Lời nói đầu
Sau hơn 10 năm đổi mới, các doanh nghiệp Nhà nước đạt được sự tăng trưởng kinh tế một cách hết sức khó khăn. Thực tế cho thấy muốn có một kết quả kinh tế tăng trưởng cao, một mặt các doanh nghiệp phải huy động các nguồn lực mới,mặt khác phải sử dụng chúng hết sức tiết kiệm, theo một quy hoạch cơ cấu mang tính dài hạn, tổng thể và có chiến lược. Công việc kinh doanh ngày nay không chỉ giới hạn trong nước, mà ngày càng có quan hệ mật thiết với khu vực và quốc tế. Do vậy, câu hỏi đặt r
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1630 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty xây dựng số 1 Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a đối với các doanh nghiệp Nhà nước là làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của mình cả trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế.
Với trình độ còn thấp, tiềm lực của các doanh nghiệp còn yếu hầu như trên tất cả các mặt thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả các doanh nghiệp. Làm thế nào để có đủ vốn, để sử dụng vốn và các nguồn lực khác có hiệu quả giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng trưởng, thoát khỏi nguy cơ phá sản và chiến thắng trên thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay.Đây đang là một bài toán khó đối với tất cả các doanh nghiệp.
Công ty xây dựng số 1 Hà Nội cũng không nằm ngoài quy luật đó. Từ khi thành lập (năm 1972), Công ty đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty đã ngày càng được nâng cao. Nhưng để duy trì và phát triển trong điều kiện hiện nay, Công ty cần phải cải tiến và nâng cao hơn nữa các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Vì vậy, qua thời gian thực tập tại Công ty xây dựng số 1 Hà Nội được sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo Trần Việt Lâm và các cô chú trong Công ty tôi đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp với đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở Công ty xây dựng số 1 Hà Nội , với mong muốn liên hệ, áp dụng lý thuyết vào thực tiễn để nâng cao nhận thức cũng như góp phần nhỏ bé kiến thức của mình vào hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty.
Bài viết gồm 3 phần:
Chương I : Hiệu quả sản xuất kinh doanh nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
Chương II : Thực trạng về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty xây dựng số 1 Hà Nội
Chương III : Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại công ty xây dựng số 1 Hà Nội
Qua luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Trần Việt Lâm và các thầy cô giáo trong khoa đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn các cô, các chú phòng Tổ chức lao động, phòng Tài vụ và phòng Kinh tế - Kế hoạch của Công ty xây dựng số 1 Hà Nội đã cung cấp tài liệu, thông tin và kinh nghiệm cho tôi trong thời gian thực tập tại Công ty.
Hà nội, tháng 6 năm 2001
Sinh viên
Lê xuân Thanh
Chương I
hiệu quả sản xuất kinh doanh nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
I/.Hiệu quả sản xuất kinh doanh và vai trò của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
1/.Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả sản xuất kinh doanh song có thể khẳng định trong cơ chế kinh tế thị trường mọi doanh nghiệp kinh doanh (doanh nghiệp Nhà nước, công ty TNHH, công ty cổ phần ) đều có mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này trước hết doanh nghiệp phải xác định chiến lược kinh doanh trong mọi giai đoạn phát triển phù hợp với những thay đổi của môi trường kinh doanh; phải phân bổ và quản trị có hiệu quả các nguồn lực và luôn kiểm tra xem phương án kinh doanh đang tiến hành là có hiệu quả hay không ? Muốn kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung cũng như từng lĩnh vực từng bộ phận công tác nói riêng,doanh nghiệp không thể không chú ý đến việc tính toán hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh với chi phí thấp nhất. Nó không chỉ là thước đo trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp.
Hiện nay mặc dù có sự thống nhất quan điểm cho rằng phạm trù hiệu quả kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh song lại khó tìm thấy sự thống nhất trong quan niệm về hiệu quả kinh doanh .
Nhà kinh tế học người Mỹ P.Samueleson cho rằng: “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá mà không cắt giảm sản lượng của một hàng hoá khác .Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó” .[Xem 1,Trang 407]
Đây là quan điểm phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh ở tầm vĩ mô,nó đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội.Trên phương diện này,việc phẩn bổ các nguồn lực kinh tế để đạt được việc sử dụng mọi nguồn lực trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả và trên lý thuyết thì đây là mức hiệu quả cao nhất mà một nền kinh tế có thể đạt được. Quan điểm này chỉ phản ánh sự phân bổ và quản trị có hiệu quả các nguồn lực chứ chưa phản ánh hết mức độ hiệu quả giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra và tính hiệu quả trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Quan điểm thứ hai cho rằng :"Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí.''[Xem 2,trang 253]
Quan niệm này mới chỉ đề cập đến hiệu quả kinh doanh của phần ''tăng thêm’’ chứ không phải toàn bộ phần tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nhưng nó cũng đã biểu hiện được quan hệ so sánh tương đối giữa giữa kết quả đạt được và chi phí tiêu hao. Nếu xét theo quan điểm của triết học Mác-Lênin thì mọi sự vật hiện tượng đều có mối quan hệ ràng buộc hữu cơ tác động qua lại lẫn nhau chứ không tồn tại một cách riêng lẻ, hơn nữa sản xuất kinh doanh là một quá trình trong đó các yếu tố tăng thêm có sự liên hệ mật thiết với yếu tố sẵn có,trực tiếp hoặc gián tiếp tác động làm kết quả sản xuất kinh doanh thay đổi. Như vậy theo quan điểm này tính hiệu quả kinh doanh chỉ được xem xét tới phần kết quả bổ xung hoặc cho chi phí bổ xung.
Quan điểm thứ ba của Manfred Kuhn cho rằng:'' Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh’’[Xem 1,trang 408] tức là hiệu quả kinh doanh được xác địng bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Quan điểm này đã gắn được kết quả với toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào. Tuy nhiên quan niệm này chưa biểu hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chi phí, chưa phản ánh mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này.
Quan điểm thứ tư cho rằng: “Hiệu quả là mối quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng tính theo đơn vị hiện vật (cái,kg...) và lượng các nhân tố đầu vào( giờ lao động, đơn vị thiết bị, nguyên vật liệu) được gọi là tính hiệu quả có tính chất kỹ thụât’’[Xem 1, trang 408]. Quan điểm này mới chỉ phản ánh về mặt lượng, tức là nêu nên mức năng suất của các yếu tố đầu vào và đầu ra, mới chỉ đề cập đến một khía cạnh của hiệu quả đó là năng suất tuy nhiên ưu điểm của quan điểm này là có thể so sánh năng suất của năm này so với năm khác với cùng một đơn vị đo. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng:''Mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí kinh doanh phải chi ra trong điều kiện thuận lợi nhất và chi phí kinh doanh thực tế phải chi ra được gọi là hiệu quả xét về mặt giá trị’’[Xem 3,trang 49] . Cũng như quan điểm trên thì quan điểm này cũng chỉ đề cập đến một khía cạnh của hiệu quả đó là chi phí, người ta có thể xác định chi phí kinh doanh thấp nhất trong điều kiện thuận lợi nhất, rồi đem so sánh chi phí thực tế phát sinh với chi phí đặt ra trước đó( chi phí kế hoạch ). Để đạt được hiệu quả chi phí kinh doanh thì phải phân bổ nguồn lực và quản trị có hiệu quả để giảm thiểu chi phí. Do vậy quan điểm này chưa xét tới toàn bộ quá trình hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Quan điểm thứ năm của nhà kinh tế học người Anh Adamsmit cho rằng:“Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá''[Xem 2,trang 253]. N hà kinh tế học người Pháp Ogiephri cũng quan niệm như vậy. ở đây hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Rõ ràng quan điểm này khó giải thích khi kết quả sản xuất kinh doanh có thể tăng do tăng chi phí, mở rộng sử dụng các nguồn lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả có hai mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này chúng ta có cùng hiệu quả .
Quan điểm thứ sáu cho rằng :''Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của CNXH, cho rằng quỹ tiêu dùng với tính cách là chỉ tiêu đại diện cho mức sống của mọi người trong doanh nghiệp''[Xem 2,trang254]. Quan điểm này có ưu điểm là đã bám sát mục tiêu của nền sản xuất XHCN là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song khó khăn ở đây là phương tiện đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Đời sống nhân dân nói chung và mức sống nói riêng rất đa dạng và phong phú nhiều hình, nhiều vẻ, phản ánh trong các chỉ tiêu mức độ thoả mãn nhu cầu hay mức độ nâng cao dời sống là điều kiện khó khăn.
Quan điểm thứ bảy cho rằng :“Hiệu quả kinh tế của một quá trình sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (nhân,tài,vật,lực,tiền vốn)để đạt được mục tiêu xác định''[Xem 4,trang9] .Quan điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ lợi dụng các nguồn lực ở mọi điều kiện “động”của hoạt động sản xuất kinh doanh .Với quan niệm này hoàn toàn có thể tính toán được hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh trong sự vận động và biến đổi không ngừng, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến đổi khác nhau của chúng.
Từ các quan điểm trên ,chúng ta có thể hiểu hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực,tài lực,vật lực và tiền vốn của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh với chi phí thất nhất.
Từ khái niệm này có thể đưa ra công thức chung đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh:
K
E1 =
C
(1)
Trong đó : Elà hiệu quả kinh doanh
K là kết quả đầu ra
C là yếu tố đầu vào
Công thức (1) phản ánh mỗi đơn vị đầu vào có khả năng tạo bao nhiêu đơn vị đầu ra và được dùng để xác định ảnh hưởng của hiệu quả sử dụng nguồn lực hay chi phí thường xuyên đến kết quả kinh tế.
Người ta cũng có thể đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh theo công thức:
C
E2 =
K
(2)
Trong đó : E2 hiệu quả kinh doanh
K là kết quả đầu ra
C là yếu tố đầu vào
Công thức (2) phản ánh một đơn vị đầu ra cần bao nhiêu đơn vị đầu vào và được dùng để xác định quy mô tiết kiệm hay lãng phí nguồn lực và chi phí thường xuyên.
2/.Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh
Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là đơn vị đo mức độ nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế, gắn liền với hai quy luật tương ứng của nền sản xuất xã hội là quy luật tăng năng suất lao động và quy luật tiết kiệm thời gian. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Tuy nhiên để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh doanh cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù hiệu quả và kết quả. Hiệu quả là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất.Trình độ lợi dụng các nguồn lực không thể đo bằng đơn vị hiện vật hay giá trị mà là một phạm trù tương đối. Còn kết quả là phạm trù phản ánh những cái thu được sau một quá trình kinh doanh nào đó. Kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp và được đo bằng các đơn vị hiện vật hoặc đơn vị giá trị.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh được phản ánh thông qua kết quả và chi phí. Chi phí là tất cả những gì mà doanh nghiệp hoặc bộ phận bỏ ra để đạt được, thực hiện được các kết quả đề ra trong thời kỳ tính toán. Chi phí ở đây bao gồm chi phí tạo ra nguồn lực, chi phí sử dụng nguồn lực và chi phí cơ hội.
Mỗi một doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình cần phải hoạch định chiến lược kinh doanh để đạt kết quả tối đa và chi phí tối thiểu, khi đó sẽ đạt được cả kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh .
3/.Đặc điểm của phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là khái niệm phức tạp và khó đánh giá chính xác. Sở dĩ như vậy là vì hiệu quả sản xuất kinh doanh được xác định bởi mối tương quan giữa hai đại lượng kết quả và chi phí mà hai đại lượng này đều khó xác định chính xác.
Về kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, rất ít khi gặp doanh nghiệp xác định chính xác kết quả ở bất kỳ một thời điểm nào, do quá trình tạo ra kết quả thường có sản phẩm dở dang, bán thành phẩm.Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp không chỉ tạo ra kết quả (sản phẩm,dịch vụ) mà còn phải bán được kết quả đó vào quá trình bán hàng và quá trình tạo ra kết quả đó luôn luôn không trùng nhau. Do vậy nếu doanh nghiệp sản xuất được nhiều sản phẩm song lại tiêu thụ được rất ít, như thế chưa thể nói doanh nghiệp đã đạt kết quả. Nếu xét trên giác độ giá trị, kết quả sản xuất kinh doanh còn chịu ảnh hưởng của thước đo giá trị - đồng tiền với những thay đổi của nó trên thị trường.
