HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VŨ THỊ HỒNG TRANG
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC THÔNG QUA
HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VŨ THỊ HỒNG TRANG
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC THÔNG QUA
HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 62 31 02 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TSKH
169 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 362 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Luận án Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Phan Xuân Sơn
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, tư liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Vũ Thị Hồng Trang
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8
1.1. Những công trình nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước 8
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến chất vấn của đại
biểu Quốc hội 14
1.3. Những vấn đề đặt ra cho tác giả luận án cần phải tiếp tục nghiên
cứu, giải quyết 23
CHƢƠNG 2: KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC THÔNG QUA
HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI -
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 25
2.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước - quan niệm, cơ chế, mục đích,
nội dung, phương thức và tính tất yếu khách quan của kiểm soát
quyền lực nhà nước 25
2.2. Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội Việt Nam là một hình
thức kiểm soát quyền lực nhà nước 58
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI Ở VIỆT NAM 89
3.1. Một số quy định về hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở
nước ta 89
3.2. Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội với tư cách là phương
thức kiểm soát quyền lực nhà nước 92
3.3. Đánh giá chung về thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước
thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội 119
CHƢƠNG 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU
QUẢ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC THÔNG QUA
HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI 131
4.1. Quan điểm nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà
nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội 131
4.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực
nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội 134
KẾT LUẬN 155
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ 157
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 158
1
MỞ ĐẦU
1. Tình cấp thiết của đề tài
Kiểm soát quyền lực là một nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua gần 35 đổi mới vừa
qua, vấn đề kiểm soát quyền lực nói chung, kiểm soát quyền lực trong trong
công tác cán bộ nói riêng luôn được Đảng ta đưa ra, bàn bạc, ra quyết sách
khá kịp thời, điển hình như trong Văn kiện Đại hội XII, Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 khoá XII,... Đặc biệt, Quy định số 205-QĐ/TW ngày
23/9/2019 của Bộ Chính trị khoá 12 quy định về việc kiểm soát quyền lực
trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền đã thể hiện quyết tâm
chính trị rất cao của Đảng ta, của người đứng đầu Đảng, đứng đầu Nhà nước
là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Quyền lực không được
kiểm soát chặt chẽ thì nó là tác nhân chính làm tha hoá cán bộ, tha hoá
những con người được trao quyền lực, từ đó làm tha hoá, thoái hoá, biến
chất cả bộ máy, thể chế. Trong quá trình dân chủ hoá và xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay, vấn
đề kiểm soát quyền lực nhà nước vừa cơ bản, lại vừa cấp thiết. Cơ bản vì đó
là yếu tố cấu thành khách quan của hoạt động thực thi quyền lực nhà nước,
và tính hiệu quả của nó là một trong những nội dung cốt lõi của nhà nước
pháp quyền, là phương tiện để đảm bảo quyền tự do, dân chủ của người dân.
Cấp thiết vì việc lạm quyền, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng của
không ít cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất đang là vấn nạn, là nguy cơ
lớn đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ, vi phạm nghiêm trọng quyền tự
do, dân chủ của người dân. Vì sao phải nhốt quyền lực trong lồng thể chế và
pháp luật là một câu hỏi cần nghiên cứu thấu đáo để có hệ giải pháp vừa cấp
bách vừa lâu dài mang tầm chiến lược.
Qua quá trình nhận thức và rút kinh nghiệm từ thực tiễn, trong văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta khẳng định sự cần thiết của kiểm soát quyền
2
lực nhà nước "Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành
cụ thể để đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hành quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp". Chính vì vậy, quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam hiện nay thực chất cũng là quá trình hoàn thiện cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt là cơ chế kiểm soát quyền lực bên
trong nhà nước. Bên cạnh hoạt động lập pháp, hoạt động kiểm soát quyền lực
nhà nước của Quốc hội ngày càng được các nước coi trọng, đề cao để đảm
bảo luật pháp Quốc hội ban hành được thực thi đúng đắn trong thực tiễn. Ở
Việt Nam Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do
đó việc kiểm soát quyền lực nhà nước của Quốc hội đối với hai nhánh còn lại
càng phải được quan tâm.
Theo quy định của luật pháp Việt Nam, Quốc hội có quyền giám sát tối
cao mọi hoạt động của nhà nước, và Quốc hội có 5 hình thức cơ bản để thực
hiện quyền kiểm soát này. Trong đó, hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc
hội thu hút sự quan tâm đặc biệt của cả cử tri, nhân dân, lẫn các đại biểu Quốc
hội vì đây là một trong những phương thức kiểm soát quyền lực có hiệu quả
nhất của Quốc hội. Tính trực tiếp trao đổi, truy vấn, thông tin cập nhật theo
những vấn đề thời sự, bức xúc nhất của đất nước, sự chủ động thực hiện
quyền kiểm soát quyền lực của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, đối tượng bị
kiểm soát là những người đứng đầu bộ máy nhà nước, thể hiện tính tối cao
trong hoạt động giám sát... là những cơ sở để chất vấn trở thành một phương
thức kiểm soát quyền lực quan trọng của Quốc hội, cần được quan tâm để
nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của phương thức kiểm soát quyền lực nhà
nước này của Quốc hội.
Trong thời gian vừa qua, trong hoạt động giám sát, kiểm soát quyền lực
nhà nước của Quốc hội, hoạt động chất vấn có nhiều chuyển biến tích cực,
3
diễn ra sôi nổi, hiệu quả chứng tỏ hoạt động của Quốc hội ngày càng có tính
dân chủ, tranh luận và thực chất nhiều hơn. Thông qua hoạt động chất vấn,
trách nhiệm chính trị của đối tượng bị chất vấn được làm rõ, nhiều người trả
lời chất vấn đã nhận trách nhiệm trước Quốc hội và có những giải pháp cụ
thể, thiết thực tạo sự chuyển biến thực sự trong thực tiễn, nhiều yếu kém, hạn
chế được khắc phục sau chất vấn. Chất vấn cũng là hình thức cảnh báo của
Quốc hội đối với hoạt động của hành pháp, tư pháp về những vấn đề bức xúc,
cử tri và dư luận quan tâm, những hạn chế, yếu kém trong hoạt động của các
cơ quan này để nghiêm túc điều chỉnh, qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả,
tính hợp pháp, hợp lý trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Với vai trò của
chất vấn trong kiểm soát quyền lực nhà nước, có người cho rằng hoạt động
chất vấn của đại biểu Quốc hội là điểm sáng trong đời sống chính trị của nước
ta thời gian qua và góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Tuy nhiên, mức độ, phạm vi kiểm soát quyền lực nhà nước của hoạt
động chất vấn chưa đạt được như mong đợi. Mức độ kiểm soát quyền lực nhà
nước của hoạt động chất vấn phụ thuộc vào năng lực lựa chọn vấn đề chất
vấn, năng lực đeo bám, tranh luận đến cùng vấn đề chất vấn của đại biểu
Quốc hội để làm rõ trách nhiệm, nguyên nhân của vấn đề. Tuy nhiên, năng
lực của đại biểu Quốc hội còn hạn chế. Một số đại biểu Quốc hội nể nang, né
tránh, ít thực hiện hoạt động chất vấn. Vấn đề hậu chất vấn, giám sát việc thực
hiện lời hứa cũng như xử lý các trường hợp không chịu nhận trách nhiệm,
không tích cực giải quyết vấn đề của đối tượng bị chất vấn chưa thật sự chặt
chẽ dẫn tới ảnh hưởng hiệu quả, hiệu lực kiểm soát quyền lực nhà nước của
hoạt động này. Nhiều người cho rằng chất vấn diễn ra sôi nổi trên nghị trường
nhưng tác động của nó trong thực tiễn chưa lớn. Để phát huy những ưu thế
của phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn
của đại biểu Quốc hội thì cần phải khắc phục những hạn chế trên bằng những
4
giải pháp thiết thực, hiệu quả. Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài
"Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu
Quốc hội ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài cho luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước và thực trạng kiểm
soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội
ở Việt Nam, luận án đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng
cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động
chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận án cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước nói
chung và kiểm soát quyền lực thông qua chất vấn Quốc hội nói riêng. Trên cơ
sở đó, luận án xác định phương pháp tiếp cận và hướng đi của luận án phù
hợp với chủ đề nghiên cứu.
- Làm rõ những vấn đề lý luận về tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước,
kiểm soát quyền lực nhà nước, chức năng của Quốc hội và vai trò của hoạt động
chất vấn của đại biểu Quốc hội trong kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Phân tích thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt
động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu
quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu
Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của luận án: hoạt động chất vấn của đại biểu
Quốc hội ở Việt Nam hiện nay với tư cách là một phương thức kiểm soát
quyền lực của Quốc hội.
5
- Phạm vi nghiên cứu của luận án: tính từ kỳ họp thứ 6 khoá XIII đến
nay(gắn với Hiến pháp năm 2013).
4. Những đóng góp mới của luận án
Luận án có những đóng góp mới sau:
- Góp phần bổ sung lý luận kiểm soát quyền lực nhà nước trong điều
kiện tổ chức bộ máy nhà nước mang tính đặc thù Việt Nam, chỉ ra sự khác
biệt, những ưu thế của phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua
hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội với các phương thức kiểm soát
quyền lực khác của Quốc hội và của các nhánh quyền lực khác nói chung,
mối quan hệ giữa phương thức kiểm soát quyền lực thông qua hoạt động chất
vấn của đại biểu Quốc hội với các phương thức kiểm soát quyền lực khác của
Quốc hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước thông
qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra
những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp trên phương diện lý luận và
thực tiễn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước
thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
5.1. Cơ sở lý luận
- Cơ sở lý luận của luận án là các quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước ta về tổ chức bộ máy nhà nước, kiểm soát quyền lực
nhà nước trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, về hoạt động chất vấn của đại biểu
quốc hội.
- Tham khảo các lý thuyết chính trị về tổ chức nhà nước, về kiểm soát
quyền lực nhà nước. Đặc biệt là tham khảo phương thức chất vấn của nghị
viện một số nước như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản.
6
5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích hệ thống chính trị,
phương pháp phân tích cấu trúc chức năng... Ngoài ra luận án còn sử dụng các
phương pháp chung, liên ngành và chuyên ngành khác như các phương pháp
phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgíc, phương pháp thống kê, so sánh, định
tính, định lượng.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các tài liệu nghiên
cứu, các số liệu liên quan đến đề tài, các nội dung chất vấn trong các kỳ họp
của Quốc hội.
Phương pháp phân tích được sử dụng trong toàn bộ các phần của luận
án như phân tích tài liệu để rút ra những mặt được và những nội dung còn
thiếu trong nghiên cứu vấn đề của luận án, phân tích những vấn đề lý luận về
kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua chất vấn, phân tích thực trạng...
Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng trong so sánh chất vấn
của đại biểu Quốc hội Việt Nam với hình thức chất vấn của Quốc hội các
nước khác, so sánh hoạt động chất vấn giữa các kỳ họp, giữa hoạt động trong
và sau chất vấn.
Phương pháp phỏng vấn sâu đối với các chuyên gia, các nhà lập pháp
đã từng tham gia Quốc Hội qua các thời kỳ (Luận án đã phỏng vấn đồng chí
Vũ Mão nguyên Chánh Văn phòng, nguyên Chủ nhiệm Uỷ ban Đối ngoại của
Quốc Hội).
Phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng để kết hợp nhận định
mang tính định tính với số liệu mang tính định hướng được luận án sử dụng
để hoàn thành nội dung nghiên cứu của chương 3.
6. Ý nghĩa của luận án
- Làm rõ hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội là một hình
7
thức kiểm soát quyền lực nhà nước, tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt
động chất vấn...
- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong hoạt động chất vấn.
- Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng trong nghiên cứu chính trị, trong
giảng dạy ở các cơ sở đào tạo.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục công
trình nghiên cứu của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục...nội dung
của luận án gồm có 4 chương với 9 tiết.
