Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp bảo hiểm vật chất xe ô tô tại Công ty Bảo Việt Hà Nội

Tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp bảo hiểm vật chất xe ô tô tại Công ty Bảo Việt Hà Nội: ... Ebook Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp bảo hiểm vật chất xe ô tô tại Công ty Bảo Việt Hà Nội

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1384 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp bảo hiểm vật chất xe ô tô tại Công ty Bảo Việt Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Ngành giao thông vận tải đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia “ Giao thông vận tải là huyết mạch của nền kinh tế” . Đặc biệt cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã tạo điều kiện thúc đẩy ngành giao thông vận tải phát trỉên với sự ra đời của những loại phương tiện giao thông khác nhau. Điều đó đã khíên cho sự ngăn cách về địa lý trở nên nhỏ hẹp hơn. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của các loại phương tiện giao thông vận tải trong khi cơ sở hạ tầng lại chưa được xây dựng để đáp ứng với quy mô gia tăng đó. Trong khi đặc điểm của các phương tiện giao thông là có tốc độ cao dẫn đến các tai nạn xảy ra ngày một nhiều với quy mô và mức độ nguy hiểm cao hơn. Bằng chứng thực tế cho thấy là sự gia tăng về số vụ tai nạn giao thông là có tốc độ cao dẫn đến các tai nạn xảy ra ngày một nhiều với quy mô và mức độ nguy hiểm cao hơn.Bằng chứng thực tế cho thấy là sự gia tăng về số vụ tai nạn giao thông gây thiệt hại lớn về người và tài sản cho các chủ phương tiện. Khi tai nạn giao thông xảy ra thường chủ xe cơ giới phải gánh chịu phần thiệt hại đối với người thứ ba ( trách nhiệm dân sự ) và phần thiệt hại vật chất thân xe của mình. Đối với người thứ ba đã có bảo hiểm trách nhiệm dân sự ( bảo hiểm bắt buộc) đứng ra bồi thường còn thiệt hại vật chất thân xe, chủ xe phải gánh chịu, nếu tính bình quân thiệt hại về tài sản của mỗi vụ tai nạn thường lên đến hàng chục, hàng trăm triệu đồng, đây là con số không nhỏ đối với chủ phương tiện.Mức độ thiệt hại các chủ xe phải chi trả đôi khi là gánh nặng với họ, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, sản xuất kinh doanh và gây khó khăn về mặt tài chính cho các chủ xe. Chính vì vậy các nghịêp vụ bảo hiểm vật chấ, phương tiện giao thông vận tải ra đời. Đây là một biện pháp hữu hiệu nhất, là loại hình bảo hiểm tài sản nhằm bù đắp những thiệt hại tài chính cho những chủ phương tiện khi phương tiện của họ trong quá trình lưu hành gặp tai nạn, rủi ro dẫn đến gây thiệt hại cho chính phương tiện giao thông vận tải đó. Ý thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ này, hiện nay tất cả các công ty bảo hiểm phi nhân thọ của Việt Nam đều triển khai.Khi tham gia bảo hiểm các chủ xe phải đóng góp một phần tài chính của mình gọi là phí bảo hiểm vào quỹ tiền tệ của nhà bảo hiểm, để đổi lại họ sẽ được bồi thường một phần hoặc toàn bộ thiệt hại của xe khi gặp tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Trong quá trình triển khai nghiệp vụ này tại Bảo Việt Hà Nội đã đạt được những kết quả khá cao, song do đây là loại hình bảo hiểm tài sản được thực hiện dưới hình thức tự nguyện nên số xe cơ giới tham gia bảo hiểm trên tổng số xe cơ giới lưu hành thực tế còn nhỏ, vẫn còn nhiều tồn tại cần tiếp tục giải quyết để nâng cao hiệu qủa của nghiệp vụ.Do vậy em đã lựa chọn đề tài : “ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp bảo hiểm vật chất xe ô tô tại công ty Bảo Việt Hà Nội '' làm chuyên đề thực tập trong thời gian thực tập tại phòng giám định bồi thường thuộc Bảo Việt Hà Nội Bài viết của em gồm 3 phần chính : Chương I : Lý luận chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Chương II : Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Bảo Việt Hà Nội . Chương III : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, thạc sĩ Ngô Quỳnh Anh và các cán bộ phòng giám định bồi thường đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của cô giáo và các cán bộ nơi em thực tập để bài viết của em được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE CƠ GIỚI I . Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1. Sự cần thiết của Bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1.1. §Æc ®iÓm cña xe c¬ giíi. Xe cơ giới có thể hiểu là tất cả các loại xe tham gia giao thông trên đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó, bao gồm ô tô, mô tô và xe máy. Xe cơ giới không chỉ là phương tiện vận chuyển mà còn là loại tài sản có giá trị tương đối lớn của cá nhân, tổ chức, doanh nghịêp.Vận chuyển bằng xe cơ giới là hình thức chủ yếu phổ biến, được sử dụng rộng rãi do xe có tính động cơ cao và linh hoạt, tốc độ vận chuyển nhanh và chi phí thấp, hoạt động được trong phạm vi rộng kể cả địa hình phức tạp. Số lượng đầu xe tham gia ngày càng nhiều đặc biệt ở các nước đang phát triển và chậm phát triển có thời kỳ tăng lên đột biến.. Cùng với sự gia tăng của lượng xe cơ giới, ở Việt Nam số lượng xe ô tô tham gia giao thông đường bộ tăng lên rất nhanh, năm 2004 có khoảng 700.000 chiếc, năm 2005 có khoảng 800.000 chiếc .Lượng xe cơ giới lưu hành quá dày là một nguyen nhân làm tăng số vụ tai nạn giao thông khắp cả nước, trong khi đường xá ngày càng xuống cấp và không được đầu tư, tu sửa kịp thời nên tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nghiêm trọng.Có thể thống kê tình hình tai nạn giao thông trong những năm qua như sau: Bảng 1 : Tình hình tai nạn giao thông đường bộ (2002- 2006) Chỉ tiêu Năm Số người bị chết ( người) Số người bị thương ( người ) Số vụ tai nạn BQ ngày (vụ) Số vụ tai nạn ( vụ) 2002 8.213 26.256 71,87 26.233 2003 8.514 27.142 74,00 27.018 2004 9.103 28.236 78,82 29.135 2005 11.214 28.899 79,69 29.083 2006 9.120 20.023 60,08 27.389 ( Nguồn : Viện Chiến lược và phát triển giao thông vận tải ) Qua bảng số liệu trên ta thấy rằng số vụ tai nạn trong 4 năm qua liên tục tăng , từ năm 2002 đến năm 2005 tăng 3001 vụ (tương ứng tăng 2,3%) dẫn đến số vụ tai nạn và số người bị thương cũng tăng nhanh . Năm 2005 số vụ tai nạn có giảm nhưng thiệt hại về người và tài sản lại tăng lên . Sự gia tăng của số vụ tai nạn trong thời gian qua phải kể đến những nguyên nhân sau : 1. Do sự gia tăng về số lượng phương tiện giao thông : Số lượng xe cơ giới tăng nhanh do nhu cầu đi lại, nhu cầu vận chuyển của con người ngày một tăng, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Hơn nữa cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật giá thành của xe cơ giới ngày càng hạ, lượng xe cơ giới nhập khẩu ngày càng nhiều (dù chất lượng không đảm bảo nhưng vẫn được tiêu thụ) 2. Xe ô tô tham gia giao thông phụ thuộc rất lớn vào điều kiện thời tiết, khí hậu, địa hình, cơ sở hạ tầng và ý thức chấp hành luật lệ giao thông của mỗi người tham gia giao thông.Trong khi Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều thường xuyên có lũ lụt, hạn hán địa hình hiểm trở, nhiều đồi núi luôn tiềm ẩn nguy cơ tai nạn, hạn hán địa hình hiểm trở, nhiều đồi núi luôn tiềm ẩn nguy cơ tai nạn, hệ thống đường bộ nước ta còn kém, tình trạng đường sá ngày càng xuống cấp và không được đầu tư tu sửa kịp thời, chỉ sửa chữa theo kiểu chắp vá thiếu đồng bộ. Thêm vào đó tình trạng vi phạm nghiêm trọng luật lệ an toàn giao thông đường bộ của chủ điều khiển các phương tiện ô tô, xe máy : Chở quá tải, phóng nhanh vượt ẩu, lái xe trong tình trạng say rượu không làm chủ được tốc độ gây tai nạn .... đây là nguyên nhân gây ra nhiều vụ tai nạn nhất (chiếm khoảng 80% nguyên nhân gây ra tai nạn ) 3. Do tính cơ động cao, vượt giã tốt, số lượng ô tô được sử dụng ngày càng nhiều cùng với tình trạng xe ô tô kém chất lượng, không an toàn do quá cũ kĩ vẫn được đưa vào lưu hành làm cho xác suất rủi ro khi sử dụng loại phương tiện này đã lớn nay lại càng lớn. Đây thực sự là mối đe doạ nguy hiểm tới tính mạng và tài sản của chủ phương tiện, người tham gia giao thông, của người dân và của nhà nước. Theo số liệu thống kê hiện nay ở nước ta số xe ô tô có tuổi dưới 10 năm chiếm khoảng 23%, từ 10 đến 15 năm chiếm 16,5%, trên 15 năm đến 20 năm chiếm 4,1% và trên 20 năm chiếm 9,7%. Năm 2006 ta thấy số vụ tai nạn đã giảm hơn rất nhiều so với các năm trước và sovới năm 2005 giảm 211 vụ tai nạn tương ứng 8,3% .Số vụ tai nạn giảm xuống là do công tác phổ biến pháp luật về an toàn giao thông đã được đấy mạnh, việc đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe được chấn chỉnh, công tác kiểm định an toàn, các phương tiện cơ giới được làm tốt, phát triển phương tiện vận tải công cộng đảm bảo tỗt cho APEC, Việt Nam gia nhập WTO v…….Tuy nhiên trên thực tế số người chết và bị thương do tai nạn giao thông xảy ra khiến nhiều người chết và bị thương ở các đô thị lớn (tăng 40% so với năm ngoái) Bảng 2 So sánh tai nạn giao thông đường bộ với các loại hình giao thông vận tải khác ( năm 2005) Chỉ tiêu Loại hình GTVT Số vụ tai nạn Tỷ lệ (%) Số người chết Tỷ lệ ( %) Số người bị thương Tỷ lệ ( %) Đường bộ 26.345 95.86 12.811 97.06 30.712 99.138 Đường sắt 567 2.063 183 1.386 218 0.70 Đường thuỷ 423 1.53 180 1.36 35 0.112 Hàng hải 145 0.52 25 0.18 14 0.045 Cộng 27480 100 13199 100 30.979 100 ( Nguồn : Tạp chí cầu đường số 10/ 2006 ) Qua bảng số liệu 2 cho thấy : Hiện nay trên phạm vi cả nước có gần 893.000 ô tô và 15,6 triệu xe máy đang hoạt động được sử dụng nhiều vào mục đích : Chở khách, chở hàng hoá, sử dụng cá nhân .....làm gia tăng số vụ tai nạn giao thông .Năm 2005 là 29.083 vụ tai nạn giao thông và đến năm 2006 số vụ tai nạn có giảm là 27.389. 4. Xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết, khí hậu, cơ sở hạ tầng, vào ý thức chấp hành luật giao thông của mỗi người dân. Nhận thức được điều này, Nhà nước và các nghành có liên quan đã có sự quan tâm kịp thời đến công tác nâng cao phát triển cơ sở hạ tầng đường xá, cầu cống. Đường bộ ở Việt Nam được nâng lên cả về mặt số lượng và chất lượng song hệ thống giao thông đường bộ còn nhiều hạn chế như chất lượng mặt đường chưa đồng đều, nhiều đèo dốc cao, dài, tầm nhìn hạn chế. 1.2. Sù cÇn thiÕt cña b¶o hiÓm vËt chÊt xe c¬ giíi. Từ việc nghiên cứu đặc điểm của xe cơ giới ta thấy với những đặc tính ưu việt của xe cơ giới thì hiện nay xe cơ giới là phương tiện được sử dụng rộng rãi với số lượng lớn song nó chứa đựng yếu tố rủi ro bất ngờ xảy ra. Bằng chứng, thực tế cho thấy là sự gia tăng về số vụ tai nạn giao thông gây thiệt hại lớn về tài sản và người cho các chủ phương tiện. Khi xảy ra tai nạn giao thông thường chủ xe cơ giới phải gánh chịu phần thiệt hại đối với người thứ ba( trách nhiệm dân sự) và phần thiệt hại vật chất thân xe của mình. Đối với thiệt hại của người thứ ba đã có bảo hiểm trách nhiệm dân sự( bảo hiểm bắt buộc ) đứng ra bồi thường, còn thiệt hại vật chất thân xe, chủ xe phải gánh chịu, nếu tính bình quân về thiệt hại về tài sản của mỗi vụ tai nạn thường lên đến hàng hàng chụ, hàng trăm chịu đồng, đây là con số không nhỏ đối với chủ phương tiện. Mức độ thiệt hại mà các chủ xe phải chi trả đôi khi là gánh nặng với họ, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, sản xuất kinh doanh và gây khó khăn về mặt tài chính cho các chủ xe. Vì vậy bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã ra đời, đây là một biện pháp hữu hiệu nhằm khắc phục hậu quả do tai nạn xảy ra, đảm bảo ổn định tài chính cho các chủ xe, ý thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ này, hiện nay tất cả các công ty bảo hiểm phi nhân thọ của Việt Nam đều triển khai. Khi tham gia bảo hiểm các chủ xe phải đóng góp một phần tài chính của mình gọi là phí bảo hiểm vào quỹ tiền tệ của nhà bảo hiểm, để đổi lại họ sẽ được bồi thường một phần hoặc toàn bộ thiệt hại của xe khi gặp tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm có ghi trong hợp đồng bảo hiểm . Có thể khẳng định rằng bảo hiểm vật chất xe cơ giới ra đời là cần thiết khách quan đối với các chủ xe nên tất cả các nước trên thế giới hiện nay đều triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này . 2. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới có những tác dụng cơ bản sau: - Tích cực góp phần ngăn ngừa và đề phòng tai nạn giao thông. Kinh doanh bảo hiểm là một kiểu kinh doanh đặc biệt: kinh doanh rủi ro. Các chủ xe đòng phí bảo hiểm hình thành nên quỹ tài chính bảo hiểm, quỹ này chủ yếu được dùng để bồi thường cho các chủ xe khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm, ngoài ra còn được dùng chi đề phòng và hạn chế tổn thất. Thông qua thống kê các vụ tai nạn đã xảy ra để xác định nguyên nhân tai nạn, từ đó bảo hiểm đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm giảm thiểu tổn thất có thể xảy ra. Các công ty bảo hiểm thường xuyên bỏ tiền để đặt các biển báo tại những con đường nguy hiểm, xây dựng đường lánh nạn, đặt gương cầu ở những đèo dốc nguy hiểm... để hạn chế số vụ tai nạn xảy ra và giảm mức độ thiệt hại. Ngoài ra, các công ty bảo hiểm còn thực hiện tuyên truyền luật lệ giao thông đến từng người dân và cả biện pháp khuyến khích các chủ phương tiện tham gia tiếp tục hợp đồng bằng cách giảm phí nếu trong một thời gian nhất định xe không gặp phải rủi ro. - Trực tiếp góp phần ổn định tài chính, khắc phục khó khăn đối với các chủ xe. Thông thường nếu chủ xe tự chấp nhận rủi ro mà không chuyển giao rủi ro qua bảo hiểm thì việc khắc phục hậu quả là cả một quá trình dài làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của chủ xe. Bảo hiểm thông qua công tác bồi thường nhanh chóng, kịp thời giúp chủ xe khắc phục khó khăn về mặt tài chính và duy trì sản xuất kinh doanh nhưng nhà bảo hiểm cũng quy định những rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm và khống chế hạ mức tối đa số tiền bồi thường là số tiền bảo hiểm để tránh trục lợi bảo hiểm đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm của chủ điều khiển phương tiện - Góp phần xoa dịu bớt sự căng thẳng giữa chủ xe với nạn nhân của các vụ tai nạn. Khi tai nạn giao thông xảy ra, hầu hết trong các trường hợp đều có xảy ra xích mích, căng thẳng giữa chủ xe với nạn nhân của các vụ tai nạn. Nhà bảo hiểm là người trung gian cùng với lực lượng cảnh sát giao thông đứng ra tổ chức giám định, xác định mức độ lỗi của hai bên từ đó đưa ra mức bồi thường thoả đáng. - Góp phần tăng thu ngân sách, góp phần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, tăng công ăn việc làm cho người lao động. Các công ty bảo hiểm thông qua việc nộp thuế làm tăng thu cho ngân sách nhà nước. Chính phủ sử dụng ngân sách phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng để thoả mãn tốt hơn nhu cầu đi lại của người dân. Ngoài ra, với phạm vi hoạt động rộng rãi của các công ty bảo hiểm hiện nay ở tất cả các tỉnh thành còn giải quyết được một phần không nhỏ công ăn việc làm cho người lao động, đó là những nhân viên, cộng tác viên bảo hiểm, đại lý bảo hiểm.. II Nội dung cơ bản của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Đối tượng bảo hiểm. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản, bảo hiểm vật chất xe cơ giới có đối tượng bảo hiểm là bản thân chiếc xe. Tuy nhiên một chiếc xe cơ giới chỉ có thể được coi là đối tượng bảo hiểm khi đáp ứng tối thiểu các điều kiện sau: + Xe phải có giá trị sử dụng. + Xe phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về an toàn giao thông. + Xe phải đầy đủ các bộ phận về mặt kỹ thuật. Ví dụ hiện nay đối với xe ô tô có 7 tổng thành: Tổng thành thân vỏ: Gồm khung xe, két nước, nắp cabô, chắn bùn, cabin, tổng bơm, bộ điều hoà lực phanh, các đường ống dẫn khí, dẫn dầu, thùng chứa nguyên liệu, kính gương, ghế ngồi, các trang thiết bị khác. Tổng thành động cơ: Gồm bộ ly hợp, bộ chế hoà khí, bơm cao áp, bầu lọc gió, bơm hơi và hệ thống điện. Tổng thành hộp số: Hộp số chính, hộp số phụ, các lăng. Tổng thành trục trước (cầu trước ) bao gồm: Dầm cầu xe, mayơ, hệ thống treo nhíp, mà phanh, mayơ trước, trục lắp. Tổng thành trục sau (cầu sau ) gồm: Vỏ cầu và ruột sau. Tổng thành hệ thống lái gồm: Trục lái, vô lăng lái, hộp tay lái, hỗ trợ lực tay lái, thanh kéo ngang, thanh kéo dọc. Tổng thành lốp gồm toàn bộ lốp lắp vào xe và trang bị dự phòng trên xe, xăm. Ngoài ra có một số loại xe còn có tổng thành thứ 8: Tổng thành chuyên dùng lắp trên xe để sử dụng theo nhu cầu. Khác với bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với hành khách trên xe và người thứ ba khác được áp dụng bắt buộc bằng pháp luật đối với các chủ xe. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản và nó được thực hiện dưới hình thức bảo hiểm tự nguyện. Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là để được bồi thường những thiệt hại vật chất xày ra với xe của mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên. Vì vậy, đối tượng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia. Đối với xe mô tô, xe máy thường các chủ xe tham gia bảo hiểm toàn bộ vật chất thân xe. Đối với xe ô tô, các chủ xe có thể tham gia toàn bộ hoặc cũng có thể tham gia từng bộ phận của xe (Bộ phận thường thống nhất qui định là tổng thành xe). Phạm vi bảo hiểm. 2.1. Rủi ro được bảo hiểm. Phạm vi về rủi ro: Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, bảo hiểm vật chất xe cơ giới chỉ nhận bảo hiểm cho những rủi ro có tính chất ngẫu nhiên, bất ngờ và đảm bảo cho các điều kiện khác theo nguyên tắc rủi ro có thể được bảo hiểm của bảo hiểm thương mại, gây thiệt hại cho bản thân chiếc xe mua bảo hiểm. Trong hợp đồng bảo hiểm vật chất xe, các rủi ro được bảo hiểm thông thường bao gồm: - Tai nạn do đâm va, lật đổ. - Cháy nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá. - Mất cắp toàn bộ xe. - Tai nạn do rủi ro bất ngờ gây nên. Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe được bảo hiểm trong những trường hợp trên, các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm: - Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm; - Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất; - Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm; Tuy nhiên, trong mọi trường hợp tổng STBT của công ty bảo hiểm là không vượt quá STBH đã ghi trên đơn hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Phạm vi về thời gian: Bảo hiểm vật chất xe cơ giới luôn có giới hạn phạm vi bảo hiểm về mặt thời gian mà thông thường là một năm tính từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Nếu hết thời hạn bảo hiểm, chủ xe muốn tiếp tục được bảo hiểm phải gia hạn hợp đồng hoặc phải tiếp tục hợp đồng mới. Phạm vi về không gian: Trong các đơng vị bảo hiểm vật chất xe cơ giới, giới hạn trách nhiệm của bảo hiểm chỉ áp dụng trong một phạm vi địa bàn hoạt động nhất định của bảo hiểm. Nếu tai nạn xảy ra với xe không nằm trong phạm vi địa lý đã được thoả thuận trước đó thì thiệt hại sẽ không được bồi thường. 2.2. Rủi ro loại trừ. Các công ty bảo hiểm không nhận bảo hiểm và không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất xe gây ra bởi: - Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sữa chữa. Hao mòn tự nhiên được tính dưới hình thức khấu hao và thường được tính theo tháng. - Hư hỏng về điện hoặc bộ phận mát móc, thiết bị, săm lốp bị hư hỏng mà không do tai nạn gây ra. - Mất cắp bộ phận của xe. Để tránh những “ nguy cơ đạo đức” lợi dụng bảo hiểm những hành vi vi phạm pháp luật, hay một số rủi ro đặc biệt khác, những thiệt hại tổn thất xảy ra trong những trường hợp sau sẽ không được bồi thường: - Hành động cố ý của chủ xe, lái xe; - Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy định của Luật an toàn giao thông đường bộ; - Chủ xe vi phạm nghiêm trọng Luật an toàn giao thông đường bộ như: + Xe không có giấy phép lưu hành; + Lái xe không có bằng lái, hoặc có nhưng không hợp lệ; + Lái xe bị ảnh hưởng của rượu bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác trong khi điều khiển xe; + Xe trở chất cháy, chất nổ trái phép; + Xe chở quá trọng tải hoặc số hành khách quy định; + Xe đi vào đường cấm; + Xe đi đêm không đèn; + Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa; - Những thiệt hại gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh. - Thiệt hại do chiến tranh. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm. 3.1. Giá trị bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm. Việc xác định đúng giá trị của xe tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường. Tuy nhiên, giá xe trên thị trường luôn có những biến động và có thêm nhiều chủng loại xe mới tham gia giao thông nên đã gây khó khăn cho việc xác định giá trị xe. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường dựa vào các nhân tố sau để xác định giá trị xe: - Loại xe. - Năm sản xuất - Mức độ mới của của xe - Thể tích làm việc của xi lanh... Một phương pháp xác định giá trị bảo hiểm mà các công ty bảo hiểm hay áp dụng đó là căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao. Cụ thể: Giá trị bảo hiểm =Giá trị ban đầu (giá mua mới )– giá trị khấu hao (theo năm) Đối với xe có thời gian sử dụng dưới một năm thì giá trị khấu hao bằng 0 nên giá trị bảo hiểm bằng giá trị ban đầu của xe. .Đối với xe có thời gian sử dụng trên một năm thì giá trị khấu hao được xác định: Giá trị khấu hao = Giá trị ban đầu × Tỷ lệ khấu hao × Số năm sử dụng Và khấu hao làm tròn theo tháng, cụ thể: Nếu xe tham gia bảo hiểm bị tai nạn từ ngày 15 trở về đầu tháng, xe đó không tính khấu hao ngược lại. Xe tham gia bảo hiểm từ 16 về cuối tháng thì tháng đó phải tính khấu hao. Và tính khấu hao khi xe bị tai nạn làm thiệt hại toàn bộ vật chất thân xe hoặc toàn bộ một tổng thành nào đó. Trên thực tế rất nhiều xe đã khấu hao hết nhưng vẫn còn giá trị sử dụng và vẫn cong sử dụng được. Điều này buộc doanh nghiệp phải có biện pháp linh hoạt hơn để thu hút khách hàng. 3.2. Số tiền bảo hiểm. Trên cơ sở giá trị bảo hiểm, chủ xe có thể tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm nhỏ hơn, hoặc bằng, hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Tuy nhiên, việc quyết định tham gia bảo hiểm với số tiền là bao nhiêu sẽ là cơ sở để xác định STBT khi có tổ thất. Đây là loại hình bảo hiểm tài sản nên về nguyên tắc, chủ xe có thể tham gia với STBH là lớn nhất bằng giá trị bảo hiểm. Trong trường hợp số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm ( gọi là bảo hiểm dưới giá trị). Trường hợp này khi tổn thất xay ra công ty bảo hiểm sẽ bồi thường dựa trên cơ sở tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm, Số tiền bảo hiểm Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại × _____________ thực tế Giá trị bảo hiểm - Trong trường hợp số tiền bảo hiểm bằng giá trị bảo hiểm ( bảo hiểm ngang giá trị). Khi tổn thất xảy ra thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường toàn bộ thiệt hại trong giá trị bảo hiểm. - Trường hợp số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm ( bảo hiểm trên giá trị) thì rủi ro xảy ra công ty bảo hiểm cũng chỉ bồi thường tối đa bằng giá trị bảo hiểm. - Tuy nhiên trong thực tế chủ xe có thể tham gia bảo hiểm trên giá trị trong trường hợp theo điều khoản giá trị thay mới. Trường hợp tổn thất toàn bộ: Bồi thường bằng giá trị một chiếc xe mới chứ không phải là giá trị bảo hiểm. số tiền bảo hiểm Giá trị tổn thất = -------------------- Giá trị bảo hiểm Theo dự đoán phí bảo hiểm xe cơ giới sẽ càng tăng. Phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới là khoản tiền mặt nhất định mà người tham gia ( chủ xe hay lái xe) phải nộp cho công ty bảo hiểm sau khi ký hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực từ khi người tham gia bảo hiểm nộp phí. Các công ty bảo hiểm tiến hành thu phí bảo hiểm theo biểu phí của Bộ Tài chính quy định. Trong một số trường hợp công ty bảo hiểm có thể giảm phí để có thể khuyến khích các chủ xe tham gia bảo hiểm. Việc xác định phí bảo hiểm là rất phức tạp. Khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia bảo hiểm cụ thể, các công ty bảo hiểm thường căn cứ vào những nhân tố sau: Loại xe: Do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau nên phí bảo hiểm vật chất xe được tính riêng cho từng loại xe. Thông thường, các công ty bảo hiểm đưa ra những biểu xác định phí bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các xe thông dụng thông qua việc phân các loại xe thành các nhóm. Khu vực để xe và giữ xe: Trong thực tế, không phải công ty bảo hiểm nào cũng quan tâm đến nhân tố này. Tuy nhiên, cũng có một số công ty bảo hiểm tính phí bảo hiểm dựa theo khu vực giữ xe và để xe rất chặt chẽ. Mục đích sử dụng xe: Đây là nhân tố rất quan trọng khi xác định phí bảo hiểm. Nó giúp công ty bảo hiểm biết được mức độ rủi ro có thể xảy ra. Ví dụ, xe do một người về hưu sử dụng cho mục đích đi lại đơn thuần chắc chắn sẽ đóng phí bảo hiểm thấp hơn so với xe do một thương gia sử dụng để đi lại trong những khu vực rộng lớn. Tuổi tác kinh nghiệm lái xe của người bảo hiểm và những người thường xuyên sử dụng chiếc xe được bảo hiểm. Số liệu thống kê cho thấy rằng các lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với các lái xe lớn tuổi. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường áp dụng giảm phí bảo hiểm cho các lái xe trên 50 hoặc 55 tuổi do kinh nghiệm cho thấy số người này ít gặp tai nạn hơn so với các lái xe trẻ tuổi. Để khuyến khích hạn chế tai nạn, các công ty thường xuyên yêu cầu người bảo hiểm tự chịu một phần tổn thất xảy ra về xe ( mức độ miễn thường). Giống như cách tính phí bảo hiểm nói chung, phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe được tính theo công thức sau: P = f + d Trong đó : P : Phí thu mỗi xe d : Phụ phí f : Phí thuần Theo công thức trên, việc xác định phí bảo hiểm phụ thuộc vào các nhân tố sau: Tình hình bồi thường tổn thất của những năm trước đó. Căn cứ vào số liệu thống kê, công ty bảo hiểm sẽ tính toán được phần phí thuần “f ” cho mối đầu xe như sau: Trong đó : Si : Số vụ tai nạn xảy ra trong năm thứ i Ti : Thiệt hại bình quân một vụ trong năm thứ i Ci : Số xe hoạt động thực tế trong năm thứ i Các chi phí khác, hay còn gọi là phần phụ phí ( d ), bao gồm các chi phí như chi đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý...Phần phụ phí này thường được tính bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với phí bồi thường. Trong thực tế các công ty bảo hiểm thường áp dụng phương pháp tính phí dựa trên số tiền bảo hiểm như sau: P = Sb × R Trong đó : Sb - Số tiền bảo hiểm R - Tỷ lệ phí bảo hiểm Hiện nay, biểu phí của Bộ Tài chính qui định cho các công ty bảo hiểm được thể hiện ở bảng 3,4. Bảng 3. Biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô tô ( phí bảo hiểm đã bao gồm 10% VAT) Phạm vi bảo hiểm Phí bảo hiểm 1. Bảo hiểm toàn bộ xe 1,5% × giá trị thực tế của xe 1,7% × giá trị thực tế của xe (áp dụng đối với xe còn 70% giá trị trở lên) 2. Bảo hiểm thân vỏ xe 2,5% × giá trị thực tế thân vỏ xe 2,7% × giá trị thực tế thân vỏ xe (áp dụng đối với xe còn 70% giá trị trở lên) (Nguồn: Tài liệu hướng dẫn đại lý nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới năm 2005 tại Bảo Việt) Đối với xe mô tô, tỷ lệ phí bảo hiểm: 1% giá trị thực tế của xe. Đối với những xe yêu cầu tham gia bảo hiểm thời hạn ngắn, số phí sẽ được tính theo qui định của Bộ Tài chính. Bảng 4. Biểu phí ngắn hạn Thời hạn bảo hiểm Mức phí áp dụng (% phí bảo hiểm năm) Dưới 3 tháng 30% Từ 3 đến 6 tháng 60% Từ 6 đến 9 tháng 90% Từ 9 đến 12 tháng 100% (Nguồn: Quy tắc bảo hiểm kết hợp xe cơ giới tại Bảo Việt Hà Nội) Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn tham gia bảo hiểm tại công ty mình, các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức giảm phí so với mức phí chung theo số lượng xe tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hầu hết các công ty bảo hiểm còn áp dụng cơ chế giảm giá cho những người tham gia bảo hiểm không có khiếu nại và gia tăng tỉ lệ giảm giá này cho một số năm không có khiếu nại gia tăng. Có thể nói đây là biện pháp phổ biến trong bảo hiểm xe cơ giới. Ví dụ, tại Bảo Việt qui định. Bảng 5. Bảng tỷ lệ giảm phí Số lượng xe tham gia bảo hiểm Tỷ lệ giảm phí tối đa Từ 5 đến 10 xe 5% Từ 11 đến 20 xe 10% Từ 21 đến 30 xe 15% Từ 31 đến 50 xe 20% Trên 50 xe Căn cứ vào tình hình thực tế để áp dụng giảm phí (Nguồn: Tài liệu hướng dẫn đại lý đại lý nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới năm 2005 tại Bảo Việt Hà Nội) Ngoài ra còn tiến hành giảm phí theo tỷ lệ tổn thất: nếu trong quá trình tham gia bảo hiểm, chủ xe không có khiếu nại phải bồi thường, khi tái tục bảo hiểm có thể được giảm phí. Đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là chỉ hoạt động một số ngày trong năm, thì chủ xe chỉ phải đóng phí cho những ngày hoạt động đó theo công thức sau: Số tháng xe đã hoạt động trong năm Phí bảo hiểm = Mức phí cả năm × ¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯ 12 Biểu phí đặc biệt: Trong những trường hợp đặc biệt khi khách hàng có số lượng xe tham gia bảo hiểm nhiều, đêt tranh thủ sự ủng hộ, các công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu phí riêng cho khách hàng đó. Việc tính toán biểu phí riêng cũng tương tự như cách tính biểu phí ở trên, chỉ khác là chỉ dựa trên các số liệu về bản thân khách hàng đó, cụ thể: º Số lượng xe của công ty tham gia bảo hiểm. º Tình hình bồi thường tổn thất của công ty bảo hiểm cho khách hàng ở những năm trước đó. º Tỷ lệ phụ phí theo quy định của công ty Trường hợp mức phí đặc biệt thấp hơn mức phí quy định chung, công ty bảo hiểm áp dụng theo mức phí đặc biệt. Còn nếu mức phí đặc biệt tính được là cao hơn hoặc bằng mức phí chung tức là tình hình tổn thất của khách hàng cao hơn hoặc bằng mức tổn thất bình quân chung thì công ty bảo hiểm sẽ áp dụng mức phí chung. Hoàn phí bảo hiểm: Có những trường hợp chủ xe đã đóng phí bảo hiểm cả năm, nhưng trong năm xe không hoạt động một thời gian vì lí do nào đó, ví dụ như ngừng hoạt động để tu sửa xe. Trong trường hợp này thông thường công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm của những tháng ngừng hoạt động đó cho chủ xe. Số phí hoàn lại được tính như sau: Phí hoàn Phí cả Số tháng không hoạt động Tỷ lệ hoàn = x¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯ x phí lại năm 12 Tuỳ theo từng công ty bảo hiểm khác nhau mà quy định tỷ lệ hoàn phí là khác nhau. Nhưng thông thường tỉ lệ này là 80%. Trong trường hợp chủ xe muốn huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm khi chưa hết hạn hợp đồng thì thông thường công ty bảo hiểm cũng hoàn lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại đó theo công thức trên nhưng với điều kiện là chủ xe có lần nào được công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm. Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới các công ty bảo hiểm cần chú ý đến việc đề phòng tai nạn xảy ra và hạn chế tối đa mức độ tổn thất để giảm thiểu chi phí bồi thường cho nhà bảo hiểm bởi nếu chi bồi thường quá cao thì doanh nghiệp kinh doanh không có lãi, không đảm bảo duy trì hoạt động kinh doanh. Hàng năm các công ty bảo hiểm thường tiến hành trích một phần doanh thu từ nghiệp vụ để phục vụ cho công tác này. Chủ yếu là để xây dựng Bồi thường tổn thất. Như chúng ta đã biết, bảo hiểm là một ngành dịch vụ và sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình. Đó là những lời hứa cam kết của công ty bảo hiểm sẽ chi trả tiền bồi thường cho khách hàng khi rủi ro xảy ra.Do vậy, việc bồi thường cho khách hàng là tiêu chí để đánh giá chất lượng phục vụ khách hàng của công ty cũng như khẳng định vụ thế, uy tín của công ty trên thị trường bảo hiểm. Công tác bồi thường đòi hỏi phải nhanh chóng, kịp thời, chính xác. a) Hồ sơ bồi thườn._.g. Khi yêu cầu cơ quan bảo hiểm bồi thường thiệt hại vật chất xe, chủ xe phải cung cấp những tài liệu chứng từ sau: Tờ khai tai nạn của chủ xe Bản sao của giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy chứng nhận đăng ký xe, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện cơ giới đường bộ, giấy phép lái xe. Kết luận điều tra của công an hoặc bản sao bộ hồ sơ tai nạn gồm : Biển bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn. biên bản giải quyết tai nạn Bản án hoặc quyết định của toà án trong trường hợp có tranh chấp tại toà án. Các chứng từ xác định thiệt hại cho tai nạn.Ví dụ : Chứng từ xác định chi phí sửa chữa xe, thuê cầu kéo ..... b) Nguyên tắc bồi thường tổn thất - Trong trường hợp xe tham gia bảo hiểm bằng hoặc dưới giá trị thực tế - Trường hợp xe tham gia bảo hiểm trên giá trị thực tế; - Theo nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm, để tránh trục lợi bảo hiểm, công ty bảo hiểm chỉ chấp nhận số tiền bảo hiểm nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu người tham gia bảo hiểm cố tình hoặc vô tình tham gia với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm, trong trường hợp này, số tiền bồi thường cũng chỉ bằng thiệt hại thực tế và nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thực tế của xe. Trường hợp công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm trên giá trị thực tế của xe là “ Bảo hiểm giá trị thay thế mới”.Chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao theo các điều kiện bảo hiểm rất nghiêm ngặt. Trường hợp tổn thất bộ phận : Khi tổn thất bộ phận xảy ra, chủ xe sẽ được giải quyết bồi thường bảo hiểm, thường giới hạn mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng tỷ lệ giá trị tổng thành xe. Trường hợp tổn thất toàn bộ khi bị mất cắp, mất tích hoặc xe bị thiệt hại nặng đến mức không thể sửa chữa phục hồi để đảm bảo lưu hành an toàn, hoặc chi phí phục hồi bằng hoặc lớn hơn gía trị thực tế của xe.Nếu tổn thất toàn bộ, chủ xe sẽ được bồi thường theo giá trị ghi trên đơn bảo hiểm nếu tham gia bảo hiểm nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thực tế của xe hoặc được bồi thường theo giá trị thực tế nếu tham gia bảo hiểm trên giá trị các công ty bảo hiểm thường quy định giá trị thiệt hại so với giá trị thực tế của xe bằng hoặclớn hơn một tỷ lệ nhất định nào đó thì đựơc xem là tổn thất toàn bộ ước tính. Tuy nhiên lại giới hạn bởi bảng tỷ lệ cấu thành xe. Ngoài ra tính toán số tiền bồi thường còn phải tuân thủ những nguyên tắc sau : + Những bộ phận thay thế mới khi bồi thường phải trừ khấu hao đã sử dụng hoặc chỉ tính giá trị tương đương với giá trị bộ phận được thay thế trước lúc tai nạn xảy ra. + Công ty bảo hiểm sẽ thu hồi những bộ phận được thay thế hoặc đã được bồi thường toàn bộ giá trị. Trong trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất theo một hay nhiều đơn bảo hiểm hay còn gọi là bảo hiểm trùng. Theo nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm, tổng số tiền bảo hiểm mà chủ xe nhận được từ tất cả các đơn bảo hiểm chỉ đúng bằng thiệt hại thực tế. Thông thường các công ty bảo hiểm giới hạn trách nhiệm bồi thường của mình theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm của công ty mình so với tổng những số tiền bảo hiểm ghi trong tất cả các đơn bảo hiểm 6. Hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là sự thoả thuận giữa các bên theo bên mua bảo hiểm (chủ phương tiện, lái xe) có trách nhiệm phải nộp phí bảo hiểm, bên bảo hiểm có trách nhiệm trả tiền bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm. Trước khi ký hợp đồng , chủ xe phải có giấy yêu cầu bảo hiểm và kê khai đầy đủ, trung thực những nội dung có trong giấy yêu cầu bảo hiểm kê khai đầy đủ, trung thực những nội dung có trong giấy yêu cầu bảo hiểm . Trong hợp đồng bảo hiểm có quy định một số điều khoản quan trọng như: Điều khoản quy định về hình thức tham gia : Tham gia bảo hiểm toàn bộ hoặc bộ phận . Điều khoản quy định về mức trách nhiệm : Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm Điều khoản quy định về thời gian và hiệu lực hợp đồng. Công ty bảo hiểm chỉ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm khi chủ xe đã đóng phí bảo hiểm. Thời hạn hiệu lực bảo hiểm bắt đầu và kết thúc được thể hiện trên giấy chứng nhận bảo hiểm. Trường hợp chủ xe không nộp phí bảo hiểm đầy đủ vào đúng thời hạn quy định thì hợp đồng bảo hiểm mặc nhiên mất hiệu lực cho đến khi chủ xe tiếp tục đóng phí . Trong thời hạn bảo hiểm, nếu có sự chuyển quyền sở hữu xe thì phải thông báo bằng văn bản cho côg ty trước 15 ngày. Nếu hợp đồng được hai bên thoả thuận hủy bỏ, công ty sẽ hoàn lại cho chủ xe 80% bảo hiểm của thời gian còn lại với điều kiện đến thời điểm đó chủ xe chưa có lần nào được công ty chấp nhận trả tiền bảo hiểm . Khi đã ký kết hợp đồng bảo hiểm, thì mỗi bên có nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm và được hưởng những quyền lợi : Đối với công ty bảo hiểm : Trách nhiệm của công ty bảo hiểm Cung cấp cho chủ xe ô tô quy tắc, biểu phí , ký kết hợp đồng bảo hiểm, chấp nhận tham gia theo đúng luật định .Hướng dẫn và tao mọi điều kiện thuận lợi để chủ xe ô tô tham gia bảo hiểm. Công ty bảo hiểm có trách nhiệm phối hợp với cơ quan công an để thu thập các giấy tờ cần thiết có liên quan đến vụ tai nạn thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm . Đối với những vụ tai nạn đặc biệt nghiêm trọng công ty bảo hiểm phải phối hợp với chủ xe ô tô và các cơ quan chức năng ngay từ đầu để giải quyết tai nạn . Khi hồ sơ bồi thường đầy đủ và hợp lệ, công ty bảo hiểm tiến hành xét và giải quyết bồi thường theo đúng nguyên tắc chính xác, kịp thời, trung thực Phải nộp thuế cho Nhà nước Phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật quy định. Quyền lợi của công ty bảo hiểm: Thu phí bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm Yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm Yêu cầu khách hàng áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của pháp luật Có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng nếu phát hiện có hiện tượng trục lợi bảo hiểm Từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối thanh toán tiền bồi thường cho khách hàng trong những trường hợp không thuộc phạm vi bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo như thoả thuận trong hợp đồng Đối với chủ xe cơ giới Trách nhiệm của chủ xe cơ giới Phải nộp phí đầy đủ Phải chấp hành đúng luật lệ giao thông , phải có bằng lái Phải bảo dưỡng xe định kì, nếu xe không đủ điều kiện lưu hành phải kịp thời báo cho công ty bảo hiểm biết Phải kê khai đầy đủ, trung thực những nội dung trong giấy yêu cầu bảo hiểm Khi tai nạn giao thông xảy ra, chủ xe cơ giới có trách nhiệm cứu chữa, hạn chế thiệt hại về người và tài sản, bảo vệ hiện trường và báo ngay cho công an gần nhất để phối hợp giải quyết tai nạn Trường hợp thay đổi mục đích sử dụng xe, chủ xe phải thông báo cho công ty bảo hiểm biết để điều chỉnh tỷ lệ phí cho phù hợp. Quyền lợi của chủ xe Được chi trả tiền bồi thường khi rủi ro xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Được yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều kiện, điều khoản hoặc giấy chúng nhận bảo hiểm. Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng theo luật định, nếu doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp các thông tin sai sự thật để giao kết hợp đồng. III. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm Chỉ tiêu kết quả Kết quả kinh doanh của một nghiệp vụ bảo hiểm, một loại hình bảo hiểm của doanh nghiệp được thể hiện ở 2 chỉ tiêu chủ yếu là: doanh thu và lợi nhuận. Doanh thu nghiệp vụ (TR) Doanh thu nghiệp vụ là toàn bộ số tiền mà công ty bảo hiểm thu được từ nghiệp vụ trong một giai đoạn kinh doanh nhất định ( thường là 1 năm) Giống như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô bao gồm khoản thu lớn là: Thu kinh doanh bảo hiểm gồm Thu từ phí bảo hiểm gốc Kết dư dự phòng năm trước chuyển sang Thu đòi người thứ ba Thu khác Thu nhập đầu tư ; thu lãi từ hoạt động đầu tư và thu từ các hoạt động khác. Tổng chi ( T C) Tổng chi là toàn bộ số tiền mà công ty bảo hiểm chi ra cho quá trình kinh doanh nghiệp vụ trong thời kỳ nhất định ( thường lµ 1 n¨m) Chi cũng bao gồm 2 khoản lớn là chi kinh doanh bảo hiểm và chi hoạt động đầu tư. Trong đó chi kinh doanh bao gồm: - Chi bồi thường bảo hiểm gốc - Chi trích lập dự phồng bồi thường - Chi phí kinh doanh ; chi lương, dịch vụ thuê ngoài, chi đề phòng và hạn chế tổn thất ... - Chi hoa hồng - Chi giám định 1.3. Chỉ tiêu lợi nhuận nghiệp vụ Lợi nhuận là toàn bộ số tiền còn lại từ doanh thu nghiệp vụ sau khi đã trừ đi tất cả các khoàn chi Lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh có hai chỉ tiêu: Lợi nhuận trước thuế = Tổng doanh thu - Tổng chi phí Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế - Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp Chỉ tiêu hiệu quả . Hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm là thước đo sự phát triển của bản thân doanh nghiệp và phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả kinh doanh nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Hiệu quả được đo bằng tỷ số giữa doanh thu hoặc lợi nhuận với tổng chi phí chi ra trong kỳ D HD = ____ (1) C Chỉ tiêu (1) nói lên cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu cho doanh nghiệp bảo hiểm . L HL = ____ (2) C Chỉ tiêu (2) nói lên cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo hiểm . Trong đó : HD, HL : Hiệu quả kinh doanh theo doanh thu và lợi nhuận D: Doanh thu trong kỳ L : Lợi nhuận trong kỳ C: Tổng chi trong kỳ Các chỉ tiêu trên càng lớn càng tốt vì với chi phí nhất định, doanh nghiệp sẽ có mức doanh thu và lợi nhuận ngày càng tăng. Với từng nghiệp cụ thể lại tính riêng từng chỉ tiêu hiệu quả DNV HNv = _____ (3) CNV LNV HNV = ________ (4) CNV Trong đó : HNV : Hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm gốc DNV : Doanh thu nghiệp vụ CNV : Chi phí nghiệp vụ bảo hiểm gốc Mỗi nghiệp vụ bảo hiểm khi triển khai thường qua một số khâu công việc cụ thể : Khâu khai thác, khâu đề phòng và hạn chế tổn thất, khâu giám định và bồi thường .... để nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ, đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả của từng khâu công việc. Để đánh giá hiệu quả khai thác, phải xác định chỉ tiêu : Kết quả khai thác trong kỳ Hiệu quả khai thác bảo hiểm = ______________________ Chi phí khai thác trong kỳ Kết quả khai thác trong kỳ có thể là doanh thu phí bảo hiểm hoặc cũng có thể là số lượng hợp đồng, số đơn bảo hiểm cấp trong kỳ .... Chi phí khai thác có thể là tổng chi phí trong khâu khai thác hoặc cũng có thể là số đại lý khai thác trong kỳ. Hiệu quả giám định được tính như sau : Kết quả giám định trong kỳ Hiệu quả của giám định bảo hiểm = ______________________ Chi phí giám định trong kỳ Kết quả giám định có thể là số vụ tai nạn rủi ro đã được giám định hoặc số khách hàng đã được giải quyết bồi thường trong kỳ . Chi phí giám định là tổng số tiền chi phí phân bổ cho khâu giám định và cũng có thể là số lượng giám định viên bình quân của kỳ nghiên cứu. Hiệu quả công tác đề phòng và hạn chế tổn thất được phản ánh bởi chỉ tiêu : Hiệu quả đề phòng và Lợi nhuận nghiệp vụ bảo hiểm trong kỳ hạn chế tổn thất = ___________________________________ Chi phí đề phòng và hạn chế tổn thất trong kỳ Kết quả chỉ tiêu nói lên cứ một đồng chi phí đê phòng và hạn chế tổn thất chi ra trong kỳ tham gia tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ghiệp vụ bảo hiểm. Khi phân tích chỉ tiêu này, phải chú ý đến độ trễ thời gian vì có những khoản chi ra trong kỳ nhưng hiệu quả lại phát huy ở kỳ sau : Doanh thu phí Hiệu quả công tác bồi thường = _____________ Chi bồi thừờng Chi bồi thường Tỷ lệ bồi thường = ______________ Doanh thu phí CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM VẬT CHẤT XE Ô TÔ TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2002- 2006. Tổng quan về công ty Bảo Việt Hà Nội . Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Bảo hiểm Hà Nội Công ty Bảo hiểm Hà Nội (Bảo Việt Hà Nội) là một trong những thành viên và là Công ty hạng I của Bảo Việt.Theo quyết định số 1125/QĐ-TCCB của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Chi nhánh Bảo hiểm Thành phố Hà Nội trực thuộc Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam được thành lập ngày 14/11/1980 với nhiệm vụ tổ chức hoạt động kinh tế bảo hiểm thương mại trên địa bàn Hà Nội, trụ sở đặt tại số 7 Lý Thường Kiệt - Hà Nội. Buổi đầu thành lập công ty chỉ có 7 lao động và kinh doanh 2 nghiệp vụ: Bảo hiểm tai nạn hành khách và Bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho chủ xe cơ giới, doanh thu chỉ khoảng 10 triệu VNĐ/năm. Ngày 17/02/1989, Bộ Tài chính ra quyết định số 27/TCQĐ-TCCB chuyển Chi nhánh bảo hiểm Hà Nội được thành Công ty Bảo hiểm Hà Nội. Ngày 03/04/1989, Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam ra quyết định số 230/TCCB-BH phê chuẩn điều lệ tổ chức hoạt dộng của Bảo hiểm Hà Nội, đặt trụ sở chính tại 15C Trần Khánh Dư – Hà Nội. Năm 1996, sau quyết định thành lập lại của Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, ngày 24/09/1996, điều lệ tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm Hà Nội được Chủ tịch Hội đồng quản trị của Tổng công ty phê chuẩn. Bảo Việt Hà Nội có nhiệm vụ kinh doanh các nghiệp vụ Bảo hiểm, đầu tư vốn và các dịch vụ có liên quan đến bảo hiểm theo luật pháp của Nhà nước và phân cấp của công ty. Cùng với 25 năm xây dựng và trưởng thành, Bảo Việt Hà Nội không ngừng lớn mạnh và được khẳng định vị thế trên thị trường. Hiện nay, Bảo Việt Hà Nội đã có hơn 160 cán bộ công nhân viên, 26 phòng trực thuộc trong đó 5 phòng quản lý và 21 phòng trực tiếp kinh doanh trải khắp trên 14 quận huyện trong thành phố. Trong 5 năm gần đây (2001-2005), tốc độ tăng trưởng bình quân đạt trên 17%, tổng doanh thu lên tới 700 tỷ VNĐ, công ty đã giải quyết bồi thường gần 200.000 vụ tai nạn, tổn thất với tổng số tiền bồi thường trên 350 tỷ VNĐ. Việc bồi thường đảm bảo đúng, đủ theo chế độ quy định với thời gian nhanh nhất, giúp doanh nghiệp, người dân tham gia bảo hiểm mau chóng ổn định đời sống, sản xuất sau khi gặp rủi ro. Nhiều năm liền Bảo Việt Hà Nội đã vinh dự nhận được những danh hiệu thi đua: Cờ thi đua xuất sắc của Tổng công ty, bằng khen của Bộ Tài chính, cờ thi đua của Thủ tướng chính phủ và năm 2005 được vinh dự đón nhận Huân chương lao động hạng III của Nhà nước. Bộ máy tổ chức và nhân lực Ban giám đốc công ty: 01 Giám đốc: ông Bùi Gia Anh 03 Phó giám đốc: Ô.Trần Nhật Long, Ô. Nguyễn Quốc Thiện, Ô. Hoàng Văn Lịch. Các phòng ban nghiệp vụ trực thuộc công ty: Các phòng chức năng: phòng Tổng hợp, phòng Tài chính-kế toán, phòng Hành chính-quản trị, phòng Giám định-bồi thường, phòng Quản lý đại lý, phòng Tin học. Các phòng nghiệp vụ: phòng Bảo hiểm Cháy và các rủi ro hỗn hợp, phòng Bảo hiểm Rủi ro-kỹ thuật, phòng Bảo hiểm Phi hàng hải, phòng Bảo hiểm Hàng hải, phòng Marketing, phòng Quốc phòng. Các văn phòng đại diện 14 văn phòng đại diện và 14 phòng nghiệp vụ trực thuộc tại tất cả các quận, huyện cùng mạng lưới đại lý, cộng tác viên trên địa bàn thành phố. Các phòng nghiệp vụ và văn phòng đại diện không thực hiện hạch toán độc lập nhưng có toàn