Một số giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành ở TP. Hà Đông

Tài liệu Một số giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành ở TP. Hà Đông: LỜI NÓI ĐẦU Công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng nhằm đưa nông nghiệp và nông thôn nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và phát triển lên một trình độ mới. Hà Đông là thành phố thuộc tỉnh Hà Tây có tốc độ phát triển kinh tế tương đối cao, với nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân trên 10-11%. GDP bình quân đầu người năm 2007 đạt 1715 USD. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch rõ nét theo hướng tiến bộ giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ t... Ebook Một số giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành ở TP. Hà Đông

doc115 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1740 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành ở TP. Hà Đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rọng các ngành thuỷ sản, công nghiệp-xây dựng và thương mại- dịch vụ Đối với ngành nông nghiệp của thành phố Hà Đông, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 5-6%. Mặc dù ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng không cao trong cơ cấu GDP nhưng lại là nguồn thu nhập chính của khoảng 50,4% dân số của thành phố. Điều này cho thấy tầm quan trọng của ngành nông nghiệp trong phát triển kinh tế, ổn định xã hội, trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhu cầu của dân cư và phát triển các loại sản phẩm hàng hoá có giá trị kinh tế cao. Thành phố Hà Đông nằm ngay sát thủ đô Hà Nội, với diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do quá trình phát triển đô thị vì vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp là một giải pháp phù hợp với chính sách chủ trương của tỉnh cũng như của thành phố Do vậy việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho người nông dân và phục vụ nhu cầu của thị trường là một xu hướng tất yếu cho các vùng ven đô. Mặt khác nhu cầu thị trường hiện nay đòi hỏi cần có nhiều sản phẩm có chất lượng cao và an toàn như rau sạch, thịt sạch, quả sạch, lương thực sạch, các sản phẩm có giá trị đặc sản, có tính thương mại cao như ba ba, ếch, vịt cỏ Vân Đình và các sản phẩm phục vụ nhu cầu tinh thần như hoa, cây cảnh, đáp ứng tốt những nhu cầu thị trường đó là mục tiêu của ngành nông nghiệp nói chung và của ngành nông nghiệp thành phố Hà Đông nói riêng. Tuy nhiên vấn đề tăng nhanh giá trị sản xuất trồng trọt trên một đơn vị đất canh tác của thành phố còn chậm, cho đến nay mới chỉ có một số diện tích đạt được giá trị sản xuất 50 triệu đồng/ha trở lên, trong khi còn nhiều tiềm năng phục vụ cho quá trình phát triển nông nghiệp chưa được khai thác hết. Gây lãng phí nguồn lực và để mất cơ hội phát triển nông nghiệp của thành phố Do nhận thức được mức độ cần thiết và tính cấp bách của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hà Đông và được sự giúp đỡ của các cô chú, các anh chị tại cơ sở thực tập đặc biệt là được sự giúp đỡ của thầy Hoàng Văn Định em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành ở thành phố Hà Đông ”. Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm đánh giá được những nguồn lực, những thế mạnh của thành phố Hà Đông trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành của thành phố trong thời gian qua, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp của thành phố trong thời gian tới. Trên cơ sở đó báo cáo chuyên đề của em có bố cục như sau: Phần 1: Cơ sở lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Phần 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành ở thành phố Hà Đông. Phần 3: Phương hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành ở thành phố Hà Đông. Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới các cô chú, các anh chị tại Viện Quy Hoạch và Thiết Kế Nông Nghiệp và đặc biệt em xin trân thành cảm ơn thầy giáo: Hoàng Văn Định đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành báo cáo chuyên đề này. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH NÔNG NGHIỆP 1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH NÔNG NGHIỆP 1.1.1. Bản chất cơ cấu kinh tế nông nghiệp “Cơ cấu kinh tế” là một phạm trù biểu thị cấu trúc bên trong của mối liên kết giữa các bộ phận hợp thành nền kinh tế. Nội dung cơ cấu kinh tế phản ánh vai trò vị trí của từng bộ phận hợp thành nền kinh tế và mối tương tác lẫn nhau giữa chúng trong tổng thể. Các bộ phận này có những mối liên hệ được hình thành trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Do đó, chúng không phải là bất biến mà chúng luôn vận động, luôn thay đổi để phù hợp với những điều kiện nhất định.Cơ cấu kinh tế biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau như: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu khu vực thể chế… Trong đó, cơ cấu ngành là quan trọng nhất vì nó phản ánh sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu phân theo cơ cấu ngành thì toàn bộ nền kinh tế quốc dân được chia ra làm 3 nhóm ngành (hay 3 khu vực) kinh tế lớn là: Khu vực I là ngành nông nghiệp (gồm nông – lâm – thủy sản); Khu vực II là ngành công nghiệp và xây dựng cơ bản; Khu vực III là ngành thương mại – dịch vụ.Trong đó, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế quốc dân, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nông nghiệp cùng với kinh tế nông thôn tạo thành khu vực sản xuất cung cấp lương thực thực phẩm cho toàn xã hội tồn tại và phát triển. Nó còn cung cấp ngày càng nhiều các nguyên liệu cho công nghiệp chế biển, cung cấp nguồn lao động cho khu vực thành thị. Cùng với khu vực nông thôn là thị trường rộng lớn để tiêu thụ sản phẩm công nghiệp bao gồm cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay do phát huy được lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối có thể khai thác nguồn lợi nông -lâm -thuỷ sản làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thêm nguồn tích luỹ cho đất nước góp phần phát triển kinh tế đất nước. Hiện nay với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân đặc biệt là sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ, tỷ trọng của các ngành nông nghiệp giảm xuống chủ yếu là các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp nhưng không phải vì thế mà vị trí của ngành giảm xuống, nó vẫn giữ được vị trí quan trọng là nơi sản xuất và cung cấp những sản phẩm tất yếu không thể thay thế được. Vì thế cơ cấu kinh tế nông nghiệp đóng vai trò to lớn, nó tồn tại và phát triển gắn liền với tổng thể các quan hệ kinh tế nhất định. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp luôn vận động và thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công của lao động xã hội ở từng thời kỳ. Như vậy thực chất việc xác lập cơ cấu kinh tế nông nghiệp chính là giải quyết mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa tự nhiên và con người trong lĩnh vực nông nghiệp theo từng thời gian và điều kiện kinh tế xã hội cụ thể. Các mối quan hệ trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp phản ánh trình độ phát triển phân công lao động xã hội, của quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá, của trình độ tổ chức sản xuất, tổ chức lao động. Các mối quan hệ kinh tế trong nông nghiệp càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, càng phản ánh trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp được hiểu một cách đầy đủ là một tổng thể các mối quan hệ trong khu vực kinh tế nông nghiệp có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau theo từng tỷ lệ nhất định về mặt lượng và liên quan chặt chẽ về mặt chất giữa các ngành, giữa các vùng và các thành phần kinh tế chúng tác động qua lại lẫn nhau trong những không gian và thời gian nhất định, phù hợp với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định, tạo thành một hệ thống kinh tế nông nghiệp, một bộ phận hợp thành không thể tách rời của hệ thống kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cơ cấu kinh tế giữa các ngành nông – lâm – thủy sản và cơ cấu kinh tế nội bộ của các ngành đó. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp chỉ gồm cơ cấu kinh tế giữa các ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ trong nông nghiệp và cơ cấu kinh tế trong nội bộ các ngành đó. Việc xác lập cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý là một vấn đề cơ bản và rất quan trọng để phát triển kinh tế xã hội trong nông nghiệp nói riêng và khu vực kinh tế nông thôn nói chung. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp luôn tồn tại và vận động không ngừng phát triển luôn gắn liền với tổng thể các mối quan hệ kinh tế nhất định. Các bộ phận cấu thành của nó có mối quan hệ chặt chẽ tạo những tỷ lệ nhất định kể cả lượng và chất giữa các ngành, giữa các vùng và các thành phần kinh tế. Hiện nay cơ cấu kinh tế nông nghiệp đang dần chuyển dịch theo hướng tích cực, việc thay đổi tỷ lệ của các ngành, các mối quan hệ của hệ thống kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo sự giao lưu kinh tế giữa các vùng, tăng thu nhập và nâng cao đời sống cho người dân góp phần xứng đáng vào phát triển nông nghiệp nông thôn và sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 1.1.2. Đặc trưng của cơ cấu kinh tế nông nghiệp Từ bản chất của cơ cấu kinh tế nông nghiệp có thể rút ra một số đặc trưng chủ yếu của cơ cấu kinh tế nông nghiệp như sau: 1.1.2.1 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính khách quan và được hình thành trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội chi phối. Thật vậy, ở một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội thì tất sẽ phải có một cơ cấu kinh tế cụ thể để thích ứng với nó. Như vậy việc xác lập cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần phải tôn trọng tính khách quan của nó và không thể áp đặt một cách chủ quan duy ý chí. Trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội tự các mối quan hệ kinh tế đã có thể xác lập những tỷ lệ nhất định mà người ta gọi là cơ cấu. 1.1.2.2 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính lịch sử và xã hội nhất định. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp như đã được nói tới nó là một tổng thể các mối quan hệ kinh tế được xác lập theo những tỷ lệ nhất định về mặt lượng trong thời gian cụ thể. Tại một thời điểm với những điều kiện về kinh tế, tự nhiên, xã hội, các tỷ lệ đó được xác lập và hình thành tạo thành một cơ cấu kinh tế nhất định. Song một khi có những thay đổi và hình thành một cơ cấu kinh tế mới hợp lý hơn. Tùy hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của mỗi vùng mỗi quốc gia mà xác lập được một cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với từng giai đoạn phát triển nhất định. Không thể có một cơ cấu làm chuẩn mực trong mọi điều kiện. 1.1.2.3 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp không ngừng vận động và phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện hợp lý và có hiệu quả hơn. Trong triết học Mac đã nói rằng:” Sự vật hiện tượng luôn luôn biến đổi và vận động không ngừng”. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng vậy chúng luôn luôn vận động và ngày càng phát triển theo chiều hướng ngày một hợp lý hơn. Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, khoa học công nghệ ngày càng hiện đại, phân công lao động ngày càng tỷ mỉ và phức tạp, tất cả những điều đó đã dẫn đến một cơ cấu nông nghiệp ngày càng phải hoàn thiện hơn. Sự vận động và biến đổi không ngừng của các yếu tố, các bộ phận trong nền kinh tế quốc dân nói chung và trong khu vực kinh tế nông nghiệp nói riêng. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng sẽ vận động biến đổi không ngừng thông qua chuyển dịch trong chính nội tại bản thân nó. Cơ cấu cũ sẽ mất đi và cơ cấu mới sẽ hình thành phát triển, quá trình đó nó luôn vận động không ngừng của sự vật hiện tượng. Khi cơ cấu mới trở thành lỗi lạc không còn phù hợp với điều kiện thực tế thì nó lại được thay thế bằng một cơ cấu mới tiến bộ và hoàn thiện hơn. Sự vận động và biến đổi là tất yếu, phản ánh sự phát triển không ngừng của văn minh nhân loại. 1.1.2.4 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một quá trình và cũng không thể có một cơ cấu hoàn thiện bất biến Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một quá trình làm thay đổi cấu trúc và mối quan hệ của nền kinh tế theo mục đích và phương hướng nhất định. Qúa trình này tất yếu phải xảy ra bởi sự phát triển và vận động không ngừng của sự vật đó. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp sẽ vận động và chuyển hoá từ cơ cấu cũ sang cơ cấu kinh tế mới đòi hỏi phải có thời gian và qua các nấc thang nhất định của sự phát triển. Đầu tiên là biến đổi về lượng và khi lượng được tích luỹ đến độ nhất định sẽ dẫn đến sự chuyển đổi về chất. Đó là quá trình chuyển hoá cơ cấu kinh tế cũ sang một cơ cấu kinh tế mới một cách phù hợp và có hiệu quả hơn. Tất nhiên quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó sự tác động của con người có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đặc biệt cần phải có những giải pháp chính sách và cơ chế quản lý thích hợp để định hướng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng và chuyển dịch kinh tế nông thôn nói riêng. Tất cả sự nóng vội sẽ dẫn tới sự trì trệ trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gây phương hại đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải là một quá trình không thể khác được nhưng không phải là một quá trình tự do của con người. Nhưng vấn đề quan trọng là phải bắt nguồn từ đâu và với những biện pháp nào mà khi tác động vào nó sẽ gây phản ứng dây truyền tạo ra bước phát triển nói nên tổng thể kinh tế nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. 1.1.2.5 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp được hình thành và phát triển trên cơ sở của điều kiện tự nhiên và mức độ khai thác cải tạo điều kiện tự nhiên ( đất đai, thời tiết, khí hậu). Thật vậy, sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với điều kiện tự nhiên vì vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của điều kiện tự nhiên. Một nền nông nghiệp hay, một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hiệu quả là phải đạt năng suất cây trồng, vật nuôi cao với chi phí ít trên một đơn vị. Muốn vậy phải lợi dụng tối đa các yếu tố của điều kiện tự nhiên tham gia vào quá trình sản xuất. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo xu hướng ngày càng lợi dụng được điều kiện tự nhiên có lợi nhất. 1.1.2.6 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp hình thành và biến đổi gắn liền với sự ra đời và phát triển của một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá Kinh tế nông nghiệp trải qua một quá trình phát triển từ nền kinh tế sinh tồn sang kinh tế tự cung tự cấp, sự biến đổi của cơ cấu kinh tế nông nghiệp rất chậm chạp và trì trệ. Từ khi chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá (kinh tế thị trường) thì cơ cấu kinh tế nông nghiệp mới được hình thành đa dạng và có hiệu quả hơn. 1.1.3 Nội dung của cơ cấu kinh tế nông nghiệp 1.1.3.1 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành Ngành là một tổng thể các đơn vị kinh tế cùng thực hiện một loại chức năng trong hệ thống phân công lao động xã hội, nó ra đời và phát triển gắn với sự phát triển của phân công lao động xã hội; sự phân công lao động theo ngành là cơ sở hình thành cơ cấu kinh tế theo ngành, sự phân công lao động xã hội phát triển ở trình độ càng cao, càng tỷ mỷ sự phân chia ngành càng đa dạng và sâu sắc. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành hiểu theo nghĩa hẹp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp, còn hiểu theo nghĩa rộng thì còn bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp. Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, một thời gian dài kinh tế nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi chưa phát triển. Ở những nước kém phát triển tỷ trọng trồng trọt trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ rất cao, đại bộ phận nông dân chủ yếu tham gia lao động trồng trọt, chỉ số ít là kết hợp với chăn nuôi. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và khoa học công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật đặc biệt sự phát triển nông nghiệp hiện đại, cơ cấu kinh tế nông nghiệp được cải biến nhanh chóng theo hướng sản xuất hàng hoá, công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Trong mỗi nhóm ngành lại được chia thành nhiều ngành hẹp hơn, chẳng hạn trong trồng trọt được chia thành ngành trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây thực phẩm...trong ngành chăn nuôi được phân thành ngành chăn nuôi đại gia súc, tiểu gia súc, gia cầm... Chuyển dịch cơ cấu ngành trong nông nghiệp biểu hiện trong nông nghiệp sự thay đổi các mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và ngư nghiệp hay giữa các nhóm ngành trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, cây thực phẩm...trong ngành trồng trọt. Do vậy cần phân biệt sự khác nhau giữa chuyển dịch cơ cấu ngành và trong nội bộ ngành, phân biệt theo đặc trưng kinh tế kỹ thuật của chúng để tạo ra hệ thống phân công lao động cho phù hợp, hướng tới xây dựng một cơ cấu ngành đa dạng, hợp lý phát triển các ngành có nhiều lợi thế theo hướng phục vụ nhu cầu thị trường, đồng thời kết hợp tối ưu giữa cơ cấu ngành với cơ cấu vùng lãnh thổ và cơ cấu các thành phần kinh tế. 1.1.3.2 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng lãnh thổ Sự phân công lao động theo ngành kéo theo sự phân công lao động theo lãnh thổ đó là hai mặt của một quá trình gắn bó hữu cơ với nhau. Sự phân công lao động theo ngành bao giờ cũng diễn ra trên những vùng lãnh thổ nhất định, nghĩa là cơ cấu vùng lãnh thổ chính là việc bố trí các ngành trong sản xuất nông nghiệp theo không gian cụ thể nhằm khai thác mọi ưu thế tiềm năng to lớn. Ở đây, xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng lãnh thổ đi vào chuyên môn hoá và tập trung hoá hình thành những vùng sản xuất lớn tập trung có hiệu quả cao mở với các vùng chuyên môn hoá khác, gắn cơ cấu của từng khu vực với cơ cấu kinh tế của cả nước. Trong từng vùng lãnh thổ coi trọng chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp đa dạng. Để hình thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng lãnh thổ hợp lý thì cần bố trí các ngành trên vùng lãnh thổ hợp lý, để khai thác đầy đủ tiềm năng của từng vùng. Đặc biệt cần bố trí các ngành chuyên môn hoá dựa trên những lợi thế so sánh từng vùng đó là những vùng có đất đai tốt, khí hậu thuận lợi, đường giao thông lớn và các khu công nghiệp đô thị. So với cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành thì cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng lãnh thổ có sức ì hơn, chậm chuyển dịch vì thế khi bố trí các vùng chuyên môn hoá cần được xem xét cụ thể thận trọng nếu phạm sai lầm khó khắc phục, bị tổn thất rất lớn. 1.1.3.3 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo thành phần kinh tế Trong suốt thời gian dài của thời kỳ bao cấp ở nước ta, cơ cấu thành phần kinh tế trong nông nghiệp chậm chuyển biến với sự tồn tại thuần nhất của hai loại hình kinh tế, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Đến đại hội VI của Đảng với nội dung chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì các thành phần kinh tế phát triển đa dạng và đa thành phần. Điều đáng chú ý trong quá trình chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế nổi lên các xu thế sau: Đó là sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế hộ nổi lên thành kinh tế hộ độc lập, tự chủ, đây là thành phần kinh tế năng động nhất, tạo ra sản phẩm hàng hoá phong phú đa dạng cho xã hội. Trong quá trình phát triển kinh tế hộ chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá nhỏ tiến tới hình thành các trang trại, công trại (sản xuất hàng hoá lớn). Thành phần kinh tế quốc doanh có xu hướng giảm mạnh nhà nước đang có biện pháp sắp xếp, rà soát lại, hoặc chuyển sang các chức năng khác cho phù hợp với điều kiện hiện nay. Thành phần kinh tế tập thể (hay kinh tế hợp tác ) cũng chuyển đổi chức năng của mình sang các HTX kiểu mới làm chức năng hướng dẫn sản xuất và công tác dịch vụ phục vụ cho nguyện vọng của hộ nông dân mà trước đây chức năng của HTX là trưc tiếp điều hành sản xuất. Như vậy sự phát triển đa dạng của các thành phần kinh tế cùng với việc chuyển đổi chức năng của nó làm cơ cấu thành phần kinh tế trong nông nghiệp có những chuyển biến mạnh mẽ theo hướng phát huy hiệu quả của các thành phần kinh tế. 1.1.4. Ý nghĩa của cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế ở hầu hết các nước nhất là ở các nước đang phát triển như Việt Nam, vì hơn 70% dân số nước ta đang sống dựa vào nghề nông. Nông nghiệp còn là ngành tạo ra sản phẩm thiết yếu nhất cho con người. Xã hội càng phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu của con người về lương thực, thực phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Mà lương thực, thực phẩm là sản phẩm chỉ có ngành nông nghiệp sản xuất ra. Con người có thể sống mà không cần sắt, thép, than, điện.. nhưng không thể thiếu lương thực. Hơn nữa, không có sản phẩm của các ngành sản xuất nào có thể thay thế được nhiều loại sản phẩm của nông nghiệp. Do vậy, một cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp hợp lý có ý nghĩa quan trọng với nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp hợp lý là cơ cấu cho phép khai thác và phát huy tốt nhất, đạt hiệu quả cao nhất những nguồn lực để sản xuất nông nghiệp nhằm đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, tạo ra nhiều sản phẩm, đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất không ngừng tăng lên của con người. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp hợp lý được xem xét trên các tiêu chí sau: Thứ nhất, phải phù hợp với các quy luật khách quan, phù hợp với xu thế kinh tế, chính trị của khu vực và thế giới. Thứ hai, phản ánh khả năng khai thác và sử dụng nguồn lực kinh tế trong nước và đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và thế giới. Do đó, một cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp hợp lý sẽ tạo điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa đa dạng, sức cạnh tranh cao, phát huy được lợi thế so sánh, đồng thời áp dụng được tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo ra sản phẩm nông sản có chất lượng cao, tạo công ăn việc làm, ổn định kinh tế, chính trị, nâng cao đời sống của nông dân, tạo điều kiện hoàn thành mục tiêu công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của đất nước, nhất là hiện nay chúng ta đang trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới. 1.2. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP 1.2.1.Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một quá trình làm thay đổi cấu trúc và mối liên hệ của các bộ phận cấu thành kinh tế nông nghiệp theo mục đích và phương pháp nhất định. Không có một cơ cấu kinh tế cụ thể nào là hoàn thiện và bất biến, qúa trình chuyển dịch này xảy ra bởi sự phát triển và vận động không ngừng của chính cơ cấu kinh tế đó. Cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng sẽ vận động và chuyển hoá từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới nhưng đòi hỏi phải có thời gian và những bước phát triển nhất định. đầu tiên là sự chuyển đổi về số lượng, khi lượng được tích luỹ đến độ nhất định sẽ dẫn đến sự biển đổi về chất. Đó là quá trình chuyển hoá dần từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới hoàn thiện và hiệu quả hơn. Qúa trình chuyển dịch từ cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự tác động của con người có ý nghĩa quan trọng thông qua các giải pháp, các cơ chế quản lý thích ứng để định hướng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự nóng vội hay bảo thủ, trì trệ trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đều gây tác hại đến việc phát triển của nền kinh tế nông thôn nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp-nông thôn là một quá trình tất yếu. Nhưng quá trình đó không phải là quá trình vận động tự phát, mà con người cần phải có tác động để thúc đẩy quá trình chuyển dịch này nhanh và hiệu qủa hơn. Trên cơ sở nhận thức và nắm bắt được quy luật vận động khách quan, con người tìm và đưa ra các biện pháp đúng đắn tác động để làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra đũng mục tiêu và định hướng đã vạch ra. Mục tiêu của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tạo ra một hệ thống các tiểu ngành, nghề mới trong ngành nông nghiệp phù hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi vùng. Kết quả của sự chuyển dịch là tạo được mối quan hệ hữu cơ tương hỗ giữa các ngành trong nội bộ ngành nông nghiệp với các ngành khác sao cho phù hợp và có hiệu quả. Nó góp phần tác động tích cực tới quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. 1.2.2. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp 1.2.2.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm phát triển một nền nông nghiệp toàn diện đáp ứng yêu cầu về nông sản phẩm của xã hội. Qúa trình chuyển đổi nền kinh tế đát nước sang kinh tế thị trường, sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp nói riêng hay kinh tế nông thôn nói chung đang đứng trước những thách thức của sự phát triển đó. Trong nền kinh tế thị trường, thị trường luôn là yếu tố quyết định cho sự phát triển kinh tế và đặc biệt nó ảnh hưởng quyết định đến việc hình thành và biển đổi cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng. Xã hội ngày càng phát triển nhu cầu của con người về nông sản phẩm cũng theo đó mà tăng lên cả về số lượng và chất lượng, chủng loại. Đó là đòi hỏi của thị trường mà yêu cầu người sản xuất phải đáp ứng. Để sản xuất nông nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường và nhu cầu của người tiê dùng đòi hỏi phải đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ nông nghiệp. Muốn vậy, không thể dừng lại ở cơ cấu nông nghiệp truyền thống mà phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đáp ứng yêu cầu và tác động của thị trường. Qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang lại lợi ích kinh tế ngày càng cao cho hộ nông dân là nguyện vọng thiết thực, mặt khác với nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về nông sản hàng hoá, thì chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm phát triển nền kinh tế cải thiện đời sống của nhân dân. 1.2.2.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là yêu cầu xây dựng một nền nông nghiệp CNH, HĐH. Đại hội Đảng làn thứ VIII đã khẳng định nước ta muốn phát triển nhất thiết phải thực hiện công cuộc hiện đại hoá. Đại hội nhấn mạnh nội dung cơ bản của CNH, HĐH giai đoạn hiện nay là; đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Phải chăng đó là mũi đột phá quan trọng nhằm giải phóng sức lao động trong nông nghiệp hiện chiếm khoảng 70% lao động cả nước, tạo điều kiện khai thác tốt tiềm năng dồi dào về lao động, đất đai. CNH, HĐH nông nghiệp tạo điều kiện giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nhiều vùng ở nông thôn. Tạo điều kiện để phát triển năng lực sản xuất khuyến khích mọi lực lượng lao động trong các thành phần kinh tế hướng vào việc sản xuất nông sản hàng hoá. Giải quyết tốt quan hệ giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Quan hệ giữa việc hoạch định phương hướng, mục tiêu sản xuất trong từng thời kỳ. Chính việc tạo điều kiện giải quyết các mối quan hệ trên là việc tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vì chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm thực hiện giải quyết các mối quan hệ trên. Do đó CNH, HĐH nông nghiệp là cơ sở để thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. 1.2.2.3 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tạo cơ sở cho việc thay đổi bộ mặt nông thôn nói chung và nông nghiệp nói riêng. Để giúp cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thu được kết quả, trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã ban hành chính sách vốn vào đầu tư cho nông nghiệp nhằm tạo điều kiện huy động được các nguồn vốn trong nước và ngoài nước đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh của các ngành nông nghiệp, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn. Như vậy, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp không chỉ sản xuất trồng trọt và chăn nuôi được phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá trên cơ sở khai thác lợi thế của địa phương mà cơ sở hạ tầng của nông thôn được tăng cường đầu tư xây dựng, vấn đề y tế giáo dục cũng được cải thiện, trình độ dân trí cũng được nâng cao một bước. Do đó việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã và đang từng bước góp phần tích cực tới quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá nông nghiệp nông thôn và quá trình xây dựng nông thôn mới. 1.2.3. Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Do những biến động của nền kinh tế đất nước gắn liền với bối cảnh chuyển sang nền kinh tế thị trường và sự tác động mạnh mẽ của quá trình CNH,HĐH nông thôn. Nền nông nghiệp đang từng bước chuyển sang nông nghiệp sản xuất hàng hoá với cấu trúc đa dạng và năng động. Tốc độ tăng giá trị sản lượng tuy cao nhưng chưa có bước tiến mạnh mẽ về chuyển đổi cơ cấu nhất là chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong thời gian tới là: Đổi mới cơ cấu giữa các ngành trong toàn ngành và đổi mới trong nội bộ từng ngành. Trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành chính của nông nghiệp, trong nhiều năm giữa 2 ngành này mất cân đối nghiêm trọng, tỷ trọng của ngành trồng trọt luôn chiếm ưu thế, chăn nuôi chưa được chú trọng phát triển. Hướng tới đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính, có vị trí tương xứng với ngành trồng trọt góp phần nâng cao tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành này. Ngay trong ngành chăn nuôi cần thiết phải đa dạng hoá, coi trọng phát triển đàn gia súc nhằm cung cấp thịt, sữa cho toàn nền kinh tế. Phải đổi mới cơ cấu chăn nuôi hợp lý, tăng nhanh tỷ trọng thịt trâu, bò và gia cầm bằng cách phát triển mạnh đàn bò thịt, phát triển mạnh đàn gia cầm gồm gà, vịt, ngan, ngỗng trong đó coi trọng đàn gà, vịt. Phát triển mạnh đàn lợn hướng nạc, nâng tỷ lệ nạc trong thịt lợn lên 40-50%. Trong ngành trồng trọt, tiến hành đa dạng hoá sản xuất, giảm tỷ trọng giá trị sản xuất lương thực, tuy vậy vẫn phải đảm bảo được an ninh lương thực bằng nhiều biện pháp tăng năng suất, sản lượng lương thực như thâm canh, khai hoang, tăng vụ, đưa các tiến bộ kho học kỹ thuật mới vào sản xuất. Thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng đa dạng hoá, chú trọng phát triển những cây có giá trị kinh tế cao như cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả, cây hoa, cây cảnh. Phát triển nhanh ngành thuỷ sản bao gồm cả nuôi trồng, khai thác và chế biến để nâng cao tỷ trọng giá trị ngành thuỷ sản, khai thác lợi thế của từng vùng. Khai thác, sử dụng có hiệu quả mặt nước, kể cả chuyển một phần đất sản xuất nông nghiệp hiệu quả thấp sang nuôi trồng thuỷ sản. Phát triển mạnh nuôi ở biển, nuôi nước lợ, nước ngọt tăng sản lượng nuôi trồng tương đương sản lượng khai thác. Đẩy mạnh phát triển ngành lâm nghiệp bao gồm cảc trồng rừng, khai thác và chế biến. Đặc biệt phục vụ nhu cầu sản xuất giấy và chế biến gỗ góp phần giữ vững cân bằng sinh thái và phát triển nông nghiệp bền vững. 1.2.4. Các chỉ tiêu biểu hiện cơ cấu kinh tế nông nghiệp và hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp .1.2.4.1 Các chỉ tiêu biểu hiện cơ cấu kinh tế nông nghiệp Có nhiều chỉ tiêu biểu hiện cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong đó quan trọng nhấ._.t là chỉ tiêu cơ cấu giá trị sản xuất, dịch vụ và cơ cấu giá trị sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Ngoài ra còn sử dụng hệ thống các chỉ tiêu sau: -Cơ cấu sử dụng đất -Cơ cấu vốn đầu tư -Cơ cấu lao động Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp làm thay đổi các tỷ lệ trên để tạo ra một cơ cấu hợp lý hơn đem lại hiệu quả kinh tế cao. Cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo đà cho nông nghiệp phát triển với nhịp độ cao và an toàn, phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững. 1.2.4.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được thể hiện ở sự gia tăng trong một số chỉ tiêu kết quả và hiệu quả sản xuất như sau: -Năng suất ruộng đất (tính theo giá trị). -Thu nhập trên một diện tích đất đai. -Năng suất cây trồng và năng suất vật nuôi -Gía trị các loại sản phẩm sản xuất và dịch vụ -Gía trị tổng thu nhập -Hiệu quả vốn đầu tư -Năng suất lao động nông nghiệp -Thu nhập bình quân một khẩu, một hộ lao động nông nghiệp... Bên cạnh đó còn một số chỉ tiêu khác phản ánh kết quả của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp như: Nhịp độ tăng trưởng kinh tế, phúc lợi xã hội (y tế, giáo dục, đời sống của cộng đồng dân cư...). Các chỉ tiêu trên có thể phản ánh cơ cấu kinh tế và hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong cả nước, từng vùng lãnh thổ và các thành phần kinh tế. Tuỳ thuộc từng phạm vi nghiên cứu mà sử dụng các chỉ tiêu, phương pháp cho thích hợp. 1.3.NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Nông nghiệp có cơ cấu nội tại phức tạp, cơ cấu ấy được biểu hiện ở các bộ phận cấu thành hệ thống nông nghiệp và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận ấy. Sự hình thành và vận động của cơ cấu nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều nhân tố nhưng nhìn chung có 3 nhóm nhân tố ảnh hưởng chủ yếu sau: 1.3.1.Nhóm nhân tố về điều kiên tự nhiên Nhóm này gồm: Vị trí địa lý của vùng lãnh thổ, điều kiện đất đai của các vùng: Điều kiện khí hậu, thời tiết, các nguồn tài nguyên khác của vùng lãnh thổ như: Nguồn nước, rừng, biển...Các nhân tố tự nhiên trên tác động một cách trực tiếp tới sự hình thành, vận động và biển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên sự tác động và ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên tới mỗi nội dung của cơ cấu kinh tế là không giống nhau. Trong các nội dung của cơ cấu kinh tế nông nghiệp thì cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ chịu sự ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên nhiều nhất còn cơ cấu các thành phần kinh tế và cơ cấu kỹ thuật chịu ảnh hưởng ít hơn. Trong các điều kiện tự nhiên nêu trên các điều kiện tự nhiên về đất đai khí hậu, vị trí địa lý có ảnh hưởng rất rõ rệt tới sự phát triển của nông nghiệp (theo nghĩa rộng gồm cả nông, lâm, ngư nghiêp) qua nông nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành khác. Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề đầu tiên của mọi quá trình sản xuất nhất là đối với nông nghiệp nó là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Trong nông nghiệp, đất đai vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Đất là đối tượng lao động khi con người sử dụng công cụ lao động tác động vào đất làm cho đất thay đổi dạng như cày, bừa, đập đất…quá trình đó làm tăng chất lượng ruộng đất, tạo điều kiện thuận lợi để tăng năng suất cây trồng. Đất là tư liệu lao động khi con người sử dụng công cụ lao động tác động lên đất, thông qua các thuộc tính lý học, hóa học, sinh vật học và các thuộc tính khác của đất để tác động lên cây trồng. Sự kết hợp của đối tượng lao động và tư liệu lao động đã làm cho ruộng đất trở thành tư liệu sản xuất trong nông nghiệp, không những thế, còn là tư liệu sản xuất chủ yếu, tư liệu sản xuất đặc biệt, tư liệu sản xuất không thể thay thế được. Quy mô và cơ cấu sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào quỹ đất nông nghiệp trong tổng quỹ đất tự nhiên cũng như độ phì nhiêu và cấu tạo thổ nhưỡng. Để xác định cơ cấu sản xuất, đất đai có thể được phân loại dưới nhiều góc độ khác nhau: theo vùng địa hình thì có thể chia thành vùng ven biển, nội đồng, bán sơn địa, vùng núi thấp, vùng núi cao; theo đặc điểm các loại đất có thể chia đất phù sa, đất xám bạc màu, đất phèn, đất cát biển, đất nâu đỏ… Mỗi vùng, mỗi loại đất thích hợp với các loại cây trồng và vật nuôi khác nhau. Do vậy, tùy vào điều kiện đất đai của từng vùng mà có cơ cấu ngành nông nghiệp thích hợp. Khí hậu, thời tiết là nguồn tài nguyên liên quan và là tác nhân ảnh hưởng rất lớn đến các ngành kinh tế quốc dân. Đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Sự phân bố các yếu tố ánh sáng, nhiệt độ, các loại thời tiết, không những liên quan đến cơ cấu năng suất cây trồng mà còn đến cả số lượng mùa vụ cây trồng, vật nuôi trong năm. Ở mỗi vùng lãnh thổ với điều kiện thời tiết, khí hậu (lượng mưa, nhiệt độ, độ ẩm…) khác nhau thì hệ sinh thái sẽ khác nhau về quy mô số lượng các phân ngành chuyên ngành của nông, lâm, ngư nghiệp dẫn tới sự khác nhau của cơ cấu ngành. Như ở Việt Nam với hai mùa mưa và mùa khô, quanh năm cây trồng phát triển thuận lợi. Tuy nhiên, trong mùa mưa các loại cây trồng phát triển mạnh hơn nhất là những nơi có khí hậu khô nóng hay vào mùa đông lạnh với những đợt gió mùa đông bắc, nhiều loại cây không thích ứng được nhưng cũng có một số cây trồng thích ứng tốt, phát triển bình thường. Ngoài ra, điều kiện thủy văn cũng chi phối mạnh cơ cấu ngành nông nghiệp. Ở những vùng đồng bằng, mưa nhiều lúa nước chiếm ưu thế, ở những vùng cao nguyên, thiếu nước thì thích hợp với các cây công nghiệp dài ngày. Trong mỗi quốc gia các vùng lãnh thổ với vị trí địa lý khác nhau có điều kiện đất đai, điều kiện khí hậu các nguồn tài nguyên tự nhiên khác (nước, rừng, biển...) và hệ sinh thái khác về số lượng và quy mô các phân ngành chuyên ngành sâu của nông lâm ngư nghiệp, giữa các vùng có sự khác nhau, dẫn tới sự khác nhau của cơ cấu ngành. Điều này được thể hiện rõ rêt từng sự phân biệt về cơ cấu các ngành kinh tế trong nông nghiệp giữa các vùng đồng bằng, trung du miền núi. Ngay giữa các vùng cơ cấu kinh tế các ngành cũng có sự khác nhau rõ rệt, do tính đa dạng và phong phú của tự nhiên nước ta và sự phát triển không đồng đều của nguồn lực. Một số vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển một số ngành sản xuất, tạo ra các lợi thế so với các vùng khác của đất nước. Đây là cơ sở tự nhiên để hình thành các vùng kinh tế. 1.3.2.Nhóm các nhân tố kinh tế xã hội Các nhân tố kinh tế xã hội ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao gồm: Thị trường (cả thị trường trong và ngoài nước ), hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, vốn, cơ sở hạ tầng nông thôn, sự phát triển các khu công nghiệp và đô thị; kinh nghiệm, tập quán và truyền thống sản xuất của dân cư... Trong nền kinh tế hàng hoá, nhân tố thị trường có ảnh hưởng quyết định tới sự phát triển kinh tế nói chung và biến đổi của cơ cấu kinh tế nói riêng. Bởi suy đến cùng cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng chỉ tồn tại và vận động thông qua hoạt động của con người. Nhưng người sản xuất hàng hoá chỉ sản xuất và đem ra thị trường trao đổi những sản phẩm mà họ cảm thấy chúng đem lại lợi nhuận thoả đáng. Như vậy, thị trường thông qua quan hệ cung cầu mà tín hiệu là giá cả hàng hoá thúc đẩy hay ngăn cản người sản xuất tham gia hay không tham gia vào thị trường. Với cơ chế đó người sản xuất tự xác định khả năng tham gia cụ thể của mình vào thị trường những loại sản phẩm hành hoá có lợi nhất. Do đó trên thị trường sẽ xuất hiện các loại hàng hoá dịch vụ với quy mô và cơ cấu phản ánh cơ cấu kinh tế ở từng vùng, từng địa phương. Trong điều kiện hiện nay nền kinh tế mở cần chú trọng sự tác động và ảnh hưởng của thị trường quốc tế tới cơ cấu kinh tế nông nghiệp của mỗi nước. Ngày nay, qúa trình hợp tcá và giao lưu kinh tế ngày càng mở rộng thì hầu hết các quốc gia đều thực hiện các chiến dịch kinh tế mở. Thông qua quan hệ giao thương quốc tế, các quốc gia ngày càng tham gia sâu hơn vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Đây là nhân tố hết sức quan trọng ảnh hưởng tới quá trình biến đổi cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng ở mức quốc gia. Việc tham gia ngày càng sâu vào quá trình hợp tác và phân công quốc tế sẽ làm cho các quốc gia khai thác và sử dụng mọi nguồn lực của mình có lợi nhất trên cở sở phát huy các lợi thế so sánh. Mặt khác thông qua thị trường quốc tế mà mình tham gia thì mỗi quốc gia lại tăng thêm các cơ hội tìm kiếm những công nghệ và kỹ thuật mới cũng như các nguồn vốn đầu tư phát triển các ngành kinh tế nâng cao trình độ công nhân kỹ thuật, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mặc dù thị trường có vai trò quan trọng nhưng bản thân thị trường và các quy luật vốn có của nó luôn chứa đựng khả năng tự phát và dẫn đến rủi ro cho người sản xuất cũng như gây lãng phí các nguồn lực của xã hội nói chung và khu vực kinh tế nông nghiệp nói riêng. Để hạn chế khả năng tự phát này cần có sự tác động hợp lý của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô.Chính sách kinh tế là hệ thống các biện pháp kinh tế được thực hiện bằng các văn bản quy định tác động cùng chiều vào nền kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu đã định. Chức năng chủ yếu của các chính sách kinh tế vĩ mô là tạo ra động lực kinh tế mà cốt lõi là lợi ích kinh tế của mình mà tiến hành các hoạt động kinh tế phù hợp với các định hướng của nhà nước trong kế hoạch kinh tế, hoạt động phù hợp với định hướng của nhà nước đồng thời để đảm bảo lợi ích kinh tế của các chủ thể, nhà nước thông qua pháp luật kinh doanh xác lập hành lang và khuôn khổ cho các chủ thể kinh tế hoạt động, pháp luật kinh doanh cũng là chỗ dựa pháp lý của các chủ thể kinh tế trong các hoạt động của mình. Để có thể đảm bảo phát huy những tác động tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của thị trường nhằm mục đích tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển với tốc độ cao và ổn định thì một trong những hướng tác động quan trọng nhất của các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước là sự tác động đến cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng. Nếu chỉ có tác động của các quy luật thị trường thì cơ cấu kinh tế chỉ hình thành và vận động một cách tự phát và tất yếu dẫn đến sự lãng phí trong sử dụng các nguồn lực của đất nước. Để thực hiện chức năng điều tiết của mình nhà nước không còn cách nào khác phải ban hành một hệ thống các chính sách kinh tế cùng với các công cụ quản lý vĩ mô khác thúc đẩy việc hình thành một cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp hợp lý nhằm khai thác có hiệu quả nhất các nguồn lực và các lợi thế của khu vực kinh tế nông nghiệp. Muốn bảo đảm tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp lâu dài, bên vững và chất lượng cao thì việc bảo đảm tiền vốn là rất quan trọng. Vốn đầu tư trong nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động được đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Các nguồn vốn đầu tư để chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp gồm có: - Nguồn vốn tự huy động của dân cư vào phát triển sản xuất, kinh doanh: đặc điểm quan trọng của nguồn vốn này ở nông thôn khác với ở đô thị, đó là tính nhỏ lẻ, tỷ lệ huy động thấp. - Nguồn vốn huy động từ chính phủ: thường được coi là nguồn đầu tư trực tiếp từ ngân sách. Đây là nguồn vốn rất quan trọng mang tính định hướng, quy mô lớn và tập trung. - Nguồn vốn tín dụng có nguồn gốc hình thành từ ngân sách nhà nước(các tổ chức tín dụng nhà nước) và nguồn huy động trong dân cư đô thị hoặc nông thôn. Vốn tín dụng thường được phân làm hai loại: chính thức và phi chính thức. Trong nền kinh tế thị trường thì vốn tín dụng đang dần trở thành nguồn vốn chủ lực giúp ích cho phát triển sản xuất nói chung, phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng. - Nguồn vốn đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp từ nước ngoài: nguồn này là rất hạn chế, nhất là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông nghiệp. Tuy nhiên, chúng ta cần thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của các loại hàng nông sản. Các nguồn vốn đầu tư trên có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của các ngành kinh tế nông nghiệp, sự nâng cao trình độ công nghệ, kỹ thuật trong nông nghiệp và qua đó ảnh hưởng đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Giải quyết tốt vấn đề vốn là một trong những điều kiện quan trọng nhất để phát triển kinh tế nông nghiệp và xây dựng một cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp hợp lý, phù hợp với yêu cầu khai thác các nguồn lực của khu vực kinh tế nông thôn. Sự phát triển của các khu công nghiệp và đô thị cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Sự phát triển này tạo ra khả năng cung cấp kỹ thuật và công nghiệp ngày càng tiên tiến, tạo ra các nguồn vốn đầu tư ngày càng dồi dào cho khu vực kinh tế nông nghiệp, góp phần thúc đẩy quá trình hình thành, vận động và biến đổi của cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Kết cấu hạ tầng nông thôn có ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn đến sự hình thành và phát triển của các ngành kinh tế, các vùng kinh tế. Kết quả phát triển các kết cấu hạ tầng như thủy lợi, giao thông, điện, giáo dục…cũng tác động vào chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp.Các công trình thủy lợi vừa mang lại năng suất cao, vừa cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư, vừa có thể cải tạo các vùng đất hoang hóa thành đất sản xuất nông nghiệp. Sự phát triển của hệ thống giao thông, mạng lưới điện đã làm cho nông sản hàng hóa gia tăng về quy mô, đa dạng về chủng loại. Như vậy, kết cấu hạ tầng nông thôn là một trong những nhân tố có vai trò quyết định đến sự hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, điều kiện để ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào hoạt động của các ngành kinh tế, nâng cao năng suất lao động, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn. Nguồn lao động bao gồm cả số lượng và chất lượng của dân số, là điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng kinh tế, hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Chính con người lao động là nhân tố đem lại nguồn lực ban đầu và là nhân tố then chốt nâng cao năng suất, đẩy nhanh tốc độ phát triển nông nghiệp, nhân tố thúc đẩy tiến bộ khoa học – công nghệ. Quy mô dân số và thu nhập của họ là yếu tố ảnh hưởng lớn đến quy mô và cơ cấu nhu cầu về hàng nông sản. Thu nhập của người lao động càng tăng thì nhu cầu của họ về hàng nông sản càng phong phú và đa dạng – cở sở để phát triển các ngành trong nông nghiệp, hình thành cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo nhu cầu. Trước đây, người ta chỉ xem xét mặt lượng của nguồn lao động, nhưng ngày nay, khi