Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty dược phẩm & thiết bị y tế Hà Nội

Lời nói đầu Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc sử dụng nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong một cơ chế hoàn toàn khác so với trước đây- cơ chế thị trường. Điều đó đặt ra cho doanh nghiệp nhiều cơ hội cũng như thử thách mới, thay vào việc cấp phát vốn theo định mức, nhà nước chuyển giao quyền sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn cho các doanh nghiệp nhà nước. Trong quá trình cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1262 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty dược phẩm & thiết bị y tế Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường các doanh nghiệp đều đặt ra mục tiêu phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, một vấn đề trọng tâm mà các doanh nghiệp phải quan tâm đó là phải nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn của mình, làm thế nào một đồng vốn của mình có thể đem lại nhiều đồng lợi nhuận, càng nhiều càng tốt. Đó cũng là mục tiêu cuối cùng của sản xuất kinh doanh Từ nhận thức về tầm quan trọng của vốn kinh doanh và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đối với các doanh nghiệp Việt nam nói chung và công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội nói riêng cũng như sự cần thiết bổ xung kiến thức thực tiễn cho riêng mình. Em chọn đề tài “một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội”. Do trình độ còn hạn chế nên đề tài chỉ xoay quanh vấn đề hiệu quả sử dụng vốn của công ty trong bốn năm từ 1997 đến 2000. Nội dung chính của luận văn gồm ba phần: Phần I: Vốn và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Phần II: Tình hình sử dụng vốn tại công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội trong thời gian qua Phần III: Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do trình độ lý luận cũng như thực tiễn của em còn nhiều hạn chế, do vậy nên luận văn này không tránh khỏi một số thiếu sót nhất định. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.S Trần Thị Thạch Liên cùng các cô chú trong phòng tài vụ- kế toán đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Phần I: Vốn và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Vốn và tầm quan trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh 1. Khái niệm về vốn kinh doanh Sự ra đời của nền kinh tế thị trường kéo theo sự xuất hiện khái niệm về vốn, và vai trò của nó ngày càng nó càng trở nên quan trọng đối với các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tham gia sản xuất kinh doanh trên thị trường đều phải có một lượng vốn nhất định.Vậy vốn kinh doanh là gì ? Có nhiều quan niệm về vốn kinh doanh, mỗi quan niệm đều nói lên một mặt nào đó của vốn kinh doanh. Theo khái niệm rộng vốn không chỉ đơn thuần là tiền tệ mà còn nguồn lực như tài nguyên lao động, đất đai, trí tuệ, máy móc thiết bị, bằng phát minh sáng chế, lợi thế so sánh..... Khái niệm này cho chúng ta có một cái nhìn rộng về vốn, nó là tất cả những cái gì mà doanh nghiệp có để tiến hành sản xuất kinh doanh Nếu theo hiểu theo nghĩa hẹp thì vốn là một trong các yếu tố vật chất đầu vào để sản xuất kinh doanh. Khái niệm này có một cái nhìn đơn giản về vốn không thấy được tính sáng tạo, linh hoạt của vốn, khái niệm này chỉ thích hợp với trình độ quản lý thời sơ khai Theo một số nhà kinh tế học lại cho rằng: Vốn là phần lượng sản phẩm tạm thời phải hy sinh tiêu dùng ở hiện tại của nhà đầu tư, để đẩy mạnh sản xuất tăng tiêu dùng trong tương lai Qua nghiên cứu các khái niệm trên thì chung ta có thể rút ra một khái niệm toàn diện về vốn kinh doanh như sau: Vốn là một phần thu nhập quốc dân dưới dạng tài sản vật chất và tài sản tài chính được các cá nhân các tổ chức, các doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích Tiền Hàng hoá Nguyên vật liệu ( mua vào) Sản xuất Hàng hoá (đầu ra) Tiền Chu trình vận động của vốn kinh doanh : Trong các doanh nghiệp hoạt động thương mại thì thường không có khâu sản xuất, đầu vào thường là hàng hoá và lợi nhuận thu được từ chênh lệch giá . 2- Vai trò của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh Để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh, bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải có ba yếu tố cơ bản đó là: vốn, lao động và máy móc thiết bị. Trong ba yếu tố đó thì vốn đóng vai trò chủ đạo và quyết định. Vốn là điều kiện cần để doanh nghiệp duy trì sản xuất, đỗi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, trả lương cho người lao động.... Không những thế vốn còn quyết định đến tính chất hiện đại, hiệu quả của các yếu tố được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này làm tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp Một doanh nghiệp khi xuất hiện trên thị trường thì cần phải có trong tay một lượng vốn nhất định, trong một số trường hợp lượng vốn đó phải đảm bảo mức tối thiểu để đảm bảo điều kiện pháp lý. Vốn nó cũng quyết định đến quy mô của doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt thì các doanh nghiệp đều phải tạo cho mình một lợi thế cạnh tranh để có thể chiến thắng trên thương trường. Một trong các lợi thế cạnh tranh mà các doanh nghiệp, tập đoàn lớn thường sử dụng đó là khả năng hùng mạnh về vốn của mình để thâu tóm, chèn ép các doanh nghiệp nhỏ. Điều này nó nói lên vai trò quan trọng của vốn trong một thế giới cạnh tranh khắc nghiệt. Một thuận lợi nữa đối với các doanh nghiệp có thế mạnh về vốn đó là họ có khả năng độc lập, tự chủ về tài chính, do đó họ có thể nắm bắt những cơ hội kinh doanh dễ dàng hơn so với các doanh nghiệp bị giới hạn về vốn. Thực chất, vốn là nguồn của cải của xã hội được tích luỹ, tập trung lại. Nhưng nó chỉ là điều kiện cần cho việc tiến hành hoạt động kinh doanh, tuy nhiên để đứng vững trên thị trường thì doanh nghiệp phải sử dụng, quản lý nó như thế nào để đem lại hiệu quả cao 3- Các loại vốn kinh doanh Có nhiều cách phân loại vốn, tùy thuộc vào lĩnh vực, phạm vi, mục đích nghiên cứu khác nhau mà người ta tiếp cận theo những giác độ khác nhau Căn cứ theo nguồn hình thành vốn thì vốn của doanh nghiệp được chia thành: Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp: Là vốn do chủ doanh nghiệp tự bỏ vốn ra để đầu tư hoặc vốn cổ phần, lợi nhuận để lại của doanh nghiệp sau khi đã chia cho các cổ đông. Đối với các doanh nghiệp nhà nước thì đó là nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp, nguồn vốn bổ xung từ lợi nhuận để lại sau khi đã nộp một phần vào ngân sách nhà nước, vốn cổ phần do nhà nước phát hành cổ phiếu, vốn liên doanh liên kết Vốn vay: Là các khoản tiền ngắn hạn, trung hạn và dài hạn mà doanh nghiệp nhận được từ ngân hàng, các tổ chức tài chính, các tổ chức, đơn vị, tập thể, cá nhân trong và ngoài nước để bổ sung vào vốn kinh doanh của doanh nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau với điều kiện phải hoàn trả trong một thời gian nào đó trong tương lai Hai nguồn vốn này là hai nguồn hình thành toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp.Vì vậy việc huy động, sử dụng nó như thế nào có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nếu phân loại theo cách này thì các nguồn vốn của doanh nghiệp được thể hiện ở bên nguồn vốn cuả bảng cân đối kế toán (bảng tổng kết tài sản) của doanh nghiệp Căn cứ vào công dụng kinh tế của vốn thì người ta chia vốn làm hai loại là vốn cố định và vốn lưu động 3.1- Vốn cố định. Khái niệm và đặc điểm của vốn cố định Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng Trong các doanh nghiệp vốn cố định đóng vai trò quan trọng trong sản xuất kinh doanh, quy mô TSCĐ nói lên quy mô của doanh nghiệp, tính hiện đại của TSCĐ nó nói lên trình độ trang bị cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh Hiện nay, theo quyết định số 166/1999/QĐ-BTC ban hành ngày 30/12/1999 của Bộ tài chịnh về ban hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ có quy định rõ về tiêu chuẩn và cách nhận biết TSCĐ: Mọi tư liệu lao động là từng tài sản hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ thống gồm nhiều tài sản riêng lẽ liên kết với nhau để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì cả hệ thống không thể hoạt động được, được coi là TSCĐ nếu đồng thời thoã mãn cả hai tiêu chuẩn dưới đây + Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên + Có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên Trong một số trường hợp hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẽ liên kết với nhau, trong đó mỗi bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một bộ phận nào đó mà cả hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động chính của nó và do yêu cầu quản lý, sử dụng TSCĐ đòi hỏi phải quản lý riêng từng bộ phận tài sản thì được coi là một TSCĐ độc lập Mọi khoản chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra thoã mãn đồng thời cả hai điều kiện trên mà không hình thành tài sản cố định hữu hình thì đựoc coi là tài sản cố định vô hình Từ khái niệm đó ta thấy vốn cố định có những đặc điểm sau: Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và nó vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu cho đến khi hỏng Vốn cố định được dịch chuyển từng phần vào giá trị sản phẩm hàng hoá, trong đó một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất kinh doanh sản phẩm ( dưới hình thức chi phí khấu hao), phần còn lại vẫn nằm trong tài sản cố định Tài sản cố định chỉ tăng lên khi có xây dựng cơ bản mới hoặc mua sắm Tài sản cố định có khả năng chuyển đỗi thành tiền chậm nhưng đây là tài sản có giá trị cao, là bộ mặt của doanh nghiệp, vì vậy có giá trị thế chấp đối với ngân hàng khi vay vốn Phân loại vốn cố định Để sử dụng vốn một cách có hiệu quả chúng ta phải nghiên cứu các phương pháp phân loại tài sản cố định, tùy theo các tiêu thức phân loại khác nhau ta có một cái nhìn về TSCĐ ở những góc độ khác nhau Căn cứ vào hình thái biểu hiện: Theo phương pháp này toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành: + TSCĐ hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất, có giá trị lớn, thời gian sử dung dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nhưng vẫn giữ được hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị.... + TSCĐ vô hình là tài sản: Là những tài sản không có hình thái vật chất, nhưng nó vẫn thể hiện một lượng giá trị đầu tư, có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh như chi phí về bằng phát minh, sáng chế, uy tín của doanh nghiệp... Ngày nay TSCĐ vô hình ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp, tuy nhiên có được những TSCĐ vô hình có giá trị không phải là chuyện đơn giản, thường nó cần phải có thời gian dài, trình độ kiến thức và cả sự nhận thức đúng đắn về tài sản vô hình Căn cứ vào tình hình sử dụng Căn cứ vào phương pháp này thì TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành: + TSCĐ đang sử dụng: Đây là những tài sản đang trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh + TSCĐ chưa sử dụng: Đây là những tài sản của doanh nghiệp do nguyên nhân khách quan và chủ quan chưa được đưa vào sử dụng như: tài sản dự trữ, tài sản trong giai đoạn lắp ráp chạy thử... Căn cứ vào nguồn hình thành TSCĐ Theo cách phân loại này TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành: + TSCĐ từ nguồn vốn ngân sách + TSCĐ từ nguồn vốn tự bổ sung + TSCĐ liên doanh + TSCĐ đi thuê Căn cứ vào công dụng kinh tế của TSCĐ: Tài sản cố định của doanh nghiệp được chia thành: + TSCĐ dùng cho sản xuất kinh doanh cơ bản + TSCĐ dùng ngoài sản xuất kinh doanh cơ bản Công tác quản lý vốn cố định Cũng