Luận án - Diễn xướng ca Huế truyền thống và biến đổi

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Nguyễn Thị Việt Hà DIỄN XƯỚNG CA HUẾ TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA DÂN GIAN Hà Nội - 2019 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Nguyễn Thị Việt Hà DIỄN XƯỚNG CA HUẾ TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI Chuyên ngành: Văn hóa dân gian Mã số: 9229041 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA DÂN GIAN NGƯỜI HƯỚNG

pdf250 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 05/01/2022 | Lượt xem: 492 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án - Diễn xướng ca Huế truyền thống và biến đổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Từ Thị Loan Hà Nội - 2019 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Diễn xướng Ca Huế - Truyền thống và biến đổi là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Từ Thị Loan. Các tư liệu và trích dẫn đều được trích nguồn trung thực, chính xác và đầy đủ. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Hà Nội, ngày tháng năm Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Việt Hà ii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN ............................................... iv MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN ...... 10 VÀ KHÁI QUÁT VỀ DIỄN XƯỚNG CA HUẾ ..................................................... 10 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................... 10 1.1.1. Các công trình về cách tiếp cận của nghiên cứu văn hóa dân gian 10 1.1.2. Các công trình nghiên cứu diễn xướng Ca Huế truyền thống .......... 12 1.1.3. Các công trình nghiên cứu sự biến đổi của diễn xướng Ca Huế ...... 23 1.1.4. Nhận xét về tình hình nghiên cứu và những vấn đề có thể tiếp tục nghiên cứu .................................................................................................... 25 1.2. Cơ sở lý luận .......................................................................................................... 26 1.2.1. Các khái niệm cơ bản ........................................................................ 26 1.2.2. Các lý thuyết vận dụng trong luận án................................................ 36 1.3. Khái quát về diễn xướng Ca Huế ......................................................................... 43 1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển của diễn xướng Ca Huế ................ 43 1.3.2. Các yếu tố văn hóa dân gian trong diễn xướng Ca Huế ................... 50 Tiểu kết .......................................................................................................................... 57 Chương 2: DIỄN XƯỚNG CA HUẾ TRUYỀN THỐNG ...................................... 60 2.1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội của diễn xướng Ca Huế truyền thống ........... 60 2.2. Các thành tố của diễn xướng Ca Huế truyền thống với tư cách một hiện tượng văn hóa mang tính chỉnh thể nguyên hợp ................................................................... 61 2.2.1. Chủ thể sáng tạo và thực hành diễn xướng Ca Huế truyền thống ........ 62 2.2.2. Chủ đề phản ánh của Ca Huế ........................................................... 71 2.2.3. Thời gian diễn xướng ......................................................................... 75 2.2.4. Môi trường diễn xướng ...................................................................... 75 2.2.5. Ngôn ngữ, lời ca của Ca Huế ............................................................ 77 2.2.6. Âm nhạc trong Ca Huế ...................................................................... 78 2.2.7. Trang phục trong Ca Huế truyền thống ............................................ 90 Tiểu kết .......................................................................................................................... 91 iii Chương 3: DIỄN XƯỚNG CA HUẾ HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ....................................................................................................................... 93 3.1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội của diễn xướng Ca Huế hiện nay................ 93 3.2. Biến đổi trong diễn xướng ca Huế hiện nay ........................................................ 94 3.2.1. Chủ thể thực hành ca Huế ................................................................ 95 3.2.2. Chủ thể sáng tác Ca Huế và nội dung phản ánh hiện nay .............. 99 3.2.3. Môi trường diễn xướng .................................................................... 100 3.2.4. Thời gian diễn xướng ....................................................................... 105 3.2.5. Trên phương diện âm nhạc .............................................................. 106 3.2.6. Trang phục trong diễn xướng Ca Huế hiện nay .............................. 108 3.3. Những vấn đề đặt ra đối với diễn xướng Ca Huế trong bối cảnh đương đại .. 113 3.3.1. Bảo tồn diễn xướng Ca Huế với tư cách là một di sản văn hóa ...... 113 3.3.2. Vấn đề phát huy diễn xướng Ca Huế trong bối cảnh đời sống đương đại .............................................................................................................. 118 3.3.3. Vấn đề chủ thể thực hành diễn xướng Ca Huế ................................ 121 3.3.4. Vấn đề truyền dạy diễn xướng Ca Huế ............................................ 123 3.3.5. Vấn đề sưu tầm, nghiên cứu, sáng tác Ca Huế ............................... 130 3.3.6. Vấn đề giáo dục di sản, phát triển công chúng cho diễn xướng Ca Huế ............................................................................................................. 132 Tiểu kết ........................................................................................................................ 134 DANH MỤC CÔNG TRÌNH Đà CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ........................... 141 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 142 PHỤ LỤC ................................................................................................................... 