Việc xác định chính xác đại lượng chi phí cũng không dễ dàng. ở mọi doanh nghiệp, việc kiểm kê, kiểm tra xem đã sử dụng bao nhiêu đơn vị nguyên vật liệu mỗi loại không phải lúc nào cũng tiến hành được, lại còn nhiều loại nguồn lực đầu vào liên quan đến nhiều quá trình kinh doanh khác nhau. Xét về phương diện giá trị, việc tính toán bằng tiền còn thiếu chính xác hơn nhiều vì nó hàm chứa yết tố chủ quan của con người - Chi phí là chi phí tính toán. Hơn nữa không chỉ những chi phí trực tiếp trong sản xuất kinh doanh mới đem lại kết quả cho doanh nghiệp mà còn những chi phí cho hoạt động xã hội như giáo dục, cải tạo môi trường, sức khoẻ cũng tác động tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Mặt khác, giữa hai phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế -xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau. Hiệu quả kinh doanh xã hội chỉ đạt cao nhất nếu đảm bảo tiêu chuẩn hiệu quả Pareto vì lúc đó chi phí biên cho việc sản xuất mọi mặt hàng đúng bằng lợi ích biên của nó đối với người tiêu dùng,xã hội đạt được sự phân bổ nguồn lực sản xuất tối ưu.
Trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo quyết định của người sản xuất hướng theo chi phí biên (MC) bằng giá cả thị trường:P=MC=lợi ích biên của người tiêu dùng.Trong thực tế khi ra các quyết định sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp thường hướng vào mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận (chỉ chú ý tới hiệu quả sản xuất kinh doanh trước mắt) nên dẫn đến chi phí biên cá nhân (MPC) thấp hơn chí phí biên xã hội (MSC).Điều này dẫn đến sự tách biệt giữa kết quả và hiệu quả cá biệt xã hội.
Nhiều doanh nghiệp cố tình giảm thiểu chi phí cho việc sử lý chất thải, gây ô nhiễm môi trường,ảnh hưởng đến cả một khu vực rộng lớn, cuối cùng sẽ dẫn đến đóng cửa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng các biện pháp pháp luật. Như vậy kết quả và hiệu quả đạt được trước mắt của doanh nghiệp đã dẫn đến không có hiệu quả và thậm chí phi hiệu quả kinh doanh nếu xét trong thời gian dài.
4/.Sự cần thiết của nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp nước ta hiện nay
Để tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng đều phải tập hợp các phương tiện vật chất cũng như con người và thực hiện sự kết hợp lao động với các yếu tố vật chất để tạo ra kết quả phù hợp với ý đồ của doanh nghiệp.Mục tiêu bao trùm, lâu dài của mọi doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận,tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở nguồn lực sẵn có.Để đạt được mục tiêu này quản trị doanh nghiệp phải dùng nhiều biện pháp khác nhau.Hiệu quả kinh doanh là một trong các công cụ để các nhà quản trị thực hiện các chức năng quản trị của mình.Việc xem xét và tính toán hiệu quả kinh doanh không những chỉ cho biết việc sản xuất đạt ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích,tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả.
Thực tế phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới và ở Việt nam đã cho thấy, muốn phát triển một doanh nghiệp phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản là: sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai ? Tuy nhiên nếu nguồn tài nguyên là vô hạn thì vịêc xem xét giải quyết ba vấn đề trên sẽ không còn là vấn đề quan trọng. Người ta có thể sản xuất hàng hoá một cách không hạn chế và sử dụng kết quả thiết bị máy móc, nguyên vật liệu, lao động một cách không không ngoan cũng chẳng sao. Nhưng trên thực tế nguồn lực là một phạm trù hữu hạn, ngày càng khan hiếm và cạn kiệt do con người khai thác và sử dụng chúng, trong khi đó ,nhu cầu của con người lại là một phạm trù vô hạn. Nhu cầu không có giới hạn - càng nhiều, càng phong phú, càng có chất lượng cao càng tốt. Do vậy của cải đã khan hiếm lại càng khan hiếm hơn theo cả nghĩa tuyệt đối và tương đối của nó.Khan hiếm đòi hỏi và buộc con người phải nghĩ đến việc lựa chọn kinh tế tối ưu. Nhưng khan hiếm mới chỉ là điều kiện cần để buộc con người phải lựa chọn kinh tế .
Điều kiện đủ cho sự lựa chọn kinh tế là cùng với sự phát triến của kỹ thuật sản xuất thì càng ngày càng có nhiều phương pháp khác nhau để chế tạo sản phẩm. Kỹ thuật sản xuất phát triển cho phép với cùng những nguồn lực đầu vào nhất định, người ta có thể tạo ra rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Điều này cho phép các doanh nghiệp có khả năng lựa chọn kinh tế,lựa chọn sản xuất kinh doanh sản phẩm(cơ cấu sản phẩm) tối ưu. Sự lựa chọn đúng đắn sẽ mang lại cho doanh nghiệp hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất, thu được nhiều lợi ích nhất.
Như vậy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tức là nâng cao khả năng sử dụng các nguồn lực có hạn trong sản xuất, đạt được sự lựa chọn tối ưu.Trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực sản xuất thì nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là điều kiện không thể không đặt ra đối với bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào.
Trong cơ chế thị trường ,việc giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản dựa trên quan hệ cung cầu, giá cả thị trường, cạnh tranh và hợp tác. Các doanh nghiệp phải tự ra quyết định kinh doanh của mình, tự hạch toán lỗ,lãi,lãi nhiều hưởng nhiều, lãi ít hưởng ít, không có lãi sẽ đi đến phá sản.Lúc này, mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu quan trọng nhất, mang tính chất sống còn của sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau để tồn tại và phát triển. Môi trường cạnh tranh khá gay gắt do đó có doanh nghiệp trụ vững và phát triển sản xuất nhưng cũng có không ít doanh nghiệp bị thua lỗ, dẫn đến phải giải thể, phá sản. Để có thể trụ lại trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải luôn nâng cao chất lượng sản phẩm,giảm chi phí sản xuất, nâng cao uy tín...nhằm đạt tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Do vậy đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề quan tâm của doanh nghiệp và trở thành điều kiện sống còn của doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay,nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là vấn đề rất được quan tâm.Do hiện nay, hầu hết các máy móc, thiết bị sử dụng ở phần lớn các doanh nghiệp trong nước là máy móc, thiết bị lạc hậu, lỗi thời,trình độ công nghệ kém so với thế giới nên làm cho mức hao phí nguyên nhiên vật liệu là rất lớn nhưng chất lượng sản phẩm là không cao:'Trong thời gian qua chỉ có 70% sản phẩm đạt tiêu chuẩn nội địa và 15% đạt tiêu chuẩn xuất khẩu’’(Kinh tế học của tổ chức phát triểnKTQD VN-PTS Phan Thanh Phố).Trong những năm qua trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh chỉ có 10% doanh nghiệp đầu tư với số vốn trên 10 tỷ đồng/doanh nghiệp,còn 90% số doanh nghiệp còn lại có mức đầu tư thấp hơn. Phần lớn các doanh nghiệp mới chỉ hoạt động 50%-60% công suất hiện có. “Trong năm 1999 có 587 doanh nghiệp còn lỗ với số tiền lỗ lên đến 385 tỷ đồng, bình quan mỗi doanh nghiệp lỗ là 655,8 triệu đồng .Nếu tính cả 480 doanh nghiệp trong năm hoà vốn thì số doanh nghiệp lỗ và không có lãi lên đến 1067 doanh nghiệp chiếm 17% tổng doang nghiệp Nhà nước”(KTXHVN-Thực trạng xu thế và giải pháp-PTS Lê mạnh Hùng). Hiệu qủa kinh doanh của các doanh nghiệp còn thấp, do các doanh nghiệp thường có quy mô nhỏ, khả năng cạnh tranh kém, thiếu vốn, khó khăn về thị trường tiêu thụ, nên mức lãi chưa cao. Như vậy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là mục tiêu cơ bản, quan trọng, đồng thời nó còn phản ánh sự sống còn của mỗi doanh nghiệp vì nó là điều kiện kinh tế cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
II/.Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh
Phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù rộng,vì vậy có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh và có rất nhiều cách để phân loại nhân tố đó. Thông thường người ta chia các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh làm hai nhóm . Nhóm nhân tố bên trong và nhóm nhân tố bên ngoài.
A/.Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp
1/.Lực lượng lao động
Khoa học kỹ thuật công nghệ ngày nay đã trở thành lực lượng lao động trực tiếp. Mỗi một doanh nghiệp áp dụng kỹ thuật tiên tiến là điều kiện tiên quyết để tăng hiệu quả sản xuất.Tuy nhiên, chỉ trang bị máy móc thiết bị thôi thì chưa đủ mà một vấn đề quan trọng nữa là vai trò của người lao động. Máy móc thiết bị dù có tối tân hiện đại đến đâu cũng đều do con người chế tạo ra. Máy móc thiết bị dù có hiện đại đến đâu cũng phải phù hợp với trình độ tổ chức,trình độ kỹ thuật,trình độ sử dụng của người lao động thì mới phát huy được tác dụng,tránh lãng phí,hỏng hóc.
Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp nhập tràn lan thiết bị hiện đại của nước ngoài nhưng do trình độ sử dụng yếu kém nên vừa không đem lại năng suất cao lại vừa tốn tiền bảo dưỡng,sửa chữa vì hỏng hóc do không biết sử dụng, hoặc sử dụng không hết công suất, gây thiệt hại lớn cho hoạt động sản suất , kết cục là hiệu quả kinh doanh rất thấp.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,lực lượng lao động của doanh nghiệp tác động trực tiếp tới hiệu quả sản xuất kinh doanh theo các hướng:
-Nếu trình độ lao động là tương ứng thì sẽ góp phần vận hành có hiệu quả các yếu tố vật chất trong quá trình kinh doanh.
-Nếu cơ cấu lao động phù hợp sẽ góp phần sử dụng có hiệu quả bản thân yếu tố lao động trong sản xuất kinh doanh đồng thời góp phần tạo lập và điều chỉnh mối quan hệ tỷ lệ hợp lý giữa các yếu tố trong quá trình kinh doanh.
-ý thức , tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động ...là các yếu tố cơ bản, quan trọng để phát huy nguồn lực lao động trong quá trình kinh doanh. Do đó để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh thì mỗi doanh nghiệp cần phải tạo cho mình một đội ngũ lao động có kỷ luật, có kỹ thụât và chấp hành các quy định trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngày nay, sự phát triển khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức, đòi hỏi lực lượng lao động phải là lực lượng rất tinh nhuệ, có trình độ kỹ thuật cao. Điều này khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của lực lượng lao động đối với việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2/.Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất
Nhân tố này tác động vào hiệu quả sản xuất kinh doanh theo các hướng:
-Kỹ thuật và công nghệ sẽ tác động tới việc tiết kiệm chi phí vật chất trong quá trình kinh doanh từ đó để chúng ta sử dụng hợp lý,tiết kiệm chi phí vật chất trong kinh doanh.
Cơ sở vật chất là nhân tố rất quan trọng trong việc tăng năng suất,chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm. Chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp bị tác động mạnh mẽ bởi trình độ hiện đại, tính đồng bộ, tình hình bảo dưỡng, duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị, công nghệ.
Thực tiễn nước ta hiện nay, nhiều doanh nghiệp cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất yếu kém ; máy móc, thiết bị sản xuất vừa lạc hậu, vừa không đồng bộ đồng thời việc quản lý sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật cũng không được chú trọng nên nhiều doanh nghiệp không phát huy được năng lực hiện có của mình.
-Ngày nay, công nghệ kỹ thuật phát triển nhanh chóng,chu kỳ công nghệ ngày càng ngắn và hiện đại hơn do đó nó có vai trò ngày càng lớn và mang tính chất quyết định đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Do vậy các doanh nghiệp phải tìm giải pháp đầu tư đúng đắn,chuyển giao công nghệ phù hợp với trình độ công nghệ tiên tiến của thế giới,bồi dưỡng và đào tạo lực lượng lao động làm chủ được công nghệ kỹ thuật hiện đại...để làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3/.Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin
Trong thời đại bùng nổ về khoa học công nghệ thông tin như hiện nay, thông tin và hệ thống xử lý thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị tường.Thông tin được coi là hàng hoá,là đối tượng lao động của các nhà kinh doanh. Mỗi một doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh để đạt được thành công thì cần rất nhiều thông tin chính xác về thị tường, về công nghệ kỹ thuật, về người mua, về các đối thủ cạnh tranh,về giá cả đồng thời doanh nghiệp cũng cần phải biết về sự thành công hay thất bại của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, về sự thay đổi chính sách của Nhà nước và của nước ngoài để có các chiến lược kinhdoanh trong tương lai .
Những thông tin kịp thời ,chính xác sẽ giúp doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh và hoạch định các chương trình sản xuất kinh doanh trong ngắn hạn đồng thời xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn từ đó doanh nghiệp xác định phương án sản xuất tối ưu nhằm đem lại hiệu quả sản xuất kinh doanh lớn.