như các hoạt động quản lý khác, hoạt động quản lý vốn cố định cũng như vốn lưu động là một công tác rất quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Để quản lý tốt vốn cố định cần phải nắm vững và thực hiện tốt các vấn đề sau: Hao mòn tài sản cố định: Trong quá trình tham gia sản xuất kinh doanh tài sản cố định chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau nên giá trị của nó sẽ bị giảm xuống dưới hai hình thức hao mòn là hao mòn hữu hình và vô hình: - Hao mòn hữu hình: Là sự giảm dần về mặt giá trị sử dụng và giá trị do chúng được sử dụng trong sản xuất kinh doanh, hoặc do tác động của môi trường tự nhiên gây ra. Như vậy tài sản cố định hao mòn hữu hình là do ba nhân tố chủ yếu: + Cường độ sử dụng tài sản cố định vào sản xuất kinh doanh + Chất lượng tài sản cố định + Các yếu tố của môi trường tự nhiên - Hao mòn vô hình: Đó là sự giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định do xuất hiện những tài sản cố định có giá rẻ hơn hoặc hiện đại hơn Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hao mòn vô hình chính là do tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho những tài sản cố định sản xuất ở thời gian trước bị mất giá so với hiện tại. Sự mất giá đó chính là hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình còn được xuất hiện khi chu kỳ sống của sản phẩm do nó sản xuất ra chấm dứt, khi đó tài sản cố định đó bị lạc hậu hoặc không có tác dụng. Khấu hao tài sản cố định. Đó là việc tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá tài sản cố định vào chi phí kinh doanh trong thời gian sử dụng tài sản cố định đó và thu lại sau khi đã tiêu thụ sản phẩm hình thành quỹ khấu hao. Khấu hao tài sản cố định giúp doanh nghiệp bảo toàn vốn cố định từ đó tiến hành tái sản xuất mở rộng Phương pháp tính khấu hao tài sản cố định. Có nhiều phương pháp tính khấu hao tài sản cố định. Nhưng thông thường Hiện nay người ta áp dung phổ biến phương pháp khấu hao theo đường thẳng. Theo phương pháp này thì mức khấu hao hàng năm là không đỗi. Mkh= Trong đó: Mkh: Mức khấu hao hàng năm T : Thời gian sử dụng của tài sản cố định NG: Nguyên giá tài sản cố định Phương pháp này có ưu điểm là mức khấu hao được phân bổ vào giá thành một cách đều đặn, làm cho giá thành sản phẩm ổn định, hơn nữa phương pháp này cũng rất dễ tính toán. Nhưng hạn chế của nó là do mức khấu hao hàng năm đều bằng nhau nên khả năng thu hồi vốn chậm Kế hoạch khấu hao tài sản cố định Thông qua việc lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định, doanh nghiệp có thể biết được tình hình và nhu cầu tăng, giảm vốn cố định của mình, thấy được khả năng có thể đáp ứng nhu cầu, từ đó có những biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Để lập được kế hoạch khấu hao tài sản cố định cần phải xác định tổng giá trị tài sản cố định đầu kỳ, tổng giá trị tài sản cố định tăng và giảm trong kỳ. Trên cơ sở tỷ lệ khấu hao bình quân quy định, phải xác định được chỉ tiêu tổng quỹ khấu hao tài sản cố định kỳ kế hoạch, từ đó tính vào chi phí kinh doanh Khi lập kế hoạch khấu hao cần tuân thủ các nguyên tắc sau: Nếu tài sản cố định tăng thêm trong tháng này thì tháng sau mới trích khấu hao Tài sản cố định giảm trong tháng này thì tháng sau mới thôi trích khấu hao Cùng với các nguyên tắc đó khi lập kế hoạch khấu hao cần phải xác định những tài sản cố định nào không phải tính khấu hao, tài sản cố định nào chưa khấu hao hết mà bị hỏng Giá trị bình quân tài sản cố định tăng thêm (hay giảm bớt) trong kỳ kế hoạch được tính theo công thức sau Nguyên giá TSCĐ bình quân tăng trong kỳ = Nguyên giá TSCĐ bình quân giảm trong kỳ = Trong đó: NGt: Nguyên giá TSCĐ tăng thêm phải tính khấu hao NGg: Nguyên giá TSCĐ giảm bớt phải tính khấu hao tsd : Số tháng sử dụng tài sản cố định trong kỳ kế hoạch Tổng giá trị bình quân tài sản cố định phải tính khấu hao trong năm được tính theo công thức sau: ồGTBQ của TSCĐ ồ Giá trị ồ Giá trị TSCĐ ồ Giá trị TSCĐ phải tính khấu hao = TSCĐ có + bình quân tăng - bình quân giảm trong năm đầu kỳ trong kỳ trong kỳ Trên cơ sở đó ta có số tiền phải trong năm kế hoạch như sau ồ GTBQ của TSCĐ KH= Trích tính khấu hao x Tbq Trong kỳ Trong đó: Tbq là khấu hao tổng hợp bình quân trong năm kế hoạch 3.2 - Vốn lưu động 3.2.1. Khái niệm và đặc điểm của vốn lưu động Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản sản lưu động và vốn lưu thông. Đó là vốn của doanh nghiệp đầu tư để dự trữ hàng hoá vật tư, để chi cho quá trình hoạt động kinh doanh, chi cho hoạt động quản lý doanh nghiệp hay nói một cách khác là nó đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được trong quá trình tái sản xuất. Một doanh nghiệp cũng giống như cơ thể một con người, vốn cố định chỉ tạo nên cơ thể, bộ khung của doanh nghiệp, còn để doanh nghiệp có thể hoạt động được thì phải có “máu”, và vốn lưu động chính là “máu” của doanh nghiệp Đối với các doanh nghiệp, một mặt lượng vốn phản ánh quy mô hoạt động của doanh nghiệp, mặt khác nó phản ánh, đánh giá quá trình vận động của vật tư, hàng hoá. Trong doanh nghiệp sự vận động của vốn là phản ánh sự vận động của vật tư hàng hoá, nhìn chung vốn lưu động nhiều hay ít phản ánh số lượng dự trữ vật tư hàng hoá ở cá khâu nhiều hay ít. Nhưng bên cạnh đó vốn lưu động luân chuyển nhanh hay chậm phản ánh số lượng vật tư sử dụng tiết kiệm hay không, thời gian nằm ở khâu và lưu thông sản phẩm có hợp lý hay không. Đặc điểm của vốn lưu động: - Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần, tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh. - Vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định, luôn biến đỗi hình thái từ tiền sang hàng hoá và từ hang hoá trở lại tiền một cách tuần hoàn trong một chu kỳ kinh doanh Phân loại vốn lưu động Để thuận lợi cho việc quản lý và sử dụng thì người ta thường tiến hành phân loại vốn lưu động, có nhiều cách phân loại vốn lưu động, với những tiêu thức khác nhau ta có các cách phân loại vốn lưu động khác nhau: - Nếu căn cứ vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn lưu động người ta chia làm ba loại: + Vốn dự trữ: tức là bộ phận vốn dùng để mua nguyên vật liệu, hàng hoá, phụ tùng thay thế + Vốn trong sản xuất: Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ trưc tiếp cho giai đoạn sản xuất, sản phẩm tự chế, chi phí chờ phân bổ... + Vốn trong lưu thông: Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu thông Phân loại theo cách này có thể thấy mối quan hệ giữa dự trữ, sản xuât, lưu thông. Đối với mỗi doanh nghiệp cần phải căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của mình để xác định lượng vốn cần thiết, hợp lý trong mỗi khâu của quá trình kinh doanh - Nếu căn cứ cào hình thái biểu hiện và theo chức năng của các thành phần vốn lưu động thì có thể chia thành: + Vốn vật tư hàng hoá: bao gồm vốn nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, hàng tồn kho.... + Vốn tiền tệ: bao gồm: Vốn tiền mặt, vốn thanh toán Cách phân loại này cho phép cân đối giữa các nguồn vốn lưu động trong việc thanh toán với khách hàng, các nhà cung cấp. Khai thác, tận dụng một cách triệt để các loại vốn lưu động - Nếu căn cứ vào nguồn hình thành vốn lưu động thì chúng ta có thể chia ra các loại vốn sau: + Vốn lưu động thuộc ngân sách: đối với các doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn lưu động này là số vốn lưu động do ngân sách nhà nước cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước Đối với các loại hình doanh nghiệp khác thì đó là vốn do cổ đông đóng góp, do chủ doanh nghiệp tự bỏ vốn ra, do xã viên góp + Vốn lưu động thuộc nguồn vốn bổ sung: Đây là nguồn vốn do doanh nghiệp tự bổ sung mà chủ yếu do doanh nghiệp lấy một phần từ lợi nhuận để tăng thêm vốn lưu động, mở rộng hoạt động kinh doanh + Vốn lưu động thuộc nguồn vốn liên doanh liên kết: Đây là nguồn vốn doanh nghiệp có dược khi tham gia liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác để mở rộng hoạt động kinh doanh + Vốn lưu động thông qua phát hành cổ phiếu + Vốn lưu động huy động từ vốn vay: Đây là một nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động thường xuyên. Tùy thuộc vào từng điều kiện, mối quan hệ của doanh nghiệp mà vốn vay có thể huy động từ ngân hàng, các tổ chức tín dụng, khách hàng, bạn hàng... - Nếu căn cứ vào phương pháp xác định vốn thì người ta chia vốn ra làm hai loại: + Vốn lưu động định mức: Là vốn lưu động tối thiểu cần thiết thường xuyên trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể xác định, bao gồm: vốn dự trữ, vốn trong sản xuất và thành phẩm... + Vốn lưu động không định mức: Là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh nhưng không có căn cứ để xác định, tính toán trước. 3.3.3. Công tác quản lý vốn lưu động Xác định vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch: Đối với các doanh nghiệp Nhà nước được nhà Nhà nước cấp vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh và khi Nhà nước điều chỉnh giá trị thì sẽ bổ sung cho doanh nghiệp một cách kịp thời. Tuy nhiên nói như vật không có nghĩa là các doanh nghiệp Nhà nước không phải xác định vốn lưu động mà họ vẫn phải tiến hành các hoạt động quản lý vốn như các doanh nghiệp khác Để xác định được vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch, doanh nghiệp phải tính vốn lưu động định mức cho từng khâu dự trữ, sản xuất, lưu thông, chi tiết cho từng loại vật liệu, hàng hoá rồi tổng hợp thành vốn lưu động cho cả kỳ kế hoạch Kế hoạch vốn lưu động định mức: Vốn lưu động của doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn khác nhau nên để lập được kế hoạch vốn lưu động đòi hỏi doanh nghiệp phải căn cứ vào tình hình vốn lưu động thực tế của năm trước và nhu cầu về vốn lưu động trong năm kế hoạch. Để lên kế hoạch vốn lưu động, trước hết doanh nghiệp phải xác định tổng số vốn lưu động cần thiết trong kỳ kế hoạch Tổng số Số vốn lưu Số vốn lưu Số vốn lưu vốn lưu = động ở khâu + động ở khâu + động ở khâu động dự trữ sản xuất lưu thông Sau đó doanh nghiệp phải tính toán khả năng về vốn của doanh nghiệp. Khả năng về vốn là số vốn mà doanh nghiệp tự có và nguồn vốn do doanh nghiệp nhận liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác, từ đó doanh nghiệp xác định được lượng vốn phải vay để đảm bảo vốn lưu động cho sản xuất kinh doanh. Số vốn lưu động đi vay được tính theo công thức: Số vốn lưu Tổng vốn Số vốn Số vốn lưu động động cần phải = lưu động - lưu động - có do liên doanh vay cần thiết tự có liên kết II- Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh Mỗi doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh đều nhằm mục đích đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Hiệu quả kinh tế là một phạm trù rộng, nó được xem xét tên cả mặt đinh lượng và định tính. Bản chất của hiệu quả kinh tế là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có liên quan mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế, gắn liền với hai quy luật của nền sản xuất xã hội là quy luật tăng năng suất lao động và quy luật tiết kiệm thời gian. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính chất cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh thì các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực các yếu tố sản xuất kinh doanh đem lại một kết quả tối đa với một chi phí tối thiểu. Xét về mặt định lượng thì nó biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Cụ thể nó được thể hiện qua công thức sau: Hiệu quả kinh tế = Các chỉ tiêu đánh giá chung về hiệu quả sử dụng vốn Vốn là một yếu tố đầu vào không thể thiếu được của doanh nghiệp, nên việc khai thác và sử dụng vốn một cách hợp lý sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp. Chính vì lý do đó nên chúng ta cần thiết phải tiến hành đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau: Tỷ lệ doanh thu trên vốn ( Hd) hay còn gọi là vòng quay toàn bộ của vốn Hd = Chỉ tiêu này cho thấy một đồng vốn của doanh nghiệp huy động vào sản xuất kinh doanh trong kỳ sẽ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu trên càng lớn thì càng chứng tỏ rằng hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao Chỉ tiêu hệ số doanh lợi của vốn kinh doanh (Hv): Hệ số doanh lợi của vốn kinh doanh ( Hv) = Lợi nhuận ở đây có thể là lợi nhuận trước thuế hoặc lợi nhuận sau thuế Chỉ tiêu này cho thấy một đồng vốn kinh doanh đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng lợi nhuận. Đây cũng là chỉ tiêu được các nhà đầu tư rất quan tâm khi quyết định cho doanh nghiệp vay vốn vì nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của họ Ngoài hai chỉ tiêu trên các nhà quản trị còn thường xuyên sử dụng chỉ tiêu đánh giá tỷ trọng của tài sản cố định hay tỷ trong tài sản lưu động trong tổng số tài sản của doanh nghiệp, chỉ tiêu này cho thấy cơ cấu tài sản hiện có có hợp lý tình hình của doanh nghiệp, với đặc diểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay không Các chỉ tiêu trên đây phần nào cho chúng ta thấy được tình hình chung của doanh nghiệp. Tuy nhiên để phản ánh một cách rõ rệt tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp, chúng ta phải xem xét các chỉ tiêu cá biệt song song với các chỉ tiêu chung. Các chỉ tiêu cá biệt là toàn bộ các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định và hiệu quả sử dụng vốn vốn lưu động 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định Các chỉ tiêu đánh giá chung về tình hình sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp. Thông thường ở đây người ta xem xét tỷ trọng của từng loại tài sản cố định trong tổng số tài sản cố định hiện có của doanh nghiệp để từ đó thấy được số lượng của mỗi loại có đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ hay không Chỉ tiêu đánh giá hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = NGbq = = NGdk + NGt – NGg Trong đó: NGdk: Nguyên giá TSCĐ đầu kỳ NGck: Nguyên giá TSCĐ cuối kỳ NGt: Nguyên giá TSCĐ tăng trong kỳ NGg: Nguyên giá TSCĐ giảm trong kỳ Chỉ tiêu suất hao phí vốn cố định Suất hao phí vốn cố định = Chỉ tiêu này ngược với chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định, tức là để có một đồng doanh thu thì doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn cố định Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định: + Hiệu quả sử dụng vốn cố định theo lợi nhuận ròng = Chỉ tiêu này nói lên một đồng vốn cố định được sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng cho doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ doanh nghiệp nghiệp đang sử dụng đồng vốn cố định của mình một cách hợp lý và hiệu quả + Hiệu quả sử dụng vốn cố định theo lợi nhuận trước thuế + Hiệu quả sử dụng vốn cố định theo lợi nhuận trước thuế = Lợi nhuận trước thuế VCĐBQ trong kỳ Thông qua việc phân tích, đánh giá, so sánh các chỉ tiêu giữa các kỳ kinh doanh, từ đó thấy được những cái đạt được và những mặt còn tồn tại để có những biện pháp khắc phục 3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động Các doanh nghiệp dùng vốn lưu động của mình để sản xuất mua nguyên vật liệu, hàng hoá và tiêu thụ, doanh nghiệp càng sử dụng đồng vốn có hiệu quả thì có thể sản xuất, tiêu thụ được nhiều hàng hoá trong một kỳ kinh doanh. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động là một trong những chỉ tiêu tổng hợp dùng để đánh giá công tác sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động nhanh hay chậm nói lên trình độ tổ chức các mặt công tác: mua sắm, dự trữ,sản xuất tiêu thụ của doanh nghiệp có hợp lý hay không. Thông qua phân tích chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn lưu động có thể thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường quản lý kinh doanh, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả vốn lưu động. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động biểu hiện thông qua các chỉ tiêu sau: - Số vòng luân chuyển vốn lưu động Số vòng luân chuyển vốn lưu động = Số vòng luân chuyển vốn lưu động nói lên rằng trong kỳ số vốn lưu động mà doanh nghiệp sử dụng cho sản xuất kinh doanh quay được mấy vòng. Nếu số vòng quay của vốn lưu động càng lớn thì chứng tỏ rằng doanh nghiệp đang sử dụng vốn lưu động của mình rất có hiệu quả và hợp lý - Chỉ tiêu kỳ luân chuyển của vốn lưu động trong năm Kỳ luân chuyển của vốn lưu động trong năm= Chỉ tiêu này nói lên rằng để vốn lưu động của doanh nghiệp quay được một vòng thì mất bao nhiêu ngày, số ngày để luân chuyển được một vòng của vốn lưu động càng ít thì hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng cao - Mức đảm nhiệm của vốn lưu động Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động = Hệ số này cho biết để có một đồng doanh thu thì cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn lưu động doanh nghiệp tiết kiệm được càng nhiều - Mức doanh lợi của vốn lưu động Mức doanh lợi của vốn lưu động = Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lời của vốn lưu động. Nó cho biết một đồng vốn lưu động được doanh nghiệp bỏ vào sản xuất kinh doanh mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận, chỉ tiêu này càng cao thì càng chứng tỏ rằng doanh nghiệp đang sử dụng vốn lưu động của mình một cách có hiệu quả. Vật tư hàng hoá tồn kho Doanh thu mỗi ngày Bên cạnh các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động được đề cập trên, thì để theo dõi, đánh giá tình hình các loại tài sản lưu động cụ thể người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: - Thời gian vận động của vật tư hàng hoá = Các khoản phải thu Doanh thu bán hàng mỗi ngày Chỉ tiêu này cho biết thời gian vật tư hàng hoá ở trong kho của doanh nghiệp bao nhiêu ngày trước khi được bán. - Thời gian thu hồi các khoản phải thu = Chỉ tiêu này cho biết cần bao nhiêu thời gian để chuyển các khoản phải thu thành tiền mặt Ngoài các chỉ tiêu trên đánh giá tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp, chúng ta còn xem xét đến một số chỉ tiêu quan trọng khác đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mà nó có ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp qua đó tìm những biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp Tỷ suất tự tài trợ = Tỷ số này cho biết khả năng tự chủ vềt tài chính của doanh nghiệp. Nếu tỷ suất này càng cao thì càng chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng độc lập về tài chính và ngược lại Tỷ suất thanh toán hiện hành = Tỷ suất trên cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp là cao hay thấp, nếu tỷ suất thanh toán hiện hành > = 1 thì doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là tốt Tỷ suất thanh toán tức thời = Giới hạn tốt nhất cho doanh nghiệp là tỷ suất thanh toán tức thời > = 0,5 và 1 thì vốn bằng tiền mặt quá nhiều, không có khả năng sinh lời, gây lãng phí Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, để có thể tồn tại và phát triển thì các nhà quản trị doanh nghiệp phải quan tâm đến nhiều vấn đề nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh của công ty thường được đo bằng chỉ tiêu lợi._. nhuận, mà lợi nhuận chính là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Vì vậy để nâng cao hiệu quả kinh doanh thì một mặt chúng ta phải tăng doanh thu, mặt khác phải tối thiểu hoá chi phí cho một lượng doanh thu nhất định. Điều đó cũng có nghĩa là làm thế nào để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Những đồng vốn của doanh nghiệp nên đầu tư vào lĩnh vực, mặt hàng nào? Chi phí bỏ ra và lợi nhuận thu về là bao nhiêu ? Thực hiện phương án đó như thế nào? Trong khoảng thời gian bao lâu ? để thu được kết quả tốt nhất. Có trả lời được các câu hỏi đó thì doanh nghiệp mới có thể tiến hành sản xuất kinh doanh và đứng vững trên thị trường. Với một lượng vốn trong khả năng huy động của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải có những biện pháp sử dụng phù hợp với lợi thế, công nghệ, lao động hiện có của doanh nghiệp, và sự biến động của môi trường kinh doanh Để có được những biện pháp thiết thực, chúng ta cần phải nắm vững những yêu cầu trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn 2. Những yêu cầu trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 2.1. Đảm bảo phù hợp với chiến lược lâu dài của doanh nghiệp và đồng bộ với các mục tiêu khác của doanh nghiệp Trong thời buổi cạnh tranh gay gắt Hiện nay cùng với sự biến động thường xuyên của môi trường kinh doanh mà đặc biệt là môi trường công nghệ thì việc xây dựng một chiến lược kinh doanh lâu dài là hết sức cần thiết, vì vậy trong quá trình đưa ra các biện pháp và thực hiện nâng cao hiệu sử dụng vốn nó phải phù hợp với chiến lược lâu dài của doanh nghiệp, đôi khi mục tiêu trước mặt và mục tiêu dài hạn có mâu thuẫn với nhau.Vì vậy phải tránh tình trạng chỉ thấy được những cái lợi trước mắt mà không thấy được cái lợi lâu dài. Thêm vào đó giữa các lĩnh vực hoạt động cũng thường có mâu thuẫn với nhau, mỗi lĩnh vực thường có những mục tiêu khác nhau, do đó cần thiết phải đưa ra các biện pháp hỗ trợ lẫn nhau, cùng hướng tới mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp 2.2. Đảm bảo yêu cầu định hướng, pháp luật của nhà nước Doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường luôn chịu sự chi phối ở tầm vĩ mô của nhà nước. Vì vậy doanh nghiệp chỉ được phép hoạt động trong một khuôn khổ cho phép, mặt khác doanh nghiệp chịu sự định hướng của nhà nước hoạt động vì lợi ích của doanh nghiệp nói riêng và quốc gia nói chung thể hiện ở các chính sách kinh tế, pháp luật, xã hội.... Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vốn mở rộng sản xuất kinh doanh, trang bị máy móc thiết bị hiện đại, giảm vốn vay tăng vốn tự có... Song nhà nước cũng nghiêm khắc trừng trị những các nhân, đơn vị đầu tư vốn vì mục đích trục lợi 2.3. Đảm bảo giải quyết tốt việc làm cho lao động trong doanh nghiệp Thực tế cho thấy thường khi doanh nghiệp đầu tư vốn trang bị những máy móc hiện đại làm cho máy năng suất lao động tăng lên nhưng một bộ phận lao động sẽ bị sa thải. Điều này doanh nghiệp cần cân nhắc giữa hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp với hiệu quả xã hội đặc biệt trong điều kiện nước ta Hiện nay giải quyết vấn đề việc làm luôn được Đảng và nhà nước quan tâm. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn 3.1. Các nhân tố tầm vĩ mô Doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường luôn chịu sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, ở đó doanh nghiệp không có khả năng tự điều chỉnh nó mà phải có những biện pháp thích nghi và dựa vào môi trường đó để phát triển. Có khá nhiều nhân tố ở tầm vĩ mô ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, nhưng ở đây chúng ta chỉ đề cập đến những nhân tố có tác động lớn đến quá trình hoạt động kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhân tố thị trường: Mỗi loại thị trường đều có những tác động đến các mặt khác nhau của hiệu quả sử dụng vốn. Nếu doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường cạnh tranh hoàn hảo với những sản phẩm đã tạo đưọc uy tín khá tốt với khách hàng thì nó cho phép doanh nghiệp mở rộng thị trường, tăng doanh thu, đem lại thu nhập lớn cho doanh nghiệp. Còn với một thị trường độc quyền thì doanh nghiệp có thể dễ dàng điều chỉnh giá cả theo ý muốn của mình sao cho doanh nghiệp có lợi nhất. Hay những thị trường không ổn định, thường có biến động thì hiệu quả sử dụng vốn cũng biến động qua các thời điểm. Thị trường ở đây là bao gồm cả thị trường đầu vào và đầu ra, trong thời buổi cạnh tranh gay gắt hiện nay thì thị trường đầu vào cũng quan trọng không kém so với thị trường đầu ra. Nếu thị trường đầu vào thường xuyên thay đỗi thì một mặt doanh nghiệp luôn phải bỏ ra những chi phí để bắt đầu một quan hệ kinh tế khác, mặt khác chất lượng các yếu tố đầu vào cũng không ổn định theo ý muốn của doanh nghiệp. Thực trạng của nền kinh tế: Khi nền kinh tế của quốc gia nói riêng và thế giới nói chung phát triển ổn định, tăng trưởng cao thì nó tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển. Ngược lại khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp, tiêu dùng giảm... sẽ là những trở ngại lớn đối với sự phát triển của doanh nghiệp Các chính sách kinh tế của nhà nước: Đây là một nhân tố có tác động rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn. Từ cơ chế giao vốn, đánh giá tài sản cố định, các chính sách về thuế, lãi suất cho vay, bảo hộ... Đều có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu với một chính sách thuế hợp lý nó sẽ cổ vũ các doanh nghiệp tích cực tìm kiếm thị trường tăng doanh thu từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh, hay chính sách lãi suất thấp nó sẽ khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn, đầu tư mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh. Nhân tố công nghệ: Với sự thay đỗi của công nghệ nó sẽ ảnh hưởng đến chu kỳ sản phẩm, phương pháp sản xuất, nguyên vật liệu.... Vì vậy với sự tiến bộ của khoa học công nghệ Hiện nay, nếu như doanh nghiệp không chú trọng đầu tư, đỗi mới công nghệ hợp lý thì tất yếu dẫn đến tụt hậu, không có khả năng cạnh tranh trên thị trường 3.2. Các nhân tố ở tầm vi mô Tính chất sản phẩm: Sản phẩm của doanh nghiệp là nơi chứa đựng chi phí và doanh thu của doanh nghiệp, qua đó nó quyết định lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp là hàng hoá tiêu dùng đặc biệt là hàng hoá công nghiệp nhẹ như rươụ, bia, thuốc tân dược... thì nó có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh, qua đo giúp cho doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh hơn. Ngược lại những sản phẩm có vòng đời dài, giá trị lớn sẽ là những tác nhân hạn chế làm cho vòng quay của vốn chậm Chu kỳ sản xuất kinh doanh: Đây là một nhân tố có tác động rất lớn đén hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu chu kỳ sản xuất kinh doanh ngắn, doanh nghiệp sẽ có khả năng thu hồi vốn nhanh để bắt đầu một chu kỳ kinh doanh mới với quy mô lớn hơn. Ngược lại, nếu chu kỳ kinh doanh dài, doanh nghiệp sẽ phải chịu gánh nặng vì vốn bị ứ động, lãi các khoản vay, khoản phải trả của doanh nghiệp tăng lên Đặc điểm về kỹ thuật sản xuất: Nhân tố này ảnh hưởng liên tục đến hiệu quả sử dụng vốn cố định trong doanh nghiệp thông qua chỉ tiêu hệ số trang bị máy móc thiết bị. Các chỉ tiêu này đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, nếu kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp đơn giản thì tỷ trọng về máy móc thiết bị sẽ nhỏ, doanh nghiệp sẽ phải đối phó với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường. Ngược lại nếu doanh nghiệp có máy móc thiết bị hiện đại, kỹ thuật sản xuất tiên tiến thì doanh nghiệp có được lợi thế rất lớn trong cạnh tranh Trình độ tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh, hạch toán nội bộ doanh nghiệp: Để có hiệu quả cao thì bộ máy tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh phải gọn nhẹ, hợp lý, ăn khớp nhịp nhàng với nhau hay nói cách khác là phải có sự thống nhất theo tính hệ thống trong toàn doanh nghiệp. Mặt khác công tác hạch toán, kế toán nội bộ doanh nghiệp cũng có tác động không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn, cụ thể đó là thông qua nó ta có thể thấy được tình hình sử dụng vốn của công ty và đề ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 4. Các biện pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có rất nhiều, tùy thuộc vào tình hình sử dụng vốn, tình hình tài chính của doanh nghiệp và những điều kiện cụ thể mà các nhà quản trị đưa ra các giải pháp hợp lý. Tuy nhiên những giải pháp đó thường nhằm mục đích như cải tiến kỹ thuật, công nghệ, tổ chức, huy động các nguồn lực của doanh nghiệp.... Dưói đây là một số giải pháp các doanh nghiệp thường áp dụng. 4.1. Mở rộng thị trường tăng doanh thu bán hàng cho doanh nghiệp Nếu doanh thu của doanh nghiệp tăng lên có tác động tích cực đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp quyết định mở rộng thị trường cũng có nghĩa là doanh nghiệp mở rộng phạm vi tiếp cận khách hàng, thấu hiểu được nguyện vọng của khách hàng từ đó tăng doanh thu cho doanh nghiệp. Các biện pháp mở rộng thị trường có thể là khuếch trương sản phẩm thông qua quảng cáo, tài trợ, nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng kênh phân phối v.v....Song khi ra quyết định dùng biện pháp nào để mở rộng thì trường đòi hỏi các nhà quản trị doanh nghiệp phải tính đến biện pháp đó có phù hợp với quy mô, năng lực, các chiến lược của đối thủ cạnh tranh, môi trường kinh doanh hay không 4.2. Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn vốn. Để đáp ứng cho nhu cầu về vốn kinh doanh, doanh nghiệp có thể huy động vốn từ các nguồn khác nhau, nhưng một nguyên tắc ràng buộc là nên huy động những nguồn vốn nào, tỷ trọng của mỗi nguồn vốn như thế nào và sử dụng nguồn vốn đó trong hoàn cảnh nào để đem lại hiệu quả cao nhất vì thường các nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động có lãi suất khác nhau, có thời hạn khác nhau và có cả những điều kiện ràng buộc khác nhau. Trong điều kiện doanh nghiệp có nguồn lực tài chính mạnh và hiệu quả kinh doanh thấp thì việc mở rộng kinh doanh bằng cách huy động nguồn vốn tự có là thích hợp nhất, ngược lại trong điều kiện doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao hơn lãi suất cho vay của các tổ chức tài chính thì doanh nghiệp nên huy động các nguồn vốn lại hợp lý hơn, tuy nhiên điều này còn phụ thuộc vào tình hình biến động của thị trường tài chính Huy động được các nguồn vốn kinh doanh mới chỉ là điều kiện cần thiết cho doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh, vấn đề quan trọng là doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn đó như thế nào để nó đem lại hiệu quả cao. Điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp phải phân bổ nguồn vốn đó như thế nào cho hợp lý, tiết kiệm nhất. 4.3. Tổ chức và quản lý tốt quá trình hoạt động kinh doanh Nhu cầu thị trường tồn tại khách quan, luôn luôn biến động. Để đáp ứng được nhu cầu khách quan của thị trường, thì một việc tất yếu mà doanh nghiệp cần phải làm đó là phải tổ chức quản lý tốt quá trình hoạt động kinh doanh. Tổ chức tôt quá trình hoạt động kinh doanh là một biện pháp quan trọng nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, nó đảm bảo cho quá trình kinh doanh diễn ra thông suốt, nhịp nhàng giữa các khâu dự trữ, sản xuất, lưu thông hàng hoá và nó bảo đảm sự ăn khớp giữa các bộ phận kinh doanh nhằm tạo ra những sản phẩm, dịch vụ tốt nhất phù hợp với nhu cầu và sự biến động của thị trường. Mục đích quan trọng nhất của việc tổ chức và quản lý quá trình hoạt động kinh doanh là hạn chế tối đa tình trạng ngừng việc của máy móc thiết bị, lao động, gây ứ đọng, mất cân đối ở các khâu dẫn đến tình trạng lãng phí, giảm hiệu quả sử dụng vốn. Để đạt được mục đích đó doanh nghiệp cần phải tăng cường quản lý các yếu tố sau: Đối với tài sản cố định Có chính sách và cơ chế kiểm tra đánh giá lại tài sản cố định đang bị lãng phí, biến tài sản chết thành vốn hoạt động Cho thuê các cơ sở, phương tiện, máy móc thiết bị thừa hoặc nhàn rỗi hoặc liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác nhằm khai thác triệt để năng lực tài sản cố định và chi phí khấu hao - Phân cấp quản lý tài sản cố định cho các bộ phận nhằm nâng cao tránh nhiệm vật chất trong quá trình sử dụng tài sản cố định Đối với tài sản lưu động - Xác định nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho từng kỳ kinh doanh nhằm sử dụng hợp lý tiết kiệm nguồn vốn - Tổ chức tốt quá trình thu mua, dự trữ vật tư, hàng hoá nhằm giảm chi phí thu mua, hạn chế tình trạng ứ đọng dẫn đến tăng chi phí dự trữ gây ứ đọng vốn lưu động, tăng giá thành sản phẩm - Tổ chức tốt quy trình lao động, tăng cường các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, áp dụng các biện pháp khuyến khích vật chất nâng cao tinh thần tránh nhiệm của người lao động Xây dựng tốt mối quan hệ với khách hàng nhằm cũng cố và phát triển uy tín trên thị trường để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ hàng hoá 4.4. Tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất kinh doanh Trong sự cạch tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường thì việc đỗi mới máy móc thiết bị, ứng dụng khoa học kỹ thuật và mạnh dạn đưa công nghệ với vào sản xuất kinh doanh là rất cần thiết. Nó cho phép tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành hạ, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và tạo điều kiện thu được nhiều lợi nhuận. Một thuận lợi nữa đó là nó có thể giúp doanh nghiệp rút ngắn chu kỳ kinh doanh, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho doanh nghiệp 4.5. Lựa chọn phương án kinh doanh và phương án sản phẩm Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp phụ thuộc vào việc những sản phẩm của doanh nghiệp có tiêu thụ được trên thị trường hay không. Do đó doanh nghiệp phải luôn chú trọng tới việc xác định kinh doanh cái gì? kinh doanh như thế nào? số lượng mỗi loại là bao nhiêu? giá cả như thế nào là phù hợp ? ở thị trường nào? Trong nền kinh tế thị trường quy mô và tính chất kinh doanh một phần là do thị trường quyết định Vì vậy doanh nghiệp phải lựa chọn đúng phương án kinh doanh, phương án sản phẩm. Các phương án này phải dựa trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị trường. Để thực hiện được điều đó doanh nghiệp cần phải làm tốt công tác Marketing. Có như vậy thì doanh nghiệp mới có điều kiện nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn 4.6. Tổ chức tốt công tác kế toán và phân tích hoạt động kinh doanh Thông qua các báo cáo tài chính như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh... doanh nghiệp có thể hạch toán theo dõi đầy đủ, chính xác tình hình thu chi, tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên số liệu kế toán nó chưa thể chỉ ra một cách cụ thể các nguyên nhân và đề ra những biện pháp khắc phục. Vì vậy cần phải tiến hành phân tích kinh doanh thông qua các việc phân tính đánh các chỉ tiêu thể hiên hiệu quả sử dụng vốn để từ đó thấy được những nguyên nhân sâu xa và kiến nghị những giải pháp hợp lý Tóm lại đây chỉ là các biện pháp chung về mặt lý thuyết, với tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp cần phải có những biện pháp cụ thể, phù hợp với từng hoàn cảnh mà doanh nghiệp đang gặp phải Phần II: Tình hình sử dụng vốn Hiện nay tại công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội I. Quá trình hình thành và phát triển của công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội Sự ra đời và các giai đoạn thay đỗi hình thức pháp lý của công ty 1.1. Sự ra đời và phát triển của công ty Công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội ( Ha pharco ) được thành lập là công ty dược phẩm Hà Nội, cơ sở ban đầu là công ty Dược phẩm dược liệu, được tập hợp ban đầu từ các Phalmaxim và các hiệu thuốc tư nhân của thực dân Pháp đã được quốc hữu hoá Năm 1983 căn cứ quy định 148 