8
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
NHÀ NƢỚC
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề trọng yếu của bất kỳ nhà
nước nào. Trên thế giới điều này đã được khẳng định rất sớm bới các nhà tư
tưởng chính trị- pháp lý thời đại Khai sáng. Các nghiên cứu liên quan về sau
chỉ làm rõ hơn về phương thức tổ chức nhà nước và các cơ chế vận hành hệ
thống chính trị sao cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả hơn mà
thôi. Ở Việt Nam, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, trong đó có những công trình tiêu biểu
sau: Lê Thị Anh Đào, "Kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - một số vấn đề cơ bản", Tạp chí khoa học
chính trị, số 3 năm 2011. Công trình này tác giả đã bàn những vấn đề lý luận
cơ bản về kiểm soát quyền lực, quyền lực nhà nước, tính tất yếu phải kiểm
soát quyền lực trong nhà nước pháp quyền.
Lưu Văn Quảng Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt
Nam hiện nay, đề tài cấp bộ năm 2008. Đề tài đã đặt ra vấn đề phải xây dựng
một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam như một đòi hỏi cấp
bách từ việc hoàn thiện thể chế chính trị và bộ máy ở nước ta. Nội dung, các
yếu tố của cơ chế kiểm soát quyền lực đã được tập thể tác giả nghiên cứu đề
tài đề cập khá đầy đủ.
Pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay của
Trần Kim Cúc, tác giả bàn về vai trò của pháp luật và yêu cầu phải có cơ chế
pháp lý để kiểm soát quyền lực có hiệu quả.
Lâm Quốc Tuấn Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy
9
nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Vũ Anh Tuấn "Kiểm soát quyền lực nhà nước
trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam'', Tạp chí
sinh hoạt lý luận, (5), năm 2011.
Lê Minh Quân ''Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực
nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân'', Tạp chí Cộng sản, (10), năm
2013; tác giả đề cập đến vấn đề kiểm soát quyền lực nhằm bảo đảm và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trần Ngọc Đường ''Kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam'', Tạp chí nghiên cứu lập pháp,
(16), năm 2011; Phạm Hữu Nghị "Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước
ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (9),
năm 2011
Các công trình nói trên đã cố gắng giải quyết những vấn đề có tính lý
luận chung của kiểm soát quyền lực nhà nước, như: Tính phổ biến, sự cần
thiết, mục đích, cơ chế thực hiện Các công trình đã phân tích những quy
định của pháp luật về sự kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các nhánh quyền
lực; thử xác định các khái niệm, mục đích, chủ thể, phạm vi của kiểm soát
quyền lực nhà nước. Nhiều tác giả đã khái quát có hai hình thức kiểm soát
quyền lực nhà nước. Đó là kiểm soát từ bên trong (giữa các cơ quan quyền
lực nhà nước với nhau) và từ bên ngoài từ các đảng chính trị, các tổ chức
công dân và của nhân dân.
Sự cần thiết phải kết hợp cả hai hình thức này trong một thể chế chính
trị cũng được đặt ra, Trần Ngọc Đường, 2011, Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh
đề cập đến. Phân biệt sự giám sát bên trong hệ thống quyền lực nhà nước giữa
các nhánh quyền lực với giám sát bên ngoài đó là sự giám sát có tính chất
quyền lực nhà nước và không có tính chất quyền lực nhà nước.
Nhiều tác giả đã đề cập đến hoạt động chất vấn, nhìn thấy sự liên hệ, sự
cần thiết giữa việc thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội với hoạt
động chất vấn, như là một hình thức giám sát đặc thù.
10
Để phân biệt giữa các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước, các tác
giả Vũ Minh Đoan, Vũ Thu Hạnh (2014) đã phân tích các khái niệm thanh
tra, kiểm, tra, giám sát, kiểm sát và đã đưa ra khái niệm về kiểm soát quyền
lực nhà nước và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Tác giả còn tiếp tục đi
sâu hơn, phân tích khái niệm cơ chế kiểm soát quyền lập pháp, cơ chế kiểm
soát quyền hành pháp và cơ chế kiểm soát quyền tư pháp và những yếu tố
đảm bảo cho cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trên thực tế.
Liên quan đến cơ chế phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực thi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Trần
Ngọc Đường trong công trình: Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm
soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011; Vũ Anh Tuấn "Hoàn thiện thể
chế kiểm soát quyền lực nhà nước", Tạp chí lý luận chính trị, (5), năm 2012,
đã đi sâu phân tích sự mất cân đối trong nhận thức và tổ chức bộ máy nhà
nước ở nước ta. Đó là coi trọng tính thống nhất, tập trung mà coi nhẹ tính
kiểm soát, chế ước giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các tác giả đặc biết chú ý đến cơ chế kiểm
soát từ bên ngoài (của Đảng, của các tổ chức chính trị-xã hội, của các tổ chức
xã hội và của nhân dân) đối với quyền lực nhà nước và sự phối hợp với cơ chế
kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước. Các giải pháp mà Trần Ngọc
Đường đề xuất khá toàn diện bao gồm đề nghị các phương án sửa đổi một số
quy định trong Hiến pháp hiện hành cho đến những quy định pháp luật cụ thể.
Về giám sát tối cao của Quốc hội, tuy cuốn sách của Trần Ngọc Đường không
bàn đến vấn đề chất vấn nhưng cho rằng chức năng giám sát tối cao của Quốc
hội nên tập trung vào kiểm soát hoạt động của hành pháp, không nên kiểm
soát tư pháp và các văn bản luật để đảm bảo thực quyền.
Để làm rõ hơn vấn đề và các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước,
nhiều tác giả đã thực hiện nghiên cứu so sánh các nước trên thế giới, thậm chí
11
so sánh các tổ chức nhà nước của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Theo
hướng này có: Nguyễn Quang Anh "Cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực
nhà nước ở một số nước trên thế giới và những giá trị tham khảo cho Việt
Nam", Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (286), tháng 3 năm 2015.
Sự khác biệt của kiểm soát quyền lực nhà nước của một số nước pháp
quyền tư sản và Việt Nam là ở cơ chế kiềm chế đối trọng giữa các cơ quan
quyền lực, đề cao vai trò các đảng phái chính trị đối lập, thông qua các tổ
chức xã hội dân sự, các phương tiện truyền thông đại chúng, bầu cử tự do và
giới hạn nhiệm kỳ. Bàn về tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước của nước
Nga, và các nước Đông Âu qua cả hai giai đoạn, trước trước và sau 1991,
nghiên cứu vấn đề tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện
nay qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001), Thái Vĩnh Thắng (2011) cho rằng, sự thiếu vắng cơ chế kiểm soát
quyền lực trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là một trong những
nguyên nhân của tình trạng mất dân chủ, mà hệ luỵ của nó là dẫn đến sự suy
yếu nhà nước và sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa. Từ những kinh
nghiệm các nước phương Tây, bài học các nước Đông Âu, các tác giả đã hàm
ý rút ra những những giá trị cần tham khảo, vận dụng ở Việt Nam.
Sau khi phân tích tính so sánh việc tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà
nước ở nhiều nước trên thế giới hiện nay, hầu hết các công trình trên đều
thống nhất cho rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay còn
nhiều hạn chế, thiếu sót, bất cập và nguyên nhân của tình trạng này. Trên cơ
sở đó, tác giả đưa ra một số giải pháp về tổ chức và kiểm soát việc thực hiện
quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Đáng chú ý là cuốn Kiểm soát quyền lực nhà nước, một số vấn đề lý
luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, 2008 của
Trịnh Thị Xuyến. Đây là cuốn sách được xuất bản từ luận án tiến sĩ (2007) lần
đầu tiên ở Việt Nam, nghiên cứu vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước được
12
tiến hành một cách công khai, tương đối toàn diện và đầy đủ. Tác giả cuốn
sách cho rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu khách quan. Tác giả
đã làm rõ các khái niệm: kiểm soát quyền lực nhà nước, nội dung, mục đích,
các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Tác giả đã khảo sát thực tiễn
kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước trên thế giới, đặc biệt với hai mô
hình hệ thống chính trị lựa chọn, là mô hình các nước có hệ thống hai đảng
nổi trội và mô hình hệ thống một đảng nổi trội, từ đó rút ra những giá trị tham
chiếu cho Việt Nam. Cuốn sách đã phân tích thực trạng kiểm soát quyền lực
nhà nước ở Việt Nam hiện nay, với các chủ thể là nhân dân và Đảng duy nhất
lãnh đạo và cầm quyền. Các phương hướng và giải pháp kiểm soát quyền lực
nhà nước ở nước ta hiện nay, theo Trịnh Thị Xuyến, là hạn chế phạm vi quyền
lực nhà nước, thay đổi cách thức kiểm soát của Đảng, xây dựng các cơ chế
kiểm soát của nhân dân, xây dựng cơ chế kiểm soát trong bộ máy nhà nước,
phát triển các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng độc lập, tự chủ, nâng cao
trình độ văn hoá chính trị, dân chủ, pháp lý của nhân dân. Tác giả có bàn đến
cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan lập pháp đối với hành pháp
và tư pháp. Tuy nhiên, đây chỉ là một nội dung nhỏ của cuốn sách nên chưa
được đề cập nhiều đến kiểm soát quyền lực cơ quan thực thi quyền hành
pháp, hay quyền tư pháp thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội.
Nhiều công trình cũng đã làm rõ khái niệm kiểm soát quyền lực nhà
nước. Ví dụ như tác giả Nguyễn Thị Vân Giang trong bài "Kiểm soát quyền
lực nhà nước và giám sát của Quốc hội một số nước trên thế giới", Tạp chí Lý
luận chính trị và truyền thông, (10), năm 2010 đã đưa ra định nghĩa kiểm soát
quyền lực nhà nước "Đó là hệ thống những thể chế, cơ chế, nguyên tắc, biện
pháp được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước hoặc xã hội nhằm giữ cho
việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, hiệu quả". Các tác giả Phạm
Thế Lực trong bài viết ''Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước'', Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, (1), năm 2011 và Nguyễn Vân Giang "Kiểm soát quyền
13
lực nhà nước và giám sát của Quốc hội một số nước trên thế giới", Tạp chí Lý
luận chính trị và truyền thông, (10), năm 2010 cũng khẳng định kiểm soát
quyền lực nhà nước là tất yếu khách quan xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khác nhau như do bản tính của con người, do tính có thể sai lầm của nhà cầm
quyền (đảm bảo tính cẩn trọng của các quyết định), đảm bảo quyền tự do dân
chủ, do quyền lực nhà nước là quyền lực uỷ quyền. Có công trình khẳng định
tính tất yếu của kiểm soát quyền lực nhà nước trên một phương diện khác đó
là những hệ quả của việc thiếu vắng kiểm soát quyền lực nhà nước như tác giả
Lê Văn Cảm, Nguyễn Cảnh Hợp, trong bài viết "Thực trạng tổ chức thực hiện
và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, (5), năm 2011 nêu những hệ quả của việc thiếu vắng cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước như hoạt động cơ quan nhà nước khép kín, thiếu công
khai, minh bạch; hoạt động của cơ quan nhà nước mang nặng tính chủ quan,
thiếu lắng nghe ý kiến phản biện tích cực từ nhân dân; mắc phải những căn
bệnh trầm kha khó chữa với đối nội (tham nhũng, quan liêu) đồng thời mất uy
tín trước cộng đồng quốc tế trong quan hệ đối ngoại
Như vậy, nhìn chung, các công trình liên quan đến kiểm soát quyền lực
nhà nước ở Việt Nam trong hơn 10 năm lại đây, đã cho thấy, giới nghiên cứu
chính trị và pháp lý Việt Nam đã có bước tiến xa trong nhận thức lý luận về
kiểm soát quyền lực nhà nước. Từ chỗ coi Nhà nước của giai cấp công nhân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng là "bất khả xâm phạm" không chia sẻ quyền lực
với bất kỳ ai và không bị kiểm soát bởi bất kỳ ai, đã tiến đến chỗ thừa nhận
kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu khách quan. Nhận thức này đã
được đưa vào Cương lĩnh chính trị của Đảng (sửa đổi năm 2011), trong Nghị
quyết Đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ XI. Tuy nhiên, trong kiểm soát
quyền lực nhà nước, có nhiều chủ thể, có nhiều phương thức. Giám sát tối cao
của Quốc hội là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong
nhà nước. Trong giám sát tối cao của Quốc hội lại có nhiều hình thức nữa. Về
nội dung này, các nghiên cứu cho thấy hai khuynh hướng rõ rệt:
14
(i) Nghiên cứu giám sát tối cao của Quốc hội, như là nghiên cứu tổ
chức và hoạt động của Quốc hội theo Luật tổ chức Quốc hội, mà không chú ý
đến lý thuyết kiểm soát quyền lực nhà nước như Phạm Ngọc Kỳ (với cuốn
sách Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia, 1996,
tác giả Trương Thị Hồng Hà với công trình Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm
bảo chức năng giám sát của Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia, 2009, Đặng
Phương Hải với bài viết "Giám sát và hệ quả pháp lý từ hoạt động giám sát tối
cao của Quốc hội", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (6), năm 2015.