quyền quyết định các hoạt động của mình ở mức phân cấp cho phép, kết hợp với các phòng chức năng nhằm đưa ra các biện pháp giải quyết . Nhờ cơ cấu tổ chức như trên, việc qunả lý chung của Bảo hiểm Hà Nội khá chạt chẽ cả chiều rộng và chiều sâu, tạo sự thông suốt từ Ban giám đốc tới các phòng ban, đại lý, cộng tác viên, đảm bảo đưa ra một dịch vụ bảo hiểm tốt nhất cho khách hàng. Các phong ban trong công ty hoạt động vừa độc lập, vừa có sự liên hệ qua lại mật thiết với nhau do sự phân công, phân cấp quản lý của Ban giám đốc. Sơ đồ tổ chức Bộ máy hoat động công ty Bảo hiểm Hà Nội. Đặc điểm hoạt động kinh doanh Bảo Việt Hà Nội kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ với các loại hình bảo hiểm: _ Bảo hiểm mọi rủi ro về xây dựng (C.A.R) _ Bảo hiểm mọi rủi ro về lắphòng đặt (E.A.R) _ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. _ Bảo hiểm thân tàu biển, tàu sông và tàu cá. _ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển, tàu sông và tàu cá. _ Bảo hiểm rủi ro các nhà thầu đóng tàu. _ Bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba. _ Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu và hàng hoá vận chuyển nội địa. _ Bảo hiểm máy móc trang thiết bị xây dựng lắp đặt(C.P.M). _ Bảo hiểm thiệt hại máy móc. _ Bảo hiểm thiết bị điện tử. _ Bảo hiểm kết hợp xe cơ giới. _ Bảo hiểm tai nạn con người. _ Bảo hiểm trợ cấp nằm viện và phẫu thuật. _ Bảo hiểm chi phí y tế và vận chuyển y tế cấp cứu. _ Bảo hiểm toàn diện đối với học sinh. _ Bảo hiểm du lịch. _ Các loại hình bảo hiểm khác… Bảo Việt Hà Nội tổ chức hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên địa bàn Hà Nội tát cả các nghiệp vụ bảo hiểm triển khai tại Tổng công ty nhưng không trực tiếp tham gia các hoạt động tái bảo hiểm mà tái bảo hiểm thông qua Tổng công ty, nhưng được phép tham gia các hoạt động đầu tư. Sự chỉ đạo của Bảo Việt đối với Bảo Việt Hà Nội chỉ mang tính chất gián tiếp ở tầm vĩ mô nhằm tạo điều kiện cho công ty hoạt động. Bảo Việt Hà Nội là một tổ chức kinh doanh có đầy đủ tư cách pháp nhân, có tài khoản ngân hàng, có con dấu riêng, có quyền ký kết hợp đồng kinh tế và giải quyết bồi thường các tổn thất, có quyền quyết định phương thức kinh doanh, quy trình nghiệp vụ. 3. Kết quả hoạt động kinh doanh Đánh giá chung tình hình thị trường bảo hiểm Hà Nội Thuận lợi Trong những năm gần đây, tình hinh kinh tế cả nước nói chung và thủ đô Hà Nội nói riêng tuy gặp khó khăn do thiên tai, dịch cúm gia cầm… nhưng vẫn đạt tỷ lệ tăng trưởng cao. Hà Nội với mức tăng trưởng khoảng 10% tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, quy hoạch và phát triển đô thị. Nhận thức về bảo hiểm của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và người dân cũng được nâng cao. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền Thành phố Hà Nội luôn quan tâm, tạo điều kiện cho Bảo Việt Hà Nội hoạt động tốt, hoàn thành nhiệm vụ.Bảo Việt Hà Nội là đơn vị đứng thứ nhất nhì trong tổng công ty nên luôn có được sự chỉ đạo sát sao củng Tổng công ty, Bảo Việt Việt Nam và sự hỗ trợ hiệu quả của các phòng ban, đơn vị thành viên cùng cấp. Khó khăn Số lượng các công ty bảo hiểm tăng lên trong thời gian qua khiến tình hình cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên gay gắt. Cạnh tranh chủ yếu qua việc giảm phí, tăng chi phí kinh doanh để có dịch vụ. Khách hàng tham gia bảo hiểm có sự lựa chọn kỹ lưỡng các công ty bảo hiểm và tính toán chặt chẽ hơn khoản chi phí tham gia bảo hiểm để có lợi nhất. Việc ra dời mới các Công ty bảo hiểm cổ phần đã thu hút một số khách hàng tham gia cổ đông nên có được thị phần bảo hiểm nhất định trên thị trường cũng tạo được sự cạnh tranh mạnh đối với các đối thủ khác. Kết quả hoạt động kinh doanh của Bảo Việt Hà Nội thời gian qua Kết quả doanh thu qua các năm Bảng 5: Doanh thu của Bảo Việt Hà Nội giai đoạn 2001-2006 Chỉ tiêu Năm Doanh thu (Triệu VNĐ) Tốc độ tăng doanh thu(%) Nghiệp vụ khai thác 2001 82.702 - 42 2002 95.102 0,15% 40 2003 131.214 0,37% 41 2004 165.667 0,26% 43 2005 178.920 0,08% 57 2006 201.420 0,13% 57 ( Nguồn:Bảo Việt Hà Nội) Từ hai nghiệp vụ ban đầu, Bảo Việt Hà Nội đã phát triển số lượng nghiệp vụ không ngừng, năm 2001 là 42 nghiệp vụ đến năm 2006 đã là 57 nghiệp vụ. Doanh thu phí tăng lên đều đặn hàng năm với tỷ lệ tăng bình quân trên 17%, từ 82.702 tỷ VNĐ năm 2001 đến 201.42 tỷ năm 2006. Trong điều kiện kinh doanh gặp nhiều khó khăn, thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, có được kết quả như vậy thể hiện sự nỗ lực, quyết tâm của toàn bộ cán bộ công nhân viên Bảo Việt Hà Nội trong việc hoàn thành kế hoạch đề ra. Riêng trong năm 2006, trong 22 đầu mối khai thác trực tiếp của công ty đã có 15 phòng hoàn thành vượt mức kế hoạch. Ban lãnh đạo công ty cũng đã có rất nhiều cố gắng trong việc đánh giá, phân tích kết quả kinh doanh hàng năm để phát huy mặt mạnh, khắc phục mặt yếu và tìm ra tiềm năng cần khai thác, đề ra biện pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó, công ty cũng đã nhận được sự chỉ đạo kịp thời phối hợp giúp đỡ của Tổng công ty và các phòng ban của Bảo Việt Việt Nam. Kết quả doanh thu theo từng nhóm nghiệp vụ Bảng 6 : Doanh thu các nhóm nghiệp vụ bảo hiểm giai đoạn 2001-2006 Đơn vị: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 2006 1.Bảo hiểm xe cơ giới 27.200 30.200 52.710 53.490 59.250 59.618 a.BH vật chất xe ôtô 15.632 18.229 30.944 34.660 40.120 39.848 b.BH TNDS chủ xe ôtô đối với người thứ 3 7.642 8.200 12.536 14.690 15.464 15.189 c.BH TNDS của chủ xe môtô đối với người thứ 3 3.482 3.353 10.217 6.300 3.500 4.581 2.Bảo hiểm con người 29.000 31.000 38.947 49.659 57.199 64.134 a.BH kết hợp con người 9.630 10.867 12.399 13.502 14.677 14.211 b.BH TN con người 24/24 1.973 1.546 2.057 2.234 2.997 2.687 c.BH học sinh 9.739 10.702 11.157 14.938 17.012 17.495 d.BH TN hành khách 3.086 3.417 4.934 7.158 6.156 7.634 e.BH TN lái phụ xe và người ngồi trên xe 3.548 3.652 5.941 3.988 3.092 3.672 f.BH du lịch 860 1.349 1.796 3.728 5.705 6.405 3.BH hoả hoạn và rủi ro đặc biệt 7.620 8.670 9.138 10327 10.812 12.686 4.BH xây dựng lắp đặt 5.228 6.542 6.885 7.820 18.694 27.770 5.BH thiết bị điện tử 1.739 2.087 3.928 3.125 3.855 1.701 6.BH trách nhiệm 1.340 1.396 1.412 3.371 4.582 7.369 7.BH tàu biển 3.500 4.300 4.910 7.221 8.370 9.683 8.BH hàng hoá 2.900 5.200 5.655 8.982 9.030 8.197 a.BH hàng nhập khẩu 1.627 1.829 2.182 3.348 3.791 5463 b.BH hàng xuất khẩu 236 1.502 713 497 530 312 c.BH hàng hoá vận chuyển nội địa 1.053 1.859 901 4.520 4.718 2422 ( Nguồn: Bảo Việt Hà Nội) Nhóm nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới Đây là nhóm nghiệp vụ có sự cạnh tranh mạnh, tất cả các doanh nghiệp trên thị trường đều triển khai nghiệp vụ này, đặc biệt các doanh nghiệp mới với quy mô nhỏ chú trọng đến nghiệp vụ này để giành thị phần. Tuy vậy doanh thu của Bảo Việt Hà Nội vẫn tăng đều đặn hàng năm. Năm 2005, doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới của công ty đạt 59,29 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 34% tổng doanh thu. Đến năm 2006,doanh thu là 59.61 tỷ đồng tăng 600 triệu so với 2005. Tỷ lệ tăng đã chậm lại so vơi các năm trước. Kết quả của một số nghiệp vụ chính: Nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô Năm 2005, doanh thu phí đạt 40,12 tỷ đồng tăng 1,46 tỷ đồng, đó là thể hiện sự nỗ lực chung của toàn thể công ty. Nhưng đến năm 2006, doanh thu đạt 39.85 tỷ đồng với trên 6000 đầu xe,giảm so với năm 2005 do tính cạnh tranh tăng cao và năm 2006 có rất nhiều biến động. Công ty đang đề ra nhiệm vụ giữ vững thị phần, giành lại khách hàng lớn, tăng cường mối quan hệ chạt chẽ với các đầu nối khai thác như: phòng trưng bày, trạm đăng kiểm, ngân hàng… Nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe ô tô đối với người thứ 3 Trong 3 năm liên tiếp 2004,2005,2006, số lượng xe khai thác cho nghiệp vụ này khoảng 30.000 xe/ năm nhưng doanh thu có sự chênh lệch: năm 2004 là 14,69 tỷ đồng, năm 2005 tăng thêm 898 tỷ đồng, và năm 2006 doanh thu là 15,18 tỷ đồng. Nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe mô tô đối với người thứ 3 Năm 2005, số xe máy được bảo hiểm khoảng 75.000 xe, bằng khoảng 62% năm 2004, doanh thu là 3,5 tỷ giảm 2,8 tỷ. Năm 2006, số lượng khai thác tăng trở lại với 91.000 xe, doanh thu đạt 4,6 tỷ đồng. Đó là nhờ nắm bắt chủ trương cho đăng lý lại xe máy tại các quận nội thành và tổ chức chương trình khuyến mại, tuy nhiên do tính bát buộc tham gia chưa cao và đa số các phòng chưa chú trọng khai thác nghiệp vụ này, cung công tác tuyên truyền quảng cáo chưa được thường xuyên liên tục nên hiệu quả còn hạn chế. Nhóm nghiệp vụ bảo hiểm con người Đây là nhóm nghiệp vụ đạt doanh thu cao nhất trong toàn công ty năm 2006, doanh thu 64,13 tỷ đồng chiếm 31,67% doanh thu công ty, tăng 7,94 tỷ đồng tương đương 14,13% so với năm 2005. Kết quả một số nghiệp vụ chính: Nghiệp vụ bảo hiểm con người theo mẫu đơn Cologne Re và bảo hiểm sức khoẻ con người mức cao. Nghiệp vụ bảo hiểm con người theo mẫu đơn CologneRe hướng tới khách hàng chủ yếu là người Việt Nam lao động tại châu Âu và Cộng hoà Séc. Đây là nghiệp vụ mới triển khai và có nhiều tiềm năng, doanh thu năm 2006 là 3,8 tỷ đồng gấp 5 lần so với năm 2005 và tỷ lệ bồi thường ở mức thấp 15,75%. Nghiệp vụ bảo hiểm sức khoẻ con người mức cao cũng có doanh thu tăn mạnh, năm 2004: 187 triệu đồng, năm 2005 tăng lên 927 triệu đồng và đến năm 2006 la 4,01 tỷ đồng. Đây cũng là một nghiệp vụ có hiệu quả kinh doanh hấp dẫn với tỷ lệ bồi thường chỉ là 2,83%. Nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp con người và bảo hiểm tai nạn con người 24/24 Số người được bảo hiểm năm 2005 là 150.000 người, tương đương năm 2005. Cả 2 năm 2005,2006, doanh thu nghiệp vụ này đều giảm so với năm trước đó. Nguyên nhân chủ yếu do năm 2004 bảo hiểm cho các vận đọng viên tham dự SEAGAME 23 không tái tục được và do hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ này tương đối thấp nên các phòng chưa chú trọng triển khai. Nghiệp vụ bảo hiểm học sinh Năm 2005, số học sinh được bảo hiểm là 518.000 em tăng 10.000 em so vơi 2004, năm 2006 số lượng này là 520.000 em, doanh thu phí năm 2006 đạt 17,49tỷ đồng, năm 2005 là 17,012 tỷ đồng tăng 15% so với 2004. Kết quả có được do vận động tuyên truyền đến nhà trường và từng bậc phụ huynh học sinh, đồng thời vận động nâng mức trách nhiệm trên mỗi học sinh. Nghiệp vụ bảo hiểm tai nạn hành khách Số hành khách được bảo hiểm năm 2006 đạt gần 12 triệu lượt người, tăng 2triệu người so với 2005, doanh thu 7,63 tỷ đồng tăng trưởng 16,7% tương đương 1 tỷ đồng so với 2005. Công ty tiếp tục giữ được những khách hàng truyền thốngthông qua Tổng công ty Đường sắt Việt Nam và Tổng công ty vận tải Hà Nội, các khách hàng này đã tiếp tục tham gia bảo hiểm cho năm 2007. Nghiệp vụ bảo hiểm tai nạn lái phụ xe và người ngồi trên xe Năm 2005, 210.000 người được bảo hiểm, doanh thu 3,092 tỷ đồng giảm 1 tỷ so với 2004 do số lượng bảo hiểm xe máy giảm. Năm 2006, số người được bảo hiểm là 250.000 người, doanh thu 3,672 tỷ đồng, hơn năm 2005 là 580 triệu đồng. Nghiệp vụ bảo hiểm du lịch Công ty đã kịp thời làm việc với các cơ quan chủ quản trong lĩnh vực du lịch, cung cấp danh sách các tổ chức du lịch trên địa bàn, từ đó tiếp cận và khai thác tốt. Trong năm 2005, 2006, số lượng người được bảo hiểm tăng đáng kể, doanh thu năm 2005 là 5,705 tỷ đồng tăng 57% tương đương 2 tỷ so với 2004; năm 2006 đạt 6,405 tỷ đồng tăng 700 triệu đồng , bằng 112% so với năm 2005. Nhóm nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn, xây lắp, tài sản và trách nhiệm Nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt Doanh thu năm 2006 đạt 12,686 tỷ đồng tăng trưởng 1,874 tỷ. Trong năm , công ty đã duy trìtái tục các đơn bảo hiểm cháy, cấp 429 đơn, khai thác mới 36 đơn. Công ty cũng phối hợp công an PCCC, thực hiện tuyên truyền công tác quản lý rủi ro và bảo hiểm cháy đến hơn 300 doanh nghiệp tại 3 quận Cầu Giấy, Từ Liêm, Tây Hồ. Nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt Năm 2005, doanh thu đạt 18,694 tỷ đồng, tăng 11 tỷ so với 2004. Năm 2006, doanh thu là 27,77 tỷ đồng tăng 9 tỷ so với năm 2005. Đây là kết quả của quá trình khai thác trong nhiều năm qua với các dự án lớn như: trung tâm Hội nghị Quốc gia, cầu Thanh trì, cầu Vĩnh tuy, nhà máy đạm đình Vũ Hải Phòng, nhà máy bia Củ Chi… Nghiệp vụ bảo hiểm thiết bị điện tử Doanh thu năm 2005 là 3,855 tỷ đồng tăng 798 triệu đồng so với 2004, nhưng năm 2006 doanh thu chỉ đạt 1,701 tỷ đồng, giảm đáng kể. khách hàng chủ yếu tham gia loại hình này là bưu điện. Năm 2007, công ty tổ chức lại nghiệp vụ này để tăng hiệu quả kinh doanh. Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm Đây là loại hình bhj đạt hiệu quả cao doanh thu liên tục tăn trưỏng qua các năm. đến năm 2006, doanh thu là 7,36 tỷ đồng, tăng 2,43 tỷ so với năm 2005. Các nghiệp vụ đều được chú ý triển khai đặc biệt là BHTN kỹ sư tư vấn thiết kế. Trong thời gian qua, việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật của công ty còn nhiều hạn chế do nghiệp vụ này đòi hỏi lãnh đạo và cán bộ khai thác không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, năms vững diều khoản, nắm vững rủi ro từng đối tượng bảo hiểm nên các phòng còn ngại và lúng túng.Năm 2006, Chính phủ đã thông qua nghị định 130/NĐ-CP về việc bảo hiểm cháy bắt buộc là điều kiện tốt cho thị trường bảo hiểm nói chung và công ty nói riêng. Do đó phòng bảo hiểm Rủi ro-Kỹ thuật và bảo hiểm Cháy cần kết hợp chặt chẽ với các phòng trên địa bàn quận huyện để tổ chức tốt công tác bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, tập trung khai thác các đầu mối quan trọng để triển khai hiệu quả nhóm nghiệp vụ này. Nhóm nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải Doanh thu nhóm nghiệp vụ này đạt 20 tỷ đồng tăng 1,7 tỷ so với năm 2005. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, giữ vững được thị trường thể hiện sự nỗ lực của công ty nói chung và các phòng quản lý nghiệp vụ nói riêng. Tuy nhiên công ty vẫn cần chú ý hơn nữa việc quản lý khách hàng và việc triển khai nhóm nghiệp vụ này. Nghiệp vụ bảo hiểm tàu biển Trong năm 2006,công ty đã khai thác cả bảo hiểm thân tàu và P&I, doanh thu đạt 9,68 tỷ đồng. Bên cạnh đó được sự chỉ đạo của Tổng công ty, Bảo Việt Hà Nội đã nghiên cứu và triển khai nghiệp vụ bảo hiểm đóng tàu bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá Doanh thu năm 2005 đạt 9,03 tỷ đồng tương đương mức doanh thu năm 2004; đến năm 2006 doanh thu chỉ đạt 8,19 tỷ đồng giảm 840 triệu đồng so với năm 2005, trong đó: _ Bảo hiểm hàng hoá nhập khẩu: doanh thu phí là 5,46 tỷ đồng tăng1,6 tỷ nhờ công ty tiếp tục duy trì các khách hàng lớn. _ Bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu: doanh thu đạt 312 triệu đồng giảm 218 triệu đồng, nguyên nhân chính do tại địa bàn Hà Nội nghiệp vụ này bị chia sẻ thị trường với các công ty khác. _ Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển nội địa: doanh thu 2,42 tỷ đồng giảm 2,29 tỷ, nguyên nhân do tình hình cạnh tranh gay gắt, khách hàng tổ chức đấu thầu bảo hiểm dẫn đến phí giảm, bị mất một số khách hàng lớn vào tay đối thủ. Qua các năm, nhìn chung doanh thu của tất cả cả nghiệp vụ đều tăng, góp phần vào sự phát triển chung của toàn công ty. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại khiến doanh thu một số nghiệp vụ giảm trong 2 năm 2005, 2006, vì vậy trong công tác khai thác các phòng cần chú ý khắc phục: _Các phòng cần quan tâm công tác quản lý khách hàng, phân công theo dõi khách hàng, hợp đồng tái tục, cần năng động, nhanh nhạy trước tình hình thị trường. Từ đó duy trì tái tục hợp đồng với tỷ lệ cao,giữ v._.ông ty • Tất cả các văn phòng của công ty đều được trang bị những thiết bị hiện đại, hệ thống máy vi tính nối mạng thuận tiện cho việc trao đổi thông tin giữa khách hàng với công ty .Nội bộ công ty về cơ bản đoàn kết thống nhất, tập trung vào công việc, tập thể người lao động ngày càng lớn mạnh và trưởng thành. •. Hoạt động của công ty diễn ra trên địa bàn đông dân cư, kinh tế mạnh, đời sống dân trí cao nên nhu cầu về bảo hiểm cũng lớn •. Sự lãnh đạo đúng đắn của tập thể chi bộ, xác định đúng hướng đi của từng giai đoạn, từng thời kỳ đã đưa công ty ngày càng một vững chắc trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm . Lãnh đạo công ty đã nhanh chóng nắm bắt tình hình chủ động khẩn trương triển khai kịp thời nội quy, biện pháp có hiệu quả nhất nhằm tăng doanh thu trong từng tháng, từng quý • Sự cố gắng vươn lên của toàn thể cán bộ công nhân viên, sự đoàn kết nhất trí giữa các phòng, ban và đồng nghiệp tạo nên một động lực to lớn, thúc đẩy phong trào thi đua trong công ty một cách liên tục làm cho hiệu quả hoạt động phát triển. • Được sự chỉ đạo sát sao của tổng công ty, sự ủng hộ giúp đỡ của các tổ chức đoàn thể, chính quyền. Đặc biệt là uy tín của công ty, sự gắn bó của khách hàng truyền thống, sự tín nhiệm của khách hàng mới đã tạo điều kiện giúp đỡ công ty hoàn thành tốt nhiệm vụ triển khai công tác bảo hiểm trên địa bàn thủ đô được sâu rộng . • Hơn nữa việc thay đổi cơ cấu tổ chức của công ty từ những năm 1994 – 1995 đã đem lại hiệu quả trong quản lý kinh tế. Chuyên môn hoá cao hơn, chặt chẽ hơn, chặt chẽ hơn, thêm vào đó công ty mở rộng địa bàn xuống khắp quận huyện, đội ngũ đại lý cộng tác viên đông đảo có định hướng đã tạo điều kiện tốt cho triển khai công tác bảo hiểm nói chung và nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới nói riêng. • Trên thương trường cạnh tranh, Bảo Việt luôn chủ động đến với khách hàng bằng những việc làm thiết thực, hỗ trợ khách hàng sớm vượt qua hoạn nạn, khó khăn . b. Khó khăn. Với những nỗ lực hết mình của Ban lãnh đạo cũng như toàn thể nhân viên trong công ty, những năm qua, Bảo Việt thật sự đã thành công trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đặc biệt là năm 2006 .Tuy nhiên, kinh doanh không phải lúc nào cũng thuận lợi, ta hãy điểm qua những khó khăn trước mắt, hoạt động kinh doanh của Bảo Việt Hà Nội cũng gặp nhiều khó khăn : • Tình hình cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm mà cụ thể là thị trường bảo hiểm tại Hà Nội hết sức quyết liệt. Số lượng các công ty bảo hiểm hiện nay là lớn, sức ép cạnh tranh không chỉ đến từ các công ty bảo hiểm phi nhân thọ mà ngay cả hoạt động của những công ty bảo hiểm nhân thọ cũng ảnh hưởng nhất định trong phương thức quản lý, kết quả kinh doanh. Sự cạnh tranh khiến hoạt động của các công ty bảo hiểm trong đo có Bảo Việt Hà Nội, một mặt phải đảm bảo theo đúng kỹ thuật bảo hiểm, mặt khác phải tích cực quan tâm đến những yếu tố thương mại trong sản phẩm, trong cách thức triển khai sản phẩm và cách thức trả tiền bảo hiểm hay trả tiền bồi thường • Ngoài việc phải đối đầu với các đối thủ cạnh tranh công ty còn phải chịu nhiều áp lực từ phía khách hàng .Lớp khách hàng khó tính, hiểu biết về bảo hiểm tại thủ đô cho phép tiếp cận và triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm trong dân chúng được thuận lợi hơn, cũng như đòi hỏi công ty luôn phải có những chính sách khách hàng phải phù hợp và hiệu quả (Quán triệt định hướng kinh doanh năm 2007 của tổng công ty “ tăng trưởng đổi mới, hiệu quả”, xác định những thuận lợi và thách thức, công ty đề ra mục tiêu cơ bản cho năm 2007). • Các công ty bảo hiểm Việt Nam còn phải cạnh tranh với các công ty bảo hiểm nước ngoài. Khách quan phải khẳng định rằng, các công ty bảo hiểm nước ngoài có nhiều điểm mạnh như : Nguồn lực tài chính dồi dào, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, phong cách làm việc hiệu quả và đặc biệt là cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý gọn nhẹ, chặt chẽ ....Như chúng ta đã biết, phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới cao hơn nhiều so với phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với ô tô thông thường khoảng từ 160.000đ – 400.000 đ tuỳ từng loại xe và tuỳ từng hạn mức trách nhiệm tham gia, trong khi đó phí bảo hiểm vật chất xe (bảo hiểm toàn bộ) trung bình khoảng 3 triệu đồng một xe nếu là xe mới và bảo hiểm vật chất xe cơ giới chủ yếu thu được từ các tổ chức doanh nghiệp. Song, một thực tế cho thấy các doanh nghiệp nước ngoài có nhu cầu bảo hiểm cao và thường muốn tham gia tại các công ty bảo hiểm nước ngoài . Đây là một khó khăn lớn đối với các công ty bảo hiểm trong nước • Một khó khăn nữa mà Bảo Việt Hà Nội gặp phải khi triển khai kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô đó là một số công ty bảo hiểm cạnh tranh thiếu lành mạnh như giảm phí bừa bãi để tranh giành khách hàng.Mức phí chung là do Bộ Tài chính quy định song do mục tiêu muốn lôi kéo thật nhiều khách hàng về phía mình mà các công ty tuỳ tiện giảm phí xuống đến mức nguy hiểm, gây rủi ro cho khách hàng và công ty . Phương hướng hoạt động năm 2007. Tình hình chung trên địa bàn Hà Nội Trong thời gian tới đây, nền kinh tế cả nước và thủ đô tiếp tục phát triển với mức tăng trưởng cao, xấp xỉ 9%. Mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm sẽ ngày càng mạnh mẽ hơn, đặc biệt là tại thủ đô Hà Nội. Định hướng phát triển chung của Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2006-2010 “ Phát triển Bảo Việt thành một tập đoàn tài chính đa ngành, đứng đầu trong lĩnh vực Bảo hiểm cũng như đầu tư tài chính tại Việt Nam trong các lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ, đầu tư tài chính, kinh doanh chứng khoán và các dịch vụ tài chính khác; có trình độ và sức cạnh tranh quốc tế với phương châm: Tăng trưởng, Hiệu quả và Phát triển bền vững”. Định hướng và chỉ tiêu kinh doanh năm 2007 Quán triệt định hướng kinh doanh “Đổi mới- tăng trưởng- hiệu quả”, xác định được những thuận lợi và khó khăn thách thức, công ty đề ra mục tiêu cơ bản cho năm 2007 như sau: + Doanh thu phấn đấu: 218 tỷ đồng; + Hiệu quả đạt: 36,5 tỷ đồng; + Thu nhập bình quân đầu người tăng 7%. Định hướng chung : Tiếp tục ưu tiên cho tăng trưởng cao về doanh thu và mở rộng về thị phần bằng cách tiếp tục nâng cao chất lượng dịch vụ, làm nổi bật thương hiệu không chỉ nổi bật ở thị trường trong nước, trên khu vực mà trên cả thế giới. Năm 2007, Bảo Việt Hà Nội dự tính daon thu đạt 218 tỷ đồng, tăng hơn 50% so với năm 2006 , tăng doanh thhu ở tất cả các nghiệp vụ, đồng thời tập trung vào các nghiệp vụ truyền thống : Bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tai nạn con người,bảo hiểm trách nhiệm hang hoá …. Không chỉ chú trọng vào việc tăng doanh thu mà khâu giải quyết bồi thường cho khách hang phải đảm bảo nhanh chóng thoả đáng tạo cảm giác dễ chịu cho khách hang khi tham gia bảo hiểm . Cùng với sự phát triển vững mạnh trên thị trường tài chính, Bảo Việt đang từng bước hoàn thiện và phát triển trong các lĩnh vực tài chính khác như : Ngân hàng, chứng khoán ….Hiện nay sàn giao dịch chứng khoán của Bảo Việt đang hoạt động rất sôi động và hiệu quả . Trong tương lai gần Ngân hang Bảo Việt sẽ ra đời và hoạt động cạnh tranh cùng với các ngân hang lâu năm có vị thế trên thị trường tài chính của Việt Nam. … Trong tương lai lãnh đạo đã có chiến lược và giải pháp rõ ràng để đưa Bảo Việt trở thành một tập đoàn công ty tài chính vững mạnh không chỉ mang tầm vóc quốc gia mà còn cạnh tranh trên trong môi trường hội nhập quốc tế hoàn toàn. III . Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô. 1. Đối với Nhà nước và các ngành có liên quan. • Do thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng phát triển với sự gia nhập ngày càng nhiều các công ty bảo hiểm, đặc bịêt khi Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO,một nền kinh tế với sự tự do cạnh tranh và cạnh tranh gay gắt. Do vậy đòi hỏi hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải có sự năng động linh hoạt trong tất cả các khâu công việc, chiếm lĩnh thị trường là mục tiêu đặt lên hang đầu của mọi doanh nghiệp .Do đó diễn ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh .Nhà nước cần phải tạo ra hành lang pháp lý để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. • Nhà nước có văn bản quy định xử phạt nghiêm khắc với những công ty, đại lý vi phạm luật kinh doanh bảo hiểm. Đặc biệt là tình trạng giảm phí bảo hiểm một cách tuỳ tiện, bất chấp khung phí quy định của Bộ tài chính.Về nguyên tắc thì công ty bảo hiểm chỉ giảm phí trong các trường hợp: chủ xe tham gia bảo hiểm với số lượng đầu xe lớn , trong quá trình tham gia bảo hiểm tại công ty bảo hiểm không có khiếu nại phải bồi thường. Song một thực tế cho thấy, khi tham gia bảo hiểm vật chất xe với số lượng lớn thì ngoài phần giảm phí, chủ xe vẫn nhận được tiền hoa hồng mà hoa hồng chỉ được phép chi cho các đại lý.Làm như vậy là để lôi kéo khách hang, tham gia bảo hiểm tại công ty mình. Bộ tài chính nên thành lập một Ban thanh tra không thường xuyên về bảo hiểm để phát hiện và xử lý nghiêm những vi phạm này và những thành viên của Ban thanh tra không được có những mối quan hệ với công ty bảo hiểm. Có như vậy mới đảm bảo được môi trường kinh doanh lành mạnh giữa các công ty bảo hiểm. • Kiến nghị với các ngành có liên quan để giảm thiểu tai nạn giao thông đường bộ • Các cơ quan quản lý giao thông vận tải phải có biện pháp quản lý chặt chẽ hơn nữa công tác đăng ký và cấp giấy phép lưu hành xe. Tiến hành bảo dưỡng và khám định kỳ để loại bỏ các xe quá niên hạn sử dụng, xe không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải. Ngoài ra, cần xử lý triệt để các xe thô sơ , xe quá vận tải vi phạm. Đây là những nguồn rủi ro lớn cho các công ty kinh doanh bảo hiểm và là mối đe doạ lớn với người dân khi tham gia giao thông • Tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, cụ thể là tích cực xây mới thêm nhiều đường xá, cầu cống đảm bảo chất lượng để phù hợp với sự phát triển của các phương tiện giao thông . Đặc biệt ưu tiên phát triển tại các thành phố, thị xã nơi có đông người qua lại …….. • Các công ty bảo hiểm trong nước cần tăng cường hơn nữa hợp tác giữa các công ty bảo hiểm thông qua Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, thông qua việc đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm các hợp đồng bảo hiểm lớn, từ đó hạn chế được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh và giảm thiểu việc chuyển dịch phí bảo hiểm ra nước ngoà 2. Đối với Bảo Việt Hà Nội . 2.1.Công tác khai thác. Cũng giống như các nghiệp vụ bảo hiểm khác khâu khai thác luôn là khâu đầu tiên quan trọng nhất bởi nó sẽ quyết định kết quả kinh doanh của nghiệp vụ . Song không giống như một số loại hình bảo hiểm trách nhiệm , ví dụ như bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là loại hình bảo hiểm bắt buộc, các chủ xe , khách hang tự tìm đến công ty bảo hiểm để tham gia bảo hiểm , ít cần tới nỗ lực khai thác của các nhân viên khai thác. Còn bảo hiểm vật chất xe ô tô là loại hình bảo hiểm được thực hiện dưới hình thức tự nguyện, hầu hết các chủ xe cũng đều muốn tham gia bảo hiểm cho chiếc xe của mình nhưng thực sự họ vẫn chưa hiểu rõ về nghiệp vụ này vì họ không tự tìm đến các công ty bảo hiểm. Do vậy để thuyết phục càng nhiều khách hang tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt Hà Nội, công ty cần đẩy mạnh hơn nữa công tác khai thác . _ Chú trọng nghiên cứu thị trường, tập trung khai thác khách hàng tiềm năng, c¸c phòng cần quan tâm khai thác đồng đều nhiều loại hình bảo hiểm. _ Nghiên cứu khai thác có hiệu quả nhóm khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhóm khách hàng dân cư. _ Sắp xếp tổ chức lại hệ thống đại lý toàn công ty để theo dõi, quản lý và phát triển theo hướng chuyên nghiệp hoá. Củng cố mạng lưới đại lý tổ chức như: Thuế, Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng, Công ty thuê mua Tài chính, Đội PCCC trên các quận huyện, các Ban quản lý khu Công nghiệp. _ Mở rộng mối quan hệ đối với các công ty Môi giới và công ty Bảo hiểm nước ngoài để khai thác tốt nghiệp vụ. _ Chú trọng công tác chăm sóc khách hàng, đặt biệt khách hàng lớn các ban ngành Trung ương, địa phương, các Tổng công ty. Nâng cao chất lượng dịch vụ trước và sau bán hàng Với phương châm hành động là cung cấp được bảo hiểm chất lượng là nền tảng cho năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững, năm 2007, công ty cần chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ trước và sau bán hàng, cụ thể như sau: _ Luôn năng động, sáng tạo tìm hiểu thị trường, tư vấn cho khách hàng tham gia nhiều loại hình bảo hiểm phù hợp nhất với nhu cầu và điều kiện của khách hàng trên tinh thần hợp tác cùng có lợi. _ Duy trì và củng cố chế độ trực 24/24h; phân công lao động hợp lý, thực hiện chuyên môn hoá sâu công việc; phố hợp chặt chẽ giữa các khâu, các bộ phận giám định-bồi thường, kế toán, pháp chế… để đảm bảo thời gian giải quyết bồi thường đúng quy định của công ty. _ Cần thực sự đổi mới về tư duy và hành động để phục vụ khách hàng chu đáo, tận tình. Đây là yếu tố then chốt để xây dựng và củng cố hình ảnh của công ty. _ Rà soát lại hệ thống biểu mẫu, ấn chỉ nghiệp vụ liên quan đến công tác giám định-bồi thường; phối hợp với các phòng chức năng liên quan nhằm tăng cường công tác quản lý ( bao gồm quản lý nghiệp vụ và quản lý Tài chính) để ngăn chặn trục lợi bảo hiểm. _ Công tác khai thác là nhiệm vụ của các khai thác viên. Do vậy, ngay từ đầu công ty cần tuyển chọn những đại lý có năng lực, có trình độ và tư cách phẩm chất tốt .Những đại lý có năng lực, có trình độ và có tư cách phẩm chất tốt. Những đại lý thực sự có ích phải là người luôn năng động, tự tin,luôn ý thức làm giàu bằng năng lực của mình, thành thục với những thao tác nghiệp vụ và coi những sự phản ứng từ phía khách hàng là thách thức với mình.Việc tuyển chọn tốt sẽ giảm được sự biến động nhân sự và tìm được cơ hội thành công cho những người có tâm huyết với ngành bảo hiểm. - Công ty cần phải xây dựng chương trình đào tạo đại lý thành thục kỹ năng thao tác nghiệp vụ, có trình độ chyên môn chứ không phải đơn giản là bán bảo hiểm. Thực tế cho thấy, nhiều nhân viên khai thác khi chủ xe yêu cầu giải thích các thắc mắc thì lại giải thích sai, không đầy đủ, không rõ ràng. Ngoài ra, cũng cần trang bị cho đại lý những kiến thức lý luận cần thiết về bảo hiểm và nghệ thuật bán hàng. Trong khi giải thích về sản phẩm với khách hàng, đại lý cần có những thủ thuật khuếch trương ưu điểm của sản phẩm, thanh thế của công ty và biết so sánh sản phẩm cuả công ty với các đối thủ cạnh tranh để thấy được ưu thế của mình. - Một đặc điểm quạn trọng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới là được tiếp tục theo định kỳ ( thường là 2 năm) . Song không giống như bảo hiểm nhân thọ là giữa các công ty và khách hàng thường xuyên gặp gỡ, thuận tiện cho việc chăm sóc khách hàng thì trong nghiệp vụ này nếu không có tai nạn xảy ra trong thời gian trên giữa công ty và khách hàng bít tiếp xúc với nhau. Vì vậy hệ thống sổ sách thống kê về khách hàng phải luôn được coi trọng để khai thác viên căn cứ vào đó luôn bám sát được khách hàng, đặc biệt là những khách hàng truyền thống tái tục và thu phí kịp thời. Do chi phí để ký kết hợp đồng cao hơn chi phí cho việc tái tục hợp đồng. Đối với những khách hàng có thời gian tham gia lâu , số đầu xe nhiều, giá trị lớn khi tái tục hợp đồng có thể tính toán để giảm phí và rất có thể trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì công ty khác sẽ thu hút mất khách hàng cũ của công ty. - Phải thường xuyên tổng hợp thông tin thị trường, thông tin về đối thủ cạnh tranh từ đó xây dựng chiến lược cho phù hợp . Hàng năm phải thống kê tương đối chính xác số xe thực tế lưu hành thông qua phòng cảnh sát giao thông và bộ phận đăng kiểm. Có như vậy mới xác định được số xe tham gia bảo hiểm tại công ty chiếm bao nhiêu % trong tổng số xe đang lưu hành, từ đó đề ra mục tiêu khai thác với những khách hàng còn lại chưa tham gia bảo hiểm . - Trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ và khoa học kỹ thuật phát triển hiện nay ....quảng cáo trên internet cũng là những phương tiện biện pháp phổ biến mà hiện nay các công ty thường áp dụng. Ngoài ra cần bổ sung nhiều thông tin cần thiết, mang tính cập nhật tại các nút giao thông cần thiết tại các nút giao thông quan trọng như ngã 3, ngã 4, đường vào thành phố , mở rộng cả tại các tỉnh lẻ, thị xã, huyện cần đặt thêm nhiều biển quảng cáo thật ấn tượng để thu hút sự chú ý của các chủ phương tiện. - Đối với đội ngũ cán bộ đại lý, cộng tác viên của Bảo Việt Hà Nội, ngoài số hoa hồng phải thanh toán, phải khuyến khích họ khai thác thận trọng hơn, không chạy theo daonh thu mà khai thác những xe đã quá thời hạn sử dụng hoặc xác định không chính xác gía trị xe khi tham gia bảo hiểm hoặc cấu kết với chủ xe nhằm trục lợi bảo hiểm. Khen thưởng khuyến khích vật chất với các khai thác viên giỏi đồng thời quy trách nhiệm vật chất với những hành vi vi phạm hợp đồng đại lý . 2.2.Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất - Làm tốt công tác này, trước hết phải mang lợi ích cho toàn xã hội . Đó là góp phần giảm thiểu được số vụ tai nạn giao thông xảy ra, đồng thời giảm số tiền chi phí bồi thường, từ đó tăng thêm lợi nhuận cho công ty.Công ty muốn thực hiện tốt công tác này phải có sự phối hợp của các chủ xe và các ngành có liên quan. - Công ty cần tích cực phối hợp với cảnh sát giao thông để tổ chức các đợt tuyên truyền pháp luật về trật tự an toàn giao thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các biển báo......giúp mỗi người dân hiểu rõ về luật lệ an toàn giao thông .Từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm , thận trọng hơn khi tham gia giao thông. - Cần thường xuyên phối hợp với các ngành có liên quan như cảnh sát giao thông, các trạm đăng kiểm để kiểm tra định kỳ chất lượng của các xe đang tham gia bảo hiểm tại công ty. Nếu không đảm bảo chất lượng cũng như độ an toàn để tiếp tục tham gia giao thông cần phải ngừng hoạt động nếu không ảnh hưởng đến bản thân chủ xe. tăng chi bồi thường cho công ty mà còn rủi ro cho các thành viên khác khi thma gia giao thông - Công ty cần kiến nghị với ngành giao thông công chính thường xuyên quan tâm chỉ đạo việc sửa chữa đường xá, cầu cống. - Cần phải tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tai nạn và những biện pháp hạn chế ảnh hưởng của nguyên nhân đó sau đó tiến hành tư vấn cho khách hàng. Điều này có tác dụng nâng cao tinh thần cảnh giác của lái xe, hạn chế đến mức thấp nhất các tai nạn có thể xảy ra . - Tăng thêm chi phí cho đề phòng và hạn chế tổn thất. - Với những đoạn đường nguy hiểm có thể làm đường lánh nạn, gương cầu .... để hạn chế tai nạn. Thành lập thêm những trạm cấp cứu giao thông thường trực 24/24 tai nạn các đoạn đường có lượng xe lưu thông.Biện pháp này Công ty có thể phối cùng thực hiện với Công ty bảo hiểm khác để tránh quá tốn kém chi phí. - Thực hiện các cuộc nghiên cứu, điều tra về nguyên nhân tai nạn mức độ thiệt hại trong từng trường hợp sau đó có tư vấn cho khách hàng lý do tia nạn có liên quan đến xe của họ và làm thế nào để tổ chức có hệ thống lái xe an toàn. Phát hành những cuốn sách nhỏ về lái xe an toàn ... - Áp dụng hệ thống ước tính chi phí sửa chữa bằng máy vi tính. Để giải quyết bồi thường hiệu quả và hợp