khoa học công nghệ đang ngày càng phát triển, các nguồn lực cho sự phát triển đang có nhiều thay đổi căn bản, tài nguyên thiên nhiên đang lùi về thứ yếu, kinh tế tri thức đang lên ngôi thì lao động trí tuệ trở thành đặc trưng cơ bản. Nguồn lao động dồi dào về số lượng thôi là chưa đủ, mà còn đòi hỏi một nguồn lao động có chất lượng, một nguồn lao động dồi dào hiểu biết về khoa học, có sức khỏe và trình độ văn hóa hiện đại, kỹ năng lao động thành thạo đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức. Nguồn lao động có ý nghĩa quyết định đến năng lực cạnh tranh, đến trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Ngoài ra, kinh nghiệm, tập quán, truyền thống sản xuất của dân cư cũng ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển của cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Ở đâu phong tục tập quán canh tác lạc hậu thì sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp diễn ra khó khăn, chậm chạp. Ngược lại nếu tập quán canh tác tiến bộ thì việc chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp sẽ diễn ra nhanh chóng hơn. 1.3.3. Nhóm nhân tố về tổ chức - Kỹ thuật Nhóm nhân tố này bao gồm: Các hình thức tổ chức trong nông nghiệp, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và việc dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vảo sản xuất... 1.3.3.1 Các hình thức tổ chức sản xuất Cơ cấu nông nghiệp là phạm trù khách quan nhưng lại là sản phẩm hoạt động của con người. Sự tồn tại, vận động và biến đổi của kinh tế nông nghiệp và cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp được quyết định bởi sự tồn tại và hoạt động của các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp – cơ sở của sự hình thànhh và phát triển của các ngành kinh tế. Các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp tồn tại và hoạt động qua các hình thức tổ chức sản xuất với các mô hình tổ chức tương ứng. Do vậy, các hình thức tổ chức trong nông nghiệp với các mô hình tương ứng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự biến đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Trong nền nông nghiệp nước ta, kinh tế hộ được thừa nhận, hộ trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, kinh tế tư nhân được tạo điều kiện để phát triển, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể được cải biến theo nội dung mới. Sự thay đổi các mô hình sản xuất nêu trên đã tạo ra những điều kiện cho nông nghiệp và nông thôn phát triển mạnh mẽ tạo ra những thay đổi bước đầu đáng kể trong cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Trong nông nghiệp tỷ trọng của ngành trồng trọt giảm xuống, tỷ trọng của ngành chăn nuôi tăng lên. Trong trồng trọt tỷ trọng của cây lương thực giảm, cây công nghiệp và cây ăn quả tăng lên, dần dần hình thành nhiều vùng chuyên canh tập trung cây công nghiệp dài ngày. Tỷ trọng kinh tế hộ và phát triển các trang trại ngày càng tăng, kỹ thuật mới và công nghệ tiến bộ ngày càng được ứng dụng rộng rãi. 1.3.3.2 Khoa học kỹ thuật Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và việc ứng dụng chúng vào sản xuất có vai trò ngày càng to lớn đối với sự phát triển kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp và cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng. Khoa học kỹ thuật được ứng dụng vào sản xuất góp phần hoàn thiện các phương pháp sản xuất nhằm khai thác sử dụng hợp lý hiệu quả hơn các nguồn lực xã hội và khu vực nông thôn. Đồng thời việc ứng dụng khoa học kỹ thuật cũng làm tăng năng lực sản xuất trong nông nghiệp tác động mạnh đến cơ cấu nông nghiệp. Như công nghệ sinh học với các công nghệ tế bào, công nghệ gen, công nghệ vi sinh đã tạo ra những giống cây trồng và vật nuôi mới. Các loại giống cây, con có năng suất cao, chất lượng tốt cho phép tăng quy mô sản lượng nuôi trồng mà không cần mở rộng diện tích. Các loại giống mới có sức kháng chịu dịch bệnh cao giúp ổn định năng suất cây trồng, vật nuôi, ổn định sản lượng sản phẩm hàng hóa qua đó thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất, các vùng kinh tế trong nông nghiệp đặc biệt là những ngành, những vùng có nhiều lợi thế. Sự phát triển của quy trình công nghệ bảo quản và chế biến sản phẩm sẽ tạo ra những điều kiện có tính cách mạng để vận chuyển sản phẩm đi tiêu thụ tại những thị trường thị trường xa xôi. Điều đó cũng có ý nghĩa to lớn mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của từng vùng chuyên canh xét về không gian. Thay vì nông sản chỉ được tiêu thụ tại chỗ, hoặc ở những vùng lân cận quanh vùng chuyên môn hóa thì nay sản phẩm được đưa đi tiêu thụ tại những thị trường cách vùng sản xuất hàng ngàn hàng vạn km nhờ công nghệ bảo quản và chế biến nông sản tiên tiến. Đồng thời, cuộc cách mạng trong lĩnh vực này cũng tạo điều kiện để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của vùng xét về thời gian. Thay vì nông sản chỉ được tiêu dùng trong một khoảng thời gian ngắn vào thời vụ thu hoạch thì nay ngày càng có điều kiện để tiêu thụ nông sản loại nào đó ngày càng dài hơn, thậm chí là quanh năm. Công nghệ chế biến cũng mở rộng dung lượng thị trường nông sản của vùng nhờ sự tác động của quá trình đó đã đa dạng hóa sản phẩm tiêu dùng cuối cùng. Ví dụ, thay vì chỉ tiêu thụ dứa quả tươi, ngày nay công nghệ chế biến còn cung cấp cho thị trường dứa khoanh,dứa miếng và đặc biệt là nước dứa cô đặc 1.4. KINH NGHIỆM CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ Ở MỘT SỐ NƠI TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY Sơn Tây là thành phố có truyền thống sản xuất nông nghiệp lâu đời với trên 2.700ha đất canh tác nhưng đây lại là vùng bán sơn địa, đồi gò xen kẹp đồng trũng ven sông, đất đai sỏi đá nhiều. Mặt khác, trong quá trình phát triển của thành phố đã hình thành quy hoạch các khu đô thị như: Phú Thịnh, Thiên Mã... với diện tích khoảng 200 ha; các khu, cụm, điểm công nghiệp Thanh Mỹ - Xuân Sơn, Sơn Đông, Đường Lâm... diện tích 273,3 ha và các tuyến đường giao thông được đầu tư phát triển như tuyến đường Văn Thánh - Đường Lâm, Đinh Tiên Hoàng - đê Đại Hà... đã tác động lớn đến sản xuất nông nghiệp. Diện tích đất canh tác thu hẹp lại, sản phẩm nông sản phải đa dạng mang tính hàng hóa, đáp ứng được nhu cầu thị trường đô thị.Chính vì vậy, để phát triển thành phố du lịch, dịch vụ, thương mại thì nông nghiệp của Sơn Tây phải có bước chuyển mình phù hợp với quá trình đi lên, vừa tạo chuyển biến trong cơ cấu ngành nông nghiệp, vừa tạo thuận lợi cho quy hoạch quỹ đất phát triển du lịch, côngnghiệp.... Đáp ứng nhu cầu phát triển, thành phố đã hoàn thành quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 vừa tạo điều kiện cho nhân dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất vừa tạo điều kiện cho việc quy hoạch xây dựng các khu đô thị, dịch vụ, công nghiệp... Bằng nhiều phương pháp kết hợp khác nhau, thành phố tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chuyển đổi của các địa phương, đẩy mạnh tuyên truyền, khuyến khích vận động bà con ứng dụng KHKT, tích cực đưa giống cây, con mới vào sản xuất gieo trồng tạo nên những vùng nông sản hàng hóa tập trung với hàng trăm ha chuyển đổi các mô hình khác nhau mỗi năm. Chỉ tính riêng 9 tháng năm 2007, toàn thành phố đã có 20 dự án phát triển vùng chăn nuôi tập trung hoặc trồng hoa, cây cảnh được phê duyệt trên diện tích hàng chục ha. Ngoài ra, thành phố  Sơn Tây cũng triển khai nhiều mô hình cây trồng mới, trong đó có gần 40ha trồng cây bưởi Diễn trên diện tích đồi gò phát triển xanh tốt..   Từ năm 2001 đến nay, thành phố đã chuyển đổi được gần 500 ha kém hiệu quả sang phát triển các mô hình cây, con hiệu quả cao. Bên cạnh đó, diện tích cây rau màu phát triển mạnh với trên 1.600ha cây rau màu các loại khắp các vùng đồi gò, ven sông Tích hay ven sông Hồng cho thu nhập cao. Trong đó cây rau và cây lạc cho thu nhập cao, chiếm trên 70% diện tích. Điển hình trong phát triển cây rau màu là xã Viên Sơn với gần 50ha rau mỗi năm, trong đó có 15ha chuyên rau cho thu nhập cao hơn cấy lúa, trồng ngô 3 - 4 lần. Đặc biệt, Viên Sơn còn là xã đầu tiên xây dựng thành công mô hình rau an toàn với diện tích gần 10ha đáp ứng được nhu cầu thị trường đô thị. Bên cạnh vùng rau màu, các vườn bưởi, cam, vải, nhãn cũng được nhân rộng với  trên 170ha (gồm cả diện tích gắn với công tác trồng rừng)... Không chỉ có các loại cây trồng mà các mô hình kinh tế trang trại, vườn trại cũng từng bước phát triển khẳng định hiệu quả cao. Nếu như ở thời điểm năm 2001 toàn thành phố mới có 27 trang trại thì đến nay đã có trên 125 trang trại các loại. Điều đáng mừng là ngoài những trang trại phát triển nhỏ lẻ thì trong những năm qua số lượng trang trại chăn nuôi kết hợp với Công ty CP Group và JAFPA đã tạo nên những vùng trang trại số lượng lớn, có quy mô chăn nuôi từ 5.000 -10.000 con gà, lợn/lứa cho thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm, góp phần đưa giá trị chăn nuôi chiếm trên 52% cơ cấu nông nghiệp...  Phát huy những kết quả đã đạt được, thành phố Sơn Tây tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp, quy hoạch và khuyến khích các mô hình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm tạo vùng nông sản hàng hóa tập trung. Toàn thành phố phấn đấu mỗi năm chuyển dịch khoảng 700 – 800 ha, trong đó phát triển diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản đến 2010 đạt 400 ha, giá trị chăn nuôi chiếm 60% cơ cấu nông nghiệp; xây dựng những vùng trang trại, vườn trại tập trung quy mô lớn... tạo vùng nông sản hàng hóa tập trung cung cấp cho thị trường, nhằm góp phần tạo nên một bộ mặt mới trong phát triển nông nghiệp gắn với quá trình hình thành thành phố du lịch, dịch vụ. Như vậy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã làm thay đổi cả về mặt kinh tế xã hội thành phố Sơn Tây và nhân dân thành phố đã và đang phát huy những thành quả đã đạt được trong tương lai. Không chỉ có thành phố SơnTây. Trong những năm qua, huyện Hoằng Hóa thuộc tỉnh Thanh Hoá đã tích cực đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, mùa vụ theo hướng bỏ hẳn sản xuất trà lúa xuân sớm (trước gieo trồng từ 25 đến 30% diện tích), tăng diện tích trà lúa xuân muộn, tăng tỷ lệ lúa lai lên từ 65 đến 70% diện tích, hướng dành nhiều quỹ đất để mở rộng diện tích sản xuất cây màu vụ đông. Ở vụ mùa đã bỏ hẳn sản xuất trà lúa mùa muộn (trước gieo trồng khoảng 20% diện tích), tăng tỷ lệ gieo cấy trà lúa mùa sớm, cực sớm để thu hoạch tránh bão lũ và có quỹ đất cho sản xuất cây màu vụ đông kịp thời vụ. Đối với sản xuất cây màu vụ đông, ngoài diện tích ngô, cây màu truyền thống, huyện chỉ đạo các địa phương quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa tập trung nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng đem lại giá trị kinh tế cao như: các loại dưa chuột, dưa bao tử, ngô ngọt, ngô bao tử, ớt xuất khẩu. Cấp ủy, chính quyền các cấp không ngừng tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 09 của Huyện ủy và đề án của UBND huyện về xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha/năm; hộ có thu nhập 50 triệu đồng/năm.phương thức, nội dung chuyển giao khác nhau cho phù hợp từng loại cây trồng. Áp dụng phương thức tập huấn 2 chiều, người chuyển giao kỹ thuật và nông dân cùng trao đổi chia sẻ kinh nghiệm. Thực hiện có hiệu quả chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), chương trình quản lý cây trồng 3 giảm, 3 tăng; mở rộng biện pháp kỹ thuật bón phân cân đối, hợp lý.   Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong sản xuất nông nghiệp ở huyện Hoằng Hóa bước đầu đã đạt được kết quả đáng kể. Nếu như năm 2005, toàn huyện có diện tích canh tác 28.488,91 ha thì năm 2007 xuống còn 28.368,27 ha, trong đó diện tích lúa từ 16.484,96 ha năm 2005 xuống còn 16.310,78 ha; nhưng sản lượng lương thực lại tăng từ 110.043 tấn năm 2005 lên 117.000 tấn năm 2007. Kết quả trên cho thấy năng suất, sản lượng lương thực luôn tăng nhờ áp dụng có hiệu quả các tiến bộ KHKT về giống, kỹ thuật thâm canh tăng năng suất. Ngoài bảo đảm gieo cấy các giống lúa thuần, giống tiến bộ kỹ thuật năng suất, chất lượng cao thì tỷ lệ lúa lai hàng vụ tăng đáng kể. Huyện coi trọng công tác chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật đến hộ nông dân. Ở mỗi vùng sản xuất, từng địa phương có đồng đất khác nhau đều có phương thức, nội dung chuyển giao khác nhau cho phù hợp từng loại cây trồng. Áp dụng phương thức tập huấn 2 chiều, người chuyển giao kỹ thuật và nông dân cùng trao đổi chia sẻ kinh nghiệm. Thực hiện có hiệu quả chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), chương trình quản lý cây trồng 3 giảm, 3 tăng; mở rộng biện pháp kỹ thuật bón phân cân đối, hợp lý.   Kết quả chuyển dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp ở huyện Hoằng Hóa còn thể hiện rõ việc chuyển đổi 50 ha diện tích đồng trũng cấy lúa không ăn chắc sang nuôi trồng thủy sản hoặc nuôi cá kết hợp cấy lúa thuộc các xã  Hoằng Tiến (20 ha), Hoằng Vinh (10 ha), Hoằng Khê (7 ha), Hoằng Phúc (8 ha) và Hoằng Trạch (5 ha). Ở những địa phương có điều kiện đất đai, tưới, tiêu thuận lợi đã chuyển đổi được từ 150 đến 200 ha sang sản xuất cây màu xuất khẩu như: ớt, dưa chuột, ngô ngọt, ngô bao tử; qui hoạch trồng các loại cây màu cao cấp như: bí xanh, dưa lê, dưa hấu, đậu leo, rau cao cấp khác ở các vụ đông, vụ xuân hè đều cho giá trị cao gấp 2 đến 3 lần trồng lúa. Nhiều cây màu xuất khẩu đạt giá trị từ 2 đến 2,5 triệu đồng/sào/vụ. Ở diện tích chuyển đổi này đang thể hiện mối quan hệ trong hợp đồng kinh tế bao tiêu sản phẩm giữa nông dân với các đơn vị tham gia xuất khẩu thống nhất, hài hòa. Ông Lê Văn Đức, Chủ tịch UBND xã Hoằng Tiến cho biết: xã ông hiện vẫn thuộc xã nghèo của huyện, nằm trong diện các xã  bãi ngang, hưởng chế độ 174 của Nhà nước, đồng đất ven biển chủ động tưới tiêu còn khó, nhưng mấy năm qua, xã đã quy hoạch được 20 ha đất trũng, sản xuất không ăn chắc sang nuôi trồng thủy sản; qui hoạch vùng đất có điều kiện trồng ớt, dưa chuột xuất khẩu 20 ha, giá trị thường gấp từ 2 đến 3 lần so với trồng lúa, khoai lang trước đây. Ông Bùi Đình Tấn, Chủ tịch UBND xã Hoằng Ngọc cho biết: từ diện tích nhỏ 5 đến 10 ha trồng dưa chuột xuất khẩu, đã hơn 20 năm Hoằng Ngọc hợp tác với Công ty CP XNK Đồng Giao liên tục trồng dưa chuột, dưa bao tử, ngô ngọt, ngô bao tử đạt giá trị cao gấp 2 đến 2,5 lần trồng lúa; từ diện tích ít, qua kinh nghiệm nhiều năm sản xuất, đến nay xã đã có vùng chuyên canh với diện tích hơn 35 ha, sản xuất 2 đến 3 vụ/năm. Hoặc ở vùng đất chuyên canh rau từ xưa, ngoài diện tích rau màu cao cấp, mấy năm qua xã Hoằng Trung đã qui hoạch 25 ha chuyên trồng cây ngô ngọt, ngô bao tử xuất bán cho Công ty CP XNK Đồng Giao. Với việc ký hợp đồng sản xuất, nông dân yên tâm về sản phẩm làm ra, tích cực đầu tư chăm sóc và giá trị luôn đạt cao. Để thấy rõ vai trò to lớn của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, ta sẽ xem xét khía cạnh đó tại một thành phố lớn nhất nhì nước ta. Nông nghiệp TP Hồ Chí Minh tuy chỉ chiếm hơn 1% GDP, nhưng lại có vai trò rất quan trọng bởi lẽ nó không chỉ bảo đảm an sinh cho gần hai triệu nông dân mà còn bảo đảm  cân bằng sinh thái cả vùng đô thị hóa. Chính vì vậy, TP Hồ Chí Minh đã có nhiều chính sách phát triển nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng hiệu quả.Thành phố Hồ Chí Minh có một vùng nông nghiệp ngoại thành khá phong phú, đa dạng về thổ nhưỡng cũng như ngành nghề. Ðất nông nghiệp chiếm 58% diện tích toàn thành phố. Vài năm trở lại đây, thành phố đã chuyển dịch diện tích trồng lúa năng suất thấp, hiệu quả kém sang trồng các loại cây khác có hiệu quả kinh tế cao hơn, phù hợp nhu cầu thị trường và nông nghiệp đô thị vùng ven thành phố. Thành phố là một trung tâm khoa học - kỹ thuật lớn của cả nước, đầu mối giao thông với vùng nông nghiệp Ðông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Phát huy lợi thế này, thành phố đưa lên hàng đầu chương trình phát triển giống cây, giống con chất lượng cao, vươn lên trở thành một trung tâm nghiên cứu sản xuất và cung cấp các loại giống mới cho thị trường thành phố và các tỉnh Nam Bộ. Bằng các giải pháp kỹ thuật, thành phố đã tạo được giống bò sữa, giống lợn, giống cá, giống tôm sú có năng suất cao. Cơ sở vật chất - kỹ thuật cho ngành giống tiếp tục được trang bị hiện đại, hình thành một số mô hình sản xuất nông nghiệ._.về thị trường tiêu thụ sản phẩm”. Nhu cầu vốn trong những năm vừa qua và những năm sắp tới để phát triển nông nghiệp nói chung cũng như để thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng là rất lớn nhưng khả năng đáp ứng hạn chế. Nếu chúng ta không chú ý giải quyết nhu cầu vốn đầu tư và từng bước tăng vốn đầu tư cho các ngành kinh tế nông nghiệp nhằm tạo một nền sản xuất đa dạng, phong phú phát triển nhanh chóng bền vững của đất nước nói chung và kinh tế nông nghiệp thành phố Hà Đông nói riêng. Giải pháp tạo lập vốn: Nguồn vốn đầu tư cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp thành phố Hà Đông huy động từ các nguồn tích luỹ tự có, từ ngân sách và vốn đầu tư nước ngoài. Căn cứ vào thực trạng, thành phố Hà Đông cần: - Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (chủ yếu gồm nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI): các nguồn vốn đầu tư nước ngoài luôn là một nguồn vốn quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp của vùng. Thu hút đầu tư nước ngoài vào vùng ngoài nguồn vốn họ còn mang theo khoa học, công nghệ hiện đại, các giải pháp kỹ thuật tiên tiến… góp phần nâng cao năng suất sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Vì thế hiện nay, thu hút và sử dụng vốn nước ngoài để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế có tác dụng quan trọng. Các giải pháp cụ thể cần thực hiện là: + Thành phố Hà Đông nằm liền kề ngay Hà Nôi có ưu thế thuận lợi trong việc giao lưu, thông thương với nước ngoài vì vậy thành phố cần có những chủ trương, chính sách nhằm mở rộng quan hệ quốc tế với các tổ chức để tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ, thiết bị và thị trường nhằm thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp vùng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. + Thủ tục hành chính rườm rà là một trong những nguyên nhân làm giảm vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nói chung, vào thành phố nói riêng. Do vậy, trong thời gian tới vùng cần tiến hành cải cách hành chính, giảm thiểu các thủ tục hành chính, có những khuyến khích, ưu tiên cho các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc liên doanh, liên kết giữa tư nhân, công ty cổ phần trong nước với tư nhân nước ngoài, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là khu vực nông thôn. - Điều quan trọng là thành phố cần huy động vốn đầu tư trong nội thị thành phố và của tỉnh, và các vùng lân cận: vốn đầu tư này cần phải và ngày càng đóng vai trò quyết định. Về cơ cấu nguồn vốn đầu tư đó được tạo bởi nguồn vốn tái tạo qua quá trình phát triển sản xuất và nguồn vốn tiết kiệm thường xuyên của người dân, doang nghiệp. Nếu có giải pháp khai thác tốt nguồn vốn này (nhất là nguồn vốn dồi dào trong dân cư) thì có thể chủ động hơn về nguồn vốn đầu tư phát triển thành phố, hạn chế được sự phụ thuộc vào nguồn vốn từ bên ngoài. Bên cạnh đó cần phát huy sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế nhiều thành phần để tạo vốn cho sản xuất nông nghiệp. Sử dụng các thành phần kinh tế vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn để đầu tư phát triển nông nghiệp. Đẩy nhanh quá trình liên doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên về đất đai, khí hậu, lao động, cây trồng và vật nuôi phong phú của vùng. b. Các biện pháp chủ yếu sử dụng hiệu quả nguồn vốn: để sử dụng vốn có hiệu quả cần phải dựa trên quy hoạch của vùng và cả nước, sử dụng vốn đầu tư phải cân đối cho sự phát triển nông nghiệp nguyên liệu và công nghiệp chế biến, đầu tư vốn cấn đối giữa sản xuất kinh doanh với xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đầu tư phát triển nguồn nhân lực… - Xác định đúng đắn phương hướng đầu tư vốn: phải xuất phát từ phương hướng bố trí cơ cấu sản xuất nông nghiệp để xác định cơ cấu đầu tư vốn tối ưu. Trong từng giai đoạn đầu tư vào cây gì, con gì, ở đâu cần được tính toán hợp lý. - Cần có phương thức đầu tư hợp lý: đầu tư phải trên cơ sở các dự án có tính khả thi; đồng thời phải kiểm tra, giám sát sử dụng vốn, nghiệm thu kết quả, chất lượng dự án… - Cần sử dụng các nguồn vốn hợp lý, đúng mục đích: + Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): đầu tư vào các ngành theo yêu cầu thị trường đem lại lợi nhuận cao (như đầu tư vào chế biến nông, thuỷ sản..) + Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài(ODA): đầu tư chủ yếu là thực hiện các chương trình đầu tư quốc gia như các dự án cải tạo, nâng cấp, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kinh tế, các dự án điều tra, đánh giá tài nguyên, hiện trạng kinh tế, xã hội, các ngành của vùng… nói chung nguồn vốn này không dùng vào đầu tư sản xuất, kinh doanh. + Vốn từ ngân sách: chủ yếu đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội để tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các ngành như mạng lưới giao thông, giáo dục, y tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng hệ thống pháp luật. Đầu tư vào một số ngành trọng yếu mà chỉ có nhà nước mới có năng lực thực hiện. + Vốn đầu tư từ khu vực tư nhân (các doanh nghiệp tư nhân, các gia đình dân cư): chủ yếu đâu tư vào các lĩnh vực kinh tế sản xuất, kinh doanh như bỏ vốn đầu tư phát triển trồng trọt, chăn nuôi; hình thành các trang trại gia đình về chăn nuôi… Nhìn chung, để đảm bảo hiệu quả vốn đầu tư thì cần phải sử dụng hợp lý các nguồn vốn, tiến hành đầu tư theo đúng quy hoạch, cơ cấu đầu tư phù hợp với cơ cấu ngành, tăng tỷ trọng vốn đầu tư vào phát triển các ngành chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, phát triển cây trồng có giá trị cao. Tránh tình trạng đầu tư quá tập trung vào một ngành nào đó hoặc quá dàn trải gây mất cân đối không mang lại hiệu quả, thật sự chuyển sang quỹ đạo lấy nâng cao hiệu quả đầu tư làm trung tâm 3.3.3. Tăng cường đầu tư khoa học công nghệ trong nông nghiệp Trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ bùng nổ, việc áp dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất và đời sống xã hội là một tất yếu. Sự xuất hiện các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới có tác động trực tiếp tới quá trình nhằm nâng cao năng suất lao động cho phép tạo sự phân công lao động hợp lý. Đây là một yếu tố vật chất quan trọng để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Để phát huy tác dụng của nó cần phải thực hiện một số biện pháp cụ thể sau đây: - Tăng đầu tư cho nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp nhất là công nghệ sinh học nhằm tạo ra các giống cây, con mới cho năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp với nhu cầu thị trường như tạo các giống lúa, ngô và các cây trồng khác cho năng suất cao, chất lượng tốt góp phần làm tăng sản lượng, giá trị sản xuất của ngành trồng trọt mà không cần tăng diện tích gieo trồng; hay tạo các giống cây ăn quả phù hợp với điều kiện sinh thái của vùng cho năng suất, chất lượng cao góp phần chuyển đổi cơ cấu ngành trồng trọt; cải tạo đàn bò theo hướng chăn nuôi lấy thịt, sữa, lạc hoá đàn lợn… góp phần tăng giá trị của ngành chăn nuôi… - Phải tiếp