trường mở linh hoạt hơn nữa với khối lượng lớn hơn. Đây là tiền đề quan trọng để thúc đặy phát triển thị trường vốn và cũng tăng cường huy động vốn trung dài hạn ở nước ta.
Thứ sáu, quan tâm tới chính sách tỷ giá hơn nữa để tránh tình trạng mất cân đối giữa nguồn vốn nội ngoại tệ, hay sự mất giá qúa cao của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ mạnh như: USD, EUR.
3.3. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam
*Về chiến lược huy động vốn
NHNo&PTNT Việt Nam cần xây dựng chiến lược huy động vốn trung dài hạn cho toàn hệ thống, hướng dẫn cụ thể tới từng chi nhánh, bởi chi nhánh tự làm sẽ ít thông tin, cũng như điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như năng lực cán bộ chưa đáp ứng một cách đầy đủ. Từ đó, hạn chế được rủi ro và ấn chỉ không phù hợp.
*Về mạng lưới
NHNo&PTNT Việt Nam tạo điều kiện hơn nữa về kinh phí để chi nhánh mở thêm phòng giao dịch, cũng như mua trụ sở giao dịch cho chi nhánh cấp hai như đã nêu trong phương hướng. Từ đó, nghiên cứu đưa ra quy hoạch, tránh sự chồng chéo về mạng lưới của các chi nhánh, phòng giao dịch trong cùng một hệ thống.
*Về ứng dụng tin học
NHNo&PTNT Việt Nam cần nghiên cứu để sớm đưa vào hoạt động các chương trình tin học mới phục vụ cho công tác giao dịch nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng.
*Về khuyếch trương, quảng cáo, hình ảnh
NHNo&PTNT Việt Nam nên có sự hỗ trợ với các chi nhánh trong công tác quảng cáo, tiếp thị, khi đưa ra một loại hình dịch vụ mới hoặc một hoạt động mới trong lĩnh vực huy động vốn.
NHNo&PTNT Việt Nam nên tự hoạch định nên những chiến lược khuếch trương này để tạo tính đồng bộ trong toàn hệ thống, tranh sự lệch lạc trong hoạt động, mạnh ai người ấy làm. Chỉ có như thế thì hoạt động của toàn hệ thống nói chung và chi nhánh nói riêng mới đạt được hiệu quả cao.
Kết luận
Hơn mười năm qua, hoà mình vào sự đổi mới của đất nước, ngành ngân hàng không ngừng đổi mới và phát triển, luôn luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, một mặt góp phần to lớn vào việc cung cấp nguồn vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế, mặt khác góp phần nâng cao vị thế của thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Là một chi nhánh của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam, chi nhánh Láng Hạ cũng có những bước chuyển mình trong hoạt động kinh doanh nói chung, và trong hoạt động huy động vốn nói riêng. Sự tăng trưởng nguồn vốn huy động (trong công tác huy động vốn) của chi nhánh đã phần nào đáp ứng nhu cầu cung ứng vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.
Thông qua tìm hiểu, nghiên cứu về hoạt động huy động vốn và công tác kế toán huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ, bản khoá luận đã hoàn thành được một số nội dung sau:
Thứ nhất, hệ thống hoá được những vấn đề mang tính chất lý luận về hoạt động huy động vốn và công tác kế toán huy động vốn. Một NHTM muốn hoạt động đứng vững và ngày càng nâng cao vị thế của mình trên thị trường thì điều kiện cơ bản là phải đạt được mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn hàng năm và quản lý nguồn vốn đó thật tốt, tránh thất thoát. Việc khơi tăng nguồn vốn và quản lý nguồn đó là vấn đề khó khăn đối với bất cứ ngân hàng nào, đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có biện pháp hữu hiệu để đạt kết quả tốt nhất.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích những số liệu thực tế về thực trạng hoạt động huy động vốn, cũng như quy trình trong công tác kế toán huy động vốn của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ, đã rút ra những kết quả đạt được, những tồn tại, những nguyên nhân để từ đó khắc phục được những nhược điểm và phát huy những ưu điểm vốn có của chi nhánh.
Thứ ba, trên cơ sở tìm hiểu, phân tích những nhiệm vụ định hướng trong thời gian tới nhằm mục đích mở rộng hoạt động kinh doanh nói chung, huy động vốn nói riêng của chi nhánh; cá nhân tôi mạnh dạn đưa ra những giải pháp, kiến nghị, góp phần tháo gỡ những khó khăn vướng mắc để ngân hàng ngày một hoàn thiện hơn, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá nền kinh tế.
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của đề tài, bản khoá luận đã hoàn thành được những vấn đề trong công tác huy động vốn và kế toán huy động vốn của ngân hàng. Bản khoá luận đã đưa ra được những kiến nghị và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác mở rộng hoạt động huy động vốn cũng như công tác huy động vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hoàn thành bản khoá luận này em hy vọng sẽ đóng góp được một phần kiến thức, nhận thức và lý luận vào hoạt động thực tiễn hoạt động của ngân hàng.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp, khả năng nhận thức, tìm hiểu thực tế cùng với thời gian và kiến thức có hạn nên khoá luận không tránh khỏi những sai sót, hạn chế. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp, giúp đỡ, chỉ bảo của các thầy cô; cô chú, anh chị tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ để bản khoá luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của NGƯT Vũ Thiện Thập và toàn thể các cô chú, anh chị công tác tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ đã giúp đỡ em trong qua trình thực tập và hoàn thành bản khoá luận này.
Tài liệu tham khảo
1. Ngân hàng thương mại - Tổ chức và hiệu đính: PGS.TS. Lê Văn Tề & TS. Hồ Diệu
2. Giáo trình tiền tệ và ngân hàng - ĐH Thương mại - TS. Nguyễn Thị Phương Liên; TS. Nguyễn Văn Thanh; PGS.TS. Đinh Văn Sơn
3. Hoàn thiện cơ cấu chính sách nhằm đổi mới hoạt động ngân hàng trong điều kiện hội nhập - Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng
4. Giáo trình Quản trị và kinh doanh ngân hàng - Học viện Ngân Hàng
5. Giáo trình Quản trị và kinh doanh ngân hàng - Đại học Kinh tế Quốc dân
6. Lý thuyết tiền tệ - Học viện Ngân Hàng
7. Lý thuyết tài chính - Học viện Tài Chính
8. Các văn bản, quyết định, nghị định thuộc lĩnh vực nghiên cứu
- Quyết định 1278/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về phát hành giấy tờ có giá.
- Quyết định 479/2004/QĐ-NHNN về hệ thống tài khoản của tổ chức tín dụng.
- Quyết định số 02/2004/QĐ-NHNN về phát hành giấy tờ có giá.
- Quyết định 165/HĐQT-KHTH về nghiệp vụ kế toán huy động vốn.
- Và một số văn bản quyết định khác.
9. Các tạp chí Ngân hàng, tài chính, thị trường tiền tệ…
10. Giáo trình Marketing Ngân hàng - Học viện Ngân Hàng
mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0167.doc