lý hơn phòng có kiến nghị Công ty trang bị thêm hệ thống xử lý dữ liệu cần thiết.Việc ước tính chi phí sửa chữa có thể được tự động tính ngay sau khi cần thiết.Việc ước tính chi phí sửa chữa có thể được tự động tính ngay sau khi những số liệu yêu cầu được truy cập vào máy tính. 2.3.Công tác giám định - Để có sự thống nhất trong quy trình giám định bồi thường vật chất xe cơ giới trong tất cả các thành viên của Bảo Việt , Tổng Công ty đã ban hành 2 văn bản hướng dẫn công tác giám định bồi thường vật chất xe cơ giới ( số 1209/ PHH1 – 97 và số D- B4 – 02- 01 ).Các văn bản này đã cụ thể hoá các bước thực hiện của từng khâu giám định bồi thường, nó đã được đơngiản hoá tối đa về mặt nội dung và ngôn ngữ sao cho phù hợp, dễ hiểu và dễ áp dụng nhất.Mặc dù vậy những ngôn ngữ trong ngành đôi khi không phải là dễ hiểu ngay cả đối với những nhà bảo hiểm, những thuật ngữ mang tính chuyên ngành cao càng khó hiểu đối với công chúng. Chính vì vậy trên cơ sở những nội dung cơ bản, những trình tự không thể bỏ qua, cán bộ của phòng có thể cụ thể hoá hơn nữa các bước, ngôn ngữ sao cho dễ hiểu nhất.Tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ giám định bồi thường và cán bộ hướng dẫn khách hàng các bước từ thu thập hồ sơ đến việc khiếu nại bồi thường. Qua quá trình làm sáng tỏ hơn về ý nghĩa của từng thuật ngữ , phòng có thể họp và đưa ra y kiến đề xuất đến Tổng Công ty về những thuật ngữ đã được đơn giản xem xét và nếu phù hợp sẽ được áp dụng rộng rãi đối với tất cả các Công ty thành viên tạo sự thống nhất từ trên xuống. - Khi tai nạn xảy ra, chủ xe luôn muốn được giải quyết bồi thường kịp thời và nhanh chóng thoả đáng . - Khi tai nạn xảy ra, chủ xe luôn muốn được giải quyết bồi thường kịp thời nhanh chóng và thoả đáng . Trước hết giám định viên của công ty cần phối hợp chặt chẽ với lái xe và cảnh sát giao thông để nắm bắt được thông tin khi có tai nạn xảy ra - Khi có tai nạn giao thông xảy ra, để tránh ách tắc cần phải giám định trực tiếp nagy sau khi có tai nạn giao thông xảy ra tránh hiện tượng trục lợi bảo hiểm..Nếu tai nạn xảy ra quá xa, giám định viên của công ty không thể đến ngay được nên cũng có thể thuê gián định viên của công ty bảo hiểm địa phương , sau đó xuống cùng phối hợp giải quyết . - Cần đầu tư trang thiết bị hiện đại và cần thiết như phương tiện đi lại . máy ảnh, điện thoại di động ...cho giám định viên để đảm bảo qúa trình giám định được đầy đủ, chính xác Trong quá trình giám định viên , giám định viên cần hướng dẫn cho khách hàng các thủ tục cần thiết để nhận được tiền bồi thường một cách cụ thể , tránh cho khách hàng phải đi lại nhiều lần, tạo tâm lý thoải mái cho người không may gặp rủi ro - Công ty cần thường xuyên tổ chức đào tạo , bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ của các giám định viên. 2.4. Công tác bồi thường. - Chất lượng của công tác bồi thường thể hiện chất lượng của sản phẩm bảo hiểm, tạo uy tín cho công ty và lòng tin cho khách hàng. Do vậy công tác bồi thường cần phải đảm bảo nhan chóng, chính xác thoả đáng. Trước hết, cần phải hướng dẫn chi tiết cụ thể cho chủ xe trong việc cung cấp đầy đủ các chứng từ có liên quan đến vụ tai nạn giao thông để đảm bảo giải quyết bồi thường nhanh vì thực tế đa số các vụ tồn đọng chưa giải quyết do không cung cấp đủ giấy tờ Đối với những vụ tai nạn đơn giản, tổn thất nhỏ công ty cần cố gắng bồi thường tại chỗ . - Đơn giản hoá thủ tục bồi thường , tránh gây khó dễ và phiền hà cho chủ xe. - Công ty nên xây dựng và phân cấp bồi thường cho các văn phòng , cho các đơn vị trực thuộc nhằm tạo ra mối quan hệ chặt chẽ về pháp lý, chế độ tài chính theo điều khoản bảo hiểm. Nên quy định cho các phong giải quyết bồi thường cho những vụ tai nạn nhỏ. Thường xuyên kiểm tra, thanh tra tình hình xét duyệt cho các đon vị trực thuộc. - Đặc biệt đối với những xe đã khấu hao hết nhưng vẫn còn gía trị sử dụng và vẫn sử dụng được , công ty có thể tăng phí và đặt ra mức miễn thường đối với những nhà bảo hiểm. - Đối với công tác giám định bồi thường hàng năm mở các lớp bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho cho cán bộ giám định bồi thường . Tuyên truyền và nâng cao ý thức của người làm bảo hiểm tránh những sai sót từ phía cán bộ giám định bồi thường. - Tổ chức hội nghị tổng kết công tác giám định bồi thường trong tất cả các Công ty thành viên từ đó thấy được những ưu điểm chưa và đã làm được để rút kinh nghiệm cho những năm tiếp theo ( dành cho công ty bảo hiểm Việt Nam ) - Có chế độ khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh đối với người vi phạm . 2.5. Đối với hiện tượng trục lợi. - Như chúng ta đã biết , trục lợi bảo hiểm là hành vi gian lận của người tham gia bảo hiểm nhằm chiếm đoạt một số tiền từ doanh nghiêpj bảo hiểm mà đáng lý ra họ không được hưởng. Hậu quả của trục lợi bảo hiểm là làm giảm lợinhuận, hiệu quả kinh doanh bị hạn chế thậm chí còn tác động xấu đến uy tín của công và ảnh hưởng đến quyền lợi của những khách hàng chân chính. Do vậy việc phòng chống trục lợi bảo hiểm được Bảo việt Hà Nội hết sức coi trọng . - Công ty phải tổ chức các đầu mối quản lý , theo dõi và kiểm tra chặt chẽ các cán bô, đại lý và các cộng tác viên khai thác bảo hiểm .Một mặt, phải nhắc nhở họ thực hiện đúng chức năng , nhiệm vụ quyền hạn, mặt khác phải đề ra quy chế quản lý phù hợp như : + Phí bảo hiểm thu được trong ngày , cuối ngày phải nộp giấy chứng nhận bảo hiểm cấp trong ngày .Phải thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm vào cuối ngày. + Trước khi cấp đơn bảo hiểm vật chất xe, cán bộ khai thác cần kiểm tra giấy tờ xe, bằng lái, giá trị thực tế của xe đặc biệt là đăng ký ở địa phương khác Khi cấp giấy chứng nhận phải ghi đầy đủ, ngày giờ bắt đầu và hết hiệu lực hợp đồng, nghiêm cấm bán lùi ngày và nghiêm khắc xử lý trong trường hợp người bán tiếp tay cho chủ xe. + Quá trình giám định bồi thường, chi trả tiền bảo hiểm phải được thực hiện đúng nguyên tắc và trình tự mỗi khâu. + Nếu thấy nghi ngờ một loại giấy tờ nào đó không rõ về thời gian, không gian trong các vụ tai nạn cần xác minh lại ngay.Nếu thấy cần thiết phải báo ngay để công ty tổ chức điều tra và xác minh rõ .Ngoài phương án điều tra độc lập cần tranh thủ sự giúp đỡ của các bên có liên quan như : Chính quyền địa phương , công an, bác sĩ và người làm chứng.... + Nếu đã phát hiện ra có sự gian lận,cần phải theo dõi chặt chẽ đối tượng, tổ chức điều tra xác minh và nhờ các cơ quan chức năng can thiệp, cụ thể tập trung vào những đối tượng sau: Những người tham gia bảo hiểm ở nhiều công ty khác , tai nạn xảy ra gần với ngày ký hợp đồng hoặc tai nạn xảy ra ngay sau khách hàng mua bảo hiểm với số tiền lớn. hoặc số vụ tai nạn tăng cùng một địa điểm rồi số vụ tai nạn xảy ra cùng một nguyên nhân ...... + Quan tâm giáo dục ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật trong tất cả các khâu công việc do cán bộ nhân viên, kể cả đại lý và cộng tác viên. Kích thích vật chất, nâng cao trách nhiệm cụ thể đối với việc phát hiện trục lợi từ chối bồi thường. Kỷ luật và phạt vật chất đối với việc để khách hàng trục lợi cho từng công việc cụ thể . Tuy nhiên việc theo dõi phòng chống gian lận bảo hiểm không làm ảnh hưởng đến công việc khác trong hoạt động kinh daonh .Nhất là không được chậm trễ trong quá trình thanh toán tiền bảo hiểm cho khách hàng là người trung thực. Ngoài những biện pháp kể trên , để nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ bảo hiểm cần kể đến : . Công ty cần nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ , thoả mãn tốt những yêu cầu của khách hàng, đây có thể nói là yếu tố quan trọng nhất để tạo nên uy tín của công ty. Công ty cần chú trọng đầu tư, áp dụng công nghệ mới trong quản lý và kinh daonh bảo hiểm . Công ty cần tìm mọi cách tiết kiệm chi phí để hạ phí, thúc đẩy khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty nhiều hơn nhưng vẫn đảm bảo chất lượng dịch vụ và lợi nhuận thu được tương đối ổn định . Công ty cần tiếp tục đổi mới hệ thống tiền lương, tiền thưởng. Bởi đây chính là động lực kinh tế giúp cho các thành viên của công ty hoàn thành xuất sắc công việc của mình. - Với những đoạn đường nguy hiểm có thể làm đường lánh nạn, gương cầu .... để hạn chế tai nạn. Thành lập thêm những trạm cấp cứu giao thông thường trực 24/24 tai nạn các đoạn đường có lượng xe lưu thông.Biện pháp này Công ty có thể phối cùng thực hiện với Công ty bảo hiểm khác để tránh quá tốn kém chi phí. - Thực hiện các cuộc nghiên cứu, điều tra về nguyên nhân tai nạn mức độ thiệt hại trong từng trường hợp sau đó có tư vấn cho khách hàng lý do tia nạn có liên quan đến xe của họ và làm thế nào để tổ chức có hệ thống lái xe an toàn. Phát hành những cuốn sách nhỏ về lái xe an toàn ... - Áp dụng hệ thống ước tính chi phí sửa chữa bằng máy vi tính. Để giải quyết bồi thường hiệu quả và hợp lý hơn phòng có kiến nghị Công ty trang bị thêm hệ thống xử lý dữ liệu cần thiết.Việc ước tính chi phí sửa chữa có thể được tự động tính ngay sau khi cần thiết.Việc ước tính chi phí sửa chữa có thể được tự động tính ngay sau khi những số liệu yêu cầu được truy cập vào máy tính.. KẾT LUẬN Bảo hiểm vật chất xe ô tô ngày càng trở nên cần thiết, phổ biến. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức cho các Công ty bảo hiểm: Các công ty có thêm nhiều cơ hội khai thác, tìm kiếm khách hàng nhưng đồng thời cũng vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt. Do đó, các Công ty cần có chiến lược phát triển toàn diện. Công ty Bảo Việt Hà Nội đã tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh bảo hiểm nói chung và đối với nghiệp vụ bảo hiểm xe ô tô nói riêng. Doanh thu nghiệp vụ này không ngừng tăng lên và ngày càng chiếm vị trí quan trọng. Thực tế đã chứng minh trong thời gian qua Bảo Việt Hà Nội đã nỗ lực không ngừng và đạt được những thành quả to lớn và có một vị thế vững chắc trên thị trường và trong tương lai không xa Bảo Việt Hà Nội đang nỗ lực để khẳng định vị thế của mình trên thị trường trong khu vực và thị trường quốc tế . Qua năm triển khai hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tổ chức bộ máy của Công ty đang củng cố và hoàn thiện hơn, vững chắc và phát triển ở hầu hết các thành phố lớn và vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước, Với ưu thế Bảo Việt là công ty bảo hiểm có mặt đầu tiên trên thị trường bảo hiểm Việt Nam cùng với tiềm lực về kinh tế, nhân sự vững chắc, công ty đã thiết lập hệ thống mạng lưới đại lý tại tất cả các tỉnh thành trong nước Với ưu thế đó, Công ty luôn đáp ứng kịp thời yêu cầu trong công tác giám định tổn thất, chi trả bồi thường.Bên cạnh đó, được sự giúp đỡ của các doanh nghiệp Bảo hiểm, Tái bảo hiểm trong và ngoài nước, Công ty đã đào tạo được đội ngũ cán bộ chuyên môn hoá cao cấp, đáp ứng tốt yêu cầu kinh doanh. Được sự chỉ bảo tân tình của cô giáo Bùi Quỳnh Anh và sự giúp đỡ của các anh chị phòng Giám định Bồi thường của Bảo Việt Hà Nội em đã hoàn thành chuyên đề tực tập này. Do thời gian có hạn và sự hạn chế trong kinh nghiệm nghiên cứu và kiến thức thực tế, nên chuyên đề còn nhiều thiếu sót, em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô trong Bộ môn Kinh tế bảo hiểm. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình kinh tế bảo hiểm. ( ĐHKTQD HÀ NỘI) Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm (ĐHKTQD HÀ NỘI ) Tạp chí bảo hiểm Báo cáo hang năm của Bảo Việt Hà Nội . Tạp chí Giao Thông Vận Tải Các báo cáo tài chính hang năm của phòng Giám định - Bồi thường BẢNG TỶ LỆ TỔNG THÀNH GIÁ TRỊ CỦA XE Ô TÔ Tỷ lệ tổng thành thân vỏ là : 53,5% Tỷ lệ tổng thành động cơ là : 15,5% Tỷ lệ tổng thành hộp số là : 7% MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31966.doc
Tài liệu liên quan