4/.Nhân tố quản trị
Trong kinh doanh nhân tố quản trị có vai trò vô cùng quan trọng: Quản trị doanh nghiệp có vai trò xác định cho doanh nghiệp có một hướng đi đúng trong hoạt động kinh doanh,xác định chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Chất lượng của chiến lược kinh doanh là nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất quyết định sự thành công, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hay thấp, đối với một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Mỗi một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải chiến thắng trong cạnh tranh, với các lợi thế về chất lượng và sự khác biệt hoá sản phẩm ,giá cả và tốc độ cung ứng.Để đảm bảo cho doanh nghiệp giành chiến thắng trong cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu vào nhãn quan và khả năng quản trị của các nhà quản trị doanh nghiệp.
Quản trị kinh doanh thể hiện sự kết hợp giữa kiến thức khoa học và nghệ thuật kinh doanh của các nhà quản trị doanh nghiệp. Đặc biệt là cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp bằng phẩm chất và tài năng của mình có vai trò quan trọng bậc nhất, có ý nghĩa quyết định đối với việc duy trì ,phát triển một tổ chức, một công ty.
Mặc dù hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp chịu tác động từ rất nhiều nhân tố nhưng nhân tố quản trị doanh nghiệp là một trong những nhân tố có tác động mạnh mẽ nhất. Do đó mỗi doanh nghiệp cần phải chú ý phát triển nhân tố quản trị nhằm đạt hiệu qủa sản xuất kinh doanh cao hơn.
5/.Nhân tố tính toán kinh tế
Hiệu quả sản xuất kinh doanh được xác định bởi tương quan giữa hai đại lượng kết quả thu được và chi phí bỏ ra.Cả hai đại lượng đều phức tạp và khó đánh giá chính xác. Cùng với sự phát triển của khoa học quản trị kinh doanh càng ngày người ta càng tìm ra phương pháp đánh giá đảm bảo dần dần tiếp cận với tính “thật” của hai đại lượng này.Trong hai đại lượng đó nếu xét trên phương diện giá trị và coi lợi nhuận là kết quả thu được, chi phí là cái bỏ ra thì cả kết quả và chi phí đều có quan hệ biện chứng với nhau và chúng đựơc biểu diến như sau:
= TR - TC
Trong đó:
:là lợi nhuận
TR :là tổng doanh thu
TC :là tổng chi phí
Sự khó xác định trước hết ở quan niệm về hai yếu tố này và cần chú ý rằng cái gì là lợi nhuận thì sẽ không phải là chi phí và ngược lại, cái gì được quan niệm là chi phí sẽ không phải là lợi nhuận .Có rất nhiều dẫn chứng để chứng tỏ sự không thống nhất trong quan niệm này,ví dụ trước đây chúng ta quan niệm thuế nằm trong phạm trù lợi nhuận và là một phần của lợi nhuận.Do vậy ảnh hưởng của tính toán kinh tế đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là nằm ở sự phức tạp trong quan niệm về hai yếu tố này.
B/.Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Bất kỳ một doanh nghiệp nào,hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực gì,suy cho cùng chỉ là một trong những phần tử cấu thành nền kinh tế quốc dân.Ngày nay trong hoàn cảnh thương mại quốc tế đang phát triển mạnh mẽ thì doanh ghiệp có thể coi là một bộ phận cấu thành nền kinh tế thế giới.Do vậy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu tác động lớn từ môi trường bên ngoài, bao gồm : : :
1/.Môi trường pháp lý: Bao gồm luật,các văn bản dưới luật,quy trình kỹ thuật sản xuất, tất cả các quy phạm pháp luật về sản xuất kinh doanh đều tác động trực tiếp tới kết quả và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh bởi một môi trường pháp lý lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành thuận lợi các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đồng thời sẽ điều chỉnh các hoạt động kinh tế vi mô tức là doanh nghiệp không những chỉ chú ý đến kết quả và hiệu quả riêng mà còn phải chú ý đến lợi ích của các thành viên khác trong xã hội.
2/.Môi trường kinh tế: là các nhân tố bên ngoài tác động rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp như các chính sách đầu tư,chính sách cơ cấu, lạm phát,biến động tiền tệ,hoạt động của đối thủ cạnh tranh,là các nhân tố tác động trực tiếp tới các quyết định cung cầu của từng doanh nghiệp và từ đó tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả của hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp
3/.Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng: như hệ thống đường giao thông ,hệ thống thông tin liên lạc ,điện,nước,cũng như sự phát triển của giáo dục và đào tạo(trình độ dân trí), đều là những nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Một doanh nghiệp Nếu có những điều kiện thuận lợi như nằm ngay trên trục đường giao thông chính,gần nguồn nguyên vật liệu,gần khu dân cư đông đúc,thì sẽ giảm được các chi phí,tăng khả năng tiêu thụ,từ đó đạt hiệu quả kinh doanh của mình.
Trình độ dân trí cũng tác động rất lớn đến chất lượng của lực lượng lao động xã hội do đó tác động trực tiếp đến nguồn nhân lực của doanh nghiệp .Chất lượng của đội ngũ lao động lại là n._.hân tố bên trong ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
III/. Xây dựng ngành sản xuất vật chất đặc thù trong nền kinh tế quốc dân
1/.Tình hình phát triển và vai trò của ngành xây dựng trong quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước
1.1/.Tình hình phát triển
Trong những năm qua, cùng với quá trình dổi mới ngành xây dựng đã có những bước phát triển nhanh chóng.Điều đó được thể hiện rõ qua tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành xây dựng cũng như đóng góp của ngành xây dựng trong GDP toàn nền kinh tế.
Trong những năm gần đây ,công cuộc xây dựng của đất nước ta đã phát triển một cách nhanh chóng ,nó được coi là một trong những ngành kinh tế quốc dân có tốc độ tăng trưởng khá cao.Từ năm 1992 đến nay,lĩnh vực xây dựng luôn có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng GDP''11.Đây là một thành công lớn trong ngành xây dựng nước ta .
Cùng với công cuộc tăng cường xây dựng đó,thì ngành xây dựng cũng không ngừng phát triển và đi lên.Có thể nói đây là thời kỳ sôi động nhất từ trước đến nay của ngành xây dựng Việt nam và nó vẫn còn tiếp tục sôi động trong thời gian tới với chiến lược :“Khẩn trương tạo nền tảng kinh tế kỹ thuật cho sự phát triển của những năm đầu thế kỷ 21 và xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa”.
1.2/.Vai trò của ngành xây dựng trong quá trình CNH-HĐH đất nước
Xây dựng là một trong những ngành sản xuất vật chất lớn nhất(ngành cấp I)của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò chủ chốt ở khâu cuối cùng của quá trình sáng tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật và tài sản cố định cho mọi lĩnh vực hoạt động của đất nước.Có thể nói không một ngành sản xuất nào,không một hoạt động văn hoá nào là không sử dụng sản phẩm của ngành xây dựng.
-Các công trình xây dựng luôn có tính chất kinh tế,kỹ thuật,văn hoá,nghệ thuật và xã hội tổng hợp.Một công trình mới được xây dựng thường được kết tinh của các thành quả khoa học, kỹ thuật của ngành.Vì vậy các công trình xây dựng có tác dụng quan trọng đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế,đẩy mạnh việc phát triển khoa học kỹ thuật ,góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân,góp phần phát triển văn hoá và nghệ thuật kiến trúc,có tác động quan trọng đến môi trường sinh thái.
-Hoạt động xây dựng cơ bản được thực hiện ở các giai đoạn khác nhau(như thiết kế,thi công)ứng với các giai đoạn này là các bộ phận,các đơn vị.Các bộ phận,đơn vị đó cũng được xem là các dơn vị snả xuất trực tiếp như các doanh nghiệp khác và nó cũng tạo ra sự tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân thông qua các hình thức như nộp thuế cho nhân sách nhà nước.
-Ngành xây dựng sử dụng một lượng vốn lớn của xã hội ,do đó một sai lầm trong ngành xây dựng có thể dẫn đến lãng phí lớn rất khó sửa hcữa trong nhiều naưm(ví dụ như nhà hát chèo Kim Mã).Theo dự báo,để nâng cao thu nhập tính trên một đầu người lên gấp đôi như mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra,thời kỳ 1996-2010 hàng năm vốn đầu tư toàn xã hội lên tới 7 tỷ đến 10 tỷ USD,số tiền này phần lớn phải để xay dựng công trình.Như vậy vai trò nhiệm vụ của ngành xây dựng trong thời gian tới là rất lớn.
-Trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước ,hoạt động xây dựng cơ bản góp phần to lớn vào việc tạo ra cơ sở hạ tầng cho các ngành khác,đồng thời xây dựng còn là ngành tạo ra khả năng xoá bỏ khoảng cách khac biệt giữa thành thị và nông thôn, nâng cao trình độ văn minh và đời sống dân cư,cải tạo bộ mặt của đất nước.
2/.Đặc điểm kinh tế-kỹ thuật của ngành xây dựng
2.1/.Đặc điểm của ngành xây dựng
Hoạt động xây dựng cơ bản (XDCB)là những hoạt động nhằm tạo ra những tài sản cố định(đó chính là những công trình sử dụng lâu dài trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân)thông qua các hình thức như: Xây dựng mới,cải tạo mở rộng,sửa chữa lớn, khôi phục...nó là một trong những lĩnh vực sản xuất vật chất lớn nhất của nền kinh tế quốc dân. Nhiệm vụ của ngành xây dựng là trực tiếp thực hiện và hoàn thiện khâu cuối cùng của quá trình hình thành tài sản cố định(thể hiện ở những công trình nhà xưởng bao gồm cả thiếp bị, công nghệ được lắp đặt kèm theo) cho toàn bộ các lĩnh vực sản xuất của nền kinh tế quốc dân và các lĩnh vực phi sản xuất khác.Tuy nhiên nhiệm vụ chủ yếu của ngành xây dựng là kiến tạo các kết cấu công trình để làm vật bao che,nâng đỡ,lắp đặt các máy móc cần thiết vào công trình để đưa chúng vào sử dụng.
Theo thống kê cho thấy chi phí công tác xây lắp thể hiện phần tham gia của ngành công nghiệp xây dựng trong việc sáng tạo ra tài sản cố định chiếm từ 40%-60% (cho công trình sản xuất) và 75% -90% (cho công trình phi sản xuất). Phần giá trị thiếp bị máy móc lắp đặt vào công trình thể hiện phần tham gia của ngành chế tạo máy ở đây chiếm 30%-52% ( cho công trình sản xuất). 0%-15% (cho công trình phi sản xuất). Giá trị tài sản cố định sản xuất của ngành công nghiệp xây dựng kể cả các ngành liên quan đến việc phục vụ cho ngành xây dựng cơ bản như vật liệu xây dựng, chế tạo máy chiếm khoảng 20% tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân. Còn theo số liệu của nước ngoài, thì phần sản phẩm của ngành xây dựng chiếm khoảng 11% tổng sản phẩm xã hội, lực lượng lao động chiếm 14% lực lượng lao động của khu vực sản xuất vật chất.
2.2/.Các đặc điểm của sản phẩm xây dựng
Sản phẩm trực tiếp của ngành công nghiệp xây dựng chỉ bao gồm các công việc kiến tạo các kết cấu xây dựng làm chức năng bao che và nâng đỡ, các công việc lắp đặt thiết bị máy móc cần thiết vào công trình xây dựng để đưa chúng vào hoạt động.
Như vậy sản phẩm xây dựng có những đặc điểm sau:
-Sản phẩm của ngành xây dựng là sản phẩm đơn chiếc ,quá trình sản xuất diễn ra rời rạc,không liên tục,việc kết tinh giá trị lao độngvà đối tượng lao động trong mỗi sản phẩm là khác nhau.
-Sản phẩm của ngành xây dựng là những công trình nhà cửa được xây dựng và sử dụng tại chỗ,cố định tại địa điểm xây dựng và phân bố tản mạn ở nhiều nơi trên lãnh thổ.Đặc điểm này làm cho sản xuất kinh doanh có tính chất lưu động cao và thiếu ổn định.
-Sản phẩm của ngành xây dựng phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện địa phương mang nhiều tính cá biệt cao về công dụng,về cách cấu tạo và phương pháp chế tạo.
-Sản phẩm xây dựng thường có kích thước lớn,chi phí lớn ,thời gian xây dựng, sử dụng lâu dàivà khó sửa chữa.
-Sản phẩm xây dựng mang tính chất tổng hợp về kỹ thuật,kinh tế,văn hoá,nghệ thuật và quốc phòng.