149 iv DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ B.A.V.H. Bulletin des Amis du Vieux Hué CLB Câu lạc bộ GS Giáo sư HCM Hồ Chí Minh HN Hà Nội KHXH&NV Khoa học xã hội và Nhân văn NCS Nghiên cứu sinh NT Nghệ thuật NTTD Nghệ thuật trình diễn Nxb Nhà xuất bản PGS Phó giáo sư THVN Truyền hình Việt Nam Tp Thành phố TS Tiến sĩ tr. Trang UBND Uỷ ban nhân dân UNESCO United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization (Tổ chức giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc) VH Văn hóa VHDT Văn hóa Dân tộc VHTT Văn hóa Thông tin VHTTDL Văn hóa Thể thao và Du lịch 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế là một vùng đất có chiều dài lịch sử hình thành và phát triển trên 700 năm, tính từ sự kiện công chúa Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành cùng với việc hai châu Ô, Rí thuộc về Ðại Việt. Trong đó, Huế, với gần 400 năm là thủ phủ của xứ Đàng Trong, là kinh đô chính thức và cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam (qua 9 đời chúa và 13 đời vua, kể cả 24 năm thuộc vương triều Tây Sơn). Trên phương diện văn hóa, Huế đã tích hợp được những giá trị vật chất và tinh thần quý báu để tạo nên một truyền thống văn hóa đặc sắc, tồn tại và phát triển đến hôm nay. Với chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của Huế, riêng vương triều nhà Nguyễn đủ để tạo dựng ở vùng Thuận Hóa - Huế này một chiều sâu văn hóa cá biệt mà những di sản để lại hầu như còn nguyên vẹn với các hình thái vật thể và phi vật thể. Di sản văn hóa này là trí tuệ, là thành quả của cả cộng đồng cư dân bản địa, là sự hội tụ nhân tài, vật lực của cả một quốc gia, là quá trình tinh chế vốn văn hóa dân gian có nguồn gốc từ cội nguồn văn hóa dân tộc Việt hỗn dung với văn hóa bản địa đã hòa nhập vào tổng thể của nền văn hóa Việt Nam, trong đó có âm nhạc. Có thể bởi sự chi phối của đặc trưng văn hóa Huế, mà âm nhạc cổ truyền Huế giữa hai dòng: âm nhạc bác học (cổ truyền chuyên nghiệp) và âm nhạc dân gian (cổ truyền dân gian) ít có sự phân định rạch ròi. Dòng âm nhạc bác học bao gồm: Âm nhạc cung đình và Ca Huế (còn gọi là nhạc cổ thính phòng Huế, Ca đàn Huế hoặc Ca nhạc Huế). Âm nhạc cung đình là bộ phận âm nhạc chuyên nghiệp của nhà nước phong kiến. Ca Huế là sự gặp gỡ, kết hợp hài hòa nhuần nhụy những tinh hoa của hai dòng âm nhạc cung đình và dân gian. Chính sự dung hòa ấy đã giúp cho Ca Huế có sức sống trường tồn qua những biến thiên của lịch sử dân tộc và phát triển một cách uyển chuyển, 2 linh hoạt, trong khi nhiều thể loại âm nhạc cung đình ngày một mai một và có nguy cơ thất truyền cao cùng với sự suy vong của các triều đại Vua - Chúa Việt Nam. Với lịch sử hàng trăm năm tồn tại kể từ khi ra đời trên tiểu vùng văn hoá xứ Huế, giá trị nghệ thuật của diễn xướng Ca Huế ngày càng được khẳng định và có đời sống bền chặt trong lòng nhiều thế hệ người dân xứ Huế. Sở dĩ như vậy là do bản chất nghệ thuật của Ca Huế không những chỉphù hợp với tâm hồn Huế, hài hòa nhuần nhuyễn với cảnh sắc thiên nhiên Huế, mà còn bởi những giá trị nghệ thuật đích thực, đặc sắc của Ca Huế còn được khẳng định qua hệ thống bài bản, phương thức diễn tấu, hình thức thể hiện, tính văn học trong lời ca, tính mẫu mực cổ điển trong đường nét giai điệu, nét đặc trưng trong hình tượng âm nhạc, đã làm cho diễn xướng Ca Huế trở thành tiếng lòng tri âm, tri kỷ của các giai tầng trong xã hội qua bao đời nay, một nét đặc sắc riêng có trong tổng thể di sản âm nhạc cổ truyền Huế và kho tàng âm nhạc cổ truyền chuyên nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, đứng trước xu thế hội nhập quốc tế, đặc biệt là sự tiếp biến văn hóa ngày càng nhanh chóng trong bối cảnh hiện đại hóa, toàn cầu hóavà sự xâm nhập của các loại hình nghệ thuật đương đại, việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một nhiệm vụ hết sức bức thiết.Diễn xướng Ca Huế cũng không nằm ngoài bối cảnh đó. Trên phương diện khoa học, diễn xướng Ca Huế đã được một số nhà nghiên cứu âm nhạc và nghiên cứu văn hóa quan tâm tìm hiểu từ các góc nhìn khác nhau. Đây là nguồn tư liệu rất quý giá và quan trọng, góp phần mô tả, khảo cứu về nghệ thuật Ca Huế trong quá khứ, đặt nền móng và các dữ liệu lịch sử, nguồn tài liệu tham khảo cho các thế hệ sau học hỏi.Tuy nhiên, đa phần các nghiên cứu thường đặt nghệ thuật Ca Huế trong trạng thái “tĩnh” để xem xét, tức là nghiên cứu nghệ thuật Ca Huế tồn tại trong bối cảnh lịch sử từ 3 khi mới hình thành, chủ yếu trong thời kỳ chế độ quân chủ phong kiến. Cách tiếp cận như vậy là chưa đầy đủ và toàn diện, chưa đặt nghệ thuật Ca Huế trong thế “động”, trong sự vận động và phát triển không ngừng trong dòng chảy của đời sống văn hóa Huế cho đến tận ngày nay. Sự biến đổi của Ca Huế hiện nay cần được xem như sự biến đổi của một hiện tượng văn hóa phù hợp với quy luật khách quan của quá trình phát triển Ca Huế hiện đại. Sự biến đổi ấy diễn ra như thế nào, những đặc trưng văn hóa dân gian trong Ca Huế có thực sự tồn tại và được giữ vững hay không, việc sân khấu hóa Ca Huế có những vấn đề gì, Ca Huế hiện nay tồn tại như thế nào, vấn đề bảo tồn ra sao là những vấn đề cần thiết phải minh định một cách khoa học. Song, cho đến nay, những câu hỏi này giới nghiên cứu vẫn chưa thực sự quan tâm, lý giải. Bên cạnh đó, phần lớn các công trình nghiên cứu thường tiếp cận Ca Huế từ góc độ âm nhạc học hoặc âm nhạc dân tộc học, rất hiếm có các công trình nghiên cứu từ cách tiếp cận của văn hóa dân gian. Có thể nói cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính hệ thống, chuyên sâu về Ca Huế với tư cách là một loại hình diễn xướng mang tính chỉnh thể nguyên hợp, cũng như nghiên cứu về sự biến đổi của diễn xướng Ca Huế trong cái nhìn xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại, về sự thích ứng của Ca Huế để tồn tại và phát triển trong bối cảnh đời sống đương đại hiện nay. Với những lý do như vậy, NCS lựa chọn đề tài Diễn xướng Ca Huế - Truyền thống và biến đổi từ cách tiếp cận của nghiên cứu văn hóa dân gianlàm đề tài luận án Tiến sĩ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án khảo sát sự biến đổi củaCa Huế trong dòng chảy của văn hóa xứ Huế từ truyền thống đến hiện đại với tư cách là một loại hình nghệ thuật 4 diễn xướng. Từ đó, luận án sẽ làm rõ những vấn đề đặt ra đối với sự tồn tại, thích ứng và phát triển của diễn xướng Ca Huế trong đời sống hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đíchnghiên cứu nêu trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về nghệ thuật diễn xướng và diễn xướng Ca Huế. - Tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật Ca Huế;nhận diện những đặc điểm, giá trị của diễn xướng Ca Huế. - Nghiên cứu, tìm hiểu diễn xướng Ca Huế truyền thống trong quá khứ với tư cách một loại hình nghệ thuật diễn xướng mang tính chỉnh thể nguyên hợp. - Khảo sát sự biến đổi của diễn xướng ca Huế trong bối cảnh hiện nay, từ đó làm rõ những vấn đề đặt ra và đưa ra một số bàn luận khoa học. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là diễn xướng Ca Huế và sự biến đổi của loại hình diễn xướng này trong bối cảnh xã hội hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1. Phạm vi không gian Không gian nghiên cứu của luận án về cơ bản được giới hạn trong không gian tỉnh Thừa Thiên - Huế hay tiểu vùng văn hóa xứ Huế. Bên cạnh đó, để có cái nhìn toàn cảnh và đầy đủ hơn, trong những trường hợp cần thiết, khi cần có những nghiên cứu so sánh, tham khảo, tìm hiểu về các vấn đề liên quan, luận án cũng có sự mở rộng không gian và biên độ nghiên cứu rộng hơn không gian trên. 3.2.2. Phạm vi thời gian 5 Để nghiên cứu về diễn xướng Ca Huế trong truyền thống, luận án chủ yếu dựa vào việc tham khảo, tìm hiểu các nguồn sử liệu, tư liệu, thư tịch trước năm 1945 cũng như phỏng vấn hồi cố các nghệ nhân, nhà nghiên cứu văn hóa hiểu biết về vấn đề này ở Huế trước năm 1975. Để điều tra, khảo sát về hiện trạng diễn xướng Ca Huế trong bối cảnh xã hội đương đại, luận án giới hạn thời gian nghiên cứu trong giai đoạn 10 năm trở lại đây, từ khi Ca Huế được khôi phục trở lại và ngày càng phát triển, trở thành một loại hình trình diễn cho đại chúng. 3.2.3. Phạm vi nội dung khảo sát Do Ca Huế là một hình thức diễn xướng mang tính chỉnh thể nguyên hợp, luận án tập trung khảo sátcác thành tố chính của nó như: chủ thể sáng tạo, chủ thể thực hành, chủ đề phản ánh, thời gian diễn xướng, môi trường diễn xướng, phương diện lời ca, phương diện âm nhạc của Ca Huế. Về bài bản, trong số hơn 25 bài bản Ca Huế còn thịnh hành hiện nay, NCS không đi sâu phân tích vào chi tiết cụ thể từng bài một, mà chỉ chọn những bản tiêu biểu, hoặc những đoạn ký âm ngắn để minh họa trong quá trình phân tích, khảo cứu. 4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu Để triển khai luận án, NCS đặt ra các câu hỏi nghiên cứu chính như sau: - Diễn xướng Ca Huế hình thành và phát triển trong lịch sử như thế nào? - Những thành tố chính của diễn xướng Ca Huế truyền thống là gì? Đặc trưng chính của diễn xướng Ca Huế giai đoạn này? - Sự biến đổi của diễn xướng Ca Huế trong bối cảnh hiện nay ra sao? Những vấn đề gì đặt ra từ sự thay đổi đó? 6 Từ các câu hỏi nghiên cứu trên luận án đưa ra giả thuyết nghiên cứunhư sau: Diễn xướng ca Huế được hình thành và phát triển phù hợp với các giai đoạn lịch sử và bối cảnh văn hóa - xã hội khác nhau: Thời kỳ phong kiến, yếu tố cung đình, thính phòng mang tính nổi trội. Sau năm 1945 và nhất là từ thời kỳ đổi mới đến nay, điều kiện văn hóa - xã hội thay đổi khiến cho tính cung đình, thính phòng suy giảm, diễn xướng Ca Huế tìm được chỗ đứng và cách thức trình diễn mới, phục vụ cho nhiều mục đích và đối tượng khác nhau, nhờ đó tiếp tục tồn tại và phát triển trong bối cảnh đương đại. 5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cách tiếp cận Để có cái nhìn toàn cảnh, đầy đủ và thấy rõ sự biến đổi của diễn xướng Ca Huế theo dòng lịch sử, luận án sẽ sử dụng chủ yếu cách tiếp cận của nghiên cứu văn hóa dân gian. Tuy nhiên, bên cạnh đó trong quá trình triển khai, luận án cũng sử dụng cách tiếp cận liên ngành, phối kết hợp các phương pháp và thành tựu nghiên cứu của văn hóa học, nhân học văn hóa, xã hội học văn hóa. Từ cách tiếp cận của nghiên cứu văn hóa dân gian,NCS tiếp cận diễn xướng Ca Huế trong không gian văn hóa của nó với những nghiên cứu về điều kiện lịch sử, địa lý, văn hóa, xã hộivà tìm hiểu về diễn xướng Ca Huế qua các thành tố của nó trong một tổng thể mang tính hệ thống, chỉnh thể nguyên hợp, từ chủ thể sáng tác, chủ thể diễn xướng, môi trường diễn xướng, thời gian diễn xướng đến lời ca, âm nhạc, trang phục trình diễn Bên cạnh đó, NCS sử dụng bổ trợ cách tiếp cận của nhân học văn hóa, NCS chú trọng tiếp cận chủ thể sáng tạo và thực hành diễn xướng Ca Huế trong quá trình nghiên cứu khảo sát thực địa, tìm hiểu, lắng nghe tiếng nói của người trong cuộc về các giá trị, đặc điểm cũng như những phương diện khác 7 nhau của diễn xướng Ca Huế. Cách tiếp cận xã hội học và văn hoá học được NCS sử dụng trong khi thu thập các thông tin, số liệu, dữ liệu về những người làm công tác thực hành, biểu diễn Ca Huế hiện nay, những người phục vụ, kinh doanh, du khách cũng như các nhà quản lý văn hóa để làm sáng tỏ hiện trạng và sự biến đổi của diễn xướng Ca Huế trong đời sống đương đại. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính như sau: - Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu thứ cấp: NCS thu thập, tổng hợp các công trình nghiên cứu, bài viết, đề tài khoa học đi trước để hệ thống hóa các vấn đề lý luận và tìm ra lý thuyết phù hợp áp dụng vào luận án; phân tích văn bản, các nguồn tài liệu để thấy được lịch sử hình thành, phát triển của nghệ thuật Ca Huế và nhận diện diễn xướng Ca Huế truyền thống trong các giai đoạn của quá khứ. - Phương pháp điền dã, quan sát tham dự: NCS thực hiện nhiều đợt nghiên cứu điền dã để điều tra, khảo sát, thu thập tài liệu cũng như quan sát, tham sự, trải nghiệm về thực hành diễn xướng Ca Huế trong các không gian trình diễn khác nhau. - Phương pháp phỏng vấn sâu: NCS tiến hành 33 cuộc phỏng vấn đối với những người thực hành Ca Huế, các nghệ nhân, nghệ sỹ, nhà nghiên cứu văn hóa, nhà quản lý văn hóa để tìm hiểu về hiện trạng diễn xướng Ca Huế, sự vận động và biến đổi của Ca Huế trong bối cảnh hiện nay. - Phương pháp thống kê: NCS thu thập các thông tin, số liệu, tiến hành thống kê về hiện trạng thực hành và biểu diễn Ca Huế hiện nay, thực trạng hoạt động kinh doanh du lịch có sử dụng Ca Huế trong bối cảnh đương đại. - Phương pháp so sánh: NCS tiến hành so sánh, đối chiếu để làm rõ sự vận động và biến đổi của diễn xướng Ca Huế trong truyền thống và trong giai đoạn hiện nay. 8 - Ngoài ra, luận án còn sử dụng các thao tác chung trong nghiên cứu khoa học như: mô tả, phân tích, diễn giải, biện luận... 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 6.1.Ý nghĩa khoa học Luận án góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận về diễn xướng ca Huế, làm sáng tỏ quy luật vận động và biến đổi không ngừng của diễn xướng Ca Huế nhằm thích nghi để tồn tại và phát triển. Luận án cũng góp phần làm rõ hơn quá trình hình thành và phát triển của Ca Huế, những đặc điểm và giá trị của nó trong đời sống văn hóa Huế, hiện trạng diễn xướng Ca Huế trong bối cảnh hiện nay, nhận diện những vấn đề đặt ra, để từ đó có những bàn luận khoa học thiết thực và hữu ích. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ cho công tác học tập, nghiên cứu của sinh viên, học viên và diễn viên, nhạc công các đơn vị nghệ thuật, các trường nghệ thuật có đào tạo bộ môn Ca Huế. Luận án cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu văn hóa, quản lý văn hóa và những người quan tâm đến vấn đề này. Trên phương diện văn hoá dân gian, luận án cung cấp một cách nhìn mới về diễn xướng Ca Huế với tư cách một hiện tượng văn hoá mang tính chỉnh thể nguyên hợp của văn hoá dân gian. 7. Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu (8 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo (9 trang) và Phụ lục (57 trang), luận án gồm ba chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát về diễn xướng Ca Huế(48 trang) Chương 2: Diễn xướng Ca Huế truyền thống(33 trang). 9 Chương 3: Diễn xướng Ca Huế hiện nay và những vấn đề đặt ra(42trang). 10 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ DIỄN XƯỚNG CA HUẾ 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Các công trình về cách tiếp cận của nghiên cứu văn hóa dân gian Về lịch sử phát triển của ngành nghiên cứu văn hóa dân gian, trong bài viết “Văn hóa dân gian và văn hóa dân tộc”, tác giả Ngô Đức Thịnh viết: “Thuật ngữ quốc tế folklore (phôn-clo) - văn hóa dân gian, được W. J.Thom sử dụng đầu tiên vào năm 1846 để chỉ "phong tục, tập quán, nghi thức, mê tín, ca dao, tục ngữ... của người thời trước". Từ đó đến nay, bộ môn văn hóa dân gian học đã ra đời và phát triển với ba trường phái lớn: trường phái phôn-clo Anh - Mỹ chịu ảnh hưởng nhân học, trường phái phôn-clo Tây Âu chịu ảnh hưởng xã hội học (điển hình là Pháp và I-ta-li-a) và trường phái phôn-clo Nga chịu ảnh hưởng ngữ văn học [163]. Công trình Nghiên cứu folklore Mỹ của Jan Harold Bruvand, xuất bản lần đầu vào năm 1968 và lần thứ hai năm 1985, là một công trình nghiên cứu cơ bản về văn hóa dân gian được đánh giá cao, là cuốn sách hàng đầu được chọn làm giáo trình giảng dạy cho sinh viên và cho các khóa học về folklore. Trong công trình này, tác giả đã giới thuyết các định nghĩa, trình bày về phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, phương pháp phân loại và các tiểu loại của folklore Trong quá trình nghiên cứu folklore, Jan Harold luôn chú trọng đến tính chỉnh thể nguyên hợp của một tác phẩm văn hóa dân gian [159]. Ở Việt Nam, thuật ngữ "phôn-clo" đã được sử dụng từ lâu và tùy theo mỗi thời kỳ được dịch ra tiếng Việt là "văn học dân gian", "văn nghệ dân gian" và nay là "văn hóa dân gian". Việc quan niệm rộng hẹp và chuyển ngữ 11 sang tiếng Việt khác nhau như vậy là do sự thay đổi nhận thức của các nhà nghiên cứu về văn hóa dân gian và cũng do tiếp thu ảnh hưởng của các quan niệm về phôn-clo từ các trường phái khác nhau trên thế giới [163]. Tác giả Đinh Gia Khánh được giới nghiên cứu văn hóa dân gian đánh giá là người đã “đặt nền móng cho sự phát triển của ngành folklore học Việt Nam” với công trình Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian xuất bản năm 1989. Một trong những đóng góp quan trọng của công trình là giới thuyết khái niệm “văn hóa dân gian”. Đinh Gia Khánh là người đầu tiên đưa ra “tính chất nguyên hợp” của văn hóa dân gian và phân tích các thành tố cơ bản của nó như nghệ thuật tạo hình dân gian, nghệ thuật biểu diễn dân gian và nghệ thuật ngữ văn dân gian. Ông cũng viết về sinh hoạt văn hóa dân gian; các vấn đề lớn của văn hóa dân gian như: lịch sử, lý luận, phương pháp luận trong nghiên cứu văn hóa dân gian; vai trò của folklore học Việt Nam hiện nay trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới[56]. Theo ông, tác phẩm folklore tồn tại và vận động như một chỉnh thể nguyên hợp. Vì vậy, cần tiếp cận nó theo hướng tiếp cận chỉnh thể. Chỉnh thể ấy được cảm thụ bằng tất cả các giác quan trong cùng một lúc. Ông cho rằng: “Tác phẩm folklore trong cùng một lúc tác động vào thị giác, vào thính giác, vào cảm xúc nhịp điệu. Tác phẩm folklore lại có mối quan hệ hữu cơ với môi trường, với sinh hoạt văn hóa, với thế ứng xử và lối ứng xử, với tập tục và truyền thống lâu đời của cộng đồng” [142, tr.10]. Để nghiên cứu một tác phẩm folklore thì cần phải phân tích chỉnh thể nguyên hợp ấy ra các thành tố, hơn nữa cần phải phân tích từng thành tố ra các yếu tố nhỏ hơn để có thể đi sâu tìm hiểu nội dung cũng như cấu trúc của từng thành tố nói riêng, của chỉnh thể nguyên hợp nói chung [142, tr.11]. Trong bài viết Nghiên cứu âm nhạc từ góc độ phôncơlo học, tác giả Tô Đông Hải cho rằng: “Âm nhạc dân gian là một bộ phận không thể chia cắt nổi 12 của toàn bộ sinh hoạt phôncơlo của một tộc người, một dân tộc. Nó gắn chặt với lễ hội, với múa, với những hoạt động diễn xướng, với nghệ thuật tạo hình, với phong tục, tập quán của tộc người, dân tộc đó” [136, tr.234]. Theo tác giả Nguyễn Xuân Kính, nhiều công trình nghiên cứu khẳng định rằng thành phần ngôn từ trong tác phẩm phôncơlo có thể tồn tại mà không có giai điệu, nhưng nếu giai điệu mà thiếu lời thì không tồn tại; trong sự thống nhất giữa lời ca và giai điệu, yếu tố quyết định thường là phần lời [136, tr.147]. Nhìn chung các công trình nghiên cứu theo hướng tiếp cận văn hóa dân gian đã cung cấp những kiến thức nền tảng, các phạm trù nhận thức, lý thuyết nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và các khái niệm, thuật ngữ cơ bản rất cần thiết và hữu ích để NCS có thể tham khảo, vận dụng trong quá trình triển khai luận án. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu diễn xướng Ca Huế truyền thống 1.1.2.1. Các công trình khảo cứu về sự hình thành diễn xướng Ca Huế Trong suốt chặng đường dài lịch sử của âm nhạc dân gian và cổ truyền Huế, thì sự xuất hiện loại hình nghệ thuật diễn xướng Ca Huế là một sáng tạo mới, góp phần thúc đẩy dòng âm nhạc cổ truyền Huế nói riêng và Việt Nam nói chung, tạo một bước phát triển của nghệ thuật âm nhạc truyền thống Việt Nam. Khảo cứu về nguồn gốc và sự hình thành của Ca Huế thu hút khá nhiều tác giả. Về thời điểm ra đời của Ca Huế, có rất nhiều giả thiết khác nhau. Năm 1942, tác giả Ưng Bình Thúc Giạ Thị với sự hiểu biết sâu rộng của mình về âm nhạc Huế đã viết rằng: “Duy điệu ca khởi điểm từ đời nào, khi nào, sử thơ không truyền lại, chỉ thấy thời đại yêu chuộng nghề văn mà đoán, thời khởi điểm từ đời Hiếu Minh (Nguyễn Phúc Chu)” [125, tr.5]. 