Tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Đất nước Việt Nam hiện nay đang được biết đến như một quốc gia ổn định về chính trị, tăng trưởng ngoạn mục về kinh tế, với mức tăng trưởng 8,5% trong năm 2007, cao nhất trong hơn 10 trở lại đây. Để đạt được những thành tựu kinh tế như vậy không thể không kể đến sự đóng góp đáng kể của cộng đồng các doanh nghiệp mà đặc biệt là các DNV&N (hiện đang chiếm 96% trong tổng số gần 250 nghìn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và hoạt động theo Luật doanh nghiệp; chiếm 99% số ... Ebook Mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1226 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, 25% tổng đầu tư xã hội và thu hút khoảng 77% lực lượng lao động phi nông nghiệp).
Xác định được tầm quan trọng của DNV&N đối với phát triển kinh tế đất nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, 5 năm trở lại đây, Chính phủ đã có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình doanh nghiệp này. Có thể thấy rõ, hệ thống pháp luật, môi trường kinh doanh đang dần được cải thiện và ngày càng có chuyển động tích cực. Các DNV&N ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và bình đẳng hơn, tình trạng phân biệt đối xử so với các doanh nghiệp lớn giảm nhiều. Đặc biệt, ở yếu tố quan trọng, có tính chất sống còn với sự tồn tại và phát triển của các DNV&N là việc tiếp cận với các nguồn vốn đã được mở thông thoáng hơn rất nhiều so với những năm trước đây, nhiều ngân hàng đã xác định cho vay DNV&N là một bước “chuyển đổi tích cực” trong cơ cấu tài sản.
Nhưng theo kết quả điều tra do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương phối hợp với Tổ chức Danida (Đan Mạch) tiến hành năm 2007 với 2.800 DNV&N tại 10 tỉnh, thành phố cho thấy trong những trở ngại mà DN gặp phải thì thiếu vốn, ít khả năng tiếp cận vốn là vấn đề nghiêm trọng nhất. Hầu hết các DNV&N đang rất lao đao trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Khoảng 35-45% doanh nghiệp tin tưởng nộp hồ sơ vay vốn thường xuyên nhưng 19% gặp khó khăn và đã bị ngân hàng từ chối. Số doanh nghiệp còn lại cũng có nhu cầu vay không thường xuyên, nhưng một số cũng gặp trở ngại trong thủ tục tiếp cận và nâng tỷ lệ gặp khó khăn tín dụng lên mức 26,5%.
Bài toán Ngân hàng – DNV&N đến khi nào mới giải được để khơi thông nguồn vốn hỗ trợ cho 96% doanh nghiệp Việt Nam phát triển ?
Đứng trước thực tế đó, trong thời gian thực tập, nghiên cứu, tìm hiểu tại phòng tín dụng 3 Sở giao dịch của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam em đã quyết định lực chọn đề tài: “Mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” làm chuyên đề thực tập cho mình.
Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết chung về hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, cùng với việc phân tích thực trạng hoạt động cho vay tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, em xin được phép đưa ra một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với DNV&N.
Kết cấu chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu và tài liệu tham khảo, nội dung chuyên đề gồm 3 chương sau:
Chương I: Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa vừ nhỏ tại Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
Chương I
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Với sự hiện hữu của ngân hàng, chúng ta có thể nhận được những khoản vay trả góp để thanh toán cho việc mua sắm những tiện nghi trong gia đình hay để trang trải học phí, đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh…Bên cạnh đó ngân hàng cũng là địa chỉ tin cậy nếu như chúng ta muốn nhận được sự tư vấn về đầu tư, kinh doanh chứng khoán…hay sử dụng các dịch vụ bảo hiểm, bảo lãnh, những dịch vụ ngân hàng hiện đại như homebanking, phonebanking....Có thể nói ngân hàng với hệ thống chân rết len lỏi đến tất cả mọi nơi trên thế giới có thể tác động đến sự phát triển của mọi lĩnh vực trong một nền kinh tế.
Ngày nay, hoạt động ngân hàng không ngừng phát triển, sự phát triển ấy có thể nhận thấy trên tất cả các phương diện, từ sự mở rộng mạng lưới cho đến sự ra đời của rất nhiều sản phẩm dịch vụ mới…Tuy nhiên, càng ngày ngân hàng càng phải đương đầu với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn. Thực tế là, rất nhiều các tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty kinh doanh bất động sản…đều đang cố gắng cung cấp những dịch vụ ngân hàng. Để đối phó, ngân hàng cũng mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ của mình, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm… Vì vậy để có thể phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính khác thì cách tiếp cận thận trọng nhất có thể xem xét là trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng thương mại cung cấp. Bằng cách tiếp cận này thì có thể hiểu:
Ngân hàng thương mại là loại tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Tại Việt Nam, theo điều 20 luật các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi năm 2004: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Trong đó hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Hiểu một cách đơn giản nhất, cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi trong một khoảng thời gian xác định.
Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu: doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay trong kỳ. Dư nợ cuối kỳ là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ.
Khả năng cho vay của ngân hàng chính là lý do cơ bản để ngân hàng được các cơ quan quản lý Nhà nước cấp giấy phép hoạt động. Nhà nước kỳ vọng ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển của địa phương thông qua việc cung cấp tín dụng, đáp ứng nhu cầu tài chính của doanh nghiệp và người tiêu dùng ở một mức lãi suất hợp lý. Hoạt động cho vay của ngân hàng có mối liên hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế.
Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay thường chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 1/3 nguồn thu của ngân hàng. Đồng thời, rủi ro của hoạt động ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay. Tình trạng khó khăn về mặt tài chính của một ngân hàng thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi, bắt nguồn từ một số nguyên nhân như: quản lý yếu kém, cho vay không tuân thủ đúng nguyên tắc tín dụng, chính sách tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến của nền kinh tế…
Đối tượng cho vay của NHTM.
Ngân hàng xem xét cho vay các đối tượng sau:
Giá trị vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị bao gồm cả thuế giá trị gia tăng và các khoản chi phí để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống…
Nhu cầu tài chính của khách hàng: Số tiền thuế xuất khẩu, nhập khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng đối với lô hàng nhập khẩu…
Các đối tượng cho vay khác như: Cho vay góp vốn thành lập công ty liên doanh; Cho vay trả lãi tiền vay trong thời hạn thi công...
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Khái niệm
Ở mỗi nước khác nhau quan niệm về DNV&N cũng khác nhau. Nhưng hiểu một cách chung nhất thì DNV&N là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu.
Trong thực tế, phần lớn các nước đều sử dụng hai tiêu thức vốn điều lệ và số lao động thường xuyên để xác định DNV&N. Chúng ta có thể thấy rõ tiêu thức phân loại của các nước thông qua bảng sau đây:
Bảng 1.1. Tiêu thức xác định DNV&N tại một số quốc gia
Nước
Số lao động
Tổng vốn
Doanh thu
Thái lan
< 100
< 20 triệu Baht
Indonesia
< 100
0.6 tỷ Rupi
< 2 tỷ Rupi
Hàn Quốc
< 300 trong công nghiệp, xây dựng.
< 200 trong thương mại, dịch vụ
<0.6 triệu USD
0.25 triệu USD
< 1.4 triệu USD
Đài Loan
< 300 trong công nghiệp, xây dựng.
< 50 trong thương mại, dịch vụ
1.4 triệu USD
< 1.4 triệu USD
Nhật Bản
< 100 trong bán buôn.
< 50 trong bán lẻ.
< 30 triệu yên.
< 10 triệu yên
Canada
< 500 trong công nghiệp, dịch vụ
< 20 triệu đô la Canada
(Nguồn: Kỷ yếu khoa học, dự án chính sách hỗ trợ phát triển DNV&N ở Việt Nam, Học viện chính trị quốc gia HCM, Hà Nội, 1996)
Tại Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001: “DNV&N là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỉ đồng hoặc số lao động trung bình hằng năm không quá 300 người”.
Với tiêu thức xác định DNV&N này thì ở Việt Nam hiện nay có khoảng 80% các doanh nghiệp nhà nước thuộc nhóm các DNV&N và trong khu vực kinh tế tư nhân, các DNV&N chiếm khoảng 97% về vốn và khoảng 99% về lao động.
Phân loại.
DNV&N có thể được chia thành ba loại căn cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động.