2.3/.Những đặc điểm của sản xuất trong xây dựng
-Tình hình và điều kiện sản xuất trong xây dựng thiếu ổn định,luôn biến động theo địa điểm xây dựng và giai đoạn xây dựng của công trình.Cụ thể trong xây dựng con người và công cụ luôn phải di chuyển từ công trình này sang công trình khác còn sản phẩm xây dựng thì lại đứng yên.Các phương án xây dựng về mặt kỹ thuật và tổ chức sản xuất cũng phải luôn luôn thay đổi theo từng địa điểm và giai đoạn xây dựng. Điều này gây khó khăn cho việc tổ chức sản xuất ,khó cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động,làm phát sịnh nhiều chi phí cho khâu di chuyển lực lượng sản xuất và cho công trình tạm phục vụ sản xuất.
-Chu kỳ sản xuất thường dài,dẫn tơí vốn đầu tư bị ứ đọng tại công trình,đồng thời làm tăng các khoản phụ phí thi công khác như chi phí bảo vệ, chi phí hành chính.
-Sản xuất xây dựng phải tiến hành theo đơn đặt hàng cho từng trường hợp cụ thể, vì sản xuất kinh doanh rất đa dạng,có tính chất cá biệt cao và chi phí lớn.Sản phẩm xây dựng không thể sản xuất hàng loạt để bán trừ một số trường hợp rất hiếm hoi chủ đầu tư làm sẵn một số nhà để bán,tuy nhiên trong trường hợp này mỗi nhà cũng đều có đặc điểm riêng do điều kiện địa chất và địa hinhf đem lại.
-Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp,số lượng đơn vị tham gia xây dựng rất lớn,các đơn vị tham gia xây dựng công trình phải có mặt tại công trình đang thi công theo một trình tự nhất định về thời gian và không gian. Do đó các tổ chức xây dựng phải có sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình sản xuất ,thi công.
-Sản xuất xây dựng phải tiến hành ngoài trời ,nên chịu nhiều ảnh hưởng của thời tiết, điều kiện làm việc nặng nhọc.Tác động của thời tiết như :mưa,gió,bão làm ngưng trệ tiến độ thi công công trình do đó doanh nghiệp xây dựng cần phải lập kế hoạch để có tiến độ thi công hợp lý tránh những rủi ro lớn do thời tiết xấu gây ra.
-Sản xuất xây dựng chịu ảnh hưởng của lợi nhuận chênh lệch do điều kiện của địa điểm xây dựng gây nên.
3/.Phương pháp sử dụng trong quá trình phân tích
Do đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành xây dựng để xác định xu hướng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích, bài viết sử dụng phương pháp loại trừ để nghiên cứu ảnh hưởng của một nhân tố nào đó bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác. Phương pháp loại trừ được sử dụng để phân tích dưới hai dạng :
-Thay thế liên hoàn: đây là phương pháp xác định ảnh hưởng của nhân tố bằng cách thay thế lần lượt và liên tiếp các nhân tố từ giá trị kỳ gốc sang kỳ phân tích để xác định trị số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó so sánh trị số của chỉ tiêu vừa tính được với trị số của chỉ tiêu chưa có biến đổi của nhân tố cần xác định sẽ tính được mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó.
Đặc điểm và điều kiện của thay thế liên hoàn.
+Sắp xếp các nhân tố ảnh hưởng và xác định ảnh hưởng.Có bao nhiêu nhân tố thì thay thế bấy nhiêu lần. Giá trị của nhân tố đã thay thế được giữ nguyên bằng giá trị ở kỳ phân tích cho đến lần thay thế cuối cùng.
+Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố đó và so sánh với số liệu biến động tuyệt đối của chỉ tiêu(kỳ phân tích so với kỳ gốc)
Vậy chúng ta có thể khái quát mô hình của phép thay thế liên hoàn với 3 nhân tố sau:
Phương pháp thay thế liên hoàn
Phương pháp số chênh lệch
Nếu có : Q0 = a0b0c0 và Q1 = a1b1c1
Q = Q1 – Q0 = Da + Db + Dc
Da= a1b0c0 – a0b0c0
Db= a1b1c0 –a1b0c0
Dc= a1b1c1 – a1b1c0
Q = abc
DQa = (a1 – a0)b0c0
DQb = (b1- b0) a1c0
DQc = (c1- c0) a1b1
DQ = DQa + DQb + DQc
Phương pháp số chênh lệch: thực chất của phương pháp này là hình thức biến tướng của phương pháp thay thế liên hoàn .Nó khác ở chỗ khi xác định ảnh hưởng của nhân tố ,người ta xác định thông qua chênh lệch trị số của chính bản thân nhân tố đó.
chương II
Thực trạng về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty xây dựng số 1 hà nội
I/. Giới thiệu chung về Công ty
1/ Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty xây dựng số 1 Hà nội
Công ty Xây dựng nhà ở số 1 Hà nội (HANOI CONSTRUCTION COMPANY NO 1) là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Sở xây dựng Hà nội được thành lập theo quyết định số 626/QĐ - UB ngày 25 tháng 1 năm 1972 của Uỷ ban hành chính thành phố Hà nội và được thành lập lại theo quyết định số 129/Q-UB ngày 10 tháng 2 năm 1993 của UBND thành phố Hà nội.
Từ năm 1972 đến năm 1976 Công ty thực hiện nhiệm vụ của thành phố Hà nội: Đáp ứng nhu cầu về nhà ở cho CBCNV và nhân dân lao động ,Công ty đã tiến hành xây dựng các khu nhà lắp ghép hai tầng ở khu ngoại ô Hà nội như: khu nhà ở tập thể Yên Lãng ,Trương Định .Lúc mới hình thành do chưa được đầu tư ,năng lực chưa đủ mạnh ( chỉ dựa trên cơ sở sẵn có của hai Công ty lắp ghép 1 và lắp ghép 2 sát nhập lại) nên sản lượng của Công ty chỉ đạt được từ 10.000 m2 - 13.000 m2 nhà ở lắp ghép 2 tầng hàng năm.
Từ năm 1977 đến năm 1990 ,Công ty đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong thi công và quản lý và đã xây dựng nhiều loại hình nhà ở mới bằng phương pháp lắp ghép .Loại nhà lắp ghép 4 tầng như khu vực Khương Thượng -Trung Tự -Đống Đa. Loại nhà lắp ghép 5 tầng như Bách Khoa -Thành Công -Giảng Võ - Nghĩa Đô, sản lượng hàng năm của Công ty từ 25000 m2 - 28000 m2 nhà ở lắp ghép cao tầng. Cá biệt có năm đạt cao nhất là 32000 m2 nhà ở được bàn giao. Đạt được sản lượng như vậy là do năng lực của Công ty đã được đầu tư ngày càng lớn,chủ yếu thi công bằng cơ giới. Lực lượng lao động của Công ty lên tới 3.000 người, bao gồm các công nhân kỹ thuật như: lái cẩu, lái xe; các loại công nhân kỹ thuật khác có trình độ và tay nghề vững vàng, được tổ chức hợp lý nên đã thi công hoàn chỉnh các căn hộ có chất lượng tốt. Đặc biệt từ năm 1978 đến năm 1979 Công ty đã thi công công trình nhà ở 11 tầng, nay là khách sạn Thăng Long ,Giảng Võ, đây là công trình có số tầng cao nhất của Thủ đô Hà nội lúc đó .Công trình đạt chất lượng tốt và đưa vào sử dụng có hiệu quả.
Vào thời điểm năm 1990 trong điều kiện nền kinh tế chuyển từ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, một loạt các khó khăn xuất hiện .Từ chỗ Nhà nước đảm bảo việc làm cho cán bộ công nhân viên, đảm bảo điều kiện làm việc cho công nhân , chăm lo đời sống cho các cán bộ công nhân viên đến chỗ Công ty phải tự lo liệu lấy việc làm ,tự hạch toán kinh doanh,lời ăn, lỗ chịu.Kế hoạch Nhà nước giao cho Công ty không đáng kể ,vấn đề đặt ra cho Công ty là làm sao tìm được việc làm cho công nhân để công nhân có việc làm phù hợp với khả năng của mình vừa có thu nhập và đảm bảo đời sống. Lãnh đạo của Công ty đã mạnh dạn mở ra một hướng mới là nhận các công trình ngoài việc xây dựng nhà theo phương pháp lắp ghép.Công ty chuyển sang hướng mới là xây dựng nhà khung ,xây tay thay cho nhà lắp ghép.Một loạt vấn đề đặt ra: Công nhân xây dựng chủ yếu quen phương pháp lắp ghép nay chuyển sang xây tay còn nhiều bỡ ngỡ, tay nghề thấp. Công trình nhận ngoài không những phải đảm bảo yêu cầu về kỹ thuật mà còn phải đảm bảo về mặt mỹ thuật cho nên một số đơn vị không có việc làm vì số lượng công nhân lành nghề là rất ít ,công nhân phổ thông thì thừa nhiều hoặc một số thợ trái tay nghề nên không bố trí được công việc phù hợp .Trong tình hình đó Công ty tiến hành sắp xếp lại bộ máy sản xuất từ Công ty đến các đơn vị sao cho gọn nhẹ nhưng có hiệu quả trong sản xuất như : giải tán hoặc sát nhập một số đơn vị đồng thời cũng thành lập một số đội mới cho phù hợp với điều kiện môi trường kinh doanh của Công ty .
Mặt khác ,trong những năm gần đây số công trình thuộc vốn ngân sách được giao ngày càng ít nên công ty đã khai thác mọi tiềm năng sẵn có về đất đai, thiết bị lao động, mạnh dạn vay vốn ngân hàng để xây dựng nhà ở để bán, đồng thời tăng cường liên doanh liên kết với các Công ty bạn và với nước ngoài, mở rộng đa dạng hoá các sản phẩm xây dựng ,làm các công trình kỹ thuật hạ tầng,xây dựng các hệ thống cấp nước ,thoát nước có sản lượng lớn và tính chất kỹ thuật tương đối phức tạp... nên đã đảm bảo được đời sống của cán bộ công nhân viên và các nghĩa vụ với Nhà nước.
Một số công trình tiêu biểu trong các năm qua là :Trung tâm giao dịch thuỷ sản Seapodex, các biệt thự làng Vạn Phúc ,làng Việt Nhật ,chợ Đồng Xuân, Viện Triết học...
Sắp tới Công ty thực thi dự án liên doanh với Pacific Hà Nội Invesment Pte.Ltd và All Pacific Invesment Pte.Ltd của Nhật Bản xây dựng công trình 16 tầng tại 25 Láng Hạ-Hà nội.
Trong chiến lược phát triển Công ty từ nay đến năm 2005 Công ty tăng cường đầu tư theo chiều sâu,trang thiết bị ,đào tạo và đào tạo lại cán bộ ,tăng cường công tác tổ chức quản lý, tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để đáp ứng với yêu cầu xây dựng hiện đại của thủ đô.
Qua 28 năm xây dựng và trưởng thành ,Công ty xây dựng nhà ở số 1 Hà nội đã đạt được những thành tựu to lớn góp phần tạo lên cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nước ta. Quá trình lớn mạnh của Công ty gắn liền với sự phát triển xây dựng tại Việt Nam nói chung và Sở xây dựng nói riêng.
2/ Chức năng,nhiệm vụ của Công ty xây dựng số 1 Hà nội
a . Chức năng :
Ngày nay đất nước ta đang chuyển sang một cơ chế mới , cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước ,điều này có nghĩa là sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có sự quản lý của Nhà nước. Công ty xây dựng số 1 Hà nội trực thuộc Sở xây dựng Hà nội do đó chịu sự quản lý của Sở xây dựng Hà nội và có các chức năng chủ yếu được giao sau:
Xây dựng nhà ở
Xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng
Kinh doanh nhà
Kinh doanh dịch vụ .
Với số vốn của ngân sách Nhà nước và vốn tự có, Công ty cùng với cả nước bước vào nền kinh tế thị trường do đó Công ty tự hạch toán độc lập nghĩa là tự nghiên cứu và tìm hiểu thị trường chuẩn bị kinh doanh -tiến hành kinh doanh - bảo trì ,bảo dưỡng...
b. Nhiệm vụ:
Công ty xây dựng số 1 Hà nội trực thuộc Sở xây dựng Hà nội có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
-Xây dựng nhà ở theo quy hoạch , kế hoạch giao thầu trực tiếp của ngành và UBND Thành phố Hà nội.
-Nhận thầu xây dựng ,cải tạo ,sửa chữa (kể cả trang trí nội thất ) lắp đặt hệ thống cấp thoát nước,điện hạ thế trong và ngoài nhà đối với các công trình công nghiệp dân dụng và nhà ở đến quy mô do cấp tỉnh, thành phố trực thuộc hội đồng bộ trưởng,các bộ và các cơ quan ngang bộ - xét duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật và thẩm kế.