(ii) Coi giám sát tối cao của Quốc hội là một trong những hình thức
kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng chưa có điều kiện đi sâu vào các hình
thức cụ thể, nhất là hoạt động chất vấn tại kỳ họp. Tuy vậy, cần khẳng định
rằng, các công trình nói trên, này đã cung cấp những vấn đề cơ bản nhất về
kiểm soát quyền lực nhà nước, đó cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác
giả trong quá trình triển khai đề tài.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN CHẤT VẤN
CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Chức năng giám sát của Quốc hội đã là đối tượng nghiên cứu từ nhiều
năm nay ở nhiều nước trên Thế giới. Tuy nhiên, hầu hết các tài liệu nghiên
cứu về chức năng giám sát của Quốc hội mới chỉ đặt trong phạm vi nghiên
cứu tổng thể về Quốc hội chứ chưa có nhiều công trình nghiên cứu riêng biệt
về vấn đề này. Trong một thời gian dài, ở nước ta chưa có công trình nghiên
cứu quy mô về hoạt động giám sát của Quốc hội. Gần chục năm sau đổi mới
mới có một số công trình nghiên cứu về quyền giám sát của Quốc hội. Trong
đó có một số công trình tiêu biểu như Quyền giám sát của Quốc hội - nội
dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, Nguyễn Sỹ Dũng chủ biên, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, năm 2004; Quốc hội Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Văn phòng Quốc hội, năm 2005; Thường thức về hoạt động giám sát của
Quốc hội, Nguyễn Sỹ Dũng chủ biên, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006
15
Tác giả Trần Ngọc Đường trong bài viết "Tiếp tục nâng cao hiệu lực và
hiệu quả giám sát tối cao của Quốc hội trong xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Tuyên giáo, (5), năm 2011 đã khẳng định giám sát
tối cao của Quốc hội là một trong những cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
từ bên trong "Giám sát nói chung, giám sát tối cao của Quốc hội nói riêng, là
một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước, góp phần xây dựng cả 3
quyền đều mạnh, đảm bảo cho các quyền làm đúng, làm đủ nhiệm vụ, quyền
hạn được nhân dân giao phó".
Nhiều tác giả cũng đã bước đầu nghiên cứu quyền giám sát của Quốc
hội như là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Tác giả Nguyễn
Sinh Hùng trong bài viết "Tăng cường vai trò giám sát tối cao của Quốc hội
đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng", Tạp chí Cộng sản, (2), năm 2013 cũng
khẳng định "Giám sát tối cao của Quốc hội trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xem là một phương thức
kiểm soát quyền lực nhà nước, có nhiệm vụ phòng, chống sự tha hóa của
kiểmn lực nhà nước. Do đó, có thể nói giám sát tối cao có vai trò trong phòng,
chống tham nhũng - một biểu hiện của sự tha hoá quyền lực nhà nước".
Nhiều công trình chuyên khảo nghiên cứu về hoạt động giám sát tối cao
của Quốc hội cũng đã đưa ra định nghĩa về hoạt động này. Ví dụ như tác giả
Phạm Ngọc Kỳ trong cuốn sách Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Nxb
Chính trị quốc gia, 1996 đã đưa ra định nghĩa quyền giám sát tối cao của Quốc
hội "là quyền của Quốc hội thực hiện việc theo dõi, xem xét, kiểm tra tính hợp
hiến, hợp pháp đối với các văn bản và hoạt động của Chủ tịch nước, uỷ ban
thường vụ quốc hội, Chính phủ, thủ tướng Chính phủ, toà án nhân dân tối cao và
viện kiểm sát nhân dân tối cao, xử lý những vi phạm hiến pháp, luật bà nghị
quyết của Quốc hội do những cơ quan nói trên gây ra nhằm bảo đảm cho Hiến
pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội được nghiêm chỉnh chấp hành".
16
Mặc dù dưới các góc độ...ng phải là những thiên thần, nên Chính phủ cũng có
thể mắc sai lầm. Đây là nhận thức căn bản của ông khi đề xuất hệ thống kiềm
chế và đối trọng trong Bản Hiến pháp này.
31
Do vậy, khả năng sai lệch trong nhận thức và thực thi quyền lực nhà
nước, khả năng sử dụng quyền lực thiếu hiệu quả là có thể xảy ra. Có thể nói,
không có thể chế nào của con người có thể miễn dịch khỏi sự sai lầm. Những
sai lầm mang tính cá nhân ở những người nắm giữ quyền lực nhà nước có thể
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người dân. Do đó, cần thiết
lập cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo cho các quyết định,
chính sách của Nhà nước được trao đổi, bàn bạc, thảo luận kỹ trước khi ban
hành nhằm tìm kiếm sự đồng thuận của xã hội, hạn chế đến mức thấp nhất
việc đưa ra những quyết định sai lầm, không hiệu quả, gây cản trở cho sự phát
triển của xã hội. Điều này có nghĩa là thông qua hoạt động kiểm soát quyền
lực, ý chí chung sẽ được kiểm định xem có phù hợp với ý chí của người dân
hay không, có tính khả thi hay không. Cũng thông qua hoạt động này, các quy
định không hợp lý của pháp luật sẽ được sửa chữa, bổ sung kịp thời, những
quyết định, văn bản pháp luật không hợp pháp hoặc không còn phù hợp với
thực tiễn sẽ bị huỷ bỏ, hoạt động xây dựng pháp luật sẽ tránh được tình trạng
quan liêu, chủ quan duy ý chí.
2.1.2.4. Nhà nước là chủ thể thực thi quyền lực có độc quyền cưỡng chế
Nhà nước có quyền cưỡng chế tức là quyền đè bẹp bất cứ một vật cản
nào gây trở ngại cho việc thực hiện lợi ích của nhà nước, trên danh nghĩa lợi
ích của nhân dân. Tính độc quyền cưỡng chế tạo cho nhà nước sức mạnh hợp
pháp duy nhất và lớn nhất trong xã hội. Đó là một yêu cầu khách quan. Thuộc
tính cưỡng chế mang lại cho Nhà nước quyền lực can thiệp một cách hiệu quả
vào các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội. Song "chẳng có đảm bảo nào cho
rằng, mọi can thiệp của nhà nước sẽ mang lại lợi ích cho xã hội. Độc quyền
của nhà nước về cưỡng chế, cái mang lại cho nhà nước quyền lực can thiệp
một cách có hiệu lực vào hoạt động kinh tế, cũng mang lại cho nhà nước can
thiệp một cách độc đoán, chuyên quyền. Với độc quyền này, Nhà nước sẽ có thể
can thiệp một cách độc đoán, chuyên quyền, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của con người. "Quyền này cộng với bất bình đẳng về thông tin giữa dân
32
chúng và nhà nước tạo ra những cơ hội cho các công chức xúc tiến những lợi ích
của riêng họ hay những bạn bè đồng minh của họ, làm thiệt hại cho lợi ích
chung. Những khả năng kiếm lợi và tham nhũng là rất lớn" [51, tr.126].
Chính vì tính độc quyền cưỡng chế này của nhà nước, có người đã ví, ví ở
thời điểm chuẩn bị và tiến hành tội phạm, nhà nước và kẻ cướp có rất nhiều chỗ
giống nhau. Cùng đều phải mang vũ khi, nhưng nguy hiểm ở chỗ, nhà nước
được công khai mang vũ khí, còn kẻ cướp thì lại không được công khai. Chính
đặc điểm công khai này làm cho nhà nước có một sức mạnh ghê gớm hơn nhiều
kẻ cướp. Thực tế cho thấy, không phải bao giờ sự can thiệp của nhà nước cũng
đúng đắn và hiệu quả. Do tính nhạy cảm và dễ bị lạm dụng, quyền lực này cần
đặt dưới sự giám sát thường xuyên để có thể đưa ra những phản hồi, điều chỉnh
kịp thời trước khi chúng gây ra những tồn thất to lớn cho xã hội.
Như vậy, một trong những mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước
là nhằm kiểm soát "độc quyền cưỡng chế" sao cho đặc quyền này của nhà
nước nằm trong phạm vi "cưỡng chế hợp pháp", giới hạn hoạt động của nhà
nước trong ranh giới không vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng của công
dân; tăng tính trách nhiệm, tính hiệu quả của việc thực thi quyền lực nhà nước
và đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân.
Như vậy, nội dung của kiểm soát quyền lực nhà nước là đảm bảo cho
quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích, vì lợi ích của nhân dân và
đảm bảo cho quyền lực nhà nước thực thi có hiệu lực, hiệu quả.
2.1.3. Phƣơng thức kiểm soát quyền lực nhà nƣớc
2.1.3.1. Lý thuyết phân quyền về kiểm soát quyền lực nhà nước
Tư tưởng về kiểm soát quyền lực nhà nước cũng xa xưa như chính
quyền lực nhà nước vậy. Nhưng phải chờ đến khi xu thế chống lại nhà nước
quân chủ chuyên chế bùng nổ ở phương Tây mà đỉnh cao là sự ra đời của học
thuyết về phân chia quyền lực nhà nước ra đời thì tư tưởng này mới đạt đến tầm
cao mới đó là tư tưởng phân quyền, dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực.
33
Các nhà tư tưởng thời kỳ khai sáng như Locke, Montesquieu cho đến
Mill, Madison đều cho rằng quyền lực chỉ có thể kiểm soát bằng quyền lực,
và sự phân lập quyền lực là một phương thức để hạn chế, kiểm soát quyền
lực. Quyền lực nhà nước được phân chia thành ba nhánh: lập pháp, hành
pháp, tư pháp, độc lập và tương tác với nhau, tạo nên cơ chế đối trọng, kiểm
chế lẫn nhau. Ông chỉ rõ nguy cơ của sự không phân lập quyền lực "Nếu
quyền lập pháp và quyền hành pháp đều nằm trong tay một người hay một
viện nguyên lão thì sẽ không còn gì là tự do nữa vì chính ông ta hay viện ấy
chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do
nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu
quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với
quyền sống và quyền tự do của công dân; quan toà sẽ là người làm ra luật.
Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan toà sẽ có cả sức
mạnh của kẻ đàn áp" [49, tr.100). Montesquieu đã từng nói "Kinh nghiệm
hàng thế kỷ cho thấy rõ ràng khi nắm quyền trong tay, bất kỳ người nào cũng
có thiên hướng lạm dụng nó, và người đó còn đi theo hướng ấy cho tới lúc
chưa đạt đến giới hạn". Vì vậy phân chia quyền lực nhằm giảm thiểu sự lạm
dụng ấy. Khi thẩm quyền được phân chia và xác định rõ ràng, cử tri sẽ dễ
dàng hơn trong việc xác định ai là người có lỗi đối với những hành động
không đúng của nhà nước. Cơ chế kiềm chế đối trọng giữa các nhánh quyền
lực cũng được các học giả tư sản này đề cập đến như một phương thức kiểm
soát quyền lực nhà nước. Cơ chế này đảm bảo không một nhánh quyền lực
nào, ngay cả trong lĩnh vực của mình không thể không bị kiểm soát, giám sát,
không thể hành động một cách chuyên chế. Cơ chế này được thiết kế không
phải vì mục đích hoạt động thông suốt, nhanh chóng của bộ máy nhà nước mà
để đảm bảo quyền lực được thực hiện đúng mục đích, không bị lạm dụng. Sự
an toàn phải trả giá bằng sự kém linh hoạt. Ví dụ, ở các quốc gia có hình thức
chính thể cộng hoà tổng thống, mà điển hình là Hoa Kỳ, Tổng thống không
thể gián tán được Nghị viện nhưng Nghị viện cũng không thể phế truất tổng
34
thống (ngoài trường hợp đàn hạch). Tổng thống có quyền phủ quyết một đạo
luật do Nghị viện đã thông qua, nhưng Nghị viện có thể vượt qua sự phủ
quyết này bằng cách bỏ phiếu lại với 2/3 tổng số phiếu nghị sĩ. Sự giám sát
đối với tính hợp hiến trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước được trao
cho Toà án tối cao Mỹ, nhưng việc bổ nhiệm các thành viên của Toà án tối
cao do Tổng thống tiến hành với sự đồng ý của Thượng viện.