QĐ- UB của UBND thành phố Hà Nội ngày 17-1 1983 xí nghiệp dược phẩm Hà Nội và công ty dược phẩm Hà Nội sát nhập thành xí nghiệp liên hợp dược Hà Nội, Với chức năng vừa sản xuất vừa kinh doanh trên phương diện là doanh nghiệp nhà nước và là xí nghiệp liên hợp dược của địa phương Hà Nội, dưới sự lãnh đạo có tính chủ đạo bao cấp của sở y tế Hà Nội và UBND thành phố Hà Nội. Đã có lúc tổng số cán bộ công nhân viên của xí nghiệp LH dược Hà Nội lên tới 1.000 người với 3 xí nghiệp thành viên bao gồm: - Xí nghiệp Quảng An chuyên sản xuất dầu cao, rượu cao đơn hoàn tán - Xí nghiệp Thịnh Hào chuyên sản xuất các loại thuốc viên, ống tân dược - Xí nghiệp dược liệu sản xuất và bán các loại thuốc đông dược cùng với các hiệu bán buôn, bán lẽ trên 7 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành, các điểm thu mua thuốc tân dược theo các đường tiểu ngạch tại các cửa khẩu như Nội Bài, Hải Phòng Với ưu thế độc quyền trong sản xuất kinh doanh trong những năm dưới thời kỳ bao cấp, XNLH dược Hà Nội đã trải qua thời kỳ hoàng kim của mình. Qua một thời gian dài hoạt động theo mô hình XNLH đã bộc lộ rõ những ưu điểm và nhược điểm của mình như sau: Khép kín được khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, giảm bớt được chi phí lưu thông, bớt dược các khâu trung gian dẫn tới thuế sản xuất kinh doanh được giảm bớt và giá thành các loại thuốc y tế giảm, thống nhất quản lý về một mối không bị giàn trải Bên cạnh những ưu điểm đó thì mô hình XNLH cũng bộc lộ một số nhược điểm trong đó nhược điểm đáng chú ý nhất là các nhà lãnh đạo không quản lý, quán xuyến hết các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Điều đó cũng có nghĩa là cán bộ lãnh đạo của xí nghiệp không đủ trình độ, kiến thức để quản lý một doanh nghiệp lớn như vậy trong cơ chế thị trường Ngoài ra khâu sản xuất kinh doanh khép kín đã triệt tiêu nhiều tính năng động của xí nghiệp và đã xuất hiện nhiều yếu tố trì trệ. Do đó đến năm 1991 trải qua một thời gian hoạt động trong cơ chế thị trường và rút kinh nghiệm của doanh nghiệp bạn tại các tỉnh Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh và được sự đồng ý của sở y tế Hà Nội, UBND thành phố Hà Nội, XNLH dược được thành phố Hà Nôi đã chính thức ngừng hoạt động theo quyết định 2194 QĐ-UB ngày 20-11-1994 của UBND thành phố Hà Nội và được chia làm 3 doanh nghiệp + Công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội(Ha pharco) Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là kinh doanh phân phối dược phẩm đến tay người tiêu dùng. Trụ sở chính tại số 2 Hàng bài + Xí nghiệp dược phẩm Hà Nội(Pharma Hà Nội ) Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất thuốc tân dược. Trụ sở chính tại 119 Đê La Thành + Xí nghiệp kính mắt Hà Nội( Hà Nội Optic) Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất kinh doanh các sản phẩm kính. Trụ sở chính tại 48 Tràng Tiền Kể từ năm 1991 đến này, công ty dược phẩm và thiết bị y tế hà nội được chính thức công nhận là doanh nghiệp nhà nước, hoạt động kinh doanh với 100% vốn nhà nước cấp. Công ty được hạch toán kinh doanh độc lập dưới sự quản lý chuyên môn của sở y tế Hà Nội. Hiện nay tuy số cán bộ công nhân viên của công ty không còn có quy mô lớn như ngày trước nhưng Hapharco vẫn là một công ty có số cán bộ công nhân viên khá đông Tổng số cán bộ công nhân viên có đến ngày 31/12/2000là 413 người. Trong đó số người có trình độ đại học và trên đại học là 114 người ( bao gồm các ngành dược, cử nhân kinh tế, kỹ sư cơ khí) Sau khi ổn định về tổ chức và nhận thấy được các mặt yếu kém nên ban lãnh đạo công ty đã kịp thời đỗi mới và nhanh chóng nắm bắt thị trường và thích nghi với điều kiện mớivà từng bước khẳng định chỗ đứng của mình 1.2. Các mối quan hệ kinh tế của công ty Hapharco Kể từ năm1991 đến năm 1993, công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội chỉ là một công ty địa phương đóng trên địa bàn Hà Nội vừa mới xoá bỏ bao cấp, chuyên sản xuất, cung cấp các loại thuốc thông thường và phân phối hàng viện trợ của nước ngoài (chủ yếu là các loại thuốc) Khách hàng của công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà nội (Hapharco) chủ yếu bao gồm các bệnh viện trực thuộc Hà Nội và các bệnh viện tuyến trung ương nằm trên địa bàn Hà Nội. Đây là nhóm khách hàng thường xuyên và tin cậy của công ty, nhóm khách hàng này đem lại doanh thu tương đối ổn định cho công ty, ngoài ra các quầy bán lẽ cũng có doanh thu khá cao nhưng không ổn định lắm Từ khi công ty được cấp giấy phép xuất nhập khẩu (ngày 23/03/1993) để trực tiếp xuất nhập khẩu với nước ngoài thì đã có nhiều công ty dược phẩm, thiết bị y tế của nước ngoài đến tìm hiểu và cộng tác với công ty Hapharco. Mối quan hệ này được thể hiện dưới nhiều hình thức, đem lại cho công ty nhiều khoản hoa hồng và doanh thu lớn. Sau nhiều năm không ngừng phấn đấu vươn lên và khẳng định chỗ đứng của mình với chủ trương của công ty là luôn giữ uy tín đối với khách hàng, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Đến này công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội là một trong năm công ty dược phẩm Việt Nam được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp với số lượng mặt hàng phong phú, đáp ứng tương đối đầy đủ yêu cầu cho cả những khách hàng khó tính nhất. Hiện nay công ty Hapharco có tới 1/2 của toàn bộ số công ty dược phẩm nước ngoài tại Việt nam tới cộng tác trong việc kinh doanh xuất nhập khẩu và sản xuất hàng hoá từ các thị trường Mỹ, Bắc Âu, Hàn quốc, Trung Quốc... như: - Shanghai medicines & health product IMP & EXP corporation (của Trung Quốc) - Bayer PTE. LTD ( của Singapore) - Berlin Chemic AG ( của CHLB Đức) - Korea Green cross corporation( của Hàn Quốc) - Phone Poulenc ( của Pháp) - EBEWE – Health CARe Pharmaceuticals Inter.Ltd - Chemical work Gedeon richter Ltd - B.Braun medical industrial SDN BHD. 2- Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của công ty và các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của công ty Công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội (Ha pharco) là doanh nghiệp nhà nước 100% vốn ngân sách, được hạch toán kinh doanh độc lập dưới sự quản lý về chuyên môn của sở y tế Hà Nội và sự lãnh đạo về chính quyền của UBND thành phố Hà Nội 2.1- Nhiệm vụ của công ty: Là cung cấp, kinh doanh, phân phối các dược phẩm, thiết bị y tế dưới dạng nguyên liệu và thành phẩm đến các cơ sở sản xuất thuốc hay mạng lưới bán lẽ để phục vụ nhu cầu chữa bệnh của nhân dân thành phố Hà Nội. Đảm bảo các yêu cầu của lãnh đạo Hà Nội về trừ diệt tận gốc mọi ổ bệnh dịch phát sinh tại địa bàn Hà Nội. Kinh doanh và kinh doanh có lãi các mặt hàng thuốc y tế, liên tục giám sát kiểm nghiệm các loại thuốc trên địa bàn Hà Nội. 2.2- Chức năng của công ty: Công ty dược phép tổ chức mạng lưới kinh doamh bán buôn, bán lẻ các mặt hàng thuốc y tế trên địa bàn Hà Nội với danh nghĩa là nhà phân phối thuốc độc quyền đaị lý, được pha chế theo đơn, gia công bào chế đóng gói thuốc, XNK các mặt hàng dược liệu, hoá chất, mỹ phẩm và trang thiết bị y tế. Được liên doanh, liên kết với các đơn vị, cá nhân trong và ngoài nước để kinh doanh và sản xuất thuốc 2.3. Những lĩnh vực hoạt động chính của công ty Kể từ năm 1991, công ty Hapharco là một doanh nghiệp nhà nước chính thức hoạt động trong lĩnh vực thương mại là chủ yếu, cũng như các doanh nghiệp khác, công ty tiến hành kinh doanh nhằm mục đích thu được nhiều lợi nhuận, chính vì vậy công ty đã tìm mọi cách để tăng mức doanh thu của mình. Tuy là một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh dược phẩm và thiết bị y tế – một lĩnh vực luôn phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước mà cụ thể là Bộ y tế và Sở Y tế Hà Nội. Nhưng với sự năng động nhạy bén, thích ứng nhanh với cơ chế thị trường của cán bộ công nhân viên, công ty dẫ không ngừng mở rộng và phát triển phạm vi kinh doanh của mình. Cụ thể là: - Về mặt hàng thuốc tân dược: Thuốc tân dược là loại hàng hoá kinh doanh đặc biệt mà không phải cá nhân hay đơn vị nào cũng được phép kinh doanh. Loại hành này chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài bởi thị trường thuốc tân dược do trong nước sản xuất chiếm tỷ lệ rất nhỏ (các công ty dược phẩm Việt nam không có khả năng sản xuất hoặc có nhưng chủ yếu chỉ là các loại thuốc thông thường như Vitamin C, Vitamin B1...không có khả năng chữa những bệnh hiểm nghèo, và không có uy tín trên thị trường). Song thời gian gần đây, các công ty sản xuất thuốc Việt Nam đã không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, Bộ y tế có chủ trương hạn chế nhập khẩu các loại thuốc tân dược mà các xí nghiệp trong nước có khả năng sản xuất và đã thông qua kiểm nghiệm chất lượng của Bộ y tế như thuốc kháng sinh Ambeciline, Tetraciline... nhằm bảo hộ thị trường thuốc nội địa. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho lượng hàng nhập khẩu của công ty có phần giảm sút Bên cạnh việc nhập khẩu những loại thuốc tân dược ở trong nước không sản xuất được hoặc là sản xuất được ít công ty cũng tiến hành sản xuất các loại thuốc đơn giản để thoã mãn nhu cầu thị trường đồng thời tăng lợi nhuận cho công ty - Về mặt hàng mỹ phẩm-hoá chất: Hiện nay công ty đang kinh doanh các loại mỹ phẩm và hoá chất của các hãng KISSME và LEPHADERM của Pháp bao gồm các loại mỹ phẩm thông thường như son, phấn, các loại kem dưỡng da... Ngoài ra, công ty còn kinh doanh các loại mỹ phẩm mang tính đặc trị như kem phấn trang điểm có thuốc trị trứng cá, có khả năng xoá nốt tàn nhang... Những loại mỹ phẩm này có giá thành cao nhưng vẫn được nhiều người tiêu dùng chấp nhận - Về vật tư và thiết bị y tế: Công ty nhập khẩu và kinh doanh các loại vật tư, thiết bị y tế phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh. Chính nguồn vật tư này đã đáp ứng nhu cầu cho hầu hết các bệnh viện và các phòng khám tư nhân như panh, máy nội soi, siêu âm, ống nghe... - Về dịch vụ kiều hối: Ngoài hoạt động kinh doanh chính là thuốc tân dược và thiết bị y tế ra, công ty còn tiến hành kinh doanh và nhận làm đại diện cho các công ty khác ở Việt Nam để đứng ra giao dịch xuất nhập khẩu với nước ngoài. Dịch vụ này đã đem lại cho công ty một khoản lợi nhuận không nhỏ - Công ty tiến hành liên doanh với nước ngoài để thành lập xưởng sản xuất tại Việt nam nhằm giải quyết vấn đề giá cả trong cạnh tranh Ngoài ra công ty còn king doanh mặt hàng kính mắt và nhận làm đại diện tư cách pháp nhân cho một số công ty khác không có Quota nhập khẩu để đứng ra giao dịch, kinh doanh với các công ty nước ngoài, từ đó hưởng phần trăm hoa hồng Công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội đã dược cấp giấy phép XNK số 2051034 ngày 23-3-1993 để XNK trực tiếp với hạn ngạch 5.000.000 USD/ năm 3- Cơ cấu tổ chức của công ty Đứng đầu công ty là ban giám đốc lãnh đạo trực tiếp tới từng cửa hàng. Giúp việc cho ban giám đốc có các phòng chức năng 3.1- Ban giám đốc: Gồm một giám đốc và 2 phó giám đốc - Giám đốc công ty là dược sĩ tố nghiệp đại học được sở y tế và UBND thành phố bổ nhiệm theo quyết định trên cơ sở xem xét năng lực trong quá trình công tác cùng ý kiến của công nhân viên chức trong công ty Giám đốc là người đứng đầu bộ máy quản lý của công ty, chịu tránh nhiệm chỉ huy toàn bộ bộ máy quản lý. Giám đốc có quyền quyết định và điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh theo đúng chính sách và pháp luật, là người chịu tránh nhiệm cao nhất về mọi hoạt động của công ty trong quá trình sản xuất kinh doanh. Giám đốc cũng là người có tránh nhiệm tổ chức và giám sát hệ thống quản lý của công ty. - Phó giám đốc kinh doanh và XNK: Là người giúp việc cho giám