-Được liên doanh với các tổ chức kinh tế khác, có tư cách pháp nhân và chuyên môn phù hợp với ngành nghề xây dựng cơ bản để làm tổng thầu các công trình lớn cho cấp Nhà nước xét duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật và thẩm kế.
-Được tổ chức sản xuất và gia công các cấu kiện kết cấu thép,bê tông cốt thép và kết cấu gỗ phục vụ yêu cầu công tác xây lắp phù hợp với chuyên nghành.
-Thiết kế các công trình công nghiệp, dân dụng và nhà ở từ tầng 2 trở xuống .
-Làm các dịch vụ về xây dựng từ A đến Z dịch vụ mua bán nhà trong thành phố, kinh doanh làm nhà bán và cho thuê.
-Liên doanh liên kết với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước,có tư cách pháp nhân để nhận thầu các công trình xây dựng ,thực hiện các dự án đầu tư với mọi thành phần kinh tế theo quy hoạch được duyệt trong khuôn khổ luật pháp quy định.
-Xây dựng các công trình kỹ thuật hạ tầng ,công trình giao thông đường bộ ,công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ.
-Sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng gồm:các loại bê tông,gạch không nung và đã ốp lát,các kết cấu gỗ ,thép ,khung nhôm phục vụ xây dựng.
-Được mở cửa hàng làm đại lý và kinh doanh vật liệu xây dựng như sắt,thép ,xi măng,gạch xây dựng các loại ,đồ trang trí nội thất.
-Lập ,quản lý các dự án đầu tư xây dựng cơ bản để phát triển các đô thị , khu phố mới và các công trình đô thị khác.
-Được liên doanh ,liên kết với các tổ chức ,các nhân trong và ngoài nước để phát triển sản xuất và thực hiện các đề án đầu tư cuả Công ty.
II/. Những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật
1/Đặc điểm về công nghệ và máy móc thiết bị của Công ty
Cơ sở vật chất là một yếu tố không thể thiếu được ở bất kỳ một doanh nghiệp,đơn vị nào muốn tham gia vào sản xuất kinh doanh. Cơ sở vật chất kỹ thuật quyết định khả năng sản xuất kinh doanh của Công ty. Quyết định Công ty sẽ sản xuất sản phẩm gì? với chất lượng như thế nào? do vậy mà cơ sở vật chất trang thiết bị hiện đại là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, chiếm lĩnh thị trường.
Đặc điểm về công nghệ ,máy móc thiết bị trong xây dựng là một trong những yếu tố quan trọng nói lên năng lực sản xuất cuả xí nghiệp. Muốn tăng hiệu quả cũng như chất lượng các công trình thì phải có hệ thống máy móc thiết bị thi công hiện đại và máy móc thiết bị đó phải phù hợp với năng lực tài chính cũng như trình độ sử dụng của cán bộ, công nhân kỹ thuật thì máy móc thiết bị đó mới thực sự có hiệu quả.
Nắm bắt được tầm quan trọng của máy móc thiết bị xây dựng trong việc bảo đảm tiến độ thi công các công trình,Công ty xây dựng số 1 Hà nội đã trang bị cho mình một số máy móc thiết bị tiên tiến nhằm đáp ứng được yêu cầu trong tình hình kinh doanh mới của Công ty.
Biểu 1: Tình trạng cơ sở vật chất máy móc thiết bị của Công ty
Stt
Tên thiết bị
Nước sản xuất
Tình trạng kỹ thuật
Đơn vị sử dụng
Ghi chú
Hoạt động
Hư hỏng
%còn lại
1
Xe IFA
Đức
+
55%
XNXLH.T
2
XeHYNGDAI
H.Quóc
+
60%
XNKDVT
3
Xe CITROEN
Pháp
+
70%
V.Phòng
4
XeSANSING
T.Quốc
+
70%
XNXL19
5
XeTOYOTA
Nhật
+
75%
Khách sạn
6
Xe SUZUKI
Nhật
+
70%
Khách sạn
7
Cẩu tháp Raimondi
Italia
95%
Kho CT
Mới
8
Cẩu tháp KB 100
Liên Xô
+
+
40%
NMTC
Đã T.Lý
9
Cẩu lốp KC3577
Liên Xô
+
60%
XNMTC
10
Cẩu lốpKC3577
Liên Xô
+
65%
XNXL15
11
Cẩu lốpKC3562
Liên Xô
+
50%
XNMTH
Đã T.Lý
12
Máy xúcKOBECO
Nhật
+
60%
XNXL19
13
Máy ủi DT75
Liên Xô
+
20%
XNMTC
ĐãT.Lý
14
Xe MAZ 5335
Liên Xô
+
65%
XNMTC
Đã T.Lý
15
Xe MAZ 5549
Liên Xô
+
55%
XNXLH.T
16
Máy vận thang T37
V.Nam
+
65%
Sơn La
CTSLThuê
17
Máy trộn bê tông 2501
V.Nam
+
20%
XNMTC
Đã T.Lý
18
Nồi trộn 4001
Rumani
+
20%
XNXLH.T
19
Nồi trộn JZC200
T.Quốc
+
40%
XNXL1
Đã T.Lý
20
Máy trộn vữa
V.Nam
+
30%
Kho CT
21
Máy bơm nước
Rumani
+
20%
XNXLH.T
22
Máy hàn điện thông
V.Nam
+
60%
XNXL3
Đã T.Lý
23
Máy hàn hồ quang
Rumani
+
40%
XNXLH.T
24
Máy hàn hơi
Ba Lan
+
35%
XNMTH
25
Máy hàn 6 đầu
Liên Xô
+
50%
XNMTC
Đã T.Lý
26
Đầm bàn
Đức
+
60%
Kho CT
CTSLThuê
27
Đầm bàn
T.Quốc
+
30%
XNXL18
28
Đầm đùi
T.Quốc
+
+
30%
XNXL1
29
Máy mài 1 đá
V.Nam
+
55%
XN Mộc
Đã T.Lý
30
Máy mài 2 đá
V.Nam
+
35%
XNMTC
Đã T.Lý
31
Máy cưa gỗ
V.Nam
+
55%
XN Mộc
32
Máy tời kéo sắt
Ba Lan
+
50%
XNXL15
Đã T.Lý
33
Máy cắt đột
Ba Lan
+
50%
XNXL15
Đã T.Lý
34
Máy uốn sắt
V.Nam
+
60%
XNXL15
Đã T.Lý
35
Máy biến thế
Liên Xô
+
70%
XNHT
36
Máy cưa tuần hoàn
Rumani
+
50%
XNHT
37
Máy phun sơn
Nhật
+
35%
XNHT
Đã T.Lý
38
Máy ép cọc tự chế
V.Nam
+
60%
XNMTC
39
Lò hơi
V.Nam
+
40%
Khách sạn
Qua bảng trên ta thấy Công ty đang quản lý lực lượng máy móc thiết bị lớn ,ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh và chất lượng sản phẩm .
Do tính chất đặc thù của nghành xây dựng ,đòi hỏi phải có một hệ thống máy móc thiết bị đồ sộ cả về số lượng và chủng loại .Do đó Công ty xây dựng số 1 Hà nội cũng như các doanh nghiệp xây dựng Nhà nước khác không đủ khả năng trang bị cho mình những máy móc thiết bị hiện đại đáp ứng các công trình đòi hỏi kỹ thuật cao do một số loại máy móc có chi phí quá lớn mà mức độ sử dụng chúng trong sản xuất lại không liên tục.Điều này cản trở trực tiếp đến chiến lược đa dạng hoá sản phẩm có năng suất, chất lượng cao, từ đó ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Hiện tại đa số máy móc thiết bị của Công ty có giá trị còn lại vào khoảng từ 50%-60%, có một số loại mua mới để đáp ứng nhu cầu sản xuất tuy rằng hiện tại nó chưa được sử dụng tối đa công suất nhưng trong những năm tới Công ty xây dựng số 1 Hà nội sẽ phải khai thác triệt để công suất máy móc thiết bị của mình để đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn.
Theo số liệu thống kê sơ bộ ,hàng năm vốn đầu tư phục vụ đổi mới công nghệ, thiết bị của dôanh nghiệp là khá lớn: Năm 1997 là 459 tỷ đồng; năm 1998 là 1279 tỷ đồng; năm 1999 là 817 tỷ đồng. Khoảng 60% thiết bị thi công là loại tốt, được đầu tư trang bị từ sau năm 1995,trong đó có nhiều thiết bị thi công hiện đại của các nước phương Tây. Nhiều doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng,thi công xây lắp đã mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ như :Tổng công ty xây dựng Sông Hồng ,Tổng công ty xây dựng Hà nội , Công ty xây dựng số 7...đối với Công ty xây dựng số 1 Hà nội chiến lược trong những năm tới sẽ đổi mới một số thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất thi công công trình như:Máy phun vữa, máy nghiến đá,máy luồn cáp...để đáp ứng được nhu cầu thị trường gay gắt như hiện nay.
2/Đặc điểm lao động của Công ty
Trong bất cứ một nghành nghề nào thì yếu tố lao động cũng là một trong những yếu tố có vai trò quan trọng bậc nhất .Lao động là nguồn gốc sáng tạo ra sản phẩm, là nhân tố quyết định nhất của lực lượng sản xuất kinh doanh .Nhờ có lao động và thông qua các phương tiện sản xuất mà các yếu tố đầu vào là nguyên vật liệu có thể kết hợp với nhau tạo ra thực thể sản phẩm Như vậy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng rất lớn vào yếu tố lao động.
Hiện nay tổng số cán bộ công nhân viên của Công ty là 1231 người ,trong đó:
Công nhân : 622 người.
Gián tiếp : 180 người.
Lao động thời vụ : 433 người.
Chất lượng CBCNV của Công ty được thể hiện như sau:
Biểu 2 :Chất lượng cán bộ chuyên môn kỹ thuật
Stt
Cán Bộ chuyên môn và kỹ thuật
Số lượng
Theo thâm niên công tác (Năm)
<5
>5
>10
>15
I
Đại học và trên Đại học
106
Kỹ sư Xây dựng
66
13
1
2
50
Kiến trúc sư
7
4
1
0
2
Kỹ sư Giao Thông
1
0
0
0
1
Kỹ sư cơ khí
3
0
0
0
3
Cử nhân kinh tế-tài chính
14
1
1
2
10
Kỹ sư khác
15
3
8
0
4
II
Cao Đẳng và Trung cấp
74
CĐ Kỹ thuật
1
1
0
0
0
CĐ Ngân hàng -Kế toán
2
2
0
0
0
TC Xây dựng
45
2
0
2
41
TC Tài chính-Tiền lương
9
2
0
1
6
TC Điện Cơ khí
5
0
0
0
5
TC Khác
12
2
5
2
3
Biểu 3: Chất lượng công nhân kỹ thuật
Stt
Công nhân kỹ thuật
theo nghề
Số lượng
Bậc thợ
<4/7
4/7
5/7
6/7
7/7
1
Thợ nề
125
40
30
38
17
2
Phụ nề
55
18
30
7
3
Sơn vôi
8
1
7
4
Bê tông
40
5
17
18
5
Sắt
20
2
7
10
1
6
Hàn
15
2
7
6
7
Lao động
54
20
33
1
8
Nước
18
3
11
4
9
Phụ nước
2
1
1
10
Mộc
22
6
10
6
11
Sửa chữa
11
1
5
5
12
Điện
6
1
2
1
1
1
13
Tiện
2
2
14
Vận hành
6
1
5
15
Lái cẩu + ủi
5
2
3
16
Lắp tháp
4
2
2
17
Trắc đạc
2
1
1
18
Lái cẩu xích
2
2
19
Lái cẩu tháp
2
2
20
Lái gầu xúc
2
2
21
Điện nước + Máy
4
4
22
Bốc dỡ
5
5
23
Nhân viên du lich khách sạn
93
24
Lao động phổ thông
119
25
Tổng cộng
622
Qua bảng trên ta thấy số lượng cán bộ lãnh đạo ,quản lý,làm công tác khoa học-kỹ thuật là 180 người, trong đó có 106 người có trình độ đại học chiếm 58,89%, 3 người có trình độ cao đẳng chiếm 1,67% và 71 gnười có trình độ trung cấp chiếm 39,44%. Đây là một tỷ lệ cao ,thể hiện số cán bộ quản lý có trình độ cao trong công ty là rất lớn. Điều này tạo điều kiện tốt cho công ty trong việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh ,đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho công ty thực hiện chiến lược đa dạng hoá ngành nghề sản xuất kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Tuy nhiên ta thấy :
Tổng số lao động gián tiếp 180
Tỷ lệ lao động gián tiếp = = x 100 = 14,62%
Tổng số cán bộ công 1231
nhân viên trong kỳ
(Giáo trình kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp-trang 130)
Tỷ lệ lao động gián tiếp = 14,62%>10% điều này thể hiện bộ máy quản lý của công ty còn chưa được tinh giảm tối ưu ,bộ máy quản lý của Công ty vẫn còn trồng chéo, nhiều phòng ban làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo biểu 3 số lượng công nhân kỹ thuật thì thợ bậc cao từ bậc 5 đến bậc 7 là 138 người chiếm 22,18% tổng số công nhân của Công ty .Thợ bậc 4 trở xuống là 272 người chiếm 43,73%. Lao động phổ thông như :Bảo vệ,tiếp liệu là 119 người chiếm 19,13%. Đối với khối dịch vụ thì tổng số công nhân là 93 người chiếm 14,95%.Đây là một tỷ lệ khá cao, góp phần rất quan trọng vào việc tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh của Công ty .