Một cách phân loại khác được các NHTM Việt Nam sử dụng hiện nay để có thể dễ dàng hơn cho việc đánh giá, xếp hạng, quản lý khách hàng doanh nghiệp là phân loại theo ngành nghề kinh doanh. Theo tiêu thức này thì DNV&N được chia thành 4 loại:
Doanh nghiệp hoạt động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp.
Doanh nghiệp hoạt động trong ngành thương mại, dịch vụ.
Doanh nghiệp hoạt động trong ngành xây dựng.
Doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp.
Vai trò của DNV&N
Ở mỗi nền kinh tế của mỗi quốc gia hay lãnh thổ khác nhau, các DNV&N có thể giữ những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò tương đồng như sau:
Góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm
Các DNV&N thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp. Vì vậy đóng góp của của họ này vào tổng sản lượng và việc tạo việc làm là rất lớn. Ngay như ở Mỹ - một đất nước mà ở đó có những cái tên như Microsoft, IBM hay Ford nổi tiếng toàn cầu – các DNV&N vẫn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Điều này thể hiện ở con số 40% GDP của nước Mỹ là nhờ sự đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực này.
Theo số liệu thống kê của các nước Châu Á cũng cho thấy tỷ trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các DNV&N ở các nước này cũng rất đáng kể. Các DNV&N thường chiếm khoảng 81% - 98% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, thu hút 30-60% lao động và tạo ra 20-40% giá trị gia tăng trong nền kinh tế.
Bảng 1.2 Khả năng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các DNV&N
Nước
Thu hút lao động
Giá trị gia tăng
Singapore
35.2%
26.6%
Malaisia
47.8%
36.4%
Hàn Quốc
37.2%
21.1%
Nhật Bản
35.2%
38*%
Tại Việt Nam, theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2007 cho thấy, các DNV&N hiện chiếm 96% trong tổng số gần 250 nghìn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và hoạt động theo luật doanh nghiệp; 99% số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp (chiếm khoảng 25% tổng số lao động trong cả nước) đồng thời cũng đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách quốc gia và chi phối hầu hết các hoạt động phân phối (bán lẻ) của cả nước (chiếm tỷ trọng khoảng 80%).
Góp phần ổn định nền kinh tế
Ở phần lớn các nền kinh tế, các DNV&N là những nhà thầu của những doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, các DNV&N được ví như là thanh giảm sốc cho nền kinh tế.
Tác nhân giúp cho nền kinh tế năng động hơn
Vì có quy mô nhỏ về vốn và lao động, nên các DNV&N dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động của mình. Khi ngành nghề kinh doanh mà doanh nghiệp đang hoạt động gặp nhiều khó khăn, doanh nghiệp có thể nhanh chóng chuyển hướng kinh doanh, thay đổi ngành nghề kinh doanh, cơ cấu sản phẩm…Mặt khác, do quy mô nhỏ nên tốc độ tăng trưởng, mở rộng quy mô hoạt động của doanh nghiệp thường cao, khả năng thu hồi vốn nhanh chóng góp phần đáng kể trong việc tạo nên một nền kinh tế năng động.
Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng
Các DNV&N thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh, đây là cơ sở hình thành nên ngành công nghiệp phụ trợ có tác động rất lớn đến sự phát triển của ngành công nghiệp chính. Ví dụ: Có thể kể đến những tập đoàn lớn như Boeing hay Microsoft, những tập đoàn này cũng không thể hoạt động đơn lẻ mà phải có sự hợp tác với các công ty có quy mô vừa và nhỏ trong việc sản xuất phụ kiện phụ trợ cho sản phẩm chính.
Là trụ cột của kinh tế địa phương
Nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế lớn của đất nước, thì DNV&N lại có mặt ở khắp các địa phương và chính là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách của địa phương, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
Trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, các DNV&N còn đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần gìn giữ và phát triển những làng nghề truyền thống, tích tụ vốn là cơ sở hình thành những doanh nghiệp lớn.
Đặc điểm của DNV&N
Quy mô nhỏ về cả vốn và số lượng lao động
Một cuộc điều tra quy mô được Cục phát triển DNV&N (thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư) tiến hành năm 2005 với sự tham gia của hơn 63 nghìn doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía Bắc cho thấy: gần 50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, gần 75% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 2 tỷ đồng và 90% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ đồng.
Và cho đến năm 2007, trong số 250 nghìn doanh nghiệp vẫn có đến 40% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ đồng.
Do có quy mô nhỏ bé về cả vốn và lao động nên các DNV&N còn có hàng loạt các đặc điểm sau:
Vì quy mô đầu tư vốn ban đầu nhỏ nên thời gian thu hồi vốn của các DNV&N nhanh, hiệu quả sử dụng vốn cao.
Các doanh nghiệp rất nhanh nhạy đối với những thay đổi của thị trường, dễ dàng chuyển đổi loại hình kinh doanh cũng như cơ cấu sản phẩm. Đây là một lợi thế của các DNV&N so với các doanh nghiệp lớn.
Tuy vậy, chính quy mô sản xuất nhỏ dẫn đến chi phí sản xuất của các DNV&N lại khá cao, kiểu dáng sản phẩm đơn điệu, chất lượng sản phẩm thấp và thiếu mạng lưới phân phối, tiếp thị nên các DNV&N rất khó tiếp cận trực tiếp được với thị trường nước ngoài.
Loại hình kinh doanh đa dạng
Các DNV&N tham gia kinh doanh với mọi hình thức trong mọi ngành nghề khác nhau vì vậy có thể xen vào tất cả các “khe” của thị trường, phục vụ mọi nhu cầu phát sinh của nền kinh tế, lấp vào khoảng trống của các doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng.
Bộ máy tổ chức gọn nhẹ
Với bộ máy tổ chức gọn nhẹ, cơ chế quản lý linh hoạt, các DNV&N có thể áp dụng được nhiều mô hình quản lý khác nhau góp phần làm giảm thiểu chi phí quản lý, giảm thủ tục hành chính và dễ dàng chuyển đổi hình thức kinh doanh.
Hạn chế về vốn
Hạn chế về vốn là đặc điểm chung của đại đa số các DNV&N. Trong khi các doanh nghiệp lớn có khả năng thu hút vốn bằng nhiều cách khác nhau như: phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay vốn ngân hàng…thì các DNV&N lại chỉ loay hoay trong việc sử dụng vốn chủ sở hữu. Một mặt vì những khó khăn, trở ngại trong việc tiếp xúc với nguồn vốn vay. Mặt khác thường là các DNV&N không đủ điều kiện để tham gia thu hút vốn trên thị trường chứng khoán.
Thiếu minh bạch trong việc xác định tài sản cá nhân và tài sản pháp nhân
Rất nhiều DNV&N, nhất là các công ty trách nhiệm hữu hạn, tài sản pháp nhân và tài sản cá nhân lẫn lộn, thiếu minh bạch nên ngân hàng rất khó thẩm định, đánh giá về năng lực thực sự của doanh nghiệp. Nguyên nhân của hiện tượng này chính là do trình độ học vấn và sự kém hiểu biết cán bộ quản lý doanh nghiệp.
Hệ thống báo cáo tài chính không có hoặc thiếu minh bạch
Các DNV&N thường bán hàng không có hợp đồng kinh tế, không tuân chủ chế độ phát hành hóa đơn bán hàng. Hệ thống sổ sách kế toán, nội dung và phương pháp hạch toán kế toán của doanh nghiệp không đầy đủ, thiếu chính xác và minh bạch. Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp thường được xây dựng chỉ mang tính chất đối phó với cơ quan thuế. Doanh nghiệp không xác định được dòng tiền lưu chuyển bởi vậy nếu nộp đơn xin vay vốn ngân hàng cũng không thể tính toán được đúng khả năng trả nợ trong tương lai.
Trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ thấp
Một thực trạng phổ biến trong các DNV&N hiện nay là hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu, khoảng 15-20 năm trong ngành điện tử, 20 năm đối với ngành cơ khí, 70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 20 năm. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế giới. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới.
Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn từ 30 - 50% so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá thành cao và năng suất thấp.
Đội ngũ lao động thiếu trình độ
Một trong những khó khăn hiện nay của các DNV&N gặp phải là thiếu đội ngũ lao động có trình độ, có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Có thể nói trình độ học vấn của cả người lao động và của chủ các DNV&N là rất thấp.