13 Nhà nghiên cứu Thái Văn Kiểm trong Cố đô Huế nhất trí với cụ Ưng Bình là: “Còn như các điệu ca Huế thì có lẽ như mới sản xuất từ đời chúa Minh Tộ quốc Công Nguyễn Phúc Chu tức là Hiên Tông Hiếu Minh Hoàng Đế”. Cụ thể hơn, tác giả Lê Văn Hảo trong bài viết “Góp phần tìm hiểu Ca nhạc Huế” cho rằng: “Thời kỳ hình thành và bước đầu phát triển của ca nhạc Huế là vào khoảng từ cuối thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII. Đến giữa thế kỷ XVII, ca múa nhạc đã phát triển phong phú tại đô thành Phú Xuân” [69, tr.75 - 76]. Về xuất xứ của Ca Huế, Nhạc sĩ Tô Vũ cho rằng: Nói về gốc gác lịch sử, có lẽ không ai phủ nhận nhạc Huế đã khởi sự hình thành từ cội nguồn nhạc Bắc. Những cứ liệu lịch sử thời Nguyễn Hoàng vào Ái Tử (Quảng Trị) hay câu chuyện về Đào Duy Từ cho thấy: trên đường mở nước vào phía Nam văn hoá nghệ thuật nơi đất tổ lưu vực sông Hồng từ mấy thế kỷ đã theo bước chân Nam tiến vượt qua sông Gianh và sông Bến Hải để vào Huế. Lại có thể thấy chứng cứ khác ngay trong bản thân nhạc Huế, những “bản Bắc” còn mang một cái tên ý nghĩa nữa là “bản Ngự” với tính chất một thành phần cơ sở của nhạc Huế đã nói lên xuất xứ và mối quan hệ khắng khít với nhạc Bắc [145, tr.125 – 126]. Đa số các công trình đều có chung quan điểm. Các công trình Bán buồn mua vui [125], Đặc khảo về dân nhạc ở Việt Nam [25, tr.137-138], Tính chất và đặc điểm của Ca Huế có cùng kết luận về xuất xứ của Ca Huế là từ cung đình nhà Nguyễn. Tác giả Lê Văn Hảo trong bài viết “Một vốn quý trong kho tàng âm nhạc Việt Nam cổ truyền”đã khảo cứu về nguồn gốc, quá trình phát triển của Ca Huế, cũng như một số đặc điểm nghệ thuật của ca Huế, ông khẳng định: “Ca nhạc Huế không phải là nhạc cung đình triều Nguyễn nhưng cũng không thuộc loại nhạc dân gian” [45]. 14 Theo nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc học Trần Văn Khê, Ca Huế có xuất phát điểm từ cung đình, từ “cung trung nhạc, một loại nhạc thính phòng trong cung thất của vua và của mẹ vua Nguyễn”[60, tr.68] sau đó mới lan tỏa ra dân gian, hòa quyện với dòng âm nhạc dân gian Huế đang khởi sắc. Đó là loại nhạc thính phòng của các hoàng thân, quốc thích, các quan chức của triều đình Huế, của các ông hoàng bà chúa say mê nghệ thuật. Từ lối thưởng thức kiểu thính phòng trong tư dinh của giới đại gia, khoa bảng... dần dần không gian diễn xướng được mở rộng, chan hòa vào sinh hoạt văn nghệ dân gian. Năm 1961, trong bài viết “Lối ca Huế và lối nhạc Tài tử”, ông đã căn cứ vào sách Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ để giả định tổ tiên của lối ca Huế là: “Trong các loại nhạc triều đình, có lẽ lối Cung trung nhạc - hay là Cung trung chi nhạc - là gần với lối đàn Huế nhất” [61]. Ở đây ông đã xác định Ca Huế thuộc loại “quan nhạc” chứ không phải “dân nhạc” và cho rằng: “lối "nhạc tài tử" trong Nam là con đẻ của lối “ca Huế” miền Trung... Những người học nhạc trong Nam, cũng “đàn Huế” – Ông nội chúng tôi, ông Trần Quang Diệm chuyên đàn tì bà theo lối Huế và cô ruột chúng tôi, bà Trần Ngọc Viện cũng thường đàn Cổ bản Huế, kim tiền Huế” [61]. Với những ý kiến xác định và đoán định trên, chúng ta nhận thấy các ý kiến của tác giả Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Lê Văn Hảo, Tô Vũ, Trần Văn Khê tuy không thống nhất về thời điểm ca Huế xuất hiện, nhưng đều nằm trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Ở đây ta không bàn về các ý kiến trên đâu là chính xác hay không chính xác, mà chỉ biết các tác giả đã rất để tâm đến sự hình thành của thể loại ca nhạc Huế. Về nguồn gốc, các nhà nghiên cứu đều có những suy đoán, kiến giải: Các chúa Nguyễn ở Đàng trong tiếp nối truyền thống thưởng thức âm nhạc ở Đàng ngoài mà cho tổ chức các buổi ca nhạc có lời ca ở cung đình, ngọn nguồn từ những ban, nhóm, gánh hát dân gian vốn manh nha từ thời Lý, Trần, Lê đã tụ hội vào Huế qua các cuộc di 15 dân của người Việt từ Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa và đồng bằng Bắc Bộ. Thú thưởng ngoạn này lúc đầu chỉ giới hạn ở phủ chúa hoặc các bậc vương công, mãi sau này mới lan ra... Mặt khác, giả sử nếu ta gọi là “hát Huế” mà không gọi là “Ca Huế”, thì rõ ràng hai từ 31 “hát Huế” mang một ý nghĩa rộng, nó không chỉ riêng cho bất cứ một thể loại hát nào, mà tất cả những điệu hát ở Huế. Như vậy, “Ca Huế” là một danh từ để chỉ riêng cho một loại hình nghệ thuật gồm có ca và đàn. Giáo sư Trần Văn Khê khẳng định Ca Huế, hay đàn Huế không phải là nhạc bình dân mà là một loại "quan nhạc": “Ca Huế vào loại Quan nhạc để phân biệt với Tục nhạc” [58, tr.274]. Một số tác giả khác lại đưa ra quan điểm trung dung hơn. Tác giả Lê Văn Hảo khẳng định: "Ca nhạc Huế không phải là nhạc cung đình triều Nguyễn nhưng cũng không thuộc loại nhạc dân gian" [43, tr.13].Điều này cũng được tác giả Vĩnh Phúc đồng quan điểm: “Ca Huế, cũng như Ca trù và Đờn ca Tài tử là loại nhạc thính phòng thuộc dòng cổ truyền chuyên nghiệp của Việt Nam” [95 , tr.1]. Sau khi tham khảo ý kiến của các học giả đi trước, NCS đưa ra định nghĩa khái niệm Ca Huế như sau: Ca Huế là một thể loại nhạc hát thính phòng truyền thống ở Việt Nam, khi diễn xướng có dàn nhạc cổ truyền đệm theo. Ca Huế vừa mang tính bác học của nghệ thuật cung đình sang trọng, vừa đậm đà phong cách nghệ thuật dân gian mộc mạc trữ tình. 1.2.1.3.Truyền thống Truyền thống gốc từ Latin là tradio, nguyên nghĩa là "truyền lại", "nhường lại", "phân phát". Do vậy, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất của từ này, truyền thống là sự kế thừa di sản xã hội có giá trị được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Định nghĩa truyền thống trong học thuật khá thống nhất, tập trung ở các nội dung sau: “Truyền thống là thói quen hình thành đã lâu trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”[143, tr.1053], “Có tính chất truyền thống: được truyền lại từ các đời trước[143, tr.1053]. Một cách định nghĩa rõ hơn về truyền thống: 32 Quá trình chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác những yếu tố xã hội và văn hóa, những tư tưởng, chuẩn mực xã hội, phong tục, tập quán, lễ nghi... và được duy trì trong các tầng lớp xã hội và giai cấp trong một thời gian dài. Tính bền vững của truyền thống cũng là tương đối. Dù sao nó cũng là một bộ phận ổn định nhất của văn hóa... làm cho văn hóa có tính kế thừa [54, tr.630]. Theo nghĩa rộng, truyền thống là những tập tục, thói quen và nói chung là những kinh nghiệm xã hội được hình thành từ lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ của con người, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống có nhiều cấp độ khác nhau. Có truyền thống gia đình, truyền thống của từng địa phương, đơn vị, truyền thống cách mạng, truyền thống dân tộc. Sử dụng thuật ngữ “truyền thống” ở tên đề tài luận án này, NCS muốn nói về nghệ thuật diễn xướng Ca Huế đã có nguồn gốc hình thành từ xa xưa và vẫn được thực hành cho đến hiện nay. Ca Huế trong “truyền thống” có những đặc điểm, giá trị, đặc trưng cốt lõi, mặc dù có sự biến đổi nhất định trong quá trình phát triển do nhu cầu khách quan, nhưng tinh hoa của nó vẫn được trao truyền cho đến các thế hệ ngày nay. 1.2.1.4. Biến đổi Biến đổi “là thay đổi thành khác trước”[143, tr.64]. Một khái niệm khác về thuật ngữ “biến đổi” cũng rất gần với nội hàm “biến đổi” mà đề tài luận án muốn nói, đó là thuật ngữ biến đổi xã hội: Khái niệm chỉ những thay đổi chuyển biến trong các điều kiện, phương thức sinh hoạt hoặc trong cơ cấu của một nhóm, một tổ chức xã hội, một tập thể, thậm chí trong toàn bộ xã hội. Biến đổi xã hội có những cấp độ khác nhau, có thể xảy ra trong từng mặt riêng biệt của đời sống xã hội, dẫn đến những thay đổi dần (biến đổi theo lối tiến hóa). Nó cũng có thể xảy ra trên tất cả các mặt 33 của xã hội, làm cho xã hội thay đổi dần đến một giai đoạn nào đó thì có bước nhảy vọt, biến động sâu xa, chuyển hóa về chất từ một trạng thái này sang một trạng thái khác [53,tr.221]. Với thuật ngữ biến đổi sử dụng trong nghiên cứu diễn xướng Ca Huế, NCS mong muốn làm rõ về sự biến đổi của văn hoá nghệ thuật nói chung cũng như diễn xướng Ca Huế nói riêng, khẳng định quy luật vận động và biến đổi không ngừng của một hiện tượng văn hoá, một di sản văn hóa để có thể thích ứng, tồn tại và phát triển. 