Sự ra đời của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong bộ máy
nhà nước gắn liền với sự hình thành và phát triển của lý thuyết phân quyền,
tạo ra sự kiềm chế và đối trọng giữa các nhánh quyền lực ngay bên trong bộ
máy nhà nước. Theo lý thuyết này, quyền lực nhà nước được chia làm ba
quyền độc lập: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cơ chế phân quyền và đối trọng
quyền lực được thể hiện ra là:
Lập pháp ban hành luật, giám sát việc thực hiện luật do nó ban hành và
truy tố những cán bộ quan chức hành pháp khi họ vi phạm trách nhiệm
Hành pháp có nhiệm vụ thực thi pháp luật, ngăn chặn những dự định
tuỳ tiện của cơ quan lập pháp.
Sự độc lập của cơ quan tư pháp và các quan toà nhằm bảo vệ công dân
khỏi sự xâm hại của những cơ quan lập pháp và hành vi tuỳ tiện của cơ quan
hành pháp.
Trong cơ chế kiềm chế đối trọng, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan
quyền lực nhà nước. Luận án đi sâu nghiên cứu chức năng kiểm soát quyền
lực của cơ quan lập pháp.
2.1.3.2. Kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan lập pháp
Các hoạt động có tính chất kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan
lập pháp đối với cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp được thông qua các
hình thức, cơ chế cụ thể. Quốc hội sẽ hạn chế việc Chính phủ, cơ quan tư
pháp hoạt động vượt quá quyền hạn do Hiến pháp quy định, nhằm bảo vệ trật
tự pháp luật, bảo vệ quyền công dân và quyền tham chính của các tổ chức
35
chính trị xã hội khác. Sự kiểm soát quyền lực của cơ quan lập pháp đối với
hai nhánh quyền lực nhà nước còn lại được ghi nhận ở nhiều quốc gia, trên
một cơ sở lý luận sau "Cơ quan đại biểu cho dân nên chỉ nên làm ra luật, và
xem xét người ta thực hiện luật như thế nào. Điều này thì có thể làm tốt và
không ai có thể làm tốt hơn là cơ quan đại biểu của dân" [84, tr.111]. Sau khi
tiến hành các hoạt động lập pháp, vai trò cơ bản của cơ quan lập pháp là xem
xét các đạo luật đó có được thực thi hiệu quả hay không và liệu trên thực tế
các đạo luật có định rõ và giải quyết được những vấn đề như dự định của các
nhà soạn thảo hay không [20]. Kiểm soát quyền lực của cơ quan lập pháp đối
với các cơ quan nhà nước khác được thực hiện dưới những hình thức sau:
Thông qua hoạt động của cơ quan thanh tra quốc hội (nghị viện).
Thanh tra quốc hội ban đầu có tên là thanh tra công lý, xuất hiện từ
năm 1809. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, thiết chế thanh tra được chấp nhận
ở một số quốc gia ở Bắc Âu. Thanh tra quốc hội có nhiệm vụ chủ yếu là điều
tra sự bất bình và khiếu nại của công chúng về sự bất công, tham nhũng, xét
xử oan sai của các cơ quan hành chính nhà nước ở cả trung ương và địa
phương. Thanh tra quốc hội vừa có thể hành động trên sự phản ánh, khiếu nại
của người dân hoặc dựa vào ý kiến riêng của mình mà tiến hành các cuộc điều
tra tìm sự thật. Ở những nước như Đan Mạch, Na Uy, Thanh tra Quốc hội
không có thẩm quyền khởi kiện hay truy tố, hoạt động của họ chỉ nhằm theo
dõi chính quyền và không liên quan đến trách nhiệm pháp lý của cá nhân
quan chức. Trong khi đó, thanh tra quốc hội ở các nước như Thuỵ Điển, Phần
Lan có quyền đưa ra các hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý các bộ
trường. Hiện nay có khoảng hơn 80 nước trên thế giới có thanh tra nghị viện
và kiểm toán nghị viện. Đây là thiết chế có vai trò quan trọng giúp nghị viện
giám sát hoạt động của chính phủ. Thanh tra Nghị viện có thể tiến hành thanh
tra bất cứ nhân vật cao cấp nào trong bộ máy nhà nước khi có dấu hiệu vi
phạm pháp luật.
36
Chức năng giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước là
một trong ba chức năng quan trọng của quốc hội nước ta. Tuy nhiên, từ trước
đến nay, mặc dù có nhiều cố gắng nhưng quốc hội vẫn chưa làm tốt chức
năng này do thiếu thiết chế quan trọng là thanh tra quốc hội. Thanh tra quốc
hội là cơ quan của quốc hội có chức năng tiếp nhận và tổ chức điều tra, báo
cáo cho quốc hội theo đơn thư khiếu nại và tố cáo của bất kỳ công dân nào về
tham nhũng cũng như các hành vi vi phạm pháp luật khác của Chính phủ và
các cơ quan công quyền. Thanh tra Quốc hội có thể đưa ra những ý kiến, kiến
nghị nhưng không có quyền đưa ra những quyết định có tính bắt buộc thi
hành. Tuy vậy, dựa trên uy thế của mình, những ý kiến, kiến nghị của Thanh
tra Quốc hội sẽ được thực hiện trong thực tiễn.
Giám sát tính hợp pháp, hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật
được hiểu là hình thức giám sát đặc biệt của Quốc hội, thông qua đó, Quốc
hội tiến hành các hoạt động xem xét, kiểm tra, phát hiện, bàn bạc, thảo luận,
kiến nghị, đình chỉ hoặc huỷ bỏ những văn bản quy phạm pháp luật do Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao, Chủ tịch nước ban hành có dấu hiệu trái Hiến Pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Theo quy định của nhiều nước như Canada, Pháp, Bắc Âu thì Quốc hội
là cơ quan có thẩm quyền hệ thống hoá và hợp nhất các văn bản pháp luật.
Quốc hội có quyền quy định cụ thể việc sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ các văn
bản dưới luật có nội dung trái với những quy định trong các đạo luật do Quốc
hội ban hành. Ở một số nước, đây không phải là chức năng đặc thù của Quốc
hội mà giao cho toàn án tối cao.
Hình thức xét báo cáo của Quốc hội là tổng hợp các hoạt động do
Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội tiến hành như đọc báo cáo bằng văn
bản, nghe báo cáo trực tiếp của các nhân có thẩm quyền hoặc đại diện cơ quan
chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội tại phiên họp toàn thể, thảo luận
37
theo nhóm, tổ hoặc tại hội trường, tiến hành phân tích, đánh giá kết quả hoạt
động của đối tượng chịu sự giám sát. Xem xét báo cáo là hoạt động giám sát
do Quốc hội thực hiện thông qua việc nghe báo cáo, thảo luận, phân tích,
đánh giá kết quả hoạt động của đối tượng bị giám sát. Xem xét báo cáo là một
hình thức giám sát quan trọng được sử dụng ở hầu hết các quốc hội trên thế
giới. Tuy nhiên, mức độ sử dụng hình thức giám sát này ở các nước khác
nhau không giống nhau, tuỳ thuộc vào từng chính thể. Ở Việt Nam, Quốc hội
thực hiện hình thức giám sát thông qua việc xem xét báo cáo công tác không
chỉ của cơ quan thực thi quyền hành pháp (Chính phủ) mà áp dụng đối với
báo cáo công tác của các cơ quan: Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Chủ tịch nước, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Thông qua việc xét báo cáo của các cơ
quan nhà nước, Quốc hội đã nắm được những thông tin đầy đủ, chính xác, kịp
thời và toàn diện về các mặt, hoạt động của các cơ quan nhà nước, cùng với
thảo luận, phân tích báo cáo, Quốc hội có cơ sở để nhận định, đánh giá về tình
hình thi hành Hiến pháp, giám sát việc thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Thông
qua việc xem xét báo cáo, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đưa ra được những
kết luận yêu cầu Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và các cơ quan hữu quan có biện pháp khắc phục những hạn chế,
nhược điểm trong hoạt động của mình.
Thông qua các Đoàn giám sát của Quốc hội.
Ở Việt Nam, đây là hình thức giám sát hữu hiệu của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc
hội và đại biểu Quốc hội. Khi đoàn giám sát tiến hành hoạt động giám sát thì
đoàn phải đưa ra các yêu cầu rõ ràng, cụ thể để các cơ quan, đơn vị, tổ chức bị
giám sát cung cấp thông tin, tài liệu trung thực, có liên quan đến mục đích
38
giám sát. Như vậy, thông qua việc sử dụng hình thức tổ chức các đoàn đi
giám sát tại địa phương, đại biểu Quốc hội nắm được tình hình thi hành pháp
luật của các cơ quan nhà nước ở địa phương, nắm được tâm tư, nguyện vọng,
thái độ của nhân dân địa phương đối với hoạt động của cơ quan nhà nước ở
địa phương để từ đó có kết luận khách quan, chính xác về sự việc mà đoàn
giám sát đã thực hiện. Ở một số nước Bắc Âu, cơ quan Thanh tra của Quốc
hội cũng có quyền thành lập các đoàn kiểm tra, xem xét tình hình thực tế, làm
cơ sở cho việc xây dựng các thuyết trình, báo cáo, đưa ra các kiến nghị.
Thông qua hoạt động chất vấn chính phủ và các thành viên chính phủ.
Một trong những đặc điểm của chất vấn là hình thức này sẽ dẫn đến
cuộc thảo luận chung ở Nghị viện. Ở các nước thuộc chính thể đại nghị hoặc
hỗn hợp, hình thức chất vấn có thể dẫn đến việc đặt vấn đề ủng hộ hay phản
đối hoạt động của chính phủ. Thậm chí có thể có việc đưa ra Nghị quyết bất
tín nhiệm và dẫn đến sự từ chức của chính phủ hay từng thành viên chính phủ.
"Bất kỳ sự chất vấn nào cũng có thể là lý do đưa ra nghị quyết, qua đó các
thành viên nghị viện phản ánh quan điểm của mình (Phần 2, Điều 111, Hiến
pháp Tây Ban Nha).
Thông qua các cuộc điều tra, điều trần trước Quốc hội.
Ví dụ ở Mỹ, Quốc hội có quyền điều tra. Nếu Quốc hội hay một uỷ ban
của Quốc hội nhận thấy có vấn đề nào đó đã được Chính phủ thực hiện không
đúng thì Quốc hội sẽ tiến hành điều tra. Quốc hội có thể điều tra bất cứ vấn đề
nào nếu họ nghi ngờ. Những cuộc điều tra, điều trần được tiến hành nhằm thu
thập thông tin về sự cần thiết đối với việc soạn thảo các văn bản luật mới,
thẩm định tính hiệu lực của các văn bản đã được thông qua, tìm hiểu phẩm
chất và kết quả hoạt động của các thành viên trong Chính phủ, là cơ sở cho
việc buộc tội một thành viên nào đó. Hoạt động này có thể dẫn đến sự từ chức
bất đắc dĩ của Nguyên thủ quốc gia như đã từng xảy ra vào năm 1974, khi
hoạt động điều tra của Uỷ ban pháp luật Hạ viện Mỹ dẫn tới sự từ chức của
39
Tổng thống Mỹ Nixon Các viện của Nghị viện đưa ra quy định về mục đích
thành lập uỷ ban và đối tượng điều tra. Trong khuôn khổ đó, các uỷ ban có
quyền hạn khá rộng lớn Họ có quyền triệu người làm chứng (thậm chí cả
Tổng thống Mỹ), trong đó có sự có mặt của người làm chứng là bắt buộc. Uỷ
ban có quyền yêu cầu trình những tài liệu cần thiết, kiểm tra những địa điểm
cần thiết Sau khi hoàn tất công việc của mình, Uỷ ban sẽ trình báo cáo lên
các viện của Nghị viện để cơ quan đó đưa ra quyết định thích hợp. Các báo
cáo và kết luận của Uỷ ban điều tra không có ý nghĩa như những văn bản của
các cơ quan toà án.