Theo thống kê năm 2006, trong số hơn 25% lao động có chuyên môn thì chỉ 6% lao động có trình độ cao đẳng và đại học. Chủ doanh nghiệp có trình độ Đại học cũng chỉ khoảng 2%. Về cơ bản, đội ngũ này mới được hình thành những năm 90, còn thiếu kinh nghiệm nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường. Quy mô nhỏ lại luôn khó khăn về vốn nên hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa không đủ kinh phí để đầu tư, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động.
Đây là một lực cản mà tất cả các doanh nghiệp đều gặp và cần phải quyết tâm vượt qua vì sự tồn tại của bộ phận doanh nghiệp này trong điều kiện hội nhập hiện nay.
Vai trò của hoạt động cho vay DNV&N
Đối với DNV&N
Thứ nhất, vốn vay NHTM là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ hỗ trợ sự ra đời và phát triển của các DNV&N. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh thông tin, nhân lực và công nghệ, một trong những nhu cầu không thể thiếu của doanh nghiệp là vốn. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thường dựa các nguồn chủ yếu là vốn chủ sở hữu, vốn vay ưu đãi, vốn vay phi chính thức và vốn vay ngân hàng. Một mặt, do vốn chủ sở hữu của các DNV&N thấp lại không đủ điều kiện để tham gia thu hút vốn trên thị trường chứng khoán. Mặt khác, không phải DNV&N nào cũng nhận được nguồn vốn vay phi chính thức từ người thân, bạn bè…và nếu có được nhận thì nguồn này cũng rất ít ỏi; đối với nguồn vốn vay ưu đãi thì thủ tục xin vay vốn lại khá rườm rà, phức tạp, yêu cầu có tài sản thế chấp và phí môi giới để được hưởng khoản vay cao khiến các doanh nghiệp nản lòng. Vì vậy, có thể nói vốn vay ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với các DNV&N, không những trong việc hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hoạt động và phát triển mà ngay từ khi thành lập, nếu không có nguồn hỗ trợ tích cực của tín dụng từ ngân hàng thì nhiều doanh nghiệp cực kỳ khó khăn trong việc thành lập và hoạt động ban đầu.
Thứ hai, vốn vay NHTM là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Để được vay vốn ngân hàng, buộc các doanh nghiệp phải nâng cao uy tín cũng như hiệu quả hoạt động của mình đồng thời cũng phải xây dựng được những phương án kinh doanh có hiệu quả hoặc dự án đầu tư khả thi. Bên cạnh đó với áp lực của việc phải hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng các doanh nghiệp cũng phải tính toán và lập ra được phương án trả nợ hiệu quả nhất.
Thứ ba, hoạt động cho vay của NHTM góp phần hình thành đồng bộ hệ thống các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” cho các DNV&N. Đa số các DNV&N có vốn lưu động rất thấp so với nhu cầu cần thiết. Nguồn vốn để mua vật tư, hàng hoá dự trữ cho sản xuất kinh doanh chủ yếu được bù đắp bằng vốn vay NHTM. Mặt khác, hoạt động cho vay của NHTM cũng tác động mạnh mẽ vào việc tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp thông qua mở rộng cho vay tiêu dùng, cho vay hoặc bảo lãnh để các tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá.
Đối với NHTM
Hiện nay, ở Việt Nam, có nhiều ngân hàng đã rất tích cực tiếp thị vốn ngân hàng đến cộng đồng các DNV&N qua các cuộc hội thảo hoặc đối thoại trực tiếp với các doanh nghiệp ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Nguyên nhân là do các ngân hàng đã nhận thức được vai trò của việc mở rộng cho vay đối với đối tượng doanh nghiệp này.
Thị trường khách hàng tiềm năng: Trước đây, những ngân hàng lớn thường không chú trọng cho vay đối với các DNV&N vì họ tin rằng các khoản cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này nói chung có quy mô nhỏ với rủi ro lại tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Song, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt buộc các ngân hàng phải hướng tới DNV&N như là một khách hàng quan trọng và tiềm năng. Hiện nay, rất nhiều ngân hàng đã xác định cho vay DNV&N là đối tượng khách hàng chiến lược của mình như Agribank, Vietcombank, VP bank...
Cho vay đối với DNV&N phân tán được rủi ro. Do số lượng các doanh nghiệp rất lớn, ngành nghề kinh doanh lại rất đa dạng, thêm vào đó những khoản vay của các doanh nghiệp lại không quá tập trung vốn vì vậy việc cho vay đối với DNV&N có thể phân tán được rủi ro. Việc một hoặc một số doanh nghiệp gặp khó khăn cũng thường không đem lại hậu quả quá lớn đối với hoạt động của ngân hàng.
Mặt khác, không như các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn có quan hệ với nhiều ngân hàng cùng một lúc, các DNV&N thường có quan hệ với chỉ một hoặc hai ngân hàng. Vì vậy ngân hàng có thể cung cấp và thu phí trọn gói các dịch vụ tài chính của mình như vừa thực hiện việc cho vay vừa cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính...
Thêm vào đó, do quy mô doanh nghiệp tương đối nhỏ gọn, địa bàn hoạt động của các doanh nghiệp cũng thường nằm trong một địa phương xác định, vì vậy dễ dàng hơn cho ngân hàng trong việc tìm hiểu thông tin về doanh nghiệp cũng như quản lý việc vay vốn, sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Phân loại hoạt động cho vay đối với DNV&N.
Phân loại theo hình thức đảm bảo tiền vay.
Cho vay đảm bảo bằng tài sản.
Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc tài sản của bên thứ ba
Cầm cố là hình thức theo đó doanh nghiệp vay vốn (hoặc bên thứ ba) phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian vay vốn.
Thế chấp là hình thức theo đó doanh nghiệp (hoặc bên thứ ba) phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu các tài sản đảm bảo sang ngân hàng nắm giữ trong thời gian vay vốn.
Ngân hàng thường yêu cầu đảm bảo bằng hình thức cầm cố khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản đảm bảo không an toàn cho ngân hàng. Thường đó là những tài sản dễ bán, dễ chuyển nhượng như chứng khoán, ngoại tệ mạnh, kim khí quý... Song, nhiều tài sản của khách hàng tuy trở thành tài sản đảm bảo cho các khoản vay của ngân hàng nhưng vẫn phải tham gia vào quá trình hoạt động của doanh nghiệp ví dụ như máy móc, trang thiết bị, nhà đất…vì vậy không thể dùng để cầm cố. Mặt khác, các tài sản này thường cồng kềnh, phân tán, hơn nữa việc chuyển giao lại cho ngân hàng nắm giữ lại không đơn giản vì vậy đảm bảo bằng thế chấp rất phổ biến.
Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay
Ví dụ: khi ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn để nhập khẩu hàng hóa nhưng giá trị tài sản đảm bảo của doanh nghiệp không đáng kể, thì số hàng hóa hình thành từ vốn vay có thể trở thành tài sản đảm bảo cho khoản vay ngân hàng.
Đây là biện pháp cuối cùng để ngân hàng có thể hạn chế việc doanh nghiệp bán tài sản được hình thành từ vốn vay. Tuy nhiên khi doanh nghiệp không có khả năng trả nợ thì phần lớn các tài sản này cũng đều bị giảm giá, khó bán. Do đó cách thức bảo đảm này thường áp dụng cho các doanh nghiệp mà các tài sản đảm bảo khác có ít, hoặc không thể trở thành tài sản đảm bảo cho ngân hàng.
Cho vay không có tài sản đảm bảo
Cho vay vốn có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội
Bảo lãnh vay vốn là việc người thứ ba cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện được. Đối với người bảo lãnh có uy tín, ví dụ như Chính phủ, các tổ chức tài chính lớn…ngân hàng chấp nhận hình thức bảo lãnh bằng uy tín của người thứ ba mà không cần tài sản đảm bảo.
Hiện nay tại Việt Nam, những DNV&N có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có khả năng hoàn trả vốn vay; có tổng giá trị tài sản thế chấp, cầm cố tại tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật tối thiểu bằng 30% giá trị khoản vay, không có các khoản nợ thuế, nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức kinh tế khác sẽ được Quỹ bảo lãnh tín dụng các tỉnh thành trực thuộc trung ương cấp bảo lãnh tín dụng tối đa bằng 80% phần chênh lệch giữa giá trị khoản vay và giá trị tài sản thế chấp, cầm cố của doanh nghiệp tại tổ chức tín dụng để hỗ trợ cho doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng.
Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với doanh nghiệp có đủ điều kiện
Cho vay không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho những doanh nghiệp có uy tín, thường là những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thường xuyên có lãi, có tình hình tài chính tốt, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng…cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
Sau khi chấm điểm và xếp hạng khách hàng, những khách hàng uy tín được ngân hàng cho vay không cần tài sản đảm bảo bao gồm:
+ Đối với khách hàng nhóm AA, AAA, trong phạm vi quy định của pháp luật, của Ngân hàng Nhà nước, được BIDV xem xét cho vay, bảo lãnh tối đa đến 100% dư nợ cho vay, số dư bảo lãnh không có tài sản đảm bảo.
+ Đối với khách hàng nhóm A, BBB, trong phạm vị quy định của pháp luật, của Ngân hàng nhà nước, được BIDV xem xét cho vay không có tài sản đảm bảo bằng tài sản đối với khách hàng đến mức tối đa 40% dư nợ vay tại BIDV.
+ Đối với khách hàng nhóm B, BB, được BIDV xem xét cho vay không có tài sản đảm bảo bằng tài sản đối với khách hàng đến mức tối đa 30% dư nợ vay tại BIDV.
Phân loại theo thời gian
Phân loại theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến khả năng hoàn trả của khách hàng, tính an toàn và sinh lời của hoạt động cho vay của ngân hàng. Theo thời gian cho vay được phân thành:
Cho vay kinh doanh ngắn hạn
Các khoản cho vay ngắn hạn có thời hạn cho vay không quá 12 tháng, tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Ngân hàng có thể áp dụng cho vay từng món hoặc theo hạn mức, có hoặc không có tài sản đảm bảo, dưới hình thức thấu chi hay luân chuyển.
Cho vay ngắn hạn bao gồm các trường hợp:
Cho vay vốn lưu động: Các khoản cho vay này chủ yếu được sử dụng để tài trợ cho việc mua hàng dự trữ như nguyên liệu thô hoặc hàng hóa (thành phẩm). Các khoản cho vay này thường tận dụng chu kỳ tiền mặt thông thường trong một doanh nghiệp, kỳ hạn của khoản vay được bắt đầu tính từ khi doanh nghiệp cần vốn để đáp ứng yêu cầu mua hàng, kết thúc khi doanh nghiệp thu được tiền bán hàng và nhập vào tài khoản để trả nợ cho ngân hàng.
Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng: các khoản cho vay này cung cấp vốn cho bên thi công để thuê nhân công, thuê thiết bị xây dựng, mua nguyên vật liệu xây dựng và giải phóng mặt bằng.
Cho vay kinh doanh bán lẻ: ngân hàng hỗ trợ người tiêu dùng trong việc mua trả góp xe máy, đồ dùng gia đình, nội thất và các hàng hóa lâu bền khác bằng cách tài trợ cho các khoản phải thu mà người bán những hàng hóa này sẽ nhận được sau khi họ ký hợp đồng bán hàng trả góp.
Cho vay trên tài sản: là khoản vay được bảo đảm bằng các tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, được dự tính sẽ chuyển thành tiền mặt trong tương lai. Tài sản chủ yếu được dùng để đảm bảo cho khoản vay bao gồm các khoản phải thu, nguyên vật liệu hoặc thành phẩm tồn kho. Ngân hàng cho vay theo một tỷ lệ nhất định trên giá trị ghi sổ của tài khoản phải thu hoặc giá trị hàng tồn kho.
Cho vay trung hạn và dài hạn
Cho vay trung hạn có thời hạn cho vay từ 1 đến 5 năm, tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng, vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn…
Cho vay dài hạn là khoản vay có thời hạn cho vay trên 5 năm, tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn thường có thời gian sử dụng lâu.
Việc xác định thời hạn như trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định được trước chính xác thời hạn. Phân chia hoạt động cho vay theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tài sản.
Tỷ trọng cho vay ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại thường cao hơn cho vay trung và dài hạn: Các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của doanh nghiệp. Cho vay trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn.
Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng mở rộng hoạt động cho vay đối với DN vừa và nhỏ
Nhóm nhân tố thuộc về ngân hàng
- Chính sách tín dụng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của ngân hàng. Với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng và được xây dựng hoàn thiện qua nhiều năm, đó là chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng phản ánh định hướng tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho toàn bộ cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hóa trong hoạt động tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao kh._.ả năng sinh lời.
Chính sách khách hàng.
Thông thường, các ngân hàng thường xuyên tiến hành việc phân loại khách hàng thành khách hàng truyền thống, khách hàng quan trọng và khách hàng khác. Những khách hàng truyền thống và quan quan trọng thường được hưởng những chính sách ưu đãi của ngân hàng về nhiều mặt như thủ tục vay vốn, lãi suất... Việc ngân hàng xác định đối tượng DNV&N là đối tượng khách hàng quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng hoạt động cho vay đối với đối tượng doanh nghiệp này, doanh nghiệp sẽ có được những điều kiện ưu đãi tốt nhất để có thể tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng.
Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng.
Ngân hàng cho khách hàng vay tối đa bằng nhu cầu của khách hàng và phù hợp với các quy định dựa trên tính toán của ngân hàng về rủi ro và sinh lời. Ngoài các giới hạn do luật quy định mỗi ngân hàng còn có quy định riêng về quy mô và các giới hạn của mình. Ví dụ quy mô cho vay tối đa với từng đối tượng doanh nghiệp, từng ngành nghề kinh tế…Việc ngân hàng mở rộng giới hạn tín dụng hay chia nhỏ hạn mức cho vay đối với đối tượng khách hàng là các DNV&N cũng là một nhân tố thúc đẩy việc cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.
Chính sách về các khoản đảm bảo.
Vấn đề nổi cộm mà các DNNVV hiện đang rất khó tháo gỡ là sự "cách trở" trong việc tiếp cận các nguồn vốn để đầu tư và hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp thiếu vốn nhưng lại rất khó tiếp cận được các nguồn vay. Trong khi đó các ngân hàng đang có nhu cầu cần cho vay đối với các doanh nghiệp nhằm mở rộng thị phần và tăng thu nhập nhưng lại không thể cho vay.
Nguyên nhân lớn gây nên trở ngại này do hai bên chưa có sự đồng thuận và bảo đảm cho việc vay vốn đã tạo nền cái vòng luẩn quẩn: doanh nghiệp không đủ tài sản thế chấp, không vay được vốn, không mở rộng được sản xuất kinh doanh, không nhiều lợi nhuận và tài sản vì thế cũng chẳng có nhiều tài sản để thế chấp... đã diễn ra nhiều năm nay.
Vì vậy, những sự thay đổi trong chính sách về các khoản đảm bảo của ngân hàng ví dụ như mở rộng danh mục các tài sản có thể sư dụng làm tài sản đảm bảo, tăng tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo, mở rộng hình thức cho vay bảo lãnh…là những nhân tố tác động rất lớn đến việc mở rộng cho vay.
- Khả năng cung ứng vốn của ngân hàng
Theo V.Le Nin: “ Ngân hàng chẳng qua là một xí nghiệp đặc biệt kinh doanh tiền tệ”. Vì vậy, cũng như các doanh nghiệp thông thường, để có thể mở rộng việc tiêu thụ sản phẩm thì điều kiện cần là sản lượng sản phẩm được sản xuất ra phải đủ để cung ứng cho nhu cầu của thị trường. Tương tự như vậy đối với ngân hàng, để mở rộng hoạt động cho vay buộc các ngân hàng phải có đủ vốn để cung ứng cho việc mở rộng.
Khả năng cung ứng vốn của ngân hàng phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố như quy mô, kết cấu, tính ổn định của các khoản tiền gửi, khả năng vay mượn của ngân hàng, quy mô vốn chủ sở hữu…, sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế, sự điều tiết hoạt động của thị trường tài chính, tiền tệ do ngân hàng trung ương điều hành.