1.2.1.5. Âm nhạc dân gian Thuật ngữ nhạc dân gian (folk music) xuất phát từ nước Anh, có nguồn gốc từ chữ "volk" trong tiếng Đức, nghĩa là con người. Thuật ngữ này chỉ những thường dân ở Anh, những người nông dân mù chữ, họ kể lại các câu chuyện hay truyền thuyết thông qua các bài hát vì không có khả năng để xuất bản thành sách. Trên thế giới, dòng nhạc dân gian khá phổ biến vào đầu thời kỳ lãng mạn, nhưng không có được sự hưng thịnh mãi cho đến thế kỷ XX. Lễ hội âm nhạc dân gian đầu tiên diễn ra vào năm 1928 tại Asheville, Carolina và từ đó vai trò của âm nhạc dân gian ngày càng được các nhà nghiên cứu, các nhà soạn nhạc và nhạc sĩ đề cao. Nhìn chung nền âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam gồm hai thành phần lớn. Thành phần thứ nhất do nhân dân lao động sáng tạo và trình diễn, thường gọi là âm nhạc dân gian hay âm nhạc truyền miệng. Thành phần thứ hai do các nghệ sĩ sáng tạo và biểu diễn, thường gọi là âm nhạc chuyên nghiệp. Trong hai thành phần này, âm nhạc dân gian chiếm tỷ trọng lớn, đóng vai trò cơ sở cho âm nhạc chuyên nghiệp, bác học. 1.2.1.6. Âm nhạc bác học Khái niệm âm nhạc bác học bắt nguồn từ tiếng Pháplà musique savante, 34 thời kỳ đầu nhằm chỉ nhạc cổ điển Phương Tây do dàn nhạc giao hưởng diễn tấu. Các nhạc sĩ đã dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt là "nhạc bác học". Tuỳ ngữ cảnh, tính từ savant(e) có thể dịch là tài giỏi, khéo léo, thông thái, bác học. Các nhạc sĩ thời đó đã chọn từ "bác học". Cứ thế, từ này được lưu truyền tới ngày nay.Đây là khái niệm chỉ loại hình âm nhạc có khởi điểm xuất phát từ những nhà nghiên cứu thuộc tầng lớp hoàng gia, quan lại được cung đình giao phó nhiệm vụ hoặc các nghệ nhân quý tộc. Họ có kiến thức về âm nhạc và nghệ thuật múa có thể sáng tạo nên bài bản làm mẫu mực cho giới thưởng ngoạn là vua quan hoặc tầng lớp cao trong xã hội. Ở Việt Nam, khái niệm âm nhạc bác học được giới báo chí nêu lên để chỉ âm nhạc cổ điển phương Tây cùng các loại nhạc cổ truyền Việt Nam như Ca trù, Tuồng, nhạc Cung đình Huế. Tuy nhiên, thuật ngữ này vẫn chưa tìm được sự thống nhất, đồng tình trong các nhà nghiên cứu, từ việc định danh khái niệm, nội hàm thể loại đến thậm chí bác bỏ sự tồn tại của khái niệm. Đối với phương Tây hay nhạc có tác giả, người ta thường dựa vào không gian, thời gian mà loại nhạc đó ra đời và tồn tại: Nhạc của thời kỳ Phục Hưng (1450-1600), nhạc của thời kỳ Baroque (1600-1750), nhạc của chủ nghĩa Cổ điển Viên (1750-1800), nhạc của chủ nghĩa Lãng mạn (1800-1860), nhạc Thế kỷ XX, nhạc Hiện đại, v.v Ở Việt Nam, với nhạc cổ truyền dân tộc không có tác giả thì gọi theo tên được đặt ra bởi những người sinh ra nó, kèm theo là lịch sử của từng loại nhạc gắn với vùng miền và giai đoạn ra đời cùng sự tiến triển của nó theo thời gian, chẳng hạn Hát ru, Hát giao duyên, Hát Ghẹo, Hát chèo đò, Hò kéo gỗ, Hò sông Mã. Nhạc dân tộc của Việt Nam có thể chia thành nhạc chuyên nghiệp, nhạc dân gian nhưng cũng phải hiểu rằng ranh giới giữa chúng không phải lúc nào cũng rõ ràng. 1.2.1.7. Âm nhạc cung đình (âm nhạc cung đình Huế) 35 Nhạc cung đình gồm có đại nhạc và tiểu nhạc, gọi chung là nhã nhạc, có các loại như sau: miếu nhạc (nhạc dùng trong các lễ tế miếu ở Thái Miếu, Triệu Miếu, Thế Miếu, Hưng Miếu, Văn Miếu, Liệt Miếu), giao nhạc (nhạc dùng trong tế lễ bên ngoài cung đình, đây là lễ tế trời đất tại Nam giao và Bắc giao), cung nhạc (âm nhạc diễn tấu trong nội cung, có dàn nhạc và các điệu múa như múa văn, múa võ, múa bông, múa đèn), đại triều nhạc (nhạc dùng trong các lễ đại triều như các ngày mồng một, rằm, Tết Nguyên đán, Tết Đoan dương, lễ Vạn thọ, Thánh thọ, lễ đăng quang, ngày truyền lô thi đình, lễ ban sóc, lễ đón tiếp sứ thần nước ngoài), ngũ tự nhạc (nhạc dùng trong các dịp tế Thành hoàng, Xã tắc, Thần Nông), thường triều nhạc (nhạc dùng trong các ngày mồng 5, mồng 10, 20, 25 hằng tháng là các ngày thiết thường triều, sử dụng ban Tế nhạc và dàn nhạc bát âm gồm 8 loại nhạc khí: bào, thổ, cách, mộc, thạch, kim, ty, trúc), yến nhạc (nhạc dùng trong các dịp đãi yến tiệc lớn trong cung đình, có các dàn nhạc, ca công và các đội múa). Như vậy, có thể thấy, trong nhạc cung đình, phần nhạc lễ giữ một vai trò quan trọng. 1.2.1.8. Âm nhạc thính phòng Âm nhạc thính phòng có nguồn gốc từ tiếng Latin (camera) - nghĩa là nhạc để biểu diễn trong phạm vi không gian nhỏ (như phòng hòa nhạc) để phân biệt với nhạc giao hưởng, nhạc sân khấu (ví dụ opera, oratoria, cantata) dành cho các gian hòa nhạc lớn. Tại Việt Nam ở thế kỷ XIX và giữa thế kỷ XX, “nhạc thính phòng” nhằm chỉ 3 loại hình là Ca trù miền Bắc, Ca Huế miền Trung và Đờn ca tài tử Nam Bộ. Cả ba loại nhạc này chỉ đàn hát cho một số người đam mê, hiểu biết thưởng thức trong phạm vi một căn phòng nhỏ. Trước đây, Ca Huế vốn là hình thức ca nhạc thính phòng với không gian diễn tấu nhỏ hẹp với một nhóm ít diễn viên, phục vụ giới quý tộc. Tuy vậy nó đã vượt ra ngoài khuôn khổ của nhạc thính phòng để ngày càng được 36 phổ biến sâu rộng hơn trong dân gian. Chính vì vậy ca Huế dễ được quần chúng tiếp nhận, nó có đời sống lâu dài cho tới ngày nay và đã trở thành tài sản chung của dân gian.Cùng với ca Huế trên sông, ca Huế thính phòng là loại hình nghệ thuật đang được nhiều du khách ngày nay lựa chọn thưởng thức. 1.2.2. Các lý thuyết vận dụng trong luận án Cho đến nay, nghệ thuật diễn xướng Ca Huế đã trải qua những thử thách thăng trầm cùng với lịch sử đất nước, sau này được trỗi dậy và nở rộ mạnh mẽ trong những ngày đất nước hoàn toàn giải phóng và đặc biệt là sau thời kỳ đổi mới. Theo bước chân thời gian, cùng với những thể loại âm nhạc khác, Ca Huế như có dịp phục hưng với nhiều hình thức, nhiều sắc thái, và có nhiều biến đổi mạnh mẽ. Sự biến đổi này là do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chung quy lại là không gian, thời gian, và yếu tố chủ thể đã biến đổi... Với một hiện tượng văn hoá có nhiều vấn đề đặt ra như vậy khó có thể lựa chọn một lý thuyết hay một phương pháp duy nhất để giải quyết những vấn đề có liên quan. Để hiểu được các chiều cạnh của nghệ thuật diễn xướng Ca Huế, NCS xin sử dụng các lý thuyết:lý thuyết nghệ thuật trình diễn và lý thuyết biến đổi văn hoáđể soi chiếu, vận dụng vào giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. 