tục phát triển kinh tế thị trường để tạo nhu cầu về đổi mới công nghệ, đồng thời mở cửa rộng hơn để nhập công nghệ mới vào vùng thông qua các công ty nước ngoài đầu tư vào vùng. Bởi lê, những công ty này vừa có vốn, vừa có kinh nghiệm lực chọn công nghệ thích hợp trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Khi họ đầu tư vào vùng thì thường mang theo những công nghệ mới hiện đại vào vùng góp phần tăng năng suất lao động, tăng chất lượng, cải thiện mẫu mã sản phẩm làm ra, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn. - Cần quy hoạch phát triển khoa học công nghệ phù hợp với từng ngành, phù hợp với đặc điểm của thành phố. Những nhóm khoa học công nghệ có tác dụng tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở thành phố Hà Đông là công nghệ sinh học phục vụ trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản; công nghệ sinh học phục vụ chế biến; khoa học công nghệ phục vụ phát triển bền vững sản xuất lúa gạo, tăng vòng quay sử dụng đất, tăng năng suất lúa; khoa học công nghệ góp phần khai thác có hiệu quả tiềm năng ven biển. - Lựa chọn hình thức chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ thích hợp cho các hộ gia đình nông dân và các trang trại. Hoàn thiện mạng lưới khuyến nông, mạng lưới kỹ thuật viên đến từng xã để tạo điều kiện đẩy mạnh công tác khuyến nông, hỗ trợ nông dân vươn lên trong sản xuất. - Phải nâng cao năng lực khoa học công nghệ cho ngành và doanh nghiệp bằng cách đẩy mạnh quá trình đào tạo một cách đồng bộ cho cán bộ quản lý ngành; sắp xếp đổi mới hiện đại hoá các viện, trường các trung tâm nghiên cứu của vùng và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ phù hợp với định hướng phát triển; có chính sách khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực cho phát triển khoa học công nghệ…. 3.3.4. Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực có vai trò rất quan trọng, phát triển nguồn nhân lực là nhằm đáp ứng yều cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Do vậy, để thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp thành công thì các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của vùng có ý nghĩa quyết định. Chất lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng. Một nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yều cầu của chuyển dịch sẽ góp phần tạo ra sự chuyển dịch nhanh và bền vững trong cơ cấu nông nghiệp của thành phố. Do vậy cần có biện pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Tăng cường việc đào tạo và quản lí sử dụng đội ngũ cán bộ lao động để thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Khu vực nông nghiệp là khu vực có trình độ dân trí thấp so với thành thị nên khả năng kinh doanh trong cơ chế thị trường kém. Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp phần lớn do các hộ nông dân thực hiện. Với trình độ dân trí thấp đội ngũ cán bộ quản lí kinh tế, cán bộ kĩ thuật còn yếu dẫn tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của thành phố diễn ra với một tốc độ chậm chạp khó khăn. Vì vậy cần thiết phải xây dựng một đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, cán bộ quản lí có trình độ hiểu biết nhạy cảm với sản xuất kinh doanh làm nòng cốt cho địa phương để hướng dẫn cho cán bộ, nông dân, các tổ chức đoàn thể thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của sao cho có hiệu quả nhất. Đồng thời với việc làm đó việc bồi dưỡng nâng cao trình độ kinh doanh, nâng cao tư duy kinh tế cho người nông dân nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Đối với cán bộ chủ chốt cần đào tạo cán bộ vững chắc về ngành, vững chắc về chính trị, am hiểu về pháp luật, giỏi về chuyên môn, năng động trong công việc. Đồng thời với quá trình này phải rà soát lại những cán bộ bị tha hoá biến chất, tham nhũng cửa quyền, ỷ nại…để từng bước làm sạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo của ngành tạo lòng tin cho nhân dân đầu tư. 3.3.5. Tăng cường việc quản lí và sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với việc phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thành theo hướng sản xuất hàng hoá, chuyển đổi kinh tế hộ nông dân từ tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá là một quá trình lâu dài khó khăn. Để thực hiện quá trình trên có hiệu quả diễn ra với tốc độ nhanh hơn đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Trong đó giải pháp về quản lí và sử dụng đất là một trong những giải pháp quan trọng vì ruộng đất đã tồn tại và gắn bó chặt chẽ với kinh tế hộ nông dân. Ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt của ngành nông nghiệp, không một tư liệu sản xuất nào có thể thay thế được. Trong những năm đổi mới chúng ta đã xác lập được vai trò tự chủ của các hộ nông dân, ruộng đất đựơc giao khoán cho hộ nông dân sử dụng lâu dài và ổn định. Điều này đã thực sự khuyến khích các hộ nông dân yên tâm sản xuất, khơi dậy tính năng động trong sản xuất, gắn bó người nông dân với ruộng đất. Cần giải quyết đúng đắn quan hệ sở hữu sử dụng ruộng đất hợp pháp, hợp quy luật sẽ góp phần tích cực thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, giải quyết tốt những vấn đề kinh tế xã hội đảm bảo công bằng xã hội xoá đói giảm nghèo. Vì thế cần tạo điều kiện cho việc tích tụ ruộng đất và thực sự trở thành yếu tố quan trọng của xu hướng sản xuất hàng hóa, để người nông dân yên tâm bỏ sức lao động và tiền vốn đầu tư vào sản xuất cải tạo đất đai. Thúc đẩy sự phân công lao động ở nông thôn và thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có hiệu quả. Đảm bảo sự công bằng tôn trọng lịch sử không gây xáo trộn lớn ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình nông nghiệp. Cần rà soát điều chỉnh lại quy hoạch vì quy hoạch nông nghiệp là cơ sở để hoạch định chiến lược phát triển và xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển của vùng. Rà soát bổ sung và điều chỉnh quy hoạch nông nghiệp từ đó xác định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với căn cứ quy hoạch. Chuyển đổi đất lúa, màu có hiệu quả kinh tế thấp sang trồng các loại cây có giá trị cao hơn như trồng rau, cây cảnh, hoa, trồng cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ sản Mở rộng quy mô diện tích các loại sản phẩm có giá trị như trồng rau, hoa, cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ sản. Đầu tư cải tạo, thâm canh tăng vụ trên đất lúa, phát triển diện tích vụ đông ở các loại đất có điều kiện Sử dụng có hiệu quả các loại đất còn có khả năng mở rộng là: Đất bãi bồi ven sông, bán ngập ven sông để sản xuất thuỷ sản và xây dựng mô hình nông nghiệp sinh thái 3.3.6. Các chính sách kinh tế xã hội Cần có biện pháp cải cách thủ tục hành chính, có cơ chế chính sách phù hợp nhằm thu hút mọi nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong đó đặc biệt thu hút các nhà kinh doanh trong và ngoài nước đầu tư vốn vào làm ăn trong nông nghiệp. Thành phố Hà Đông phải có chính sách tín dụng ưu đãi để kích thích nhân dân đầu tư phát triển sản xuất ổn định và lâu dài. Thực hiện tốt chiến lược dân số, chăm lo công tác giáo dục y tế, văn hoá, xã hội và không ngừng nâng cao trình độ dân trí ở mọi mặt. Làm tốt công tác xã hội như công tác xoá đói giảm nghèo, thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các đối tượng chính sách xã hội. 3.3.7. Xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn Để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thành phố Hà Đông thì vấn đề về cơ sở hạ tầng kĩ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp là một yếu tố không thể thiếu. Vì vậy rất cần sự đầu tư và hỗ trợ đầu tư thông qua các dự án để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn. Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn là nhân tố hết sức quan trọng góp phần hình thành các trung tâm, các tụ điểm giao lưu kinh tế và mở rộng sự trao đổi buôn bán, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để nắm bắt được cơ hội của thị trường để tiến hành tổ chức sản xuất cung ứng các loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Cơ sở hạ tầng phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gồm công trình thuỷ lợi, hệ thống giao thông ở nông thôn, các công trình trạm trại kĩ thuật. Giải pháp về đầu tư các công trình thủy lợi + Thuỷ nông: nắm vững quy luật diễn biến của thời tiết chủ động xây dựng kế hoạch khai thác tốt nguồn nứơc để đáp ứng yêu cầu sản xuất nhất là chương trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi; tập trung chỉ đạo nâng cấp các công trình đầu mối, nạo vét và kiên cố hệ thống kênh mương, hoàn thiện mạng lưới trạm bơm, hệ thống mương máng tưới tiêu, kết hợp có hiệu quả với hệ thống thoát nước của khu đô thị. Thực hiện nâng cấp các trạm bơm, cống tưới tiêu, bê tông hoá hệ thống mương máng. Đối với hệ thống đe điều, phải đầu tư thường xuyên đảm bảo cao trình, mặt cắt, kết hợp với cải tạo phát triển hệ thống giao thông đồng thời tiếp tục xây dựng các dự án trình bộ phê duyệt và đầu tư; tăng cường áp dụng khoa học công nghệ trong đó đặc biệt là công nghệ tin học quản lí và điều hành hệ thống thuỷ nông. Do yêu cầu thâm canh cây trồng, vật nuôi ngày càng cao, việc tưới tiêu nước cho cây trồng, cung cấp nước cho vật nuôi phải đảm bảo chủ động, kịp thời và nước cung cấp phải sạch. Do đó ngoài hệ thống thuỷ lợi cung cấp nước cho cây trồng, còn có sự bổ sung của nguồn nước ngầm (đối với nhiều hộ trồng rau sạch, hoa ,cây cảnh). Thành phố có kế hoạch xác lập các quy chuẩn cho việc khai thác nguồn nước ngầm, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân khai thác sử dụng, vừa tránh lãng phí vừa hạn chế ô nhiễm nguồn nước ngầm Giải pháp nhằm đầu tư tăng cừơng cơ sở hạ tầng và trang thiết bị cho hệ thống các trạm trại kĩ thuật trong thành phố : đầu tư cho các trung tâm sản xuất giống cây trồng vật nuôi; đầu tư tăng cường các trại giống lợn, giống gia súc đặc biệt chú ý các loại giống lợn lai, giống có tỷ lệ nạc cao các loại giống gia cầm mới nhập nội theo hướng siêu thịt siêu trứng; đầu tư các trung tâm giống bò sữa, bò thịt; nâng cấp và đầu tư mở mới các trung tâm giống thủy sản ở từng vùng sản xuất tập trung; tăng cường đầu tư các trạm trại, cơ sở nghiên cứu khoa học và thực nghiệm của ngành để thực hiện tốt việc nghiên cứu thử nghiệm chuyển giao các tiến bộ khoa học công nghệ mới vào địa bàn sản xuất. Giải pháp đầu tư phát triển hệ thống giao thông ở nông thôn: Nâng cấp hệ thống giao thông đến trung tâm xã, đảm bảo đường cấp 4 nông thôn, mặt đường trải bê tông nhựa, tạo tiền đề cho việc giao lưu đi lại của người dân nông thôn. Nâng cấp cải tạo hệ thống giao thông nông thôn, cải tạo hệ thống giao thông nội đồng, cầu cống, để tăng khả năng vận chuyển hàng hoá, giảm giá thành sản xuất Đẩy mạnh việc nâng cấp, tu sửa và mở mới một số tuyến đường, đặc biệt là hệ thống giao thông nội đồng. Việc nâng cấp, mở rộng lòng đường gắn với việc mở rộng, kiên cố hoá các tuyến kênh mương nội đồng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển vật tư sản xuất (phân bón, phân hữu cơ, giống…) cũng như nông sản. Phát triển hệ thống lưới điện phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và phát triển hệ thống thông tin liên lạc đến tất cả các xã trong tỉnh của vùng để đảm bảo cung cấp thông tin một cách kịp thời nhất phục vụ cho quá trình sản xuất nông nghiệp đặc biệt là đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành đạt kết quả cao nhất. Phát triển các chợ đầu mối với quy hoạch ổn định về vị trí, quy mô chợ, phương thức quản lý chợ với mục tiêu là điểm đầu mối giao lưu hàng hoá thuận tiện, dễ dàng, và không gây phiền hà đối với người dân muốn trao đổi mua bán sản phẩm của mình. Xây dựng hệ thống chợ bán lẻ ở nông