Thông qua hình thức bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ.
Ý nghĩa của hình thức giám sát này của Quốc hội đối với Chính phủ
chính lả ở chỗ Chính phủ phải chịu trách nhiệm về những động thái của
mình, đảm bảo rằng chúng sẽ không gây ra những hệ quả có hại nào cho
người dân, còn khi những hệ quả như vậy xảy ra thì phải có biện pháp
tương ứng. Hình thức này có hiệu quả gián tiếp hơn cả hệ quả trực tiếp, nó
luôn treo lơ lửng, có tác dụng răn đe, nhắc nhở, buộc Chính phủ phải thận
trọng, có trách nhiệm trong hoạt động của mình. Tác động tâm lý đó còn
lớn hơn tác động trực tiếp của nó. Mục đích của cơ chế này không phải là
đánh đổ Chính phủ mà là kiểm soát quyền lực giữa Quốc hội và Chính phủ.
Ở Việt Nam, bỏ phiếu tín nhiệm được Quốc hội thực hiện đối với những
người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn nhằm mục đích làm cơ
sở cho việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách
chức cá nhân đó. Ở nước ta, mục đích của cơ chế này là để quy trách nhiệm
cá nhân. Nó nhằm đảm bảo rằng một chính sách, động thái nào đó của các
thành viên Chính phủ phải được xem xét, cân nhắc trước khi đưa ra thực
hiện để không xảy ra hậu quả tiêu cực nào làm tổn hại đến nền kinh tế và
lợi ích của người dân. Còn nếu hậu quả như vậy xảy ra thì sẽ có cơ chế
xem xét lại mức độ tín nhiệm.
40
Ở nhiều nước, bất tín nhiệm là kết quả của việc bỏ phiếu bất tín nhiệm
theo đề nghị của Quốc hội. Ở Đức còn quy định, bất tín nhiệm đối với Chính
phủ chỉ được thông qua khi bầu Thủ tướng mới "Quốc hội có thể thể hiện sự
bất tín nhiệm đối với Thủ tướng khi đã bầu ra được người kế nhiệm vị trí
này và đề nghị Tổng thống Liên bang bãi nhiệm Thủ tướng. Thủ tướng phải
tuân thủ đề nghị này và giao quyền cho người kế nhiệm" (Điều 67). Điều
này sẽ tránh được tình trạng khủng hoảng Chính phủ kéo dài do không có
Thủ tướng. Để đảm bảo tính ổn định của chính phủ, hiến pháp nhiều nước
quy định chi tiết về trình tự thủ tục bỏ phiếu bất tín nhiệm và đòi hỏi phải
xuất phát từ một tỷ lệ đáng kể đề nghị của các đại biểu (thông thường là ¼
tổng số đại biểu), cũng như thực hiện bỏ phiếu lấy kết quả theo đa số tại
Quốc hội. Thí dụ Hiến pháp Séc (Điều 72) quy định phải được ít nhất 50 đại
biểu đề nghị (tức là 25% đại biểu Quốc hội), Hiến pháp Ý (Điều 94), Hiến
pháp của Cộng hoà Pháp (Điều 49), ở Tây Ban Nha khi có 10% đại biểu của
Quốc hội hay hạ viện đề nghị. Ở Hy Lạp, đề nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm
được thông qua khi có ít nhất 1/6 đại biểu Quốc hội đề xuất và phải nêu ra
được một cách rõ ràng lý do của sự bất tín nhiệm (Điều 84). Để tránh việc
quốc hội lạm dụng quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm, quá trình thực hiện được
giới hạn về thời gian. Thí dụ, tại Bungari, khi Quốc hội đã ra nghị quyết
không nhất trí về việc bỏ phiếu tín nhiệm Hội đồng bộ trưởng thì trong vòng
6 tháng sau đó không được đề xuất bỏ phiếu bất tín nhiệm trên cơ sở cũng lý
do đưa ra (Điều 89). Ở Ba Lan, việc tái đề xuất bỏ phiếu bất tín nhiệm không
được đưa ra sớm hơn 3 tháng kể từ ngày đưa ra đề nghị trước đó (Điều 158).
Cơ chế bỏ phiếu bất tín nhiệm tại quốc hội thường dành một khoảng thời
gian từ khi đề nghị được đưa ra cho đến khi tiến hành bỏ phiếu, cho phép
các bên tìm kiếm những thoả hiệp cần thiết. Thí dụ ở Tây Ban Nha, thời gian
bỏ phiếu bất tín nhiệm không được tiến hành sớm hơn 5 ngày kể từ khi đề
nghị được đưa ra. Ở Pháp, Bồ Đào Nha là 2 ngày. Quy định về khoảng thời
gian giữa thời điểm đặt vấn đề và thời điểm bỏ phiếu bất tín nhiệm là để các
41
đại biểu có thời gian suy nghĩ kỹ về vấn đề đặt ra, tránh việc bỏ phiếu theo
những cảm nhận ban đầu. Như vậy, bỏ phiếu tín nhiệm là một hình thức
pháp lý đặc biệt, có liên quan đến sinh mệnh chính trị của những người giữ
chức vụ đặc biệt trong bộ máy nhà nước do quốc hội bầu hoặc phê chuẩn
nên phải tuân thủ theo một quy định chặt chẽ.
Thông qua hoạt động luận tội và giám sát tư pháp.
Theo quy định của Hiến pháp một số nước, thì quốc hội có quyền luận
tội các quan chức cao cấp nhất của nhà nước, từ bộ trưởng đến thủ tướng hoặc
tổng thống. Thủ tục luận tội được xem như chức năng xét xử hoặc đàn hạch
của quốc hội. Thủ tục này có xuất xứ từ Anh, sau đó là Quốc hội các nước
khác như Mỹ, Pháp, Italia, Đan Mạch, Hy Lạp, Đức, Nhật...
Có 3 hình thức luận tội phổ biến nhất trong thực tiễn hoạt động của
nghị viện các nước. Hình thức thứ nhất, cả quá trình luận tội diễn ra trong
khuôn khổ nghị viện, sau đó có thể diễn ra thủ tục tố tụng ở toà án. Hình thức
thứ hai, nghị viện hoặc một viện của nghị viện chỉ có vai trò buộc tội, còn vụ
việc về trách nhiệm pháp lý sẽ được giải quyết ở toà án do nghị viện lập ra từ
những người của mình, trong trường hợp cần thiết, cơ quan toà án đó có thể
hành động như một toà án bình thường và xem xét trách nhiệm hình sự của
nhân vật bị luận tội. Hình thức thứ ba, nghị viện hoặc một viện của nghị viện
cũng giới hạn trong việc buộc tội, còn vụ việc được giải quyết ở cơ quan xét
xử hiến pháp, cơ quan này chỉ phán xét về trách nhiệm hiến pháp, truất quyền
của nhân vật bị luận tội. Tiểu biểu cho hình thức thứ nhất là Mỹ, Anh; hình
thức thứ hai là Pháp và hình thức thứ ba là Đức. Có sự khác nhau về đối
tượng của hình thức luận tội ở các nước. Hiến pháp Mỹ quy định khả năng bị
luận tội đối với Tổng thống, Phó tổng thống, các thẩm phán và nhà chức trách
dân sự (công chức nhà nước cấp liên bang). Ở Đức, Ý, Nga, hình thức luận tội
chỉ áp dụng cho Tổng thống, ở Nhật, chỉ Thẩm phán mới bị luận tội. Giữa các
nước cũng có sự khác biệt trong xác định cơ sở cho sự luận tội. Ở Mỹ, cơ sở
để khởi tố vụ việc là sự buộc tội phản quốc, nhận hối lộ hoặc những tội phạm
42
trầm trọng khác, những hành vi của Tổng thống làm tổn hại đến uy tín của
Nhà nước. Ở một số nước khác, cơ sở cho sự luận tội hẹp hơn là phản quốc,
xâm phạm hiến pháp và luật. Ở Mỹ, Hạ viện có quyền luận tội các quan chức
liên bang thông qua một tỷ lệ phiếu quá bán. Sau đó Thượng viện tổ chức một
phiên toà để luận tội. Nếu 2/3 phiếu của Thượng viện đồng ý buộc tội, quan
chức này sẽ bị bãi chức. Đây là phương thức mạnh nhất của quyền lực lập
pháp tác động lên quyền lực hành pháp ở những nước này.
Chức năng giám sát được thực hiện ngay trong cách thức tổ chức nghị viện
Quốc hội hầu hết các nước được thiết kế thành hai viện có quyền lực
gần như ngang bằng nhau. Thiết kế này được đưa ra với mục đích là tạo ra sự
kiểm chế, giám sát lẫn nhau trong Quốc hội để đề phòng khả năng vội vàng,
thiếu cần trọng khi thông qua một đạo luật. Sự tồn tại của thượng viện là để
tránh sự vội vàng của hạ viện, khi hạ viện thông qua những quyết định luật
theo sức ép của dân chúng. Vì các hạ nghị sĩ do dân chúng thực hiện quyền
bầu cử của mình bầu ra, luôn gắn bó với quyền lợi của dân chúng, phải chiều
lòng dân chúng, mỗi khi dân chúng phàn nàn. Chỉ hơi thấy dân chúng kêu ca
một chút, hạ viện đã muốn có ngay một đạo luật đáp ứng ngay mong mỏi của
dân chúng. Vì chỗ đứng của hạ nghị sĩ phụ thuộc vào lá phiếu của cử tri.
Ngược lại, vì chức năng đại diện cho các chủ thể quốc gia, ở một số nước lại
không do dân chúng bầu ra một cách trực tiếp, các thượng nghị sĩ sẽ có khả
năng cho việc kìm chế sự bồng bột bằng lần họp biểu quyết thông qua dự án
đã được hạ viện thông qua. Bởi vì khi có thượng viện, thì ít nhất công đoạn
làm luật, hay thông qua các quyết định phải được tiến hành dài hơn, với
những thủ tục rườm rà hơn, để ngăn chặn mọi sự vội vàng hấp tấp của hạ
viện, quyết định chỉ trở thành có hiệu lực khi và cả khi cả hai cơ quan cùng
đồng ý biểu quyết thông qua, trừ những trường hợp đặc biệt.
Cơ chế hai viện với cách thức mỗi viện có thể kiềm chế viện kia cũng là
một cách thức kiểm soát quyền lực ngay trong lòng cơ quan lập pháp. Thủ tục
này làm cho việc làm luật hay thông qua các quyết định của Quốc hội phải được
43
tiến hành thận trọng hơn, với các thủ tục chặt chẽ và phức tạp để ngăn chặn sự
sai lầm, nóng vội của một viện khi họ đưa ra các quyết định chính sách.
Ở một số nước, sự kiểm soát trong nội bộ nghị viện được thực hiện chủ
yếu thông qua đảng đối lập. Đảng đối lập được thể chế hoá tạo thành cơ chế
đối trọng, phản biện trong Nghị viện. Ví dụ ở Anh, hai đảng lớn nhất trong
Nghị viện tạo thành phe của Chính phủ (đa số) và phe đối lập chính thức. Vị
trí pháp lý phe đối lập chính thức thuộc về đảng có số ghế thứ hai trong nghị
viện. Lãnh tụ đảng đó là lãnh tụ của phe đối lập. Đảng đối lập ở Nghị viện có
những nguồn lực nhất định, Đảng này kiểm soát 1/3 thời gian ở Nghị viện và
có thể chọn chủ đề tranh luận vào những ngày đối lập. Các đảng đối lập có đại
diện trong Uỷ ban của Nghị viện theo tỷ lệ ghế của mình ở Hạ viện. Nhiệm vụ
của đảng đối lập là phê phán chính sách chính phủ của đảng cầm quyền,
nhưng đảng đối lập ở Nghị viện cũng phải thể hiện tính xây dựng và cư xử
theo cách phù hợp nhất để chứng tỏ có khả năng cầm quyền trong tương lai.