Với số lượng 1231 lao động ,lại trong điều kiện kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay,việc bố trí công ăn việc làm cho 802 lao động là việc làm rất khó tuy nhiên Công ty xây dựng số 1 Hà nội đã làm được trong những năm qua, đây là một thành công lớn của Công ty và chiến lược trong thời gian tới của Công ty là đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh để tạo ổn định công ăn việc làm cho lao động thời vụ nói riêng và của công nhân toàn công ty nói chung.
3/Ngành nghề kinh doanh của Công ty xây dựng số 1
Hiện nay nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty có sự thay đổi theo cơ chế thị trường nhưng vẫn chịu sự chỉ đạo sát sao của Nhà nước .Công ty nhận thi công nhiều loại hình công trình xây dựng như : nhà ở dân dụng , công trình văn hoá, công nghiệp công cộng,công trình cao tầng...
Sản phẩm chủ yếu của Công ty là các công trình xây dựng và nhà lắp ghép.Trong những năm gần đây công trình thuộc vốn ngân sách được giao ngày càng ít nhưng Công ty không ngừng phấn đấu tiếp tục mở rộng sản xuất ,đa dạng hoá các sản phẩm xây dựng,làm các công trình kỹ thuật hạ tầng, xây dựng các hệ thống cấp thoát nước có sản lượng lớn,sắn sàng hợp tác với các đơn vị trong ngành nhằm tăng cường khả năng thi công các công trình với yêu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng .
Một số sản phẩm xây dựng tiêu biểu của Công ty xây dựng số 1 Hà nội:
-Khách sạn Hà Nội 11 tầng Giảng Võ (trị giá 6,25 tỷ).
-Chợ Đồng Xuân (trị giá 4,58 tỷ).
-Làng du lịch Việt Nhật- Thuỵ Khuê( trị giá 2,5 tỷ)
-Trung tâm giao dịch quốc tế Bộ thuỷ sản Seapodex(trị giá 4,1 tỷ)
Công trình hạ tầng :
-Hệ thống cấp thoát nước quận Ba Đình (trị giá 4,1 tỷ).
-Kè,hạ tầng kỹ thuật xung quanh Hồ Tây(trị giá 10 tỷ).
-Kè,hạ tầng kỹ thuật xung quanh hồ Đống Đa(sản lượng 4 tỷ).
4/Đặc điểm chế độ tiền lương:
Trong sản xuất,tiền lương là một yếu tố chi phí ,là một bộ phận của kế hoạch lao động nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động. Đối với người lao động, tiền lương để cải thiện đời sống, khuyến lhích nâng cao tay nghề chuyên môn. Tiền lương mang ý nghĩa đòn bẩy ,thúc đẩy kích thích sản xuất phát triển.
Hiện nay Công ty đang áp dụng chế độ tiền lương theo nghị định 28 CP ngày 28/3/1997 của Chính Phủ và các thông tư hướng dẫn số 13,14,15/LĐTBXH-TT của Bộ lao động thương binh xã hội . Công ty thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, không phân phối bình quân tiền lương .Tiền lương phụ thuộc vào kết quả lao động của từng người, từng bộ phận. Những người thực hiện các công việc đòi hỏi chuyên môn ,kỹ thuật cao đóng góp nhiều vào năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị thì được trả lương cao đồng thời cũng xây dựng quy chế trả lương trong nội bộ từng đơn vị.
Công ty áp dụng 2 hình thức trả lương gắn với kết quả lao động cuối cùng của từng người lao động ,từng bộ phận.
-Hình thức trả lương theo thời gian: Được áp dụng cho bộ máy quản lý của các xí nghiệp và Công ty ,cho các đối tượng công nhân không thể thực hiện trả lương theo sản phẩm hoặc lương khoán như:công nhân tiếp liệu,bảo vệ…với hình thức trả lương này tiền lương căn cứ vào bậc lương và thời gian thực tế làm việc không xét đến thái độ lao động và kết quả công việc .Tuy nhiên người lao động sẽ được nhận một khoản tiền Nếu trong quá trình làm việc người lao động tăng được năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu hay hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao.Đối với bộ máy quản lý ở các xí nghiệp thì tiền lương gắn liền với hiệu quả công việc cô._. hoặc mất khả năng thanh toán sẽ dẫn đến những thiệt hại không lường trước được đối với sự tồn tại và phát triển của mình .
Để có vốn đổi mới máy móc thiết bị, Công ty có thể khai thác hình thức tín dụng thuê mua thiết bị(leasing), kể cả thuê vận hành và thuê tài chính. Đây là một hình thức trong thực tế Công ty gần như không sử dụng. Hình thức này có ưu điểm là Công ty sẽ sử dụng vốn đúng mục đích; được sự tư vấn ,đào tạo hướng dẫn kỹ thuật từ cơ quan cho thuê; tránh được tổn thất do mua máy móc thiết bị nhầm, không đúng yêu cầu; có thể thoả thuận tái thuê và có được máy móc thiết bị mà không cần đầu tư một lần số vốn lớn. Mặt khác,hình thức này cũng có thể giảm tỷ lệ nợ/vốn vì tránh phải vay ngân hàng đồng thời Công ty có thể nhanh chóng đổi mới tài sản cố định ,nâng cao khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên hình thức này có nhược điểm là chi phí sử dụng vốn cao, hợp đồng phức tạp đòi hỏi phải nắm bắt được kỹ thuật của hợp đồng thuê mua. Trên thị trường hiện nay có Công ty thuê mua tài chính quốc tế (VILC) có đối tượng phục vụ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước với giá trị máy móc thiết bị từ 100 nghìn USD đến 200 nghìn USD. Ngoài ra ngân hàng đầu tư và ngân hàng công thương hiện nay đã có dịch vụ này.
Mặc dù vậy, việc lựa chọn nên mua tài sản cố định bằng vốn tự có, bằng vốn vay hay sử dụng hình thức tín dụng thuê vận hành hoặc thuê tài chính có hiệu quả khi Công ty đã sử dụng phương pháp tính toán NPV (giá trị hiện tại ròng) của từng phương án từ đó lựa chọn phương án có lợi hơn.
Công ty cũng có thể huy động vốn vay dài hạn hoặc vay vốn với từng công trình thực hiện bằng cách vay vốn từ cán bộ công nhân viên. Công ty cần có các biện pháp khuyến khích và khen thưởng đối với những những người tích cực cho Công ty vay vốn. Đồng thời phải đảm bảo nguyên tắc lãi suất vay vốn từ người lao động lớn hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng và nhỏ hơn lãi suất tiền vay ngân hàng. Khi đó chi phí vay vốn của Công ty từ người lao động có thể mới có thể nhỏ hơn chi phí vay vốn ngân hàng đồng thời cũng đảm bảo lợi ích cho người lao động. Mặt khác, Công ty cũng phải có những giải pháp thật cụ thể, khả thi, đảm bảo thanh toán đầy đủ, đúng hạn, tránh mọi rủi ro có thể có với người lao động thì mới có thể huy động vốn từ người lao động vì hơn ai hết người lao động hiểu rõ tình hình hoạt động của Công ty như thế nào và chỉ khi thấy rõ lợi ích và chi phí bỏ ra thì họ mới thật sự yên tâm cho Công ty vay vốn và cống hiến sức lao động đảm bảo sản xuất kinh doanh phát triển.
Một hình thức huy động vốn có hiệu quả nữa đó là Công ty nên tiến hành cổ phần hoá và bán cổ phiếu cho người lao động. Bằng cách này Công ty có thể huy động được một khối lượng vốn lớn, không có thời hạn trả,tăng nguồn vốn chủ sở hữu và kích thích người lao động hoạt động có hiệu quả hơn nhờ gắn quyền lợi và trách nhiệm chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm là khi Công ty thừa vốn không trả lại được, phải có nghĩa vụ công khai tài chính. Mặt khác, hoạt động sản xuất kinh doanh phải có hứa hẹn và phải được nhà nước cho phép thì công việc cổ phần hoá mới diễn ra được.
Để sử dụng vốn có hiệu qủa, Công ty phải quản lý chặt chẽ các khoản phải thu và tăng cường thu hồi các khoản phải thu quá hạn. Trong thực tế các khoản phải thu chiếm 63,5% vốn lưu động, phải thu quá hạn chiếm 25,6% các khoản phải thu, vì vậy việc quản lý chặt chẽ các khoản phải thu và tăng cường thu hồi các khoản phải thu quá hạn có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, tăng số vòng quay vốn lưu động nói riêng và số vòng quay tổng vốn kinh doanh nói chung.
Trong nền kinh tế thị trường, hình thức bán chịu là một hình thức không thể thiếu. Bởi vậy, do được trả tiền chậm nên sẽ có nhiều khách hàng hơn, khi đó các khoản phải thu tăng, chi phí cho hoạt động kinh doanh của Công ty tăng như chi phí cho đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài trợ để bù đắp sự thiếu hụt ngân quỹ. Thời hạn phải thu càng dài thì chi phí càng lớn, rủi ro càng nhiều. Còn khi Công ty mua chịu được tài sản cố định hoặc chiếm dụng được vốn thì Công ty sẽ sử dụng tài sản cố định có hiệu quả hơn và hạn chế phần nào về hao mòn vô hình, và vốn chiếm dụng được Công ty sẽ đầu tư vào các hợt động sản xuất kinh doanh khác nhằm thu lợi nhuận.
Vì vậy, khi ký kết hợp đồng xây dựng, Công ty phải đặc biệt chú ý đến điều khoản thanh toán. Để tránh rủi ro trong thu hồi các khoản phải thu, Công ty cần phải hiểu rõ phẩm chất, tư cách của chủ đầu tư,nguồn vốn đầu tư, khả năng tài chính của chủ đầu tư...
Đối với các khoản phải thu quá hạn, khó đòi, Công ty có thể bán nợ cho một số ngân hàng hay một Công ty mua nợ nào đó nhằm tránh tình trạng tồn đọng vốn, làm chậm tốc độ luân chuyển vốn lưu động, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình luân chuyển vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh thì việc tồn tại vật tư tồn kho là bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường. Nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn gây ra hàng loạt các hậu quả tiếp theo, ngược lại nếu dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn. Thực tế cho thấy giá trị vật tư trong sản phẩm dở dang năm 2000 ít hơn so với các năm trước. Như vậy doanh nghiệp đã giảm chi phí tồn đọng vật tư trong sản phẩm dở dang và để giảm chi phí cho dự trữ đồng thời đảm bảo tiến độ sản xuất, Công ty phải xây dựng mối quan hệ bề chặt lâu dài, hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau với người cung ứng nguyên vật liệu đảm bảo khả năng tổ chức cung ứng đầy đủ kịp thời chính xác, đúng nơi cần thiết .
Do đặc điểm của Công ty là xây dựng nên chi phí cho nguyên vật liệu là rất lớn chiếm từ 70% đến 80% chi phí trực tiếp của Công ty, do đó Công ty cần có các biện pháp huy động vốn lưu động kịp thời để mua sắm nguyên vật liệu để tránh mất mát, lãng phí hao hụt.