Ví dụ, trong năm 2007, khi nền kinh tế ở một số nước Đông Á như Trung Quốc, Việt Nam…tăng trưởng quá nóng, buộc Ngân hàng Trung ương phải sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt như tăng lãi suất chiết khấu, buộc các NHTM mua trái phiếu Chính phủ, hay bằng biện pháp mạnh mẽ hơn là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc (Trung Quốc đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên mức kỷ lục từ trước đến nay là 13%) đã làm giảm khả năng cung ứng vốn của các NHTM từ đó làm giảm nhiệt cho thị trường tín dụng.
- Trình độ của cán bộ ngân hàng
Chất lượng cán bộ kém không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai…là một nguyên nhân hạn chế sự mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng. Việc đánh giá và phân loại không chính xác về năng lực và tình hình hoạt động của khách hàng sẽ gây khó khăn và cản trở cho khách hàng có nhu cầu vay vốn. Ví dụ: Đánh giá quá thấp năng lực tài chính của khách hàng so với thực tế, đánh giá khách hàng chỉ qua thông tin “tĩnh” mà thiếu đi các thông tin “động”, hay việc định giá quá thấp tài sản đảm bảo của khách hàng khiến lượng vốn được vay giảm thấp hơn yêu cầu tối thiểu cần thiết khiến hiệu quả hoạt động của khách hàng giảm xuống, khả năng trả nợ của khách hàng giảm, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng.
Để có thể mở rộng hoạt động cho vay đối với DNV&N, cán bộ ngân hàng phải am hiểu đặc điểm của từng loại hình doanh nghiệp, lĩnh vực mà các doanh nghiệp tham gia kinh doanh, môi trường cạnh tranh ủa doanh nghiệp...Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay…Như vậy, họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng, liên tục và toàn diện.
Nhóm nhân tố thuộc về môi trường
- Môi trường pháp lý
Khi các ngân hàng trong hệ thống tài chính thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ tài chính khách cho khách hàng, họ phải tiến hành những công việc trong một khung pháp lý chặt chẽ được xây dựng chủ yếu để bảo vệ lợi ích của toàn xã hội. Trong đó, những quy định có liên quan đến hoạt động cho vay có ảnh hưởng rất lớn đến danh mục cho vay của ngân hàng vì danh mục cho vay có vai trò rất lớn tới sự an toàn trong hoạt động của ngân hàng.
Việc mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNV&N nhằm thúc đẩy sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ của NHNN, vào việc chính phủ có xây dựng được một môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng cho các DNV&N trong việc tiếp cận với nguồn vốn theo hướng: cơ chế chính sách phải đồng bộ; xoá bỏ những phân biệt đối xử về tín dụng, đơn giản hóa cơ chế và thủ tục hành chính của Nhà nước như vấn đề công chứng, đăng ký giao dịch đảm bảo…
Sự ổn định trong chính sách của nhà nước đối với các ngành kinh tế cũng ảnh hưởng rất lớn đến dự mở rộng cho vay đối với các DNV&N. Ví dụ Ở nước ta hiện nay chính sách trong một số ngành như: lắp ráp ô tô, xe máy, chế biến gỗ… không ổn định gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp khi đầu tư dài hạn và Ngân hàng không thể mạo hiểm mở rộng cho vay trung và dài hạn đối với những DNV&N hoạt động trong những lĩnh vực này.
-Môi trường kinh tế-xã hội
Hoạt động ngân hàng mà đặc biệt là hoạt động cho vay của ngân hàng là hoạt động cực kỳ nhạy cảm với các diễn biến của nền kinh tế. Sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế đều có tác động trực tiếp đến khả năng cung ứng tín dụng của ngân hàng cũng như nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế. Một nền kinh tế đang trên đà phát triển, một môi trường chính trị ổn định, thuận lợi là cơ hội để các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất. Nhu cầu đầu tư sản xuất tăng khiến nhu cầu vay vốn ngân hàng cũng tăng lên. Đồng thời, khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định, thu nhập của người dân cao hơn, vì vậy tiết kiệm tăng và nguồn tiền gửi vào các ngân hàng cũng dồi dào hơn. Và hoàn toàn ngược lại trng một nền kinh tế suy thoái.
-Môi trường khoa học - công nghệ
Thực tế là hiện nay phần lớn công nghệ đang được sử dụng trong các DNV&N Việt Nam đã trở nên lạc hậu từ 1-2 thế hệ. Với nhiều doanh nghiệp mua công nghệ chỉ đơn giản là mua máy móc, thiết bị. Họ không quan tâm hoặc quan tâm không đầy đủ đến các phương pháp, bí quyết sản xuất. Do ảnh hưởng của tư duy sản xuất nhỏ và phần lớn là do thiếu vốn, rất nhiều DNV&N đầu tư nhỏ giọt, làm từng phần, mỗi năm mua thêm một số máy móc, thiết bị rồi vừa làm vừa cải tiến.
Song, với xu hướng hội nhập toàn cầu cùng với tốc độ phát triển khoa học-công nghệ chóng mặt như hiện nay, sớm muộn các doanh nghiệp cũng phải giải các bài toán về công nghệ. Và lời giải cho bài toán này thuộc về sự mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng vì để có thể đổi mới công nghệ thì vấn đề đặt ra đầu tiên là vốn.
Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng
- Nhu cầu vay vốn của DNV&N
Hoạt động cho vay nhằm phục vụ nhu cầu về vốn của khách hàng. Do đó nhu cầu của khách hàng với các đặc tính khác nhau (tùy theo ngành nghề kinh doanh, loại hình doanh nghiệp…) quyết định nội dung và sự thành công của việc mở rộng hoạt động cho vay. Do những đặc điểm của loại hình DNV&N, ta có thể nhận thấy nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp tập trung vào các mặt:
Để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như hiện nay buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp, bí quyết sản xuất. Thế nhưng một thách thức có tính nội tại nhưng không phải là nhỏ của các DNV&N là: hiện nay phần lớn công nghệ do các DNV&N đang sử dụng đã lạc hậu hàng chục năm, có khi vài chục năm. Điều này dẫn đến tình trạng sản phẩm làm ra không thể đáp ứng được mẫu mã, chất lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh, đến việc nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm, làm tăng chi phí sản xuất, thậm chí ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Đồng thời làm hạn chế năng lực cạnh tranh của các DNV&N của Việt Nam. Vì vậy, hiện nay nhu cầu vay vốn trung và dài hạn để đầu tư cải tiến công nghệ của các DNV&N là rất lớn.
Thêm vào đó, đa số các DNV&N có vốn lưu động rất thấp so với nhu cầu cần thiết. Nguồn vốn để mua vật tư, hàng hoá dự trữ cho sản xuất kinh doanh chủ yếu được bù đắp bằng vốn đi vay. Đặc biệt trong điều kiện giá cả nguyên vật liệu ngày càng tăng lên nhanh chóng như hiện nay thì nhu cầu vay vốn dự trữ hàng của các DNV&N càng cấp thiết hơn.
Một trong những lực cản mà các DNV&N hiện nay đều gặp phải là thiếu đội ngũ lao động có trình độ, có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Vấn đề thiếu vốn đã làm các DNV&N không thể chủ động giải quyết nguồn nhân lực cho chính mình, ngay cả với những chủ doanh nghiệp có tầm nhìn chiến lược về vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp. Con đường chung mà các doanh nghiệp vẫn thực hiện là tìm lao động qua các Hội chợ việc làm. Nhưng thực tế qua các Hội chợ việc làm được tổ chức gần đây cho thấy, mặc dù được tuyển chọn lao động trong điều kiện thị trường việc làm rất sôi động, thì các doanh nghiệp cũng không phải dễ dàng tìm được những lao động phù hợp cho mình và nếu có tuyển dụng được thì cũng còn phải bỏ thời gian, kinh phí để đào tạo lại cho phù hợp với yêu cầu chuyên môn của doanh nghiệp
Tuy có nhu cầu về vốn vay ngân hàng rất lớn như vậy nhưng hiện nay các DNV&N vẫn thường phải vay vốn chủ yếu tới 80% từ các tổ chức phi tài chính, thân nhân và bạn bè, chỉ có 20% là vay từ nguồn tín dụng từ ngân hàng. Đôi khi, các DNV&N phải trả cho các chủ nợ phi tài chính chính thức các khoản lãi suất cao hơn từ 3 đến 6 lần so với lãi suất chính thức.