Đảng đối lập tại nghị viện tạo nên cơ chế phản biện, kiềm chế nhất định đối
với đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị ở hầu hết các nước đa đảng. Ở
nghị viện Anh, có sự tuân thủ gắt gao của các thành viên thuộc nhóm đảng
đối với kỷ luật đảng. Kỷ luật đảng trong Nghị viện theo mô hình của Anh có
ảnh hưởng rất lớn đến việc biểu quyết của nghị sĩ.
Kiểm soát quyền lực bên trong dù có nỗ lực đến bao nhiêu thì tính
khách quan và hiệu quả của nó vẫn bị hạn chế không nhỏ vì đây là sự kiểm
soát nội bộ giữa các chủ thể quyền lực với nhau và có chung những lợi ích
nhất định.
2.1.3.3. Kiểm soát quyền lực thông qua hoạt động của các đảng
chính trị và bầu cử
Kiểm soát quyền lực nhà nước có thể thông qua hoạt động của các đảng
chính trị. Đảng chính trị được xem là tổ chức của những người có cùng lợi
ích, cùng sự quan tâm, có cương lĩnh hoạt động riêng, có kỷ luật và hoạt động
44
công khai, được pháp luật thừa nhận và tồn tại với mục đích nắm quyền lực
nhà nước. Đảng đối lập có thể kiểm soát đảng cầm quyền thông qua việc kiểm
tra, giám sát hoạt động của các cá nhân đảng viên giữ các chức vụ quan trọng
trong bộ máy nhà nước hoặc kiểm tra các tổ chức đảng thành lập trong các cơ
quan nhà nước có thể thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Ở những
nước có chế độ đa đảng, những đảng chính trị đối lập có thể theo dõi chỉ trích,
phê bình, vạch rõ những khiếm khuyết của đảng cầm quyền, của các cá nhân
đảng viên nhằm giữ quyền lực nhà nước hoặc các tổ chức đảng trong tổ chức
nhà nước. Vai trò của đảng đối lập làm giám sát và phản biện hoạt động của
đảng cầm quyền, làm cho đảng cầm quyền tránh được tình trạng tuỳ tiện, độc
đoán, chuyên quyền, chỉ làm lợi cho đảng mình mà không quan tâm đến lợi
ích chung. Chính sự tồn tại chính thức của đảng đối lập luôn tạo ra áp lực
buộc đảng cẩm quyền phải điều chỉnh, kiềm chế hoạt động của mình theo
đúng quỹ đạo của một nhà nước dân chủ. Đó cũng là một cơ chế để kiểm soát
quyền lực nhà nước.
Có thể thấy, việc giám sát của các đảng đối lập đối với đảng cầm quyền
đã tạo ra một cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả ở nhiều nước. Tuy nhiên,
cơ chế này chỉ có tác dụng tích cực khi trình độ dân chủ phát triển ở mức độ
nhất định, các đảng phái hoạt động tôn trọng Hiến pháp và sự tồn tại của các
đảng phù hợp với bối cảnh văn hoá, xã hội ở mỗi nước. Nếu không đảm bảo
được những yếu tố này thì sự tồn tại của đảng chính trị có thể gây nên những
rối loạn, khủng hoảng chính trị.
Bầu cử là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân
dân. Aldous Huxley từng nhận nét "Mọi nền dân chủ đều dựa trên định đề
rằng quyền lực là thứ cực kỳ nguy hiểm, và vì thế, người ta tìm mọi cách ngăn
không cho một cá nhân hay một nhóm nhỏ nắm giữ quá nhiều quyền lực trong
thời gian quá dài". Thông qua bầu cử, nhân dân có thể loại bỏ những đại diện
không xứng đáng với sự uỷ nhiệm của mình ra khỏi nhà nước. Bầu cử là một
45
phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước vì nó buộc các quan chức được
người dân lựa chọn có trách nhiệm với công việc của mình trong thời gian tại
nhiệm. Do có thể bị ảnh hưởng bởi những suy tính về khả năng tái cử trong
các cuộc bầu cử sắp tới, nên họ thường phải điều chỉnh tư cách của mình cho
thích hợp. Họ sẽ cảm thấy có trách nhiệm hơn trong việc đưa ra các quyết
định chính sách dưới danh nghĩa nhân dân. Và nếu như họ không chứng tỏ
được họ là người đại diện chính đáng cho lợi ích của cử tri thì vị trí của họ sẽ
có người khác, được người dân tín nhiệm hơn thay thế. Thông qua bầu cử, ở
trong một chừng mực nhất định, cử tri có thể duy trì được sự kiểm soát của
mình đối với chính phủ và chống lại sự lộng hành c... thúc việc trả
lời chất vấn của các bộ trưởng, trưởng ngành; cung cấp thông tin, tham mưu
cho đại biểu Quốc hội khi thực hiện quyền chất vấn; cập nhật và đánh giá về
chất lượng nội dung trả lời chất vấn; đề xuất các giải pháp cải tiến hoạt động
chất vấnMuốn vậy, phải nâng cao chất lượng cán bộ, công chức làm công
tác tham mưu, phục vụ từ khâu tuyển dụng đến đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều
kiện làm việc... Đặc biệt, nên bố trí những người đã từng làm đại biểu Quốc
hội, những người đã từng công tác trong cơ quan nhà nước vào bộ phận này.
Trước hết đó chính là văn phòng Quốc hội, cần thu hút các chuyên gia các
nhà hoạt động chính trị có kiến thức sâu về công tác tại văn phòng đồng thời
xây dựng đội ngũ cộng tác viên là các chuyên gia trên nhiều lĩnh vực cho văn
phòng Quốc hội để làm công tác tham mưu, phục vụ cho hoạt động chất vấn.
Đồng thời, cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm tại
văn phòng đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương để đảm bảo văn phòng đoàn
ở địa phương cần làm tốt công tác tham mưu, tổng hợp, nghiên cứu đề xuất
với đại biểu những vấn đề bức xúc cần đưa thành chất vấn. Văn phòng đoàn
cần giúp đại biểu Quốc hội lựa chọn vấn đề để chất vấn, ưu tiên cho những
vấn đề quốc kế dân sinh, những vấn đề mà chủ trương chính sách của Đảng,
Nhà nước đang coi là trọng tâm trong từng thời điểm: xoá đói giảm nghèo,
kích cầu, chống tham nhũng, cải cách hành chính
4.2.4. Đổi mới công tác cung cấp thông tin cho đại biểu Quốc hội để
phục vụ cho hoạt động chất vấn
Hiện nay, các đại biểu hiện hoạt động đơn thương độc mã, không có bộ
máy giúp việc. Nguồn thông tin rất ít, chủ yếu qua báo chí và dân chúng.
Song nhiều khi thông tin đó cũng có thể chưa chính xác. Cơ quan giúp việc
cho đại biểu là văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân mặc
dù Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội có chức năng giúp việc cho đại biểu
149
nhưng chủ yếu là với tư cách giúp các công việc mà Đoàn phân công cho đại
biểu, chứ không đảm nhiệm các công việc như văn phòng giúp việc riêng cho
từng cá nhân đại biểu. Khi các đại biểu chưa thể hoạt động chuyên nghiệp
như hiện nay thì vai trò của hệ thống bộ máy hỗ trợ (chuyên gia, cán bộ giúp
việc, thông tin) là cực kỳ quan trọng. Nếu được cung cấp thông tin đã được
cung cấp chắc chắn các đại biểu không còn ngậm ngùi nhìn các bộ trưởng
múa con số hay phân vân khi bấm nút biểu quyết thông qua. Tuy nhiên, có một
thực tế hiện nay là đại biểu Quốc hội đang thừa thông tin nhưng cũng đang
thiếu thông tin - thông tin đã được xử lý. Các đại biểu khi tham gia vào hoạt
động chất vấn cần thiết phải có thông tin liên quan đến những vấn đề mà đại
biểu cần chất vấn, những thông tin đó phải kịp thời, mới, chính xác. Chất vấn
thể hiện bản lĩnh, trách nhiệm và năng lực tổng hợp của đại biểu Quốc hội.
Năng lực chất vấn của đại biểu Quốc hội phụ thuộc lớn vào các thông tin mà
đại biểu thu nhận. Đại biểu Quốc hội phải được cung cấp thông tin một cách
đầy đủ, toàn diện và kịp thời về những vấn đề mà đại biểu quan tâm chất vấn
để chất vấn phải thật đắt, làm rõ được trách nhiệm của đối tượng bị chất vấn,
tạo cơ sở buộc họ nhận thức ra và sửa chữa những khuyết điểm yếu kém.
Chế độ đảm bảo cung cấp thông tin, tài liệu, điện thoại cho đại biểu
Quốc hội hiện nay được thực hiện như sau:
Điểu 37: Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu
Quốc hội quy định "đại biểu Quốc hội được cung cấp các tài liệu của kỳ họp,
Quốc hội, Công báo của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Báo
nhân dân, báo địa phương, báo người đại biểu nhân dân, tạp chí Nghiên cứu
lập pháp và các tài liệu, văn bản liên quan đến hoạt động Quốc hội, dịch vụ
thông tin, nghiên cứu, thư viện và internet khi có yêu cầu".
Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương nơi đại biểu Quốc hội được bầu hoặc nơi đại biểu Quốc hội
chuyển đến sinh hoạt cung cấp các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, các
văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân và các báo cáo về tình hình
kinh tế - xã hội ở địa phương cho đại biểu Quốc hội.
150
Về việc cung cấp dịch vụ internet, Nghị quyết số 773/2009/ NQ-
UBTVQH12 ngày 31-3-2009 đã quy định đại biểu Quốc hội được khai thác
internet theo mức khoán 700.000 đồng/người/tháng.
Nghị quyết này cũng quy định hỗ trợ kinh phí cho một số hoạt động
của đại biểu Quốc hội bao gồm hỗ trợ tiền điện thoại theo mức khoán từng kỳ
họp; hỗ trợ để đại biểu Quốc hội tự nghiên cứu hoặc thuê chuyên gia
Tuy nhiên, với hoạt động và chế độ cung cấp thông tin như trên thì đại
biểu Quốc hội chưa có đủ thông tin để thực hiện tốt hoạt động chất vấn.
Chế độ cung cấp thông tin cho đại biểu phải đảm vào các tiêu chí cập nhật,
phân tích sâu sắc, khách quan, thông tin rộng, chính thống và phi chính thống
Vì vậy để đảm bảo đại biểu Quốc hội có đủ thông tin cần thiết để thực
hiện hoạt động chất vấn thì cần phải chú ý đến một số giải pháp sau:
+ Nên quy định mỗi đại biểu phải có thư ký và bộ máy giúp việc để rà
soát thông tin. Luật tiếp cận thông tin cũng phải đi đến các quy định về cung
cấp thông tin cho đại biểu. Đại biểu phải có quyền truy cập bất cứ mạng thông
tin nào họ muốn. Chỉ như vậy họ mới đại diện được cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân, có đầy đủ thông tin để chất vấn. Thông tin như thế mới trở
thành quyền lực.
Quốc hội cần thành lập một đơn vị chuyên phụ trách việc thu thập và
cung cấp những thông tin cần thiết liên quan đến các nội dung chất vấn, hoặc
thu thập những thông tin được yêu cầu trực tiếp từ phía đại biểu. Đơn vị này
có trách nhiệm cập nhật, cung cấp và chịu trách nhiệm với những thông tin
đại biểu yêu cầu và thông tin đơn vị mình cung cấp. Quốc hội phải có một hệ
thống thông tin độc lập và thường xuyên mới làm cơ sở để thấy được công
việc và hoạt động của cơ quan hành pháp bởi các bộ ngành có thể cung cấp
nhiều thông tin cho đại biểu nhưng liệu thông tin ấy có ích cho đại biểu, vì
vậy nó cần được kiểm tra, chắt lọc. Ngoài ra, cũng cần cải thiện kinh phí và
cơ chế thuận lợi cho đại biểu Quốc hội thực hiện công việc thuê chuyên gia tư
vấn, hỗ trợ, cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động chất vấn của mình.