Việc đưa ra vấn đề này xuất phát từ thực trạng vốn lưu động của Công ty cấp xuống cho các đơn vị xí nghiệp xây lắp để mua nguyên vật liệu nhiều khi không đầy đủ, kịp thời. Điều đó là do các nguyên nhân sau:
-Khả năng tài chính của Công ty có hạn:
+ Số vòng quay vốn lưu động còn thấp
+Việc chiếm dụng vốn của các đơn vị khác
+Mặc dù Công ty cũng đi vay ngân hàng để huy động vốn song nhiều khi các thủ tục còn rườm rà dẫn đến chậm vốn
Yếu tố đơn vị kinh doanh xây lắp: Theo đặc điểm của ngành xây dựng hiện nay thì nguồn vốn mà các Công ty cấp cho các đơn vị kinh doanh không phải là cấp liền cho toàn bộ công trình xây dựng mà cấp theo khối lượng công trình hoàn thành trong một thời gian. Ví dụ trong một tháng xí nghiệp phải xây dựng tầng một thì vốn của Công ty cấp xuống chỉ đủ hoàn thành tầng một sau đó bàn giao công trình và cấp tiếp. Tuy nhiên hiện nay các đơn vị xây lắp của Công ty vẫn còn tình trạng sử dụngvốn sai mục đích như dùng vốn của công trình này sử dụng vào công trình khác hay làm một công việc khác nên không hoàn thành được công việc.Khi đó Công ty không thể cấp thêm vốn vì chưa nghiệm thu được công trình dự kiến do vậy đây là nguyên nhân dẫn đến tiến độ thi công bị chậm lại và việc cấp vốn cho các đơn vị bị chậm .
Thanh quyết toán theo từng giai đoạn của bên chủ đầu tư(A) đối với Công ty:
Hiện nay các hợp đồng xây dựng của công ty với bên A có điều khoản là bên A thanh toán cho bên thầu(B) một khoản tiền ứng trước là bao nhiêu hoặc ứng trước khi đã nghiệm thu một phần công trình...Tuy nhiên vấn đề này nhiều khi không được thực hiện đúng thời hạn như đã ghi trong hợp đồng do:
+ Bên A chuyển chậm vì một lý do nào đó như : xin cấp vốn chưa chuẩn hoặc có thể đang thực hiện chiến lược chiếm dụng vốn của Công ty... nhiều khi bên A thanh toán chậm từ 2 đến 3 năm.
+ Do Công ty chưa làm thủ tục thanh toán cho bên A nghiệm thu công trình hoặc cũng có thể do Công ty chưa hoàn thành phần công việc đã ký kết trong hợp đồng.
Thường việc thanh toán theo từng giai đoạn của bên A với Công ty vào khoảng từ 30 – 50% tổng số vốn công trình.
Trên đây là các nguyên nhân chính dẫn đến việc cấp vốn cho các xí nghiệp xây lắp không đầy đủ và kịp thời.
Vì vậy việc cung cấp đầy đủ và kịp thời vốn lưu động để mua nguyên vật liệu qua đó cắt giảm chi phí nguyên vật liệu là biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Để thực hiện các công việc trên cần phải :
-Tính toán vốn lưu động định mức để mua nguyên vật liệu kỳ kế hoạch sát với lượng vốn lưu động cần thực tế .
+ Xác định tổng khối lượng công trình sẽ thi công trong kỳ kế hoạch ,qua đó xác định kế hoạch tổng thu và tổng chi
+Lập dự toán định mức ,chi phí nguyên vật liệu kỳ kế hoạch cho toàn bộ các công trình và từng công trình cụ thể.
+ Vốn lưu động định mức để mua nguyên vật liệu kỳ kế hoạch chính là định mức chi phí nguyên vật liệu kỳ kế hoạch ở trên .
+ Sau khi xác định được vốn lưu động định mức để mua nguyên vật liệu kỳ kế hoạch Công ty cần nhanh chóng có biện pháp huy động vốn từ các nguồn chủ yếu sau:
Nguồn vốn lưu động do Nhà nước cấp.
Nguồn vốn tự bổ xung
Nguồn vốn tín dụng
Nguồn vốn liên doanh liên kết
Các đơn vị thi công cũng phải lập dự toán định mức chi phí nguyên vật liệu kỳ kế hoạch cho từng phần công trình và toàn bộ công trình của đơn vị nhanh chóng lên kế hoạch vay vốn lưu động từ Công ty để mua sắm nguyên vật liệu phục vụ kịp thời thi công công trình.
Sau khi khoản vay vốn lưu động từ Công tyđược tổng giám đốc trực tiếp ký và xác nhận cho vay thì các phòng ban chức năng(phòng tài chính – kế toán...)phải nhanh chóng cung cấp đầy đủ kịp thời vốn lưu động cho các đơn vị để mua sắm nguyên vật liêụ phục vụ thi công .
Dự kiến kết quả đạt đựơc khi thực hiện các biện pháp này: việc cung cấp đầy đủ kịp thời vốn lưu động để mua sắm nguyên vật liệu phục vụ thi công có ý nghiã rất quan trọng trong việc cắt giảm chi phí thu mua nguyên vật liệu rút ngắn thời gian hoàn thành công trình nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Tóm lại, thực hiện giải pháp huy động vốn có hiệu quả, Công ty sẽ có một cơ cấu vốn tối ưu đảm bảo cân bằng giữa rủi ro và chi phí đồng thời sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn,làm tăng số vòng luân chuyển tổng vốn kinh doanh của mình. Tuy nhiên giải pháp này thực hiện được còn phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của thị trường vốn, sự ổn định của nền kinh tế, uy tín của Công ty và khả năng thích ứng trong các tình huống cụ thể của người quản lý.
3/. Nâng cao trình độ đội ngũ lao động và tạo động lực cho tập thể cá nhân người lao động
Lao động là nhân tố có tính chất quyết định hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, vì vậy phát triển đội ngũ lao động và tạo động lực cho tập thể, cá nhân người lao động phải được xem là một nội dung không thể thiếu nếu muốn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Thực tế cho thấy, chất lượng lao động của Công ty chưa phải là đã cao, số lao động phổ thông là 119 lao động chiếm 19,13% tổng số lao động, các chuyên gia có kinh nghiệm nhất chủ yếu được đào tạo trước những năm 90 theo các quy trình cũ. Số kỹ sư, chuyên gia mới ra trường tuy được đào tạo chính quy nhưng chưa có thực tiễn, đồng thời việc đào tạo kiến thức của nhà trường chưa theo kịp với thực tế của quá trình cạnh tranh gay gắt. Vì vậy cần phải đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động của Công ty.
Để có được một đội ngũ lao động lành nghề có kiến thức, có kinh nghiệm, ham học hỏi, có nỗ lực, có nhiệt tình cao trong công việc thì Công ty phải thường xuyên tạo điều kiện cho người lao động nâng cao trình độ,đưa ra những ý kiến đóng góp, kích thích tinh thần sáng tạo và tinh thần tích cực trong công việc bằng các hình thức khuyến khích vật chất và tinh thần nhằm làm cho người lao động thoả mãn gắn bó với doanh nghiệp, thực hiện quyền làm chủ của người lao động.
Đặc biệt, đối với đội ngũ cán bộ quản trị, cán bộ làm công tác đấu thầu và cán bộ điều hành dự án cần phải trang bị và trang bị lại những kiến thức kinh doanh hiện đại, tạo điều kiện cho các cán bộ này tham gia vào các khoá đào tạo bồi dưỡng, học hỏi kinh nghiệm của các nước phát triển. Việc có được kiến thức, kinh nghiệm tiên tiến là cơ sở để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực như vốn, nhân sự, công nghệ,...cũng như làm chủ được các yếu tố bên ngoài như thị trường, hạn chế những lãng phí, tổn thất do không hiểu biết gây ra.
Về công tác quản trị lao động, Công ty phải hình thành nên cơ cấu lao động tối ưu, phải bảo đảm đủ việc làm trên cơ sở phân công và bố trí lao động hợp lý sao cho phù hợp với năng lực, sở trường và nguyện vọng của mỗi người.Trước ki phân công bố trí hoặc đề bạt cán bộ đều phải qua kiểm tra trình độ tay nghề. Khi giao việc cần phải xác định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm. Khi tuyển chọn lao động cần phải thận trọng do nhu cầu sản xuất của Công ty không ổn định nhằm tiết kiệm chi phí lao động , tăng năng suất lao động, số lượng và chất lượng lao động phù hợp với nhu cầu về lao động, đáp ứng sản xuất ,bảo đảm chất lượng sản phẩm để tăng khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị trường của Công ty. Yêu cầu người được tuyển chọn phải là người có trình độ chuyên môn cần thiết , có sức khoẻ, có thể làm việc đạt năng suất lao động cao, hiệu suất công tác tốt, có kỷ luật, trung thực, gắn bó với công việc, với Công ty.
Bên cạnh xây dựng một cơ cấu lao động tối ưu, Công ty phải xác định định mức lao động cụ thể cho từng công việc, từng cấp, bậc thợ, vừa có căn cứ kỹ thuật, vừa phù hợp với điều kiện lao động cụ thể của Công ty. Trên cơ sở định mức lao động, Công ty có thể thấy từng lao động có hiệu quả hay không để có được hình thức khuyến khích những lao động hoàn thành và vượt định mức, hạn chế những lao động không đạt định mức nhằm nâng cao năng suất lao động.
Phải tạo động lực cho tập thể và cá nhân người lao đốngẽ kích thích cho hoạt độgn sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. Cần phân phối lợi nhuận thoả đáng, đảm bảo công bằng, hợp lý, thưởng phạt nghiêm minh. Đặc biệt cần có chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với những nhân viên giỏi , trình độ tay nghề cao hoặc có thành tích, sáng kiến trong công việc,...khi đó sẽ tạo ra được một tinh thần làm việc tích cực trong Công ty.
Cần thiết lập một hệ thống thông tin nội bộ thu thập những ý kiến đóng góp, phê bình của người lao động, để qua đó , lãnh đạo Công ty có thể thấy dược những mâu thuẫn phát sinh và sẽ có những biện pháp giải quyết kịp thời, tránh tình trạng xảy ra những việc không có lợi cho Công ty.
Việc thực hiện giải pháp này sẽ tạo điều kiện cho Công ty có một tập thể đội ngũ những người lao động đoàn kết, có năng lực, nhiệt tình trong công việc, qua đó mới thực hiện được các giải pháp khác thành công. Tuy nhiên, việc thực hiện giải pháp này không phải là dễ dàng , trước hết đòi hỏi các cán bộ cấp cao của Công ty phải có phẩm chất tốt và có năng lực thì mới có thể xây dựng một tập thể đoàn kết, làm việc có hiệu quả nhằm hoàn thành các mục tiêu của Công ty ,ột cách vững trắc và ổn định.
4/. Vận dụng mối quan hệ Chi phí - Chất lượng -Thời gian để nâng cao chất lượng các công trình xây dựng
Mối quan hệ Chi phí - Chất lượng - Thời gian là mối quan hệ phức tạp. Chi phí được hiểu là toàn bộ chi phí đầu tư ban đầu cho việc xây dựng công trình và chi phí khai thác vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa công trình trong giai đoạn sử dụng. Chất lượng hay còn gọi là giá trị sử dụng chủ yếu được thể hiện bằng các chỉ tiêu giá trị sử dụng công trình như : các chỉ tiêu về công năng, độ bền chắc, trình độ kỹ thuật, mức tiện nghi, tuổi thọ, độ an toàn, mỹ quan, bảo về môi trường...Vậy chất lượng sản phẩm theo quan điểm hiện nay là tổng hợp các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế kỹ thuật thoả mãn nhu cầu và phù hợp với công dụng sản phẩm của người tiêu dùng. Thời gian xây dựng công trình là tổng toàn bộ thời gian xây dựng để hoàn thành một công trình tính từ giai đoạn chuẩn bị: mua nguyên vật liệu, huy động máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình thi công...đến khi hoàn thiện công trình đưa vào bàn giao.
Vấn đề đặt ra là nâng cao chất lượng với chi phí bỏ ra. Trong thực tế để đạt được chất lượng Công ty không thể bỏ chi phí một cách tuỳ tiện, không tính toán mối tương quan giữa chất lượng và chi phí. Nhiều khi chất lượng công trình khá cao song sản phẩm vẫn không thoả mãn người đặt hàng vì giá quá cao. Nói cách khác Công ty không thể không tiến hành chất lượng công trình mà không tính toán tới giá cả của công trình. Vậy trong chiến lược cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng hiện nay, nâng cao chất lượng công trình phải được xem xét trong mối quan hệ Chi phí - Chất lượng - Thời gian.
Lực lượng lao động ở nước ta còn có những khiếm khuyết cả về trình độ quản lý và năng lực kỹ thuật. Do vậy Công ty không những phải biết làm thoả mãn tốt nhất yêu cầu của chủ đầu tư mà còn phải biết khơi dậy nhu cầu và tư vấn cho chủ đầu tư lựa chọn phương án quyết định tối ưu, để vừa thoả mãn tốt nhất lợi ích của chủ đầu tư vừa đảm bảo lợi nhuận của Công ty là mục tiêu cơ bản cho chiến lược cạnh tranh của mình.