- Khả năng đáp ứng điều kiện vay vốn do ngân hàng yêu cầu
Có thể nói hầu hết các dịch vụ ngân hàng (huy động vốn, dịch vụ cho vay, đầu tư, thanh toán, bảo lãnh, cho thuê tài chính, tư vấn, quản lý tài sản...) đã đến với cộng đồng các doanh nghiệp. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất, bức xúc nhất của các DNV&N hiện nay vẫn là không đáp ứng được điều kiện vay vốn của ngân hàng bởi năng lực nội tại của các doanh nghiệp này hạn chế trong khi tiếp cận vốn ngân hàng còn gặp rất nhiều rào cản:
Một trong những nguyên nhân cơ bản xuất phát từ chính bản thân các DNV&N đó là doanh nghiệp không hiểu về cơ chế tín dụng của ngân hàng thương mại, có tâm lý sợ thủ tục vay vốn của ngân hàng rườm rà, phức tạp, việc giải quyết cho vay của ngân hàng khó khăn.
Nhiều doanh nghiệp, nhất là các công ty trách nhiệm hữu hạn, tài sản pháp nhân và tài sản cá nhân lẫn lộn, thiếu minh bạch nên ngân hàng rất khó thẩm định, đánh giá về năng lực thực sự của khách hàng.
Hệ thống sổ sách kế toán, nội dung và phương pháp hạch toán kế toán của doanh nghiệp thường không đầy đủ, chính xác và thiếu minh bạch. Hệ thống báo cáo tài chính không đầy đủ, cập nhật, kém tin cậy gây khó khăn cho ngân hàng khi đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
Năng lực tài chính nội tại của doanh nghiệp yếu, các hệ số tài chính không đảm bảo theo yêu cầu của ngân hàng, không xác định rõ ràng được dòng tiền lưu chuyển bởi vậy không tính toán được đúng khả năng trả nợ trong tương lai.
Một số lớn các DNV&N lập phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư còn mang nặng tính chủ quan, áp đặt của lãnh đạo doanh nghiệp, hoặc dựa trên kinh nghiệm thuần tuý. Tính kế hoạch, chiến lược trong hoạt động sản xuất kinh doanh không cao đặc biệt khả năng xây dựng kế hoạch tài chính, phương án kinh doanh, dự án đầu tư rất hạn chế gây càn trở cho doanh nghiệp trong việc vay vốn vì ngân hàng lại cho vay theo phương án kinh doanh hiệu quả.
Ở một số doanh nghiệp, việc điều hành sản xuất kinh doanh của lãnh đạo thiếu khoa học, mang nặng tính gia đình. Trong quan hệ với ngân hàng còn thiếu kinh nghiệm, việc bố trí cán bộ quan hệ giao dịch với ngân hàng không hợp lý, cán bộ có tư tưởng e ngại, thiếu tự tin trong quan hệ, khả năng thuyết trình, đàm phán với ngân hàng.
Chương II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI SỞ GIAO DỊCH
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
Giới thiệu về sở giao dịch BIDV
Sự ra đời
Từ ý tưởng của ban lãnh đạo BIDV: xây dựng Sở giao dịch là đơn vị trực tiếp kinh doanh của Hội sở chính, thực thi có hiệu quả các nhiệm vụ chiến lược của BIDV, từng bước trở thành đơn vị chủ lực trong hệ thống cả về quy mô và doanh số hoạt động; ngày 28/3/1991 Sở giao dịch được khai sinh theo quyết định số 76/QĐ/TCCB của tổng giám đốc ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam.
Khi mới ra đời Sở giao dịch chỉ có 2 phòng và 1 tổ nghiệp vụ nhưng vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cấp phát vốn ngân sách đầu tư cho các dự án của các bộ, ngành, đó là những dự án trải dài theo tuyến như Bưu điện, Điện lực, Đường sắt, Đường bộ, những dự án trải rộng như dự án của ngành lâm nghiệp, chè, cà phê…
Đến giai đoạn 1996-2000, thực hiện việc chuyển hướng kinh doanh sang hoạch toán kinh doanh có lãi, Sở giao dịch mở rộng quy mô hoạt động thành 12 phòng nghiệp vụ, 1 chi nhánh khu vực, 2 phòng giao dịch và 7 quỹ tiết kiệm, thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại cho đông đủ các khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế và dân cư.
Trong vòng 4 năm (2002-2005) thực hiện theo đề án cơ cấu lại toàn diện tổ chức, hoạt động, công nghệ và nguồn nhân lực của toàn hệ thống BIDV, Sở giao dịch đã đạt được những thành quả đáng kể: thực hiện tách nâng cấp mở 4 chi nhánh cấp 1 trên địa bàn Hà Nội. Đó là chi nhánh Bắc Hà Nội, chi nhánh Hà Thành, chi nhánh Đông Đô, chi nhánh Quang Trung với tổng tài sản mỗi đơn vị trên 1000 tỷ đồng và hàng trăm cán bộ lãnh đạo, cán bộ nghiệp vụ. Hiện nay mô hình tổ chức của Sở giao dịch vẫn đang tiếp tục được hoàn thiện theo hướng xây dựng ngân hàng trên cơ sở áp dụng công nghệ hiện đại.
Cùng với ngành ngân hàng bước vào giai đoạn hội nhập với thị trường tài chính thế giới, Sở giao dịch cũng bước vào kế hoạch 5 năm 2006-2010 với định hướng: phát huy tốt vai trò chủ lực, luôn đi đầu trong mọi mặt hoạt động của toàn hệ thống BIDV, đào tạo chuyên sâu đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, giáo dục phẩm chất đạo đức tốt đáp ứng tốt yêu cầu hoạt động ngân hàng thời kỳ mới; Và đặc biệt là kiểm soát chặt chẽ hoạt động, nâng cao sức cạnh tranh, đảm bảo thực hiện tốt phương châm phát triển an toàn – hiệu quả - bền vững và phấn đấu hoàn thành các mục tiêu chính: tăng trưởng bình quân huy động vốn 22-25%/năm, tăng trưởng dư nợ tín dụng 18-20%/năm, tăng trưởng thu dịch vụ bình quân 25-27%/năm, trích đủ dự phòng rủi ro, thực hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách và đảm bảo doanh lợi ngân hàng.
Bộ máy quản lý và tổ chức
Cho đến nay, Sở giao dịch đã có 15 phòng nghiệp vụ, 15 điểm giao dịch với các chức năng nhiệm vụ được xác định rõ ràng nhằm đem đến cho khách hàng những dịch vụ ngân hàng - tài chính có chất lượng tốt nhất.
Ban giám đốc
Khối tín dụng
Khối dịch vụ
Khối quản lý nội bộ
Khối đơn vị trực thuộc
P.Tín dụng I
P.Tín dụng II
P.Tín dụng III
P.Thẩm định
P.Quản lý tín dụng
P.Thanh toán quốc tế
P.Dịch vụ khách hàng DN
P.Dịch vụ k/hàng cá nhân
P.Tiền tệ kho quỹ
P.Kế hoạch
ngvốn
P.Tài chính kế toán
P.Tổ chức cán bộ
P.Hành chính quản trị
P. Điện toán
P.Kiểm tra nội bộ
P.Giao dịch I
P.Giao dịch II
Sơ đồ 2.1 Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Sở giao dịch BIDV
Các hoạt động kinh doanh chủ yếu của SGD BIDV
Hoạt động huy động vốn
Ngay từ khi mới thành lập, Sở giao dịch đã luôn là đơn vị đầu tiên thử nghiệm những hình thức huy động vốn mới của toàn hệ thống BIDV như phát hành kỳ phiếu đảm bảo giá trị theo giá vàng để huy động vốn trung hạn phục vụ đầu tư phát triển, phát hành trái phiếu, hình thức tiết kiệm xây dựng nhà ở… Hiện nay, với hệ thống công nghệ hiện đại, Sở giao dịch ngày càng triển khai nhiều hình thức huy động vốn hấp dẫn hơn như: tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm ổ trứng vàng, phát hành giấy tờ có giá dưới hình thức chứng chỉ tiền gửi dài hạn và trái phiếu 3 đến 5 năm…
Tổng vốn huy động đến 31/12/2007 đạt 13,620 tỷ VNĐ, tăng 35% so với cuối năm 2006 là mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay. Tổng số vốn huy động của Sở giao dịch chiếm xấp xỉ 10% tổng vốn huy động của toàn hệ thống. Cơ cấu nguồn vốn huy động đã được điều chỉnh theo hướng tích cực.