151
Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin cho đại biểu
Quốc hội của tổ chức, đơn vị, cơ quan hữu quan; xây dựng ngân hàng dữ liệu
thông tin của quốc hội, xây dựng kho tra cứu thông tin tư liệu tại văn phòng
hoặc tại "Thư viện Quốc hội" phục vụ đại biểu Quốc hội từ các địa phương và
kết nối với Văn phòng Quốc hội; Tăng cường chất lượng nguồn nhân lực xử
lý thông tin phục vụ đại biểu Quốc hội; đầu tư kinh phí cho hoạt động thông
tin và cung cấp thông tin phục vụ đại biểu Quốc hội
4.2.5. Kết hợp chặt chẽ giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám
sát của tổ chức Đảng, giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc và
giám sát của nhân dân trong hoạt động giám sát, chất vấn của Quốc hội
- Kết hợp với kiểm tra, giám sát của các tổ chức đảng.
Chất vấn là một hình thức giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của
Quốc hội đối với bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, đại biểu Quốc hội cần nắm
rõ những vấn đề tồn tại trong cách thức tổ chức, quản lý của bộ máy nhà
nước, của người đứng đầu các ngành để truy trách nhiệm và yêu cầu đưa ra
các giải pháp khắc phục. Trong khi đó, trong từng bộ phận của bộ máy nhà
nước đều có các tổ chức đảng. Việc đại biểu nắm rõ các kết quả kiểm tra,
giám sát của các tổ chức đảng sẽ giúp họ có thêm một kênh thông tin hữu ích
cho hoạt động chất vấn của mình. Vì vậy, cần tạo cơ chế thuận lợi để đại biểu
Quốc hội có thể tiếp cận với kết quả kiểm tra, giám sát của các tổ chức Đảng.
Muốn vậy, cần xây dựng quy chế phối hợp hoạt động giữa Quốc hội với uỷ
ban kiểm tra các cấp của Đảng, xác lập quyền của đại biểu Quốc hội trong
việc tiếp cận với các kết quả kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra Đảng.
- Kết hợp với giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có chức năng giám sát và phản biện xã hội,
giám sát hoạt động của các cá nhân, của các tổ chức bộ máy trong cơ quan
nhà nước. Đồng thời, Mặt trận tổ quốc Việt Nam còn có chức năng phản biện
xã hội đối với mọi đường lối, chính sách, chương trình, kế hoạch dự án của
152
nhà nước, làm rõ những điểm tích cực và những bất cập cần phải khắc phục,
điều chỉnh trong các chính sách đó. Chính vì vậy, những kết quả giám sát,
phản biện xã hội của mặt trận rất hữu ích cho hoạt động chất vấn của đại biểu
Quốc hội. Vì chất vấn thực chất là phát hiện những điểm bất cập trong hoạt
động, chính sách của các ngành để chỉ rõ và yêu cầu những tổng tư lệnh
ngành tìm giải pháp khắc phục. Tuy nhiên, trong thời gian qua, sự phối hợp
giữa đại biểu Quốc hội và Mặt trận tổ quốc chỉ trong thời gian bầu cử đại biểu
Quốc hội cũng như khi đại biểu Quốc hội thực hiện tiếp xúc cử tri. Chính vì
vậy, cần tăng cường cơ chế phối hợp giữa Mặt trận và các đại biểu Quốc hội
như xây dựng quy chế chung để đại biểu Quốc hội cũng có quyền tiếp cận với
các kết quả giám sát, với hoạt động phản biện xã hội của mặt trận.
- Kết hợp với giám sát của nhân dân.
Chất vấn là hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước của Quốc hội
(kiểm soát bên trong nội bộ nhà nước) nhưng nếu có sự kết hợp với kiểm soát
quyền lực ngoài nhà nước (đặc biệt là giám sát của nhân dân) thì sẽ tăng hiệu
quả của hoạt động chất vấn. Kết hợp chất vấn với sự giám sát của nhân dân sẽ
tăng áp lực về mặt công luận buộc những người đứng đầu các ngành phải có
những thay đổi thích hợp. Việc truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn của
đại biểu Quốc hội đã góp phần làm cho các phiên chất vấn diễn ra sôi nổi,
chất lượng hơn, nâng cao trách nhiệm của cả người chất vấn và người trả lời
chất vấn là một minh chứng cho sự cần thiết phải kết hợp chất vấn với giám
sát của nhân dân. Sự kết hợp chất vấn với giám sát của nhân dân có thể diễn
ra trong tất cả các giai đoạn chuẩn bị chất vấn, chất vấn và hậu chất vấn.
Những khiếu nại, tố cáo của nhân dân về hoạt động của cán bộ, công chức, về
các chính sách ảnh hưởng đến quyền lợi của nhân dân là một kênh thông
tin cần thiết để giúp đại biểu Quốc hội hình thành nên các vấn đề chất vấn.
Trong quá trình chất vấn, nhân dân theo dõi và có những phản hồi về việc trả
lời chất vấn của các bộ trưởng, các thành viên Chính phủ sẽ tạo áp lực buộc
153
họ phải trả lời có chất lượng và trách nhiệm hơn ở những lần sau. Đặc biệt
nhân dân còn tham gia giám sát việc thực hiện lời hứa của những người trả lời
chất vấn, sẽ giúp đại biểu Quốc hội có thêm thông tin cần thiết để thực hiện
hoạt động kiểm tra, theo dõi sau chất vấn. Để tăng cường việc kết hợp giữa
chất vấn và giám sát của nhân dân có thể chú ý các hình thức sau đây
Mở rộng các diễn đàn để nhân dân phản ánh những bức xúc của mình
đối với các cơ quan nhà nước, như với các vụ việc đã được xử lý, báo chí có
quyền tiếp cận để phản ánh, đại biểu Quốc hội có quyền tiếp cận để nắm bắt.
Sau mỗi phiên chất vấn của Quốc hội, báo chí cũng cần có những
chuyên trang phản ánh những ý kiến của cử tri đánh giá về hoạt động chất
vấn, cả những ưu và nhược điểm của người chất vấn và trả lời chất vấn.
Những lời hứa của bộ trưởng, thành viên Chính phủ về vấn đề cần phải
khắc phục, thời gian khắc phục cần đăng tải công khai trên các trang báo chí
để nhân dân tiện theo dõi, giám sát. Đồng thời, khi hết thời gian quy định, nếu
vấn đề chưa có biến chuyển, nhân dân và báo chí có quyền được phản ánh,
cung cấp các chứng cứ giúp đại biểu Quốc hội có thêm thông tin phục vụ cho
hoạt động chất vấn.
Tóm lại, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước
của hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội cần một hệ thống các giải pháp
đồng bộ trong đó vấn đề cốt yếu là năng lực, trách nhiệm của đại biểu Quốc
hội và các môi trường, điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động chất vấn của
đại biểu Quốc hội. Môi trường, điều kiện đó chính là hệ thống pháp luật về
chất vấn, và công tác tham mưu, hỗ trợ, là việc cung cấp thông tin cho đại
biểu Quốc hội, là sự kết hợp giữa chất vấn và các hình thức giám sát, kiểm
soát quyền lực ngoài nhà nước Chính vì vậy, chúng ta cần phải chú ý tới tất
cả các giải pháp trên mới có thể nâng cao hiệu quả thực sự của phương thức
kiểm soát quyền lực nhà nước này.
154
Tiểu kết chƣơng 4
Trong chương này, tác giả đề xuất 3 phương hướng cơ bản để nâng cao
hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại
biểu Quốc hội bao gồm nâng cao nhận thức của đại biểu Quốc hội về vai trò,
tác dụng của hoạt động chất vấn trong kiểm soát quyền lực nhà nước; Kiểm
soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội
cần có sự kết hợp với các hình thức giám sát khác của Quốc hội; Nâng cao
hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất
vấn của đại biểu Quốc hội cả về mặt pháp lý cũng như năng lực thực tiễn.
Ở chương này, tác giả cũng đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu lực
hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại
biểu Quốc hội bao gồm nâng cao năng lực chất vấn cho đại biểu Quốc hội;
hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội,
nâng cao chất lượng công tác tham mưu, hỗ trợ cho hoạt động chất vấn, chất
lượng công tác cung cấp thông tin cho hoạt động chất vấn, tăng cường kết hợp
hoạt động chất vấn với các hình thức giám sát khác...
155
KẾT LUẬN
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một yếu tố không thể thiếu trong xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Việt Nam hiện nay
đang nỗ lực hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó có
kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu
Quốc hội - một phương thức kiểm soát hữu hiệu, sinh động, trực tiếp được cử
tri cả nước quan tâm. Chính vì vậy, nghiên cứu việc kiểm soát quyền lực nhà
nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội là hết sức quan
trọng và có ý nghĩa hiện nay.
Luận án đã trình bày một cách hệ thống và cơ bản những vấn đề lý
luận liên quan đến kiểm soát quyền lực nhà nước, đến hoạt động chất vấn
của đại biểu Quốc hội. Đặt trong tổng thể cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước ở Việt Nam, chất vấn là một phương thức kiểm soát quyền lực của
lập pháp đối với tư pháp và hành pháp, thuộc cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước từ bên trong.
Luận án đã phân tích làm rõ tính chất kiểm soát quyền lực nhà nước
thông qua hoạt động chất vấn được thể hiện như thế nào, từ đó đánh giá thực
trạng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại
biểu Quốc hội ở nhiều góc độ khác nhau từ nội dung của hoạt động chất vấn
đền năng lực thực hiện hoạt động chất vấn, hiệu lực hiệu quả của hoạt động
chất vấn... Việc đánh giá thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua
hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội cũng rất toàn diện, cả những thành
tựu và hạn chế, chỉ rõ những nguyên nhân dẫn tới hoạt động chất vấn của đại
biểu Quốc hội còn có những hạn chế, bất cập.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận án đề xuất các phương hướng và
giải pháp nâng cao hiệu lực hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua
hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội. Những phương hướng và giải pháp
156
này có tính đồng bộ, hệ thống bao quát tất cả những mặt, những yếu tố tác
động đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động chất vấn như hệ thống pháp luật,
năng lực của đại biểu Quốc hội, công tác tham mưu, hỗ trợ, cung cấp thông
tin...Việc thực hiện tốt các giải pháp này sẽ thực sự tạo ra sức mạnh kiểm soát
quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn, góp phần làm cho bộ máy
nhà nước hoạt động đúng thẩm quyền, chức năng, bảo vệ lợi ích của nhân
dân, đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý của bộ máy nhà nước.
157
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
1. Vũ Thị Hồng Trang (2015), ''Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động
chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay'', Tạp chí Giáo dục lý
luận, Học viện Chính trị khu vực I, (236), tr.49-51.
2. Vũ Thị Hồng Trang (2016), ''Nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà
nước thông qua chất vấn của Quốc hội'', Tạp chí Giáo dục lý luận, Học
viện Chính trị khu vực I, (247), tr.70-72.
3. Vũ Thị Hồng Trang (2018), "Năng lực chất vấn của đại biểu Quốc hội ở
Việt Nam hiện nay", Tạp chí Mặt trận, (182), tr.33-35.
158
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tiếng Việt
1. C.L. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Lê Văn Cảm (2011), ''Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước (và cả quyền
lập pháp) trong nhà nước pháp quyền: Một số vấn đề lý luận cơ bản'',
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (3), tr.5-7.
3. Lê Văn Cảm, Nguyễn Cảnh Hợp (2011), ''Thực trạng tổ chức thực hiện
và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam'', Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, (5), tr.11-13.
4. Nguyễn Thị Kim Chung, Nguyễn Thị Hồng (2012), ''Sửa đổi Hiến pháp
về tổ chức và hoạt động của Quốc hội - Nhìn từ hoạt động chất vấn của
đại biểu Quốc hội'', Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (15), tr.5-8.
5. David Held (2013), Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
6. Nguyễn Đăng Dung (2007), Quốc hội Việt Nam trong Nhà nước pháp
quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Nguyễn Đăng Dung (2008), ''Chức năng giám sát của Quốc hội'', Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, (3), tr.6-9.
8. Nguyễn Sĩ Dũng (2004), ''Giám sát Quốc hội, những khác biệt về khái
niệm'', [truy cập ngày 05/07/2016].