1.2.2.1. Lý thuyết nghệ thuật trình diễn Luận án sử dụng quan điểm về nghệ thuật trình diễn của nhóm nghiên cứu Roberts Georges và Kenneth Goldstein. Trong bài viết “A Parable in context: A social interactional analysis of storytelling performance” (Một ví dụ trong bối cảnh nghiên cứu: Phân tích tương tác xã hội về tác động của nghệ thuật trình diễn), nhóm nghiên cứu này tìm kiếm, áp dụng những yếu tố tổng hợp của NTTD vào nghiên cứu truyền thống văn hoá dân gian từ những nhà ngôn ngữ học với khái niệm về ngôn từ, từ nhân học với phương pháp chức năng, từ xã hội học với bối cảnh trình diễn, từ tâm lí học với cơ chế của 37 người thực hành và thưởng thức [161, tr.104]. Cách tiếp cận này xem văn hoá dân gian như một quá trình giao tiếp năng động và nghiên cứu không chỉ trên văn bản mà trong thực tế trình diễn, vào một thời điểm nhất định mà người thực hành nghi lễ trình diễn cho khán giả thưởng thức. Việc nghiên cứu này cần miêu tả tất cả quá trình thực hành, trình diễn trong không gian văn hoá cụ thể của nó nhằm lí giải về mối liên hệ, tương tác qua lại của các thành tố nghệ thuật này và giữa chúng với những người tham dự. Ngoài ra, tác giả Richard Bauman cho rằng: Về cơ bản, sự diễn xướng với tư cách một phương thức thông tin bằng miệng bao gồm cả giả thuyết và trách nhiệm trước thính giả về một sự thể hiện năng lực truyền đạt. Năng lực này nằm ở chỗ kiến thức và khả năng nói theo những cách thích hợp về mặt xã hội (...) Như vậy sự diễn xướng thu hút sự chú ý đặc biệt và nhận thức được nâng cao về hành động biểu đạt và cấp phép cho thính giả xem hành động biểu đạt và người thực hiện với một cường độ đặc biệt [155]. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của diễn xướng và cho rằng: “Có vẻ đã đến lúc thích hợp cho những nỗ lực nhằm mở rộng nội hàm khái niệm của sự diễn xướng mang tính folklore như một hiện tượng thông tin, vượt ra cái ứng dụng phổ biến đã đưa chúng ta đạt đến điểm này” [155, tr.744–745]. Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Hữu Thu cũng đưa ra nhận định: “Thuật ngữ diễn xướng là để chỉ chung việc thể hiện, trình bày những sáng tác văn nghệ của con người gồm nhiều yếu tố hợp thành... Các yếu tố cấu thành diễn xướng là con người (xét về mặt sáng tạo), tác phẩm (tiểu phẩm truyền miệng trong dân gian), địa điểm (các kiểu diễn trường), thời gian (mùa hay dịp), động tác (đi đứng, cử chỉ, nhảy múa), ngôn ngữ (nói năng, ngâm bình, xướng kể)... và nhấn mạnh vào yếu tố con người – xuất phát điểm của nghệ thuật trình diễn [131, tr.56-58]. 38 Vận dụng quan điểm lý thuyết trên, NCS tiến hành nghiên cứu diễn xướng Ca Huế theo các trục thời gian từ quá khứ cho đến hiện tại, cũng như trong các không gian cụ thể, bối cảnh cụ thể. 1.2.2.2. Lý thuyết biến đổi văn hóa Các lý thuyết về biến đổi văn hóa được hình thành chủ yếu dựa trên các lý thuyết về biến đổi xã hội được các học giả phương Tây xây dựng trong ngành nhân học và xã hội học. Biến đổi văn hoá đã được đề cập đến trong các khoa học xã hội như một chủ đề trọng tâm của thế kỷ XX và XXI. Trên nền tảng lý thuyết mang tính khái quát hóa cao như ở trên, với các nghiên cứu về từng hiện tượng văn hóa cụ thể, đã có những triển khai để xây dựng các khung lý thuyết để làm cơ sở cho các nghiên cứu thực địa. Trên phương diện lý thuyết, “biến đổi văn hóa được hiểu là quá trình vận động của tất cả các xã hội. Biến đổi văn hóa đã được đề cập đến từ khá sớm bởi những nhà khoa học khởi xướng ủng hộ thuyết tiến hóa văn hóa như E. Taylor (1891) hay L.Morgan (1877) khi họ phân chia xã hội theo thứ bậc đơn tuyến và có chung một mẫu hình biến đổi xã hội và biến đổi văn hóa” [24, tr.9]. Tuy nhiên, mô hình này đã bị phản đối khá rộng trong giới nhân học, nên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhiều lý thuyết mới nghiên cứu về biến đổi văn hóa đã ra đời. Theo tác giả Nguyễn Thị Phương Châm : ThuyếtTruyền bá văn hóa đại diện là G.Elliot Smith 1911, W.River 1914,...) cho rằng vấn đề mấu chốt của biến đổi văn hóa là sự vay mượn hoặc sự truyền bá của các đặc trưng văn hóa từ xã hội này sang xã hội khác... Thuyết Tiếp biến văn hóa (đại diện là Redfiel 1934, Broom 1954,...) chỉ ra sự biến đổi văn hóa trong bối cảnh những xã hội phương Tây và ngoài phương Tây đã trải qua mối quan hệ lâu dài, đặc biệt là sự ảnh hưởng của những xã hội có ưu thế đối với người dân bản địa [21, tr.10]. 39 Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay đã là một bối cảnh mang tính đặc thù để từng ngành nghiên cứu xây dựng cho mình một khung lý thuyết làm nền tảng lý luận. Các công trình nghiên cứu của các tác giả như Lê Hồng Lý, Đỗ Lan Phương, Lương Hồng Quang, Nguyễn Thị Phương Châm cho thấy sự biến đổi kinh tế - xã hội là tiền đề trực tiếp tác động đến biến đổi văn hóa. Dưới góc độ nghiên cứu văn hóa dân gian, nhân học văn hóa, văn hóa học, một số tác giả đã phân tích những mặt đạt được và chưa đạt được của văn hóa Việt Nam trong trong bối cảnh đất nước những năm đầu thế kỷ XXI. Tác giả Lê Hồng Lý và cộng sự đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam [82], điểm qua bối cảnh chung tình hình thế giới hiện nay với sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, điều này đã tác động mạnh mẽ đến các xu hướng biến đổi văn hóa trên thế giới. Từ đó dự đoán xu thế phát triển, biến đổi văn hóa Việt Nam ở thập niên tiếp theo. Tác giả Đỗ Lan Phương dựa trên cơ sở tiếp cận hệ thống, phương pháp phân tích văn hóa học, nhân học xã hội và nhiều phương pháp khác đã chỉ ra những nhân tố tác động đến sự biến đổi văn hóa Việt Nam trên 6 phương diện: phát triển kinh tế xã hội, phục hưng văn hóa truyền thống, hoạt động tôn giáo, phát triển truyền thông đại chúng, giao lưu văn hóa quốc tế. Từ đó tìm ra nguyên nhân của sự biến đổi văn hóa Việt Nam trong giai đoạn này. Công trình nghiên cứu này là nền tảng, định hướng cho những nghiên cứu tiếp theo về vấn đề biến đổi văn hóa trong từng lĩnh vực cụ thể [97]. Trong nghiên cứu diễn xướng Ca Huế, thuyết biến đổi văn hóa giúp giải thích những vấn đề cốt lõi của tiến trình vận động và biến đổi của loại hình