Bảng 2.1 Vốn huy động tại Sở Giao dịch BIDV (triệu đồng)
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
2007
Vốn huy động
8,408,300
7,108,450
7,569,500
10,110,926
13,620,606
-15%
6%
34%
35%
Tiền gửi TCKT
2,771,700
3,705,456
4,407,585
7,284,959
11,821,213
34%
19%
65%
62%
Tiền gửi dân cư
5,165,807
3,317,088
3,048,831
2,791,400
1,764,826
-35.8%
-8.1%
-8.44%
-6.7%
Huy động khác
470,793
85,906
113,084
34,567
34,567
-81.75%
31.64%
-69.43%
0.00%
(Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2003-2007 của Sở giao dịch BIDV)
Biểu đồ 2.1 Vốn huy động tại Sở giao dịch BIDV
Có thể nói nguồn vốn huy động không ngừng tăng trưởng qua các năm qua là kết quả của nỗ lực không ngừng của Sở giao dịch trong việc nâng cao ứng dụng công nghệ, không ngừng phát triển sản phẩm, tiện ích, phong cách giao dịch văn minh của người cán bộ, của ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ nhân viên Sở giao dịch.
Công tác điều hành vốn cũng có những thay đổi căn bản để đảm bảo hoạt động an toàn theo quy định và những chuẩn mực quốc tế qua việc quản lý thanh khoản, quản lý rủi ro lãi suất, quản lý rủi ro kỳ hạn, quản lý tài sản và vốn. Sở giao dịch luôn duy trì tỷ lệ dự trữ hợp lý, tuân thủ các yêu cầu về tỷ lệ an toàn, đồng thời đảm bảo mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn theo hướng tận dụng tối đa, hạn chế tối thiểu lượng vốn dư thừa không sinh lời.
Hoạt động sử dụng vốn
Hiện nay tín dụng vẫn chiểm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản của Sở giao dịch (chiếm trên 30% tổng tài sản). Hoạt động tín dụng tại Sở đã có những đóng góp to lớn, quan trọng trong quá trình phục vụ đầu tư, phát triển đất nước nói chung và sự phát triển kinh tế trên địa bàn Hà Nội nói riêng, đồng thời cũng góp phần xây dựng thương hiệu BIDV vươn lên những tầm cao mới.
Về tổng dư nợ tín dụng, đến 31/12/2007 đạt 5,185 tỷ đồng,tăng trưởng 30% so với năm 2006. Về cơ cấu tín dụng, tỷ trọng tín dụng trên tổng tài sản đã giảm từ xấp xỉ 35% năm 2003 xuống 30% năm 2007 được đánh giá là phù hợp với mục tiêu phát triển thể chế mà BIDV đã cam kết với World Bank.
Bảng 2.2 Tỷ trọng dư nợ tín dụng trên tổng tài sản tại Sở giao dịch BIDV (triệu đồng)
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng tài sản
11,565,286
10,950,980
11,180,720
14,141,538
17,461,602
Dư nợ tín dụng
3,995,700
4,224,051
4,813,817
5,000,753
5,185,044
Tỷ trọng
34.55%
38.60%
43%
35%
30%
(Nguồn: Báo cáo tài chính các năm 2003-2007 của Sở giao dịch BIDV)
Biểu đồ 2.2 Tỷ trọng dư nợ tín dụng tại Sở giao dịch BIDV
Hiện nay, hoạt động tín dụng của Sở giao dịch được gắn với xây dựng hợp tác chiến lược với các tập đoàn kinh tế mạnh của đất nước như Vinashin, Vinaconex, Tổng công ty sông Đà, Lilama, tổng công ty dệt may Việt Nam…Các quan hệ hợp tác lâu dài, toàn diện này nhằm mục tiêu cung ứng vốn, các dịch vụ ngân hàng cho doanh nghiệp và tạo ra các cơ chế đầu tư phù hợp thực tế của việc triển khai các dự án lớn, chương trình kinh tế quan trọng.
Hoạt động cho vay
Với phương châm “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của Ngân hàng”, các hình thức cho vay của Sở ngày càng được đa dạng hóa nhằm không ngừng đáp ứng nhu cầu ngày đa dạng của khách hàng. Có thể kể tên các hình thức cho vay như:
Cho vay bổ sung vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh.
Cho vay hỗ trợ vốn trong khi chờ thanh toán của chủ đầu tư.
Cho vay đối ứng bằng tiền gửi.
Cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, chiết khấu bộ chứng từ.
Cho vay tiêu dùng đối với cán bộ công nhân viên.
Cho vay cầm cố, chiết khấu chứng từ có giá.
Cho vay mua nhà, mua ô tô trả góp.
Cho vay phục vụ đầu tư, phát triển.
Cho vay hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đồng tài trợ các dự án.
Thực hiện cải tiến quy trình giao dịch, thẩm định, xét duyệt, cho vay theo quy trình ISO và luôn lắng nghe ý kiến phản hồi của khách hàng, chất lượng sản phẩm tín dụng mà Sở giao dịch cung cấp đến tay khách hàng ngày càng được nâng cao. Đồng thời với việc thực hiện bán chéo sản phẩm để khách hàng có được hiệu quả sử dụng vốn cao bằng việc kết hợp giữa gửi tiền, cho vay vốn đầu tư, cho vay vốn lưu động, bảo lãnh thanh toán, chuyển tiền, chuyển đổi ngoại tệ, tư vấn, bảo hiểm và cho thuê, Sở giao dịch ngày càng thu hút được nhiều khách hàng trung thành.
Hoạt động bảo lãnh
Nghiệp vụ bảo lãnh của Sở giao dịch không ngừng được phát triển cả về quy mô, chất lượng nghiệp vụ do nó có mức rủi ro thấp. Hướng tới mô hình ngân hàng hiện đại, Sở giao dịch đang ngày càng đấy mạnh phát triển các hoạt động dịch vụ, trong đó có hoạt động bảo lãnh - một loại hình dịch vụ vừa đem lại nguồn thu cho ngân hàng vừa hỗ trợ đắc lực cho sự nghiệp phát triển đất nước. Với vị thế và uy tín lâu năm trên thị trường, Sở giao dịch cung cấp cho khách hàng tất cả các dịch vụ bảo lãnh theo nhiều hình thức, quy mô, cùng với thủ tục nhanh gọn.
Hoạt động khác
Trong điều kiện hiện cạnh tranh mạnh mẽ giữa các ngân hàng hiện nay hoạt động dịch vụ sẽ trở thành lợi thế cạnh tranh chủ yếu. Nắm bắt xu hướng đó, với mục tiêu dài hạn: “duy trì vị trí nhà cung cấp dịch vụ tài chính hàng đầu tại Việt Nam và mở rộng hoạt động ra nước ngoài” của BIDV, trong năm 2007, bên cạnh việc hoàn thiện, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ đang cung cấp, Sở giao dịch đã chú trọng đầu tư các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, tăng cường tiện ích cho khách hàng, từng bước chuyển thành ngân hàng có công nghệ hiện đại.
Hiện nay, các dịch vụ mà Sở giao dịch cung cấp cho khách hàng hết sức đa dạng bao gồm các dịch vụ chính:
Thanh toán trong nước và quốc tế.
Chuyển tiền kiều hối toàn cầu.
Dịch vụ thẻ, séc.
Home banking, Phone banking.
Máy rút tiền tự động ATM 24/24.
Đại lý bảo hiểm.
Dịch vụ ngân quỹ.
Trả lượng tự động.
Mua bán, chuyển đổi ngoại tệ.
Các loại bảo lãnh ngân hàng.
Các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Trong năm 2007, hoạt động dịch vụ của Sở giao dịch đã có sự phát triển so với năm 2006, thu dịch vụ ròng đạt 58,397 tỷ VND và tăng trưởng 18% so với năm 2005.