thôn, nhằm tạo ra được hệ thống kênh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Đồng thời chợ bán lẻ cũng là nơi để người dân thu nhận thông tin chi tiết về giá cả sản phẩm, tình hình thị trường, tình hình tiêu thụ sản phẩm 3.3.8. Cần nghiên cứu tìm ra các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp trong nông nghiệp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một quá trình khó khăn đòi hỏi có sự chuyển biến toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc các lĩnh vực sản xuất nông-lâm-thuỷ sản. Mỗi một ngành kinh tế hoạt động đều có những đặc điểm riêng. Do đó sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp của tỉnh cần phải đa đạng hóa các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh để vừa tạo điều kiện cho các ngành kinh tế ở khu vực nông nghiệp phát triển vừa thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp với nhịp độ nhanh hơn, hiệu quả hơn nhằm khai thác tốt nhất những tiềm năng sẵn có của thành phố. Phát triển sản xuất ở trình độ cao cần có sự hợp tác giữa nhóm người sản xuất cùng một loại sản phẩm về thông tin khoa học kỹ thuật, thông tin thị trường. Do vậy việc hình thành các hiệp hội sản xuất, nhóm người cùng sở thích sẽ phát triển do vậy thành phố cần có các chính sách hỗ trợ cho các hiệp hội phát triển thông qua hội thảo phổ biến kiến thức, cung cấp thông tin thị trường, chính sách hỗ trợ của trung ương và địa phương tới người sản xuất. Khuyến khích thành lập các nhóm tín dụng, tổ tín dụng để giúp đỡ các thành viên của hội Xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ đối với các hợp tác xã nông nghiệp, thông qua việc nâng cao trình độ quản lý, trình độ kinh tế đối với ban lãnh đạo điều hành hợp tác xã Một mô hình mới đã và đang phát triển trong nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đó là kinh tế trang trại. Sự phát triển cuả kinh tế trang trại là một xu hướng tất yếu khách quan, kết quả của sự đổi mới chính sách vĩ mô của Nhà nước, là hình thức phát triển kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp. Do điều kiện đất chật người đông nhưng có điều kiện thuận lợi về khoa học kĩ thuật, đội ngũ cán bộ..nên phương thức hình thành trang trại sẽ không dựa trên việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp của từng trang trại mà tích tụ vốn để đầu tư theo chiều sâu, phát triển các trang trại trồng cây thực phẩm, cây ăn quả… 3.3.9. Phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp trong nông thôn Do nông nghiệp là ngành nghề có tính chất bán thời gian nên ngoài thời vụ là những thời gian nông nhàn, mặt khác do diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ nên nông dân thiếu đất sản xuất, việc phát triển ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn có ý nghĩa cả về mặt kinh tế và xã hội.Phát triển các ngành nghề này tạo ra công việc ổn định cho người nông dân, tạo ra thu nhập thường xuyên cho họ, từ đó nâng cao tích luỹ và tăng cường hơn nữa cho đầu tư nông nghiệp đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Từ đó từng bước nâng cao đời sống của người nông dân. Về mặt xã hội, việc giảm bớt thời gian nông nhàn cho người nông dân là hạn chế những thói hư tật xấu ảnh hưởng tới thuần phong mỹ tục ở làng quê, đời sống của nông dân được cải thiện góp phần làm cho xã hội phát triển. Thành phố Hà Đông nằm ngay liền kề thủ đô Hà Nội, do quá trình đô thị hoá mà nhiều nhà máy xí nghiệp được xây dựng trên địa bàn, nhu cầu tuyển dụng lao động có tay nghề ngày càng nhiều vì vậy việc phát triển nghề phi nông nghiệp có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển của thành phố nói riêng và của tỉnh Hà Tây nói chung, để làm được điều này thì đòi hỏi UBND thành phố, hội khuyến nông các xã phải tổ chức các buổi học tập thể về kỹ năng và tay nghề cho người lao động nông thôn, đồng thời phải có những buổi thực tế đi vào các nhà máy xí nghiệp để họ có thể nhận thức được là mình phải làm gì và cần học thêm gì để có thể hoàn thành công việc đó. Có như thế đội ngũ lao động nông thôn mới có thể đáp ứng được yêu cầu của các nhà máy xí nghiệp. Tóm lại cần thực hiện đồng bộ các giải pháp đề ra trong đó đặc biệt chú ý kích cầu mở rộng thị trường nông nghiệp, cải tiến và thực hiện triệt để các chính sách khuyến nông của Nhà nước, củng cố bộ máy quản lí điều hành kinh tế xã hội, nâng cao trình độ nhận thức của người dân về trình độ kĩ thuật sản xuất, quản lí kinh doanh, tiến hành rà soát quy hoạch và điều chỉnh các vùng chuyên canh cây trồng, con nuôi; rà soát điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ trong đó chú ý tăng cường xây dựng cơ sở chế biến bảo quản nông-lâm-thuỷ sản xuất khẩu và tiêu dùng, hỗ trợ kinh tế hộ đầu tư phát triển kinh tế trang trại. Thực hiện tốt nội dung trên để đảm bảo cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhanh và vững chắc, đạt hiệu quả cao góp phần đẩy nhanh phát triển kinh tế xã hội, nâng cao mức sống của người dân, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá. KẾT LUẬN Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một vấn đề cần thiết cấp bách có ý nghĩa quan trọng to lớn cả về lí luận và thực tiễn trong quá trình phát triển kinh tế. Những vấn đề lí luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được làm rõ làm cơ sở khoa học cho việc phát triển, đánh giá thực trạng và đề ra phương hướng biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tích cực, hiệu quả hơn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một động thái tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế ngày càng hoàn thiện và hợp lí hơn trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước và quan hệ quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thành phố Đông đã có bước chuyển biến tích cực, ngành nông-lâm nghiệp có tỷ trọng giảm dần trong cơ cấu kinh tế, ngành thủy sản ngày càng trở thành ngành mũi nhọn có tỷ trọng ngày càng tăng với tốc độ tăng trưởng nhanh. Trong nông nghiệp ngành chăn nuôi đã dần được cải thiện vị trí do luôn có tốc độ tăng trưởng cao hơn. Tuy nhiên sự chuyển đổi trên còn chậm, ngành trồng trọt vẫn là chủ yếu. Trong trồng trọt cây lúa là chính, hiệu quả của chuyển dịch chưa cao, quan hệ cung-cầu về nông sản chưa hợp lí Cơ cấu kinh tế nông nghiệp của thành phố còn lạc hậu mang nặng tính thuần nông và khẳng định sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn với việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và bảo vệ môi trường sinh thái. Chính những đặc điểm của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của thành phố Hà Đông là cơ sở để định ra phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhanh hơn và hiệu quả hơn như nâng cao nhận thức và tinh thần trách nhiệm của cán bộ và nhân dân, huy động vốn và đầu tư cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển mở rộng thị trường nông nghiệp, đầu tư khoa học công nghệ đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, quản lí sử dụng đất nông nghiệp … Do thời gian và những kiến thức hạn chế của bản thân nên bài viết của em còn nhiều thiếu xót. Em mong nhận được những ý kiến đóng góp và sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô cùng toàn thể các bạn để em hoàn thành tốt hơn bài viết của mình. Em xin chân thành cám ơn! KIẾN NGHỊ Đề nghị UBND tỉnh, thành phố, các sở Nông nghiệp, Tài chính, Tài nguyên và Môi trường sớm ban hành các quy chế ưu đãi, khuyến khích cho việc chuyển đổi sản xuất của người dân. Để đưa nền sản xuất nông nghiệp của thành phố tiến trước một bước, xứng đáng trong vai trò là mô hình mẫu trong sản xuất nông nghiệp tỉnh Hà Tây, từng bước phát triển nền nông nghiệp hiện đại hoá, công nghiệp hoá đề nghị UBND xem xét quyết định xây dựng trung tâm nông nghiệp công nghệ cao tại thành phố Hà Đông, nhằm mục đích xây dựng thương hiệu sản phẩm nông nghiệp của tỉnh Hà Tây nói chung và của thành phố nói riêng. Đề nghị UBND thành phố Hà Đông cho xây dựng dự án các ngành sản xuất nông nghiệp với các sản phẩm mũi nhọn của thành phố như: Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp với các sản phẩm mũi nhọn của thành phố như: Quy hoạch vùng sản xuất rau, vùng sản xuất rau an toàn, vùng sản xuất hoa, cây cảnh và quy hoạch phát triển chăn nuôi, dự án đầu tư khu công nghệ nông nghiệp cao với mục tiêu đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất cây trồng vật nuôi UBND tỉnh, UBND thành phố và các ngành các cấp có liên quan ưu tiên dành vốn để thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Giáo trình kinh tế phát triển nông thôn. Chủ biên: TS Vũ Đình Thắng- GVC Hoàng Văn Định, NXB Thống kê, Hà Nội năm 2002 2 Giáo trình kinh tế nông nghiệp. Chủ biên: Cố GS.TS. Nguyễn Thế Nhã-PGS.TS. Vũ Đình Thắng, NXB Thống kê, Hà Nội năm 2004 3 Giáo trình quản trị kinh doanh nông nghiệp. Chủ biên: PGS.TS.Trần Quốc Khánh, NXB Lao động-Xã hội, Hà Nội năm 2005 4 Giáo trình kinh tế thủy sản. Đồng chủ biên: PGS.TS. Vũ Đình Thắng, GVC.KS. Nguyễn Viết Trung, NXB Lao động-Xã hội, Hà Nội năm 2005 5 Niên giám thống kê thành phố Hà Đông năm 2004- 2007 6 Quy hoạch phát triển nông nghiệp thời kì 2010-2020 thành phố Hà Đông 7 Báo cáo rà soát quy hoạch nông nghiệp thuỷ lợi phục vụ chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp thành phố Hà Đông đến năm 2020 8 Báo cáo kế hoạch phát triển ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Đông năm 2007 9 Báo cáo thực trạng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn thành phố Hà Đông năm 2004 10 Tài liệu bồi dưỡng quản lí quy hoạch nông nghiệp từ năm 2007. 11 Tài liệu từ internet: Trang web www.google.vn MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1:Các chỉ tiêu về dinh dưỡng đất và môi trường đất của thành phố Hà Đông 35 Bảng 2:Cơ cấu nền kinh tế của thành phố Hà Đông theo GDP 55 Bảng 3:Cơ cấu giá trị sản xuất các ngành của thành phố Hà Đông 59 Bảng 4:Gía trị và cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp-thuỷ sản. 61 Bảng 5: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt của thành phố Hà Đông 62 Bảng 6: Cơ cấu diện tích các loại cây trồng 64 Bảng 7: Cơ cấu GTSX cây lương thực 66 Bảng 8 : Cơ cấu diện tích, năng suất, sản lượng cây lương thực 67 Bảng 9: Cơ cấu GTSX cây chất bột 69 Bảng 10: Cơ cấu diện tích, năng suất, sản lượng cây chất bột 70 Bảng 11: Cơ cấu GTSX rau đậu các loại 71 Bảng 12: Cơ cấu diện tích, năng suất, sản lượng rau đậu các loại 72 Bảng 13: Cơ cấu GTSX cây công nghiệp 74 Bảng 14:Cơ cấu diện tích, năng suất, sản lượng cây công nghiệp hàng năm 76 Bảng 15: Cơ cấu GTSX ngành chăn nuôi 77 Bảng 16: Số lượng và sản lượng chăn nuôi 78 Bảng 17: Cơ cấu GTSX ngành dịch vụ nông nghiệp 80 Bảng 18: Cơ cấu GTSX ngành thuỷ sản 82 Bảng 19: Cơ cấu diện tích nuôi trồng, sản lượng của ngành thủy sản 83 Bảng 20: Kết quả và hiệu quả đạt được của thành phố Hà Đông qua các năm 85 Bảng 21: Cơ cấu quy mô, sản lượng nông nghiệp từ 2010-2020 94 Bảng 22: Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp-thủy sản năm 2010-2020 95 Bảng 23: Cơ cấu các ngành kinh tế nông nghiệp thành phố Hà Đông năm 2010-2020 95 Bảng 24: Cơ cấu diện tích, năng suất, sản lượng rau các loại của thành phố Hà Đông từ 2010-2020 98 Bảng 25:Cơ cấu diện tích, GTSL trồng hoa của thành phố Hà Đông từ 2010-2020 100 Bảng 26: Cơ cấu diện tích, năng suất, sản lượng lúa từ năm 2010-1020 102 Bảng 27: Cơ cấu diện tích, GTSL cây ăn quả từ 2010-2020 104 Bảng 28: Cơ cấu tổng đàn lợn và gia cầm từ 2010-2020 105 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá GTSX: Gía trị sản xuất GTSXNN: Gía trị sản xuất nông nghiệp TNBQ: Thu nhập bình quân UBND: Uỷ ban nhân dân ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10035.doc
Tài liệu liên quan