9. Nguyễn Sĩ Dũng (2005), ''Đổi mới hoạt động lập pháp'', Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, (11), tr.7-9.
10. Nguyễn Sĩ Dũng (Chủ biên, 2004), Quyền giám sát của Quốc hội - Nội
dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
11. Nguyễn Sĩ Dũng (Chủ biên, 2006), Thường thức về hoạt động giám sát
của Quốc hội, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
12. Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2006), Giáo trình Luật Hiến pháp
Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
159
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Trần Ngọc Đường (2011), Một số vấn đề về phân công, phối hợp và
kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
15. Trần Ngọc Đường (2011), ''Tiếp tục nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám
sát tối cao của Quốc hội trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa'', Tạp chí Tuyên giáo (5), tr.22-23.
16. Nguyễn Thị Vân Giang (2010), ''Kiểm soát quyền lực nhà nước và giám
sát của Quốc hội một số nước trên thế giới'', Tạp chí Lý luận chính trị và
Truyền thông, (10), tr.13-14.
17. Nguyễn Văn Giàu (2015), ''Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội
trong lĩnh vực quản lý kinh tế, phát triển kinh tế - xã hội'', Tạp chí Cộng
sản (11), tr.31-32.
18. Trương Thị Hồng Hà (2009), Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức
năng giám sát của Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Trương Thị Hồng Hà (2009), ''Thực hiện pháp luật về giám sát của Quốc
hội: Thực trạng và vấn đề đặt ra'', Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (2 +3),
tr.34-36.
20. Đặng Phương Hải (2015), ''Giám sát và hệ quả pháp lý từ hoạt động
giám sát tối cao của Quốc hội'', Tạp chí Dân chủ và pháp luật (6), tr.7-9.
21. Nguyễn Thị Hạnh (2014), ''Một số vấn đề về hoạt động giám sát của
Quốc hội'', Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (23), tr.16-18.
22. Vũ Thị Mỹ Hằng (2016), ''Một số giải pháp tăng cường hiệu quả giám
sát của Quốc hội đối với Chính phủ'', Tạp chí Quản lý nhà nước, (2),
tr.8-10.
23. Vũ Thị Mỹ Hằng (2016), ''Một số yếu tố cơ bản tác động đến chất lượng,
hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội'', Tạp chí Kinh tế - châu Á
Thái Bình Dương, (1), tr.11-13.
160
24. Hà Thị Mai Hiên (2003), Cơ chế kiểm tra, giám sát trong nhà nước pháp
quyền, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
25. Phùng Quốc Hiển (2011), ''Tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát tối
cao là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Quốc hội trong tình hình mới'',
Tạp chí Cộng sản, (7), tr.1-4.
26. Nguyễn Thuý Hoa (2015), ''Quốc hội Việt Nam và các yếu tố cấu thành
tính đại diện'', Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (5), tr.8-11.
27. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (2002),
Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 2, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
28. Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với
việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
29. Lê Quốc Hùng (2004), Thống nhất, phân công và phối hợp quyền lực
nhà nước ở Việt Nam, Nxb Tư Pháp.
30. Phạm Văn Hùng (2007), ''Năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc
hội'', Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (4), tr.3-5.
31. Jean Jacqué Roussau (2010), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội.
32. John Locke (2007), Khảo luận thứ hai về chính quyền - chính quyền dân
sự, Lê Tuấn Huy dịch và giới thiệu, Nxb Tri thức, Hà Nội.
33. John Mill (2005), Luận về tự do, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Hồng Khánh (2016), "Nhiều bộ trưởng không thừa nhận đã hứa trước
Quốc hội, Dân trí ngày 10-10-2006, [Truy cập ngày 10/10/2016].
35. Nguyễn Mạnh Kháng (2005), ''Cơ chế kiểm soát quyền lực và vấn đề tổ
chức bộ máy nhà nước'', Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (3), tr.22-23.
36. Vũ Đức Khiển (2010), ''Hoạt động cung cấp thông tin cho các đại biểu
Quốc hội: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả'', Tạp chí Pháp lý,
(3), tr.6-8.
37. Tạ Văn Khôi (2016), ''Một số vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của đại biểu
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội trong hoạt động giám sát của Quốc hội
Việt Nam'', Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (5), tr.9-10.
161
38. Phạm Ngọc Kỳ (1996), Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Phạm Ngọc Kỳ (2000), Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
41. Phạm Thế Lực (2011), ''Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước'', Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, (1), tr.12-13.
42. Phan Trung Lý (Chủ nhiệm đề tài) (1998), Đại biểu Quốc hội: Địa vị
pháp lý, các mối quan hệ và hiệu quả hoạt động, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.
43. Phan Trung Lý (2010), Quốc hội Việt Nam, tổ chức và hoạt động và đổi
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Phan Trung Lý (Chủ biên) (2011), Đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu
Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
45. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1983), Tuyển tập, tập 4, Nxb Sự thật Hà Nội.
46. Ngô Đức Mạnh (2015), ''Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy trình, thủ tục
chất vấn tại kỳ họp của Quốc hội, phiên họp của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội'', Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (3+ 4), tr.6-9.
47. Đinh Văn Mậu (2003), Quyền lực nhà nước và quyền công dân, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
48. Motesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Hoàng Thanh Đạm dịch, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
49. Ngân hàng Nhà nước (1998), Nhà nước trong một thế giới chuyển đổi,
Hà Nội.
50. Phạm Văn Ngọc (2016), ''Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân tạo sức mạnh hoạt động của cơ quan dân cử'',
Tạp chí Tổ chức nhà nước, (4), tr.7-9.
51. Nghị viện của các nước ngoài, Nxb Chính trị, Matxcơva, 1968 (tiếng Nga).
162
52. Nghị viện của các nước phát triển, Nxb Quan hệ quốc tế, Matxcơva,
1990 (Nga).
53. Phạm Duy Nghĩa (2010), ''Hoạt động chất vấn từ góc nhìn cử tri'', Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, (15), tr.12-14.
54. Đặng Vũ Phúc (2014), ''Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội'',
Tạp chí Tổ chức Nhà nước, (11), tr.22-23.
55. Quốc hội (2001), Luật Tổ chức Quốc hội số 30/2001/QH10, Hà Nội.
56. Quốc hội (2002), Nghị quyết số 08/2002/NQ-QH11 ngày 16/12/2002 ban
hành Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc
hội, Hà Nội.
57. Quốc hội (2004), Nghị quyết số 26/2004/NQ-QH11 ngày 15/06/2004 ban
hành Quy chế hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hà Nội.
58. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Quốc hội số 57/2014/QH13, Hà Nội.
59. Quốc hội (2015), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân số 87/2015/QH13 ngày 20/11/2015, Hà Nội.
60. Nguyễn Đình Quyền (2007), ''Về vai trò và các đặc điểm của đại biểu
Quốc hội'', Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (8), tr.8-10.
61. Nguyễn Đình Quyền (2008), ''Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về
đại biểu Quốc hội ở Việt Nam'', Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (15),
tr.34-36.
62. Richard C.Schroeder (1999), Khái quát về chính quyền Mỹ, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
63. Rút xô (2004), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
64. Phan Xuân Sơn (2012), Hệ thống chính trị và những vấn đề về đổi mới
hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
65. Trần Văn Tám (2010), ''Công tác thông tin phục vụ đại biểu Quốc hội:
Những yêu cầu mới'', Tạp chí Pháp lý (3), tr.19-21.
66. Chu Hồng Thanh (2003), Vấn đề giám sát thực hiện quyền lực nhà nước
ở nước ta hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
163
67. Bùi Ngọc Thanh (2015), ''Hoạt động chất vấn của Quốc hội theo tinh
thần Hiến pháp năm 2013'', Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (18), tr.25-27.
68. Trịnh Đức Thảo (2006), Kiện toàn bộ máy Quốc hội, Quốc hội Việt Nam
những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
69. Tống Đức Thảo (2011), ''Mối quan hệ giữa Nghị viện và Chính phủ
trong chính thể hỗn hợp ở Cộng hoà Pháp'', Tạp chí Lý luận chính trị,
(3), tr.74.
70. Cao Việt Thắng, Phạm Tuấn Anh (2011), ''Cơ cấu đại biểu và vấn đề
thực hiện các chức năng của Quốc hội'', Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
(5), tr.33-34.
71. Thái Vĩnh Thắng (2011), Tổ chức và kiểm soát quyền lực Nhà nước, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
72. Lê Minh Thông (chủ biên, 2001), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
73. Nguyễn Nhân Tỏ (2005), ''Đại biểu Quốc hội chuyên trách'', Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, (12), tr.42-43.
74. Nguyễn Phú Trọng (2008), ''Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của
Quốc hội'', Tạp chí Cộng sản, (786), tr.34-35.
75. Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử, Ban Công tác đại biểu Quốc hội
(2009), Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội - Những câu chuyện
kể, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
76. Trung tâm Nghiên cứu Bắc Mỹ, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân
văn quốc gia (2003), Quốc hội Mỹ hoạt động như thế nào, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
77. Trung tâm tin học, Văn phòng Quốc hội (2011), Bản tổng hợp ý kiến
thảo luận tại hội trường (ghi theo băng ghi âm), buổi chiều ngày
24/11/2011, Hà Nội.
164
78. Trung tâm tin học, Văn phòng Quốc hội (2012), Bản tổng hợp ý kiến
thảo luận tại hội trường (ghi theo băng ghi âm), buổi sáng ngày
26/03/2012, Hà Nội.
79. Vũ Anh Tuấn, ''Hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước'', Tạp
chí Lý luận chính trị, (5), tr.18-19.
80. Đào Trí Úc (2003), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực
nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
81. Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (Đồng chủ biên, 2003), Giám sát và cơ chế
giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
82. Đào Trí Úc (2005), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực
nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
83. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2008), Nghị quyết số 575/UBTVQH12
ngày 31/01/2008 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về chức năng, nhiệm
vụ của Ban Công tác đại biểu, Hà Nội.
84. Văn phòng Quốc hội (1994), Lịch sử Quốc hội Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
85. Văn phòng Quốc hội (1999), Kỷ yếu kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá X, Hà Nội.
86. Văn phòng Quốc hội (2005), Quốc hội Việt Nam - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn.
87. Văn phòng Quốc hội (2011), Kỷ yếu hội thảo Chức năng giám sát của
Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền, Nxb Lao động, Hà Nội.
88. Nguyễn Quốc Văn (2012), ''Tham chiếu một số nội dung về hoạt động
giám sát của Quốc hội Mỹ và Quốc hội Việt Nam'', Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, (224), tr.23-24.
89. Lê Thanh Vân (2007), ''Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp
thứ 2 Quốc hội khoá XII'', Tạp chí Tuyên giáo (12), tr.49-50.
90. Lê Thanh Vân (2007), Một số vấn đề về đổi mới tổ chức, hoạt động của
Quốc hội, Nxb Tư pháp.
165
91. Lê Thanh Vân (2011), Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu "Hoàn thiện
các quy định pháp luật về chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc
hội", Hà Nội.
92. Trần Quốc Việt (2016), ''Chất vấn hình thức kiểm soát hiệu quả của
Quốc hội đối với Chính phủ'', Tạp chí Quản lý nhà nước (2), tr.21-22.
93. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (2003), Giám sát và cơ chế
giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
94. Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
95. Võ Khánh Vinh (2003), ''Về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà
nước'', Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (6), tr.36-38.
96. Trịnh Thị Xuyến (2008), Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
* Tài liệu tiếng Anh
97. Hobbes, leviathan, Harmondsworth, Penguin, 1968, p.161.
98. IPU, Parliaments in the world 1986 (Vol 3), 1993.
99. IPU (2005), Women in Parliament in 2005: the year respective, An
annual Publication of the Inter - Parliamentary Union.
100. International IDEA and IPU (2005), Ponorama of Parliamentary elections
2005, An annual Publication of the Inter - Parliamentary Union.
101. Lijphart, Parliamentary versus Préidential Government, Oxford
University Press, 1994.
102. Matson Ingvar, Strom, Kaare, Parliament and Mojority Rule in Western
Europe, New York, 1995
103. Norton P. Parliaments and Governments in Western Europe, Lon don,
Frank Cass, 1998.