Như vậy, khi nâng cao yêu cầu chất lượng công trình thì chi phí cho đầu tư xây dựng tăng lên, nhưng chi phí cho khai thác, bảo dưỡng sửa chữa trong sử dụng giảm xuống. Mối quan hệ này được minh hoạ trong đồ thị sau:
C CT
CX
COP
CK
O QOP Q
Trong đó : C : Chi phí
Q : Chất lượng
CX : Chi phí xây dựng công trình
CK Chi phí kiểm soát chất lượng
CT :Tổng chi phí
QOP: Chất lượng tối ưu
COP : Chi phí tối ưu
Chất lượng tối ưu ở đây không có nghĩa thuần tuý là chất lượng tốt nhất, mà là mức chất lượng vừa đảm bảo thoả mãn về yêu cầu chất lượng,vừa đảm bảo chi phí là nhỏ nhất. Vì vậy còn có thể gọi đây là mối quan hệ giữa chất lượng và độ phù hợp với giá thành.
Vận dụng mối quan hệ này, doanh nghiệp tổng thầu có thể đưa ra phương án sản phẩm (công trình xây dựng) với chất lượng tối ưu và chứng minh, thuyết phục chủ đầu tư ra quyết định. Tuy nhiên đồ thị trên mới chỉ xem xét mối quan hệ giữa chi phí và chất lượng xây dựng đã bỏ qua nhân tố thời gian xây dựng .
Khi xem xét đồng thời mối quan hệ của cả ba nhân tố là chi phí, chất lượng, thời gian xây dựng thì Công ty cần phải thấy thời gian xây dựng công trình được rút ngắn sẽ mang lại lợi ích cho cả chủ đầu tư và nhà thầu. Giả sử rằng điều kiện để xét trúng thầu dự án là loại bỏ ngay mọi trường hợp dự thầu có chỉ tiêu chất lượng không đạt hoặc thời gian vượt quá quy định hoặc tổng chi phí vượt quá khả năng tài chính tối đa của chủ đầu tư. Ta có bảng tình huống sau:
Tình huống
Chi phí
Chất lượng
Thời gian
Nhận xét
1
Thấp nhất
Cao nhất
Rút ngắn nhất
Tối ưu
2
Thấp
Đạt
Rút ngắn
Gần tối ưu
3
Thấp
Cao
Đạt
Có sức cạnh tranh khá
4
Thấp
Đạt
Đạt
Có sức cạnh tranh khá
5
Cao
Cao
Rút ngắn
Cần xem xét
6
Cao
Đạt
Rút ngắn
Cần xem xét
7
Cao
Cao
Đạt
Sức cạnh tranh yếu về giá
8
Cao
Đạt
Đạt
Sức cạnh tranh yếu về giá
Có thể nhận xét tình huống ở bảng trên như sau:
Nếu phương án cạnh tranh của Công ty rơi vào tình huống 1 và 2 thì sức cạnh tranh là lớn nhất,nghĩa là khả năng thắng thầu cao nhất.
Nếu phương án cạnh tranh của Công ty rơi vào tình huống 3 và 4 thì có khả năng thắng thầu và khả năng này do yếu tố giá thấp quyết định
Nếu phương án cạnh tranh của doanh nghiệp rơi vào tình huống 7 và 8 thì khả năng thắng thầu thấp. Công ty cần xem xét lại vấn đề đặt giá tranh thầu
Nếu phương án cạnh tranh của Công ty rơi vào tình huống 5 và 6 thì Công ty cần thuyết phục chủ đầu tư dựa vào mối quan hệ Chi phí - Chất lượng - Thời gian để đánh giá phương án.
Các tình huống nêu ở bảng trên mới chỉ là các kết luận có tính chất định hướng. Khi so sánh các phương án tình huống chiến lược tranh thầu trên về mặt định lượng phải sử dụng phương pháp : “giá trị - giá trị sử dụng” có tính đến nhân tố thời gian xây dựng để giải quyết vấn đề. Nội dung của phương pháp này là đưa các phương án về cùng một mặt bằng giá trị sử dụng và có tính đến nhân tố thời gian xây dựng để xem xét lựa chọn phương án dựa trên chỉ tiêu chi phí cho một đơn vị giá trị sử dụng tổng hợp bé nhất.
Như vậy vấn đề nâng cao nhất lượng các công trình xây dựng phải dựa vào mối quan hệ Chi phí - Chất lượng và Thời gian xây dựng để đưa ra những phương án thích hợp nhất với từng tình huống cụ thể mà Công ty có thể áp dụng. Đương nhiên Công ty cũng phải kiểm tra lợi nhuận của mình. Chiến lược giành ưu thế lớn nhất sẽ là chiến lược vừa thoả mãn tốt nhất lợi ích của chủ đầu tư vừa đảm bảo mục tiêu lợi nhuận của Công ty .
II/. Một số kiến nghị với Nhà nước
Nhà nước cần hỗ trợ can thiệp để Công ty thu hồi nhanh các khoản thu quá hạn vì thực tế các khoản thu quá hạn của Công ty là 11.650 triệu đồng, đây là con số lớn gây nên tình trạng ứ đọng vốn, chi phí vốn của Công ty cao ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng gây thất thu cho Nhà nước.
Trong công tác đấu thầu, chủ đầu tư thường chọn nhà thầu đưa ra mức giá thấp nhất chứ ít chú ý đến chất lượng công trình, do vậy nhiều nhà xây dựng đưa ra mức giá thấp nhất để trúng thầu cho nên có thể bỏ qua hoặc không thực hiện đầy đủ các chỉ tiêu chất lượng công trình. Vởy điều này Nhà nước nên có một hệ thống văn bản dưới luật đầy đủ, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong công tác đầu thầu cũng như trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần tăng cường quản lý chặt chẽ đối với lĩnh vực xây dựng, tránh những hiện tượng tiêu cực lợi dụng kẽ hở luật pháp để làm ăn phi pháp ảnh hưởng đến hiệu qủa của ngành xây dựng cũng như môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng.
Nhà nước cần có các chính sách và biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp Nhà nước để các doanh nghiệp này thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân:
+ Nhà nước nên có chính sách ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp trong nước , khuyến khích sản xuất để có thể cạnh tranh được với hàng nhập ngoại, tránh tình trạng như những năm qua các doanh nghiệp nước ta thường nhập về những loại máy móc cũ kỹ, lạc hậu, không giúp được nhiều cho các doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm và cạnh tranh với các sản phẩm của nước ngoài.
+ Thực hiện các dịch vụ thanh toán các khoản nợ của các doanh nghiệp.
+ Nhà nước cần có các chính sách nhằm khuyến khích khả năng tự chủ, năng động của các doanh nghiệp trong công tác huy động và sử dụng vốn.
Kết luận
Trong cơ chế thị trường hiện nay, mỗi doanh nghiệp phải tự quyết định con đường phát triển của mình, hoặc tiến lên hoặc sẽ tụt hậu và trượt khỏi quỹ đạo kinh doanh dẫn đến thất bại phá sản.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phức tạp, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau do điều kiện lịch sử và góc độ nghiên cứu khác nhau. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu theo đuổi của các doanh nghiệp, là nhân tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Qua thời gian thực tập tại Công ty xây dựng số 1 Hà nội cho thấy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty khá được chú trọng, song vẫn không thể tránh khỏi những khó khăn trong thực tế.
Do vậy trong thời gian tới Công ty cần tiến hành thực hiện một số biện pháp cần thiết nhằm phát huy lợi thế và hạn chế khó khăn để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
Tuy còn nhiều vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện, song các giải pháp xác định trong bài viết này với mục đích là phù hợp với khả năng và điều kiện có thể của Công ty.
Với thời gian có hạn cùng với kiến thức còn hạn chế, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em mong được sự góp ý của các thầy cô giáo cùng bạn đọc để bài viết sau được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Trung tâm đào tạo Quản trị kinh doanh Tổng hợp - Đại học kinh tế Quốc dân, Công ty xây dựng số 1 Hà nội và đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn Trần Việt Lâm và chú phó phòng tổ chức của Công ty đã tạo điều kiện cho em hoàn thành bài viết này.
Hà nội, tháng 5 năm 2001
Tài liệu tham khảo
1 . Giáo trình quản trị kinh doanh tổng hợp trong các doanh nghiệp
Ngô Đình Giao chủ biên, nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật năm 1997
2 .Kinh tế thương mại dịch vụ - PGS.PTS. Đặng Đình Đào - NXB Thống kê
3 . Nhập môn kinh tế xí nghiệp đại cương - Wohle, Xuất bản lần thứ 7, Munchen 1990.
4 .Luận án PTS Khoa học kinh tế: “Xây dựng hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế trong các đơn vị sản xuất kinh doanh nông nghiệp”-Nguyễn Thị Thu-Hà nội 1989
5 .Thời báo kinh tế Việt Nam số 31, Thứ bảy ngày 18 tháng 4 năm 1998
6 .Tạp chí xây dựng số 5,6 năm 1999, số 4/2000 (Trang 42), 8/2000 (Trang 13), 1/1999 (Trang 56), 5/1999 (Trang 28)
7 .Một số tài liệu của Công ty xây dựng số 1 Hà nội.
Mục lục
Lời nói đầu
Chương I Hiệu quả sản xuất kinh doanh nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp....................................................................
I . Hiệu quả sản xuất kinh doanh và vai trò của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh......................................................................................
1 . Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh................................
2 . Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh.................................
3 . Đặc điểm của phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh................
4 . Sự cần thiết của nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp nước ta hiện nay.........................................................
II . Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh...................
A . Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp...............................................
1. Lực lượng lao dộng..................................................................
2. Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất...................................................................
3..Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin..........................................
4. Nhân tố quản trị.........................................................................
5. Nhân tố tính toán kinh tế............................................................
B . Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp.................................................
1 . Môi trường pháp lý....................................................................
2 . Môi trường kinh tế.....................................................................
3 . Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng..................................................
III . Xây dựng nghành sản xuất vật chất đặc thù trong nền kinh tế quốc dân................................................................
1 . Tình hình phát triển và vai trò của nó trong quá trình công. nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước..............................................................
2 . Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của nghành xây dựng........................
2.1 . Đặc điểm nghành xây dựng..............................................
2.2 . Các đặc điểm của sản phẩm xây dựng..............................
2.3 . Những đặc điểm của sản xuất trong xây dựng..................
Chương II Thực trạng về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty số 1 Hà nội...................................
I . Giới thiệu chung về Công ty.....................................................................
1 . Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty xây dựng số 1 Hà nội.......
2 . Chức năng , nhiệm vụ của Công ty xây dựng số 1 Hà nội.......................
II . Những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật........................................................
1 . Đặc điểm về công nghệ và máy móc thiết bị của Công ty.......................
2 . Đặc điểm lao động của Công ty...............................................................
3 . Ngành nghề kinh doanh của Công ty xây dựng nhà ở số 1.....................
4 . Đặc điểm chế độ tiền lương ....................................................................
5. Đặc điểm nguyên vật liệu.........................................................................
6. Đặc điểm về thị trường của Công ty.........................................................
III . Phân tích và đánh giá thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty xây dựng số 1 Hà Nội.................................
1 . Tình hình sản xuất kinh doanhcủa Công ty trong những năm qua...............
1.1. Chỉ tiêu doanh thu..................................................................................
1.2. Chỉ tiêu lợi nhuận và nộp ngân sách......................................................
1.3. Nguồn vốn kinh doanh...........................................................................
1.4. Chỉ tiêu chi phí......................................................................................
2. Các chỉ tiêu định lượng đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh...................
3.1.Các chỉ tiêu tổng hợp.............................................................................
3.2.Các chỉ tiêu kinh doanh bộ phận.............................................................
3. Các chỉ tiêu định tính đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh......................
Chương III Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty xây dựng số 1 Hà Nội............
I . Một số giải pháp ......................................................................................
Giải pháp1 : Nâng cao hiệu quả trong công tác đấu thầu......................... .
Giải pháp 2 : Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả..................................
Giải pháp 3 : Phát triển trình độ đội ngũ lao độngvà tạo động lực cho tập thể cá nhân người lao động...................................................
Giải pháp 4 :Vận dụng mối quan hệ Chi phí – Chất lượng – Thời gian để nâng cao chất lượng các công trình xây dựng......................
II/. Một số kiến nghị với Nhà nước...............................................................
Kết luận...........................................................................................................
Tài liệu tham khảo........................................................................................
1
3
3
3
6
7
8
10
10
10
11
12
12
13
13
13
13
14
14
14
15
15
16
16
19
19
19
21
22
22
25
27
28
30
30
32
32
32
33
37
39
40
40
49
63
68
68
68
75
80
81
85
86
87
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT1121.doc