đốc về khâu kinh doanh, kỹ thuật và công tác xuất nhập khẩu, căn cứ vào nhu cầu thị trường về tình hình sử dụng thuốc mà quyết định kế hoạch mua bán. Phát hiện và nắm bắt các nhu cầu hiện tại cũng như tương lai, hoạch định kế hoạch liên doanh, liên kết, uỷ thác làm marketing, phụ tránh dịch vụ kiều hối Đây là nhiệm vụ rất nặng nề đòi hỏi người phó giám đốc phải có tính năng động và phải đầu tư trí tuệ lớn. Phó GĐ là người chịu tránh nhiệm về công việc của mình trước GĐ công ty - Phó GĐ phụ tránh tài chính – kế toán: Phó GĐ phụ tránh tài chính – kế toán cũng đồng thời là kế toán trưởng của công ty là cử nhân kinh tế đã công tác lâu năm taị các hiệu thuốc cơ sở, có nhiệm vụ điều hành tổ chức toàn bộ hệ thống tài chính – kế toán của công ty. Đó là người có nhiệm vụ tham mưu cho GĐ về nghiệp vụ và các chính sách tài chính theo đúng chế độ hiện hành của nhà nước, giám sát chặt chẽ hệ thống kiểm soát nội bộ của công ty, quyết toán các hợp đồng kinh tế Phó GĐ chịu tránh nhiệm về các hoạt động tài chính của công ty trước GĐ 3.2. Các phòng chức ban năng 3.2.1. Nhiệm vụ của các phòng chức năng: + Chấp hành và kiểm tra việc chấp hành các chỉ tiêu kế hoạch, các chế độ chính sách của nhà nước, các nội quy của công ty và chỉ thị mệnh lệnh của ban giám đốc + Phục vụ đắc lực cho việc sản xuất kinh doanh của công ty + Đề xuất với ban giám đốc những chủ trương biện pháp để giải quyết những khó khăn gặp phải trong quá trình kinh doanh và tăng cường công tác quản lý 3.2.2. Phòng tổ chức hành chính: - Bộ phận tổ chức: Quản lý toàn bộ hồ sơ, số liệu về quá trình hình thành và hoạt động của công ty cũng như hồ sơ của các thành viên trong công ty, quản lý lao động và giải quyết các chính sách cho người lao động. bổ nhiệm các chức năng lao động, thực hiện chức năng và ra quyết định tăng lương từ chức vụ phó giám đốc trở xuống. Bộ phận này do GĐ phụ tránh. - Bộ phận hành chính: Đảm bảo các cơ sở vật chất trong văn phòng công ty, quản lý cơ sở vật chất, thực hiện các công việc hành chính như tiếp khách, văn thư, đánh máy. - Ban bảo vệ có nhiệm vụ bảo vệ tại công ty và các cửa hàng - Ban xây dựng thiết kế 3.2.3. Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu Trưởng phòng là phó GĐ phụ tránh kinh doanh xuất nhập khẩu. Ngoài trưởng phòng còn có hai phó phòng cùng các nhân viên cung tiêu, viết hoá đơn, làm giá, làm hợp đồng kinh tế, tất cả đều tốt nghiệp Đại học Phòng kinh doanh có tránh nhiệm lập kế hoạch mua bán hàng hoá và kế hoạch tiêu thụ hàng hoá cho các đơn vị bạn và khách hàng. Phân phối thuốc xuống các hiệu thuốc, xuống các cửa hàng bán lẽ, đưa và nhận nguyên liệu, thành phẩm đi gia công chế biến. Nhận làm uỷ thác XNK thuốc và máy móc thiết bị y tế cho các đơn vị bạn Các đơn vị trực thuộc phòng kinh doanh xuất nhập khẩu bao gồm các ban sau: - Bộ phận xuất nhập khẩu: Được đặt dưới sự lãnh đạo của phó GĐ kiêm trưởng phòng kinh doanh phụ tránh xuất nhập khẩu. Bộ phận này có nhiệm vụ theo dõi các hợp đồng xuất nhập khẩu, hoàn thành các thủ tục xuất nhập khẩu theo luật pháp và các tiêu chuẩn của nhà nước - Bộ phận marketing: Được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của phó trưởng phòng. Có nhiệm vụ tìm kiếm thị trường, quảng cáo, hướng dẫn các phương pháp sử dụng thuốc. Làm đại lý độc quyền cho các hãng thuốc nước ngoài, tham gia bán và quảng cáo thuốc tại các hội chợ triễn lãm, đi sâu đi sát các nhu cầu nguyện vọng của khách hàng. Ngoài ra phòng kinh doanh còn trực tiếp quản lý bán buôn, quầy độc lập tại hội chợ thuốc 31 Láng Hạ và triển lãm Giảng Võ - Bộ phận kiều hối: Trực tiếp lãnh đạo bộ phận kiều hối là phó GĐ kiêm trưởng phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong thời kỳ bao cấp, bộ phận này phát triển mạnh nhưng kể từ khi chuyể._.phẩm của khoa học nhưng nó lại được sử dụng cho nhu cầu chữa bệnh hơn là mục đích kinh tế. Chính vì vậy mà trong trong việc nhập khẩu các sản phẩm này chưa được nhà nước quan tâm một cách đúng mức dẫn đến những khó khăn mà công ty phải gánh chịu. - Là một công ty có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài nên giá vốn hàng bán của công ty luôn chịu sự chi phối của tỷ giá ngoại tệ, việc đồng nội tệ mất giá trên thị trường thế giới đã gây ra không ít khó khăn cho công ty, nó làm cho giá vốn hàng bán của công ty tăng lên, buộc công ty phải tăng giá bán hàng hoá dãn đến doanh thu của công ty không đảm bảo mức kế hoạch đề ra. - Với vai trò là một doanh nghiệp nhà nước chuyên kinh doanh dược phẩm và thiết bị y tế - một loại hàng hoá đặc biệt. Chính vì vậy mà công ty luôn phải có tránh nhiệm trong các vấn đề xã hội. Công ty luôn phải dự trữ một lượng hàng hoá theo đúng yêu cầu của nhà nước để đề phòng thiên tai, bệnh dịch, nhiều khi loại hàng hoá này phải lưu dữ trong kho của công ty trong một thời gian dài, một mặt nó dẫn đến có một số hàng hoá hết hạn sử dụng gây lãng phí mà công ty phải tự bù lỗ, mặt khác nó làm tăng chi phí dự trữ cho công ty làm giảm hiệu quả kinh doanh. Phần III : Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội Mục tiêu và phương hướng chung của công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội trong thời gian tới Mục tiêu của công ty Là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ y tế, công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội là một đơn vị có vai trò quan trọng trong việc đưa ngành y tế của Hà nội nói riêng và của cả nước nói chung từng bước được hiện đại hoá đáp ứng nhu cầu chữa bệnh của nhân dân. Vì thế công ty vừa là một đơn vị hoạt động kinh tế vừa là một đơn vị hoạt động xã hội. Vì vậy những mục tiêu mà công ty đặt ra vừa phải đảm bảo hiệu quả kinh tế vừa phải đảm bảo hiệu quả xã hội. Mục tiêu kinh tế của công ty trong thời gian tới được thể hiện tổng quát qua biểu sau: Biểu 11: Các chỉ tiêu phản ánh mục tiêu của công ty trong thời gian tới Đơn vị: 1000 VNĐ Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2005 Tổng doanh thu 290.000.000 400.000.000 Tổng chi phí 285.000.000 390.000.000 Lợi nhuận trước thuế 2.500.000 4.000.000 Thu nhập bình quân tháng/ người 800 1.200 2. Phương hướng của công ty trong thời gian tới Trong thời gian vừa qua, việc sử dụng vốn của công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội đã đạt được một số kết quả nhất định. Song bên cạnh đó việc quản lý, sử dụng vốn của công ty chưa được tốt mới chỉ đảm bảo cho công ty an toàn về mặt tài chính nhưng hiệu quả kinh doanh chưa cao Từ thực tế đó bước sang năm 2001, để quản lý và khai thác sử dụng tốt hơn các nguồn vốn, công ty đã đề ra một số phương án sau: Thứ nhất: tăng cường đầu tư chiều sâu cho hoạt động tìm kiếm thị trường, tìm hiểu kỹ hơn về nhu cầu khách hàng. Thị trường Hiện nay của công ty chủ yếu là các bệnh viện và hiệu thuốc tại Hà nội và tại các tỉnh miền Bắc những các tỉnh vùng sâu vùng xa chưa được khai thác. Do vậy mục tiêu trong thời gian tới của công ty là phải thâm nhập thị trường này. Tại đây thu nhập của người dân còn thấp nhưng nhu cầu về thuốc chữa bệnh lại khá cao. Đây là một hướng đi đúng bởi nó sẽ giải quyết được vấn đề chi phí kinh doanh, giảm bớt được sự lệ thuộc vào tỷ giá ngoại tệ, đồng thời nó cũng phù hợp với chủ trương của bộ y tế và nó cũng kết hợp được lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội Bên cạnh đó công ty cũng lập kế hoạch chấn chỉnh hoạt động của các khâu cho đồng bộ từ lúc dự đoán nhu cầu, lập kế hoạch nhập khẩu, làm hợp đồng kinh tế, giao nhận và phân phối hàng hoá, đối chiếu các khoản phải thu, tiết kiệm các khoản chi phí. Đây cũng là một khâu rất quan trọng trong công tác tổ chức hoạt động kinh doanh. Để thực hiện được điều này đòi hỏi công ty phải có những biện pháp nhất quán, thống nhất, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận và các cá nhân trong doanh nghiệp. Thứ hai: Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề an toàn người cho người tiêu dùng, xuất phát từ chủ trương đặt sức khoẻ người tiêu dùng lên hàng đầu, bên cạnh việc hoàn thiện thị trường kinh doanh, công ty cũng chú ý đến việc quản lý chất lượng các sản phẩm của mình đang và sẽ lưu hành trên thị trường. Thông qua hệ thống máy móc thiết bị hiện đại, đội ngũ nhân viên phòng kỹ thuật sẽ đảm nhiệm công việc kiểm tra chất lượng các loại thuốc đang và sẽ lưu hành trên thị trường nhằm ngăn chặn các sản phẩm kém chất lượng, các loại hàng giả trước khi các sản phẩm này đến tay người tiêu dùng. Thứ ba: Hoàn thiện việc phân cấp, phân công quản lý, công ty đã chủ động giao việc cụ thể cho từng đơn vị trực thuộc. Ngày 05 hàng tháng, kế toán của từng đơn vị có đối chiếu cụ thể về doanh thu cũng như các khoản công nợ, các khoản phải thu với phòng tài vụ- kế toán của công ty để có kế hoạch xúc tiến việc thu hồi. Về mặt tài sản cố định, công ty đã lập biên bản bàn giao cụ thể cho từng bộ và cá nhân trong việc bảo quản và giữ gìn, tránh tình trạng hư hỏng, mất mát. Ngoài ra công ty cũng sẽ lập kế hoạch kiểm tra từng loại tài sản trong từng quý. Thứ tư: Điều chỉnh giá bán hàng hoá cho phù hợp với giá nhập khẩu hàng hoá bởi vì công ty là một đơn vị chuyên kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu - một lĩnh vực vốn có rất nhiều lệ thuộc vào tỷ giá ngoại tệ. Từ nét đặc thù đó, công ty đã lập chương trình hành động cụ thể, kịp thời điều chỉnh giá hàng bán để phù hợp với ngoại tệ nhập khẩu đẩm bảo tỷ lệ lãi suất của công ty, tránh tình trạng mất giá của đồng tiền làm giảm vốn trong quá trình kinh doanh. Đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Thứ năm: Khai thác triệt để hơn các nguồn vốn mà công ty đang có. Công ty nhận thấy rằng hiện nay nguồn vốn chủ sở hữu trong cơ cấu tổng nguồn vốn của công ty còn quá ít. Điều đó nó cũng có những mặt tích cực nhưng công ty phải chịu chi phí cao dẫn đến giá vốn hàng bán cuả công ty tăng mạnh, mặt khác làm cho khả năng tự chủ về tài chính của công ty giảm xuống. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần phải thu hẹp khoảng cách này. II- Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội Trên cơ sở phân tích hiệu quả sử dụng vốn tại công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội trong một số năm qua và những mục tiêu mà công ty đề ra trong thời gian tới em xin mạnh dạn đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty. Đầu tư phát triển chiều sâu hợp lý và có trọng điểm. Trong những năm vừa qua tình hình phát triển của công ty đã đạt được những kết quả nhất định. Nhưng trong năm qua chúng ta thấy rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty có chiều hướng đi xuống so với các năm trước, đó là do sự đầu tư của công ty không mang lại kết quả khả quan. Vì vậy trong thời gian tới công ty phải đầu tư trên cơ sở dự đoán nắm bắt nhu cầu thị trường, từ đó đưa ra những giải pháp đúng đắn, tạo ra sự tăng trưởng đồng bộ giúp công ty chiếm lĩnh thị trường đồng thời chiếm lĩnh vai trò chủ đạo của nước trong lĩnh vực dược phẩm - thiết bị y tế. Để thực hiện được mục tiêu năm 2001 để từ đó làm tiền đề cho việc thực hiện mục tiêu năm 2005 thì trong năm tới một mặt công ty nên tăng nguồn vốn kinh doanh. Trong cơ cấu tổng nguồn vốn công ty nên chú trọng đầu tư cho vốn lưu động, vì trong năm 2000 lượng vốn cố định của công ty đã tăng lên một cách đáng kể nhưng chưa phát huy hết năng lực của nó. Chỉ nên đầu tư thêm dụng cụ thiết bị quản lý ở các cửa hàng để thu thập và xử lý thông tin. Trong nguồn vốn huy động thêm công ty nên chú ý nên hạn chế nguồn vốn vay ngắn hạn, một mặt nhằm giảm chi phí, mặt khác làm tăng khả năng tự chủ về tài chính cho công ty. Với mục tiêu doanh thu năm 2001 là 290.000 triệu đồng thì các con số cụ thể công ty cần phải đạt được về hiệu quả sử dụng vốn thể hiện ở biểu sau: Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 So sánh Doanh thu thuần Triệu đồng 268.096 289.997 21.901 Tổng vốn: Vốn cố định Vốn lưu động Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng 105.157 4.963 100.194 107.406 4982 102.424 2.249 19 2.230 Số vòng quay của vốn toàn bộ Vòng 2.55 2.7 0,15 Hiệu suất sử dụng VCĐ đồng 54,01 58,2 4,19 Số vòng quay của VLĐ vòng 2,69 2,82 0,13 Nếu như công ty đạt được những chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn đã nêu ra trong năm 2001 thì công ty đã tiết kiệm được một lượng vốn là 6.318 triệu đồng so với lượng vốn cần có để đạt mục tiêu với các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn năm 2000. Trên cơ sở những kết quả đạt được trong năm 2001, giai đoạn tiếp theo công ty nên tiếp tục bổ sung nguồn vốn kinh doanh của mình bằng nguồn vốn tự có và nguồn vốn vay ngắn hạn để mở rộng quy mô kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu dài hạn trong năm 2005. Để thực hiện được điều này bên cạnh giải pháp đó trong thời gian tới công ty cần xây dựng cho mình một chiến lược dài hạn. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng Hiện nay, mặt khác chính phủ vừa mới ban hành quyết định số 46/2001/ QĐ- TTg ban hành ngày 4/4/2001 về quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá, nhằm hoàn thiện hơn nữa chính sách xuất nhập khẩu. Vì vậy thay việc xây dựng kế hoạch nhập khẩu hàng năm công ty phải xây dựng cho mình một chiến lược dài hạn trong 5 năm nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu Trong những năm qua doanh thu của công ty chủ yếu là nguồn tiêu thụ tân dược, nguồn này luôn đạt doanh thu cao nhất (chiếm tỷ lệ khoảng 50- 60% trong tổng doanh thu của công ty), tiếp đến là mặt hàng y cụ, thiết bị y tế (chiếm khoảng 35-45% doanh thu) còn lại là các hàng hoá khác và nguyên vật liệu nhập về để bán cho các công ty sản xuất thuốc trong nước. Công ty nên tránh tình trạng nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được nhằm giảm chi phí vận chuyển, chi phí giao dịch, chí phí dự trữ..., tiếp tục phát huy nhập những thiết bị y tế trong nước còn thiếu và cần thiết cho việc khám chữa bệnh, góp phần nâng cao trình độ và khả năng khám chữa bệnh cho ngành y tế quốc gia. Lĩnh vực hoá mỹ phẩm mà công ty kinh doanh có rất nhiều nhà cạnh tranh nên doanh thu của công ty trong lĩnh vực này cũng rất hạn chế nhưng chi phí cho mặt hàng này là tương đối lớn. Vì vậy trong cơ cấu vốn đầu tư cho từng mặt hàng đặc biệt là vốn lưu động có ý nghĩa rất quan trọng, nó tránh được tình trạng lãng phí của cải vật chất và lao động góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh Tiến hành các biện pháp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá. Đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá giúp công ty tăng nhanh số vòng quay của vốn và giảm được các chi phí về dự trữ. Đây là một biện pháp quan trọng để có thể đạt được những mục tiêu nêu trên. Trong năm 2000 doanh thu của công ty có chiều hướng đi xuống tương đối với lượng vốn được bổ sung vào sản xuất kinh doanh hay nói một cách khác là công ty chưa khai thác hết những tiềm lực sẵn có của mình. Chính điều này đã làm tăng số vòng quay của vốn, suất hao phí của vốn, giảm hiệu quả sử dụng vốn của công ty và kết quả cuối cùng là đã làm mất một phần lợi nhuận quan trọng của công ty. Vì vậy vấn đề làm sao để đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá làm tăng doanh thu cho công ty là một vấn đề cấp bách hiện nay. Trên cơ sở lượng vốn đầu tư cho kinh doanh từng mặt hàng mà công ty chú trọng vào doanh thu của từng mặt hàng đó để có thể đem lại hiệu quả cao nhất, khi mà hiện nay Bộ y tế chủ trương hạn chế nhập khẩu những hàng hoá mà trong nước đã có khả năng sản xuất thì công ty nên chú trọng đầu tư đúng mức đối với các loại nguyên vật liệu nhập khẩu để bán cho các công ty sản xuất thuốc trong nước, còn đối với các loại thiết bị dụng cụ y tế công ty nên chú ý đến tình hình tài chính của các đơn vị có nhu cầu. Hiện nay hầu hết các đơn vị sử dụng các thiết bị y tế đều bị hạn chế về vốn, vì vậy cân nhắc đúng tình hình tài chính của các đơn vị đó giúp cho công ty tránh được tình trạng lãng phí vốn, giảm được các khoản phải thu, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Cụ thể doanh thu của từng mặt hàng trong năm 2001 của công ty được thể hiện ở bảng sau: Loại mặt hàng Đơn vị Doanh thu Thuốc: Thuốc chữa bệnh Thuốc bổ Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng 159.500 95.700 63.800 Thiết bị y tế Triệu đồng 55.825 Nguyên vật liệu Triệu đồng 11.165 Hàng hoá khác Triệu đồng 4.785 Để đạt được mục tiêu doanh thu nói chung và mục tiêu doanh thu của từng loại mặt hàng nói riêng, thì trong năm tới công ty phải xác định được thời gian vận động của hàng hoá ở mức cần thiết để dạt được doanh thu đó. Năm 2000 thời gian vận động của vật tư hàng hoá của công ty trung bình là gần 45 ngày cao hơn so với năm 1999 là hơn 3 ngày. Đây chính là một nguyên nhân chính làm cho doanh thu của công ty trong năm 2000 tăng ít hơn so với các năm trước. Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2001 Tổng doanh thu Triệu đồng 290.000 Vật tư hàng hoá tồn kho trung bình Triệu đồng 33.000 Thời gian vận động của vật tư hàng hoá Ngày 41 Trong điều kiện cạnh tranh khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường thì chi phí đề giữ một khách hàng chỉ bằng 1/3 chi phí tìm kiếm một khách hàng mới do đó trong việc mở rộng thị trường công ty phải đặc biệt quan tâm đến khách hàng truyền thống vốn có của mình. Điều này nó vừa giữ được khách hàng cho công ty vừa nâng cao uy tín của công ty trên thị trường. Để thực hiện tốt nguyên tắc đó và đạt được mục tiêu cụ thể nêu trên trong thời gian tới công ty cần áp ụng một số biện pháp sau đây: Có chính sách ưu đãi đối với những khách hàng truyền thống như có thể giảm giá, tặng quà đi kèm sản phẩm.....Đây là một công việc vô cùng quan trọng để giữ khách hàng và tạo ra một uy tín lớn đối với công ty. Để khuyến khích khách hàng sử dụng những sản phẩm mới, công ty cần mở rộng các hình thức dịch vụ tư vấn, phổ biến cách sử dụng sản phẩm. Đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng nhằm tiếp cận với khách hàng, không thụ động chờ khách hàng tìm đến. Công ty nên chú trọng vào đội ngũ Marketing để nghiên cứu, nắm bắt nhu cầu thị trường, tìm hiểu tâm lý, những khúc mắc của người tiêu dùng, qua đó cung cấp những sản phẩm thoã mãn nhu cầu của khách hàng Khuyến khích lực lượng bán hàng chú trọng đến việc thu thập thông tin từ phía khách hàng. Đây là một việc làm hết sức quan trọng, nó xảy ra hàng ngày và thường xuyên thay đỗi. Nắm bắt được những thông tin cập nhật từ khách hàng công ty sẽ có những điều chỉnh kịp thời tránh được tình trạng vấn đề không được giải quyết lâu ngày dẫn đến mất khách hàng. Tiến hành các biện pháp hạn chế tình trạng chiếm dụng vốn Trong năm 2000 chúng ta thấy lượng vốn công ty bị chiếm dụng là khá lớn chiếm tỷ trọng gần 35% trong tổng vốn lưu động, tăng gần 117% so với năm 1999. Thời gian để thu hồi các khản phải thu trung bình là 46,7 ngày. Chính tình trạng bị chiếm dụng vốn quá nhiều này đã dẫn đến công ty phải đi vay ngắn hạn để có đủ lượng vốn lưu động cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh, chi phí tăng lên, làm giảm số vòng quay của vốn lưu động dẫn đến giảm hiệu quả kinh doanh của công ty. Lượng vốn bị chiếm dụng nhiều một mặt là do công ty muốn nhanh chóng mở rộng thị trường của mình nên đã bán chiụ cho khách hàng khá nhiều, mặt khác là công ty không quan tâm đúng mức đến việc thu hồi. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần phải hoạch định cho mình một kế hoạch cụ thể về các khoản phải thu, nhằm đạt được hiệu quả sử dụng vốn như trên đã nêu. Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2001 Tổng doanh thu Triệu đồng 290.000 Các khoản phải thu trung bình Triệu đồng 33.800 Thời gian thu hồi các khoản phải thu Ngày 42 Thực hiện được mục tiêu trong năm 2001 thì công ty sẽ dễ dàng hơn trong việc thực hiện mục tiêu dài hạn năm 2005. Nhưng để có thể thực hiện được những mục tiêu cụ thể đó trong thời gian tới công ty nên tiến hành một số biện pháp sau: Đánh giá đúng lượng nhu cầu của thị trường trong từng khu vực để có kế hoạch phân phối hàng hoá tránh tình trạng nơi thừa nơi thiếu dẫn tới tăng chi phí vận chuyển, bảo quản dự trữ. Để dự đoán đúng nhu cầu thuốc của từng thị trường công ty có thể sử dụng phương pháp dựa trên cơ sử quản lý các dịch vụ y tế. Nội dung của phương pháp này bao gồm: + Dựa trên số liệu đăng ký hành nghề của tất cả các đơn vị thuộc dịch vụ y tế nhà nước hay dịch vụ y tế tư nhân. +Chi tiết hoá đầy đủ các loạ hình dịch vụ y tế có dùng thuốc: - Chuẩn đoán bệnh - Điều trị bệnh nội trú - Điều trị bệnh ngoại trú. - Dịch vụ sinh đẻ, kế hoạch hoá gia đình - Dịch vụ tai, mũi, họng, nha khoa.... + Quản lý được tình trạng bệnh của dân cư địa phương, tính toán số lượt bệnh nhân, số loại bệnh nhân của các loại bệnh tật. +Dựa vào kỹ thuật điều trị và thực tế sử dụng thuốc qua số liệu nhập, sử dụng +Phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu thuốc kỳ tới Cùng với việc đánh giá khả năng cung ứng của các công ty cùng ngành và chiến lược của công ty để đưa ra từng thị trường một lượng hàng hoá phù hợp. Đánh giá đúng tình hình tài chính của bạn hàng khách hàng trước khi ký kết hợp đồng nhằm hạn chế tới mức thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra. Trong hợp đồng kinh tế cần quy định rõ về các khoản thế chấp, các khoản phạt do chậm thanh toán. Trong khi thực hiện hợp đồng cần có các biện pháp nhắc nhở, thúc giục để đối tác thực hiện những cam kết đã ghi trong hợp đồng, tích cực thực hiện công tác thu hồi các khoản phải thu. Điều chỉnh kịp thời giá bán hàng Trong tình hình biến động của tình hình kinh tế thế giới, đồng tiền Việt nam rất hay bị giảm giá trị, điều đó cũng đồng nghĩa với việc giá vốn hàng bán của các công ty nhập khẩu nói chung và công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội nói riêng, bởi nó sẽ làm tăng chi phí cho công ty trong khi giá bán hàng hoá lại ít thay đỗi hay thay đỗi rất ít. Vì vậy chỉ cần một sự biến động rất nhỏ của tỷ giá ngoại tệ có thể ảnh hưởng rất xấu đến lợi nhuận của công ty. Do đó công ty cần có những biện pháp điều chỉnh giá bán hợp lý đối với sự thay đỗi của tỷ giá hối đoái, nếu như công ty nâng mức giá bán quá cao thì sẽ làm giảm lượng hàng hoá tiêu thụ còn nếu như ở mức giá thấp thì công ty sẽ mất đi một khoản lợi nhuận tương đối lớn của mình. Bên cạnh việc điều chỉnh giá bán thì không phải lúc nào và trong trường hợp nào cũng có thể làm được. Cho nên công ty cần tìm cho mình một thị trường tiêu thụ hàng nội (hàng do công ty sản xuất được) như mở rộng mạng lưới bán hàng ra các tỉnh vùng sâu vùng xa. Nếu công ty làm được điều đó thì sẽ giúp cho công ty giảm bớt được sự lệ thuộc vào tỷ giá ngoại tệ và giảm được chi phí kinh doanh Tiến hành trích, phân bổ và sử dụng quỹ khấu hao hợp lý Hiện nay công ty đang trích khấu hao theo quy chế ban hành kèm theo quyết định số 1062 và áp dụng thời gian trích khấu hao theo khung thời gian cũ. Cho nên công ty nên áp dụng khung thời gian mới theo quy định số 166/1999/QĐ-BTC (ban hành ngày 30/12/1999) Hiện nay công ty đang áp dụng ty lệ khấu hao cho từng nhóm tài sản cố định, nhưng trong số tài sản cố định của công ty nhà cửa vật kiến trúc luôn chiếm một tỷ trọng lớn, mà đó là một loại tài sản cố định khấu hao lâu năm do đó tỷ lệ khấu hao thấp dẫn đến tỷ lệ khấu hao nói