Bảng 2.3 Thu dịch vụ ròng tại Sở giao dịch BIDV (triệu đồng)
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
Thu dich vụ ròng
25,650.00
24,502.00
25,600.00
49,512.00
58,397.00
Tăng trưởng
-4.48%
4.48%
93.41%
17.95%
(Nguồn: Báo cáo tài chính Sở giao dịch BIDV các năm 2003-2007)
Trong tổng thu từ dịch vụ, thu từ dịch vụ thanh toán chiếm tỷ trọng lớn nhất, là 40%, sau đó là bảo lãnh và kinh doanh ngoại tệ lần lượt chiếm 36% và 10%, các sản phẩm dịch vụ còn lại chiểm khoảng 14%.
Biểu đồ 2.3 Tỷ trọng thu dịch vụ năm 2007 của Sở giao dịch BIDV
Kết quả hoạt động trong những năm gần đây của SGD BIDV
Sở giao dịch là đơn vị thành viên lớn nhất của BIDV, đóng góp nhiều nhất vào kết quả hoạt động kinh doanh của toàn ngành: đến 31/12/2007, tổng tài sản đạt 17.461 tỷ, chiếm hơn 10% tổng tài sản của toàn hệ thống, lợi nhuận sau thuế đạt 195,646 tỷ đồng, chiếm xấp xỉ 8% tổng lợi nhuận sau thuế của toàn hệ thống.
Quá trình phát triển quy mô hoạt động của Sở giao dịch còn được thể hiện ở tốc độ tăng trưởng tổng tài sản, lợi nhuận sau thuế.
Bảng 2.4 Tăng trưởng tài sản của Sở giao dịch BIDV (triệu đồng)
Năm
2003
2004
2005
2006
2007
Thu dich vụ ròng
25,650
24,502
25,600
49,512
58,397
-4.48%
4.48%
93.41%
17.95%
Lợi nhuận sau thuế
94,556
60,376
67,434
133,098
195,646
-36.15%
11.69%
97.37%
46.99%
Tổng tài sản
11,565,286
10,950,980
11,180,720
14,141,538
17,461,602
-5.31%
2.10%
26.48%
23.48%
(Nguồn: Báo cáo tài chính của sở giao dịch các năm 2003/2007)
Biểu đồ 2.4 Tổng tài sản của Sở giao dịch (triệu đồng)
Bên cạnh đó cũng không thể kể đến sự gia tăng số lượng khách hàng có quan hệ với ngân hàng. Đến nay đã có hàng vạn khách hàng mở tài khoản hoạt động tại Sở giao dịch, trong đó có 1.400 khách hàng là doanh nghiệp, tập đoàn, tổng công ty…
Thực trạng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại SGD BIDV
Các văn bản điều tiết hoạt động cho vay đối với DNV&N.
Với chủ trương xác định việc phát triển DNV&N là một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lượng phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Chính phủ đã ban hành hàng loạt những văn bản pháp lý có liên quan đến hoạt động cho vay đối với DNV&N nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các DNV&N tiếp cận với nguồn vốn vay ngân hàng như:
Để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho DNV&N tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, Chính phủ đã ra quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20/2/2001 ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng DNV&N. DNV&N có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có khả năng hoàn trả vốn vay; có tổng giá trị tài sản thế chấp, cầm cố tại tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật tối thiểu bằng 30% giá trị khoản vay, không có các khoản nợ thuế, nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức kinh tế khác sẽ được Quỹ bảo lãnh tín dụng các tỉnh thành trực thuộc trung ương cấp bảo lãnh tín dụng tối đa bằng 80% phần chênh lệch giữa giá trị khoản vay và giá trị tài sản thế chấp, cầm cố của doanh nghiệp tại tổ chức tín dụng.
Thêm vào đó, để giúp cho các DNV&N tiếp cận vốn của ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh. Thống đốc NHNN đã ban hành chỉ thị 03/2003/CT-NHNN ngày 21/5/2003 yêu cầu các tổ chức tín dụng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng, đây là cơ hội tạo thuận lợi cho các DNV&N tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng.
Thực trạng các DNV&N trên địa bàn Hà Nội
Hòa mình trong dòng chảy phát triển chung của loại hình DNV&N trong cả nước, các DNV&N tại địa bàn Hà Nội cũng có những bước “chuyển mình” mạnh mẽ. Hà Nội hiện có gần 25.000 doanh nghiệp được thành lập theo Luật doanh nghiệp mà chiếm số lượng chủ yếu là các DNV&N. Cùng với sự tăng mạnh về số lượng, hằng năm các DNV&N đóng góp khoảng trên 40% trong tổng GDP của thành phố. Điều đáng lưu ý là dù không được đầu tư lớn nhưng tốc độ tăng trưởng của các DNV&N gần bằng mức tăng chung của toàn thành phố, thu ngân sách năm sau cao hơn năm trước. Mặc dù chịu sự tác động mạnh của cơ chế thị trường, nhưng nhìn chung các doanh nghiệp đều có sự tìm tòi để xác định cho mình một hướng đi đúng, phù hợp và khai thác tốt hơn tiềm năng, vị thế của Thủ đô. Các doanh nghiệp như Thế Trung, Sơn KOVA, Nguyễn Hoàng, DIANA, Sơn Hà, LADODA... đã không ngừng đầu tư, đổi mới thiết bị, đa dạng hóa sản phẩm và tạo được thương hiệu riêng trên thị trường. Nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn chọn những lĩnh vực sản xuất đòi hỏi có sự đầu tư lớn, có hàm lượng chất xám cao (công nghệ thông tin, sản xuất phần mềm, lắp ráp máy tính...) để đầu tư, điển hình là các doanh nghiệp như Ngọc Khánh, Alphanam…
Mặc dù bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan nhưng các DNV&N ở Hà Nội mới đang trong giai đoạn phát triển. Thực tế tiềm năng phát triển kinh tế của Hà Nội nói chung và của các DNV&N nói riêng rất lớn và còn chưa được khai thác hết. Thật vậy, với vị trí là trung tâm văn hóa, chính trị, xã hội…và là thành phố có dân số lớn thứ hai cả nước sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, cùng với thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm kinh tế quan trọng nhất của cả nước. Với vị trí của Thủ đô, Hà Nội là nơi tập trung các cơ quan Bộ ngành, các tổng công ty lớn, văn phòng đại diện của các hãng lớn của nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam đồng thời cũng là nơi thu hút một số lượng lớn đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, công nhân lành nghề… Hơn nữa, nếu so với mặt bằng chung của cả nước thì Hà Nội có hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư tốt, lại có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường không thuận lợi. Đặc biệt Hà Nội cũng là trung tâm quan hệ đối ngoại về nhiều mặt kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học kỹ thuật với bạn bè quốc tế. Với những ưu thế trên, có thể khẳng định rằng tiềm năng kinh tế của Hà Nội là rất lớn và lẽ tất nhiên những DNV&N ở Hà Nội với lợi thế của mình sẽ có tiềm năng phát triển lớn.
Quá trình cho vay đối với DNV&N.
Hầu hết các khoản cho vay dành cho cá nhân được bắt đầu bằng việc khách hàng làm đơn xin vay vốn sau đó tiếp xúc với nhân viên ngân hàng. Ngược lại, cho vay đối với doanh nghiệp lại bắt đầu bằng việc tiếp xúc giữa cán bộ ngân hàng và đại diện các doanh nghiệp. Thông qua hoạt động Marketing hướng tới đối tượng khách hàng doanh nghiệp như tổ chức các chương trình: chương trình “Tiếp thị khách hàng” dành cho các khách hàng mới, chương trình “Gặp gỡ khách hàng” đối với các doanh nghiệp đang là khách hàng của ngân hàng…ngân hàng thuyết phục các doanh nghiệp trong thị trường hoạt động của mình mở tài khoản tại ngân hàng và sử dụng các dịnh vụ của ngân hàng.
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn của ngân hàng thì quy trình cho vay được thực hiện theo những quy định thống nhất chung trong toàn hệ thống:
Quy trình cho vay (Quy định tại Sổ tay tín dụng)
Quy trình cho vay được bắt đầu từ khi cán bộ tín dụng bộ phận quan hệ trực tiếp tiếp nhận hồ sơ khách hàng và kết thúc khi tất toán thanh lý hợp đồng tín dụng, được tiến hành qua ba khâu:
Phân tích trước khi cấp tín dụng
Đây là khâu quan trọng nhất, quyết định chất lượng của hoạt động phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là thu thập và xử lý những thông tin liên quan đến khách hàng. Cụ thể gồm các bước
Bước 1: Tiếp nhận h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12481.doc