chung của tài sản cố định là thấp. Việc tăng tỷ lệ khấu hao không những cũng sẽ giúp cho công ty nhanh thu hồi vốn cố định mà còn giúp chi công ty giảm được một khoản thuế thu nhập phải nộp. Vì vậy trong thờ gian tới công ty nên tăng tỷ lệ khấu hao bình quân lên 10%. Nếu như trong năm 2000 tỷ lệ khấu hao của công ty là 10 % thì ta sẽ tính được số tiền công ty tiết kiệm được sẽ là như sau: Chỉ tiêu Tỷ lệ khấu hao 5,2% Tỷ lệ khấu hao 10% Doanh thu thuần 268.095.566 268.095.566 Chi phí không kể khấu hao 265.639.213 265.639.213 Lãi không kể khấu hao 2.456.353 2.456.353 Khấu hao 258.905 496.327 Thu nhập chịu thuế 2.197.448 1.960.026 Thu nhập ròng 1.494.264 1.332.817 Luồng tiền thu vào sau thuế 1.753.169 1.829.144 Như vậy trong năm 2000 nếu công ty tăng tỷ lệ khấu hao lên 10% thì công ty sẽ tiết kiệm được một khoản thuế thu nhập phải nộp là (2.197.448.000 - 1.960.026.000)x32% = 75.975.000 VNĐ. Số tiền này được công ty thu lại cho vào quỹ khấu hao của công ty. Do vậy mặc dù lợi nhuận của công ty tuy có giảm xuống nhưng thực chất số tiền công ty thu vào đã tăng gần 76 triệu đồng. 6. Nâng cao trình độ người lao động và Tăng cường chính sách khuyến khích vật chất Con người là yếu tố quyết định đến sự phát triển lâu dài của mỗi doanh nghiệp. Mục tiêu của công ty là có một đội ngũ nhân viên đứng bán hàng có trình độ đại học, vì vậy trong thời gian tới công ty cần đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại những nhân viên của công ty chưa đủ tiêu chuẩn nêu trên. Một vấn đề mà công ty chưa chú trọng đúng mức đó là năng lực của đội ngũ trình dược viên, có thể nói rằng năng lực của đội ngũ trình dược viên có ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng thị trường tăng doanh thu cho công ty. Hiện nay đội ngũ trình dược viên của công ty vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, vì vậy trong thời gian tới công ty cần tuyển chọn những nhân viên đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành dược phẩm có năng lực, trẻ, nhiệt tình cho đi học thêm về kiến thức marketing tại các trường đại học, có thể theo hình thức tại chức hoặc văn bằng hai và tạo điều kiện về vật chất cũng như tinh thần cho họ trong quá trình học tập Khi các bộ phận và cá nhân được giao kế hoạch và doanh số bán hàng theo từng nhóm mặt hàng trong từng tháng, quý, hoặc năm thì từng bộ phận, cá nhân đó sẽ có nhận thức, có phương hướng phấn đấu hoàn thành kế hoạch được giao. Để thực hiện được điều đó thì phải có chính sách khen thưởng, khuyến khích vật chất phù hợp, đây là một là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để khuyến khích người lao động làm việc và cống hiến hết mình cho công ty, họ cảm thấy mình là một phần không thể thiếu được của công ty, và những đóng góp của họ được công ty ghi nhận và họ được một phần thưởng xứng đáng với những công sức mà họ đã bỏ ra. Khi một bộ phận, cá nhân hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu đề ra, công ty nên áp dụng hình thức khen thưởng luỹ tiến (phần thưởng sẽ tăng dần theo tỷ lệ tương ứng với mức phần trăm hoàn thành vượt kế hoạch). Tuy nhiên bên cạnh chính sách khen thưởng công ty cũng cần áp dụng các biện pháp kỹ luật đối với những cá nhân, bộ phận không hoàn thành kế hoạch những cá nhân vi phạm điều lệ, nội quy, quy phạm của công ty 7. Tăng cường hơn nữa công tác phân công phân cấp quản lý Là một doanh nghiệp hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương mại, công ty cần có phương thức hoạt động cần thiết là phải lập kế hoạch khoán doanh số cho từng bộ phận. Vì vậy công ty cần tăng cường công tác giám sát, quản lý mạng lưới bán buôn, bán lẽ, các đơn vị trực thuộc công ty tránh tình trạng chỉ chăm lo đến phát triển mà dẫn đến không kiểm soát nỗi, gây thất thoát tài sản, hàng hoá cho công ty. Muốn vậy công ty nên áp dụng một biện pháp quản lý giám sát đơn giản là khoán cho từng bộ phận, từng bộ phận lại giao khoán khu vực cho từng cá nhân hoặc khoán nhóm sản phẩm thành những nhóm nhỏ để tạo điều kiện chiếm lĩnh thị trường, tăng cường các hoạt động bán hàng nhằm tăng doanh thu cho công ty. Cách này sẽ giúp cho công ty dễ quản lý được số lượng, doanh thu. Qua đó công ty có thể điều chỉnh giữa các khâu sao cho phù hợp với thị hiếu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu một cách nhanh nhất và hợp lý. 8. Đẩy mạnh vai trò của bộ phận tài chính kế toán trong công ty đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Bộ phận tài chính của công ty là nơi đánh giá cuối cùng về hiệu quả tổng hợp sử dụng vốn, tài sản. Hàng năm định kỳ vào ngày 31/12 sẽ tiến hành kiểm kê đánh giá lại tài sản theo yêu cầu của nhà nước cũng như bản thân công ty, xác định đúng giá trị của từng loại tài sản. Bộ phận quản lý tài chính của công ty phải tiến hành công việc kiểm tra các chế độ sử dụng vốn. Có thể nói rằng có một vai trò rất quan trọng trong việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Hiện nay công tác công tác tài chinh kế toán của công ty còn khá lỏng lẻo, các thủ tục còn nhiều phức tạp tốn nhiều thời gian và tiền của, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Vì vậy trong những năm tới cần đẩy mạnh vai trò của hệ thống kế toán tài chính, thực hiện tốt nhiệm vụ và chức năng của mình. Thông qua đó ban giám đốc có được những quyết định chính xác, kịp thời trong quá trình sản xuất kinh doanh. Muốn thực hiện được điều đó công ty cần áp dụng một số giải pháp sau đây: - Hoàn thiện hơn nữa hệ thống sổ sách theo dõi tình hình biến động về tài sản và vốn, báo cáo tình hình tài chính, tránh việc đầu tư tràn lan không có trọng điểm hoặc không mang lại hiệu quả. Tình hình tài chính tốt, sổ sách rõ ràng có thể giúp công ty vay vốn mở rông hoạt động kinh doanh hoặc thu hút vốn thông qua các hình thức liên kết liên doanh Tính mức khấu hao, phân bổ khấu hao cho từng đối tượng sử dụng và sử dụng tiền khấu hao một cách hợp lý, xây dựng kế hoạch tu bổ tài sản cố định Thực hiện đối chiếu số liệu của mình với từng đơn vị cá nhân, đánh giá chính xác các số liệu đó theo định kỳ từng tháng. Đưa ra phương thức huy động vốn, chuẩn bị tốt ngoại tệ cho công tác nhập khẩu hàng hoá. Sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont trong công tác quản trị tài chính trong công ty. Một số kiến nghị với nhà nước Những mục tiêu, phương hướng và những biện pháp đề ra sẽ không đạt hiệu quả cao nếu bị ảnh hưởng không tốt của môi trường vĩ mô trong đó những chính sách kinh tế của nhà nước có một vai trò quan trọng. Vì vậy để công ty có thể đạt được những mục tiêu cũng như tạo việc thuận lợi cho quá trình tiến hành các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước cần phải xem xét, điều chỉnh những vấn đề sau: - Cần có một chính sách đúng đắn đối với hàng nhập khẩu. Đứng trước nguy cơ hàng ngoại tràn lan. Bộ y tế đã có những chỉ thị hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng mà trong nước có thể sản xuất được. Đây là một chỉ thị đúng đắn nhằm bảo vệ thị trường thuốc nội địa, tạo điều kiện cho nền công nghiệp dược phẩm trong nước phát triển. Song điều này lại gây khó khăn cho công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội. Trên thực tế, nền công nghiệp dược phẩm của nước ta Hiện nay đang phát triển, việc áp dụng những dây chuyền sản xuất có công nghệ hiện đại còn một số hạn chế nên chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng. Hiện nay ngành công nghiệp dược Việt Nam chủ yếu là công nghiệp bào chế, hiện có 99 doanh nghiệp nhà nước bào chế thuốc tân dược, phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó 12 doanh nghiệp thuộc tổng công ty dược Việt Nam, 6 doanh nghiệp thuộc các Bộ khác và 72 doanh nghiệp địa phương, nhìn chung tình trạng về máy móc thiết bị là khá lạc hậu - Trình độ công nghệ lạc hâu 81,8% - Trình độ công nghệ trung bình 5,5% - Trình độ công nghệ khá 11,8% - Trình độ công nghệ tốt 1,6% Vì vậy trong thời gian tới Bộ y tế cần có những giải pháp tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty dược phẩm có đủ điều kiện nhập thêm một số mặt hàng mà trong nước sản xuất chưa đạt được chất lượng tốt để phục vụ nhu cầu chữa bệnh cũng như tăng thêm lợi nhuận cho các công ty . Ngoài ra, để phòng ngừa các tệ nạn xã hội, một số loại biệt dược đã bị nhà nước kiểm soát chặt chẽ, hạn chế nhập khẩu. Nhưng nếu những loại biệt dược này được sử dụng đúng mục đích thì chúng lại có những tác dụng rất tốt đối với người bệnh. Chính vì vậy nhà nước đã làm giảm số lượng một loại mặt hàng mà nhu cầu trong nước rất cần và công ty có khả năng cung cấp. Vì vậy nhà nước cần có sự điều chỉnh hợp lý giữa lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế nhằm tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. Là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động động trong lĩnh vực dược phẩm và thiết bị y tế nên công ty phải xây dựng một quy chuẩn về mục tiêu xã hội, là công cụ cho công tác xã hội. Một số mặt hàng đặc chủng phục vụ cho việc ngăn chặn các bệnh sịch, các bệnh xã hội cần loại bỏ, một số thuốc dự trữ cho thiên tai, phòng chống lũ lụt.... luôn được dự trữ tại kho của công ty. Đây là một lượng hàng hoá lớn, nhiều khi phải nằm trong kho trong một thời gian dài trở nên quá thời hạn sử dụng, công ty phải bỏ đi cộng thêm với chi phí dự trữ. Nhưng phần vốn này công ty vẫn phải chịu và không được nhà nước bù lỗ. Thiết nghĩ đây là một vấn đề mà nhà nước cần quan tâm giải quyết tạo điều kiện cho công ty tién hành hoạt động kinh doanh của mình một cách thuận lợi. Trên thị trường Hiện nay có rất nhiều thuôc giả đang được lưu hành. Đây là một vấn đề cần phải được ngăn chặn kịp thời, nó không những ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ người tiêu dùng mà còn làm giảm uy tín, doanh thu cho công ty. Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cần phải có những biện pháp nghiêm khắc đối với những tổ chức, cá nhân sản xuất và buôn bán thuốc giả trên thị trường Nhà nước cần cố gắng điều chỉnh tỷ giá hối đoái ở mức ổn định. Điều này có lợi cho các doanh nghiệp Việt nam kể cả doanh nghiệp xuất khẩu và doanh nghiệp nhập khẩu, nó giúp doanh nghiệp giảm bớt sự lệ thuộc vào tỷ giá ngoại tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Kết luận Hiệu quả sử dụng vốn là một trong những vấn đề trọng tâm mà bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị cũng phải quan tâm. Vì vậy mà nó đòi hỏi các nhà quản trị phải luôn tìm ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Kỳ vọng để có được một lợi thế cạnh tranh vượt trội so với các doanh nghiệp trong ngành của công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội là chưa rõ ràng. Mặc dù đã dạt được một số thành quả nhất định song còn nhiều vấn đề phải giải quyết trong công ty trong đó có vấn đề hiệu quả sử dụng vốn. Điều đó đòi hỏi công ty phải cố gắng nhiềuhơn trong quá trình hoạt động của mình, tìm ra những biện pháp thích hợp nhất, tối ưu nhất nhằm hoàn thiện công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đó là nhiệm vụ tối cần thiết và được đạt ra như một nhiệm vụ để tồn tại, đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Trong thời gian thực tập tuy không phải là nhiều song em cũng mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty dược phẩm và thiết bị y tế Hà Nội. Do thời gian cũng như trình độ kiến thức của em còn hạn chế, nên vấn đề này chưa được đề cập một cách đúng mức, do đó nó cần phải được ngiên cứu thêm. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.s Trần Thị Thạch Liên đã giúp em hoàn thành luận văn này ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0146.doc
Tài liệu liên quan