nghệ thuật này. Có thể nói, giao lưu, tiếp biến văn hóa đã ảnh hưởng trực tiếp đến phương cách sáng tác, hoạt động biểu diễn (do tiếp thu và ảnh hưởng từ các nghệ thuật khác). Từ đó có thể thấy, lý thuyết biến đổi văn hoá áp dụng 40 cho trường hợp nghiên cứu này là phù hợp, đặc biệt trong bối cảnh xã hội phát triển như nước ta hiện nay. Lý thuyết biến đổi văn hoá giúp NCS nhận diện được diễn xướng Ca Huế có sự biến đổi về địa điểm, thời gian, không gian, đối tượng thành phần tham gia và phương thức thực hành diễn xướng. Sự biến đổi này diễn ra ở các mức độ khác nhau, có thành tố biến đổi nhiều, có thành tố biển đổi ít hoặc không biến đổi. Cần khẳng định rằng không phải mọi biến đổi đều theo chiều hướng tích cực, mà cùng với nó là những chiều hướng tiêu cực, không phù hợp mà xã hội cần loại bỏ vì những yếu tố đó rất xa với truyền thống. Trong suốt chặng đường dài lịch sử của âm nhạc dân gian và cổ truyền Huế, thì sự xuất hiện của một số yếu tố mới cũng làm ảnh hưởng đến giá trị cốt lõi của di sản văn hoá. 1.2.2.3. Lý thuyết vùng văn hóa Lý thuyết vùng văn hóa bắt nguồn từ lý thuyếtvăn hóa quyển (culture sphere), chỉ một địa vực gắn kết với nhau bởi một hình thức văn hóa nhất định. Khái niệm "văn hóa quyển" được dịch từ từ "kulturkreis" của nhà dân tộc học Đức Wilhelm Schmidt dùng trong một công trình xuất bản năm 1924. Sau đó lý thuyết này được các nhà nhân học văn hóa Mỹ kế thừa và phát triển. Chẳng hạn, Alfred L. Kroeber và Clark Wissler cho rằng lý thuyết văn hóa quyển có giá trị trong việc nghiên cứu dân tộc học và truyền bá văn hóa, bởi người ta có thể tìm thấy và lý giải những mối liên hệ về sự hình thành và phát triển giữa các dân tộc có cùng những đặc điểm văn hóa. Tuy nhiên, các học giả Bắc Mỹ thường sử dụng khái niệm "khu vực văn hóa" hay là “vùng văn hóa” (cultural area) trong các nghiên cứu dân tộc học hơn, bởitrong khái niệm này có sự xác định rõ ràng hơn về mặt địa lý, còn khái niệm văn hóa quyển lại khá mơ hồ về địa vực (như "khí quyển", "sinh quyển", "cực quyển") và tập trung vào "phát triển lịch sử" và "hội nhập địa vực". 41 Bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng khái niệm vùng văn hóa là hơi hẹp nếu nhìn một cách xa rộng hơn vềmặt thời gian và không gian, còn văn hóa quyển có không gian lớn hơn và thời gian lâu hơn, cho phép nghiên cứu được sâu hơn. Theo W. Schmidt, văn hóa quyển không giới hạn trong một không gian địa lý. Một số không gian tại các địa điểm khác nhau có thể thuộc về cùng một văn hóa quyển, và một văn hóa quyển có thể bao gồm một số bộ tộc hoặc dân tộc, nó là một nhóm dân tộc. Tại các khu vực khác nhau, miễn là có một số yếu tố văn hóa nhất định như nhau (tôn giáo, thể chế xã hội, ngôn ngữ, v.v) thì đều thuộc về cùng một văn hóa quyển, như Văn hóa quyển Đông Á, Văn hóa quyển Ấn Độ. Lý thuyết vùng văn hóa được các nhà nghiên cứu Xô Viết kế thừa và phát triển rất thành công, với các quy mô rộng hẹp khác nhau như “khu vực học”, đất nước học”, các vùng văn hóa và tiểu vùng văn hóa.Theo lý thuyết này, vùng văn hóa hay khu vực văn hóa chỉ một không gian địa lý - lịch sử đồng nhất, mà sự hình thành của nó cơ bản dựa trên việc tổ hợp các yếu tố văn hóa được chia sẻ và lan truyền. Có giả thuyết cho rằng những đặc điểm văn hóa có nguồn gốc ở trung tâm và khuếch tán ra những khu vực xung quanh, cung cấp khả năng suy luận lịch đại dựa trên mối quan hệ thời gian và không gian. Các nhà nghiên cứu Nga đã xem xét vấn đề trung tâm và ngoại vi của văn hoá từ thực tế hình thành và phát triển các nền văn minh lớn trên thế giới, như văn minh Đông Á, mà văn minh Trung Hoa là trung tâm, văn minh Nam Á, trong đó văn minh Ấn Độ là trung tâm.Có sự tác động giữa trung tâm và các ngoại vi văn hoá, như giữa văn minh Trung Hoa với các vùng ngoại vi Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, giữa văn minh Ấn Độ với các nền văn hoá khác ở Nam Á, Đông Nam Á. Ở Việt Nam, người kế thừa xuất sắc và có công truyền bá lý thuyết vùng văn hóa là GS.TS. Ngô Đức Thịnh. Trong công trình Văn hóa vùng và 42 phân vùng văn hóa ở Việt Nam, ông đã làm rõ khái niệm vùng văn hóa, các quan điểm lý thuyết cơ bản trong nghiên cứu vùng văn hóa, đặc biệt, ông đã xác định được 7 vùng văn hóa lớn của Việt Nam và 37 tiểu vùng văn hóa, trong đó có tiểu vùng văn hóa xứ Huế [127] Từ cách tiếp cận của lý thuyết vùng văn hóa, NCS xác định việc nghiên cứu diễn xướng Ca Huế phải được đặt trong nền cảnh tiểu vùng văn hóa xứ Huế, từ đó mới có thể lý giải, tìm hiểu một cách đầy đủ, sâu sắc, toàn diện về những đặc điểm và giá trị của Ca Huế. Tiểu vùng văn hóa Huế là tổng hòa các giá trị vật chất và tinh thần, truyền thống, thị hiếu và phong cách sống, được tạo nên từ quá trình hoạt động thực tiễn gắn với sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội để khẳng định bản sắc riêng của vùng đất và con người Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế. Về mặt văn hóa sinh thái, xứ Huế được chia thành 4 vùng sinh thái: vùng núi, vùng gò đồi, vùng đồng bằng, vùng đầm phá và cồn cát ven biển. Chính điều kiện tự nhiên đó đã ảnh hưởng đến tâm tính và cảm quan của người Huế, hình thành nên nếp nhà vườn xứ Huế, quy định tính cách, phong cách sống và lối ứng xử của người Huế, cũng như góp phần hình thành một vùng văn hóa độc đáo và đậm bản sắc. Về mặt văn hóa chính trị, xứ Huế một thời gian dài là kinh đô của quốc gia Đại Việt, trung tâm chính trị của cả nước, điều đó tác động không nhỏ đến văn hóa - nghệ thuật của xứ Huế. Về văn hóa vật thể, Huế có hệ thống kiến trúc hài hòa giữa cung đình và dân gian, kiến trúc tôn giáo và kiến trúc đền miếu, kiến trúc truyền thống và hiện đại, kiến trúc đô thị và truyền thống, kiến trúc nhà vườn, phủ đệ và kiến trúc đình làng. Về văn hóa phi vật thể, Huế là nơi hội tụ nhiều dòng nhạc mang đậm bản sắc Huế như: nhạc cung đình bác học, nhạc dân gian, nhạc tín ngưỡng tôn giáo, cùng với nền tảng thơ văn, mĩ thuật, lễ hội dân gian đã định hình những đặc trưng của không gian văn hóa Huế. Về văn hóa giáo dục, Huế 43 là vùng đất hiếu học, đề cao đạo lí gia phong, lễ giáo, nơi hội tụ của các bậc chí nhân hào kiệt, nơi của những trường học và nền giáo dục Nho học, nơi rất coi trọng học hành, khoa cử. Tất cả những đặc trưng đó đều tìm được sự phản chiếu trong diễn xướng Ca Huế với tư cách là một loại hình nghệ thuật trình diễn vừa mang yếu tố cung đình, vừa mang đậm yếu tố dân gian. 1.3. Khái quát về diễn xướng Ca Huế 1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển của diễn xướng Ca Huế Sự xuất hiện diễn xướng Ca Huế là một sáng tạo mới, góp phần thúc đẩy dòng âm nhạc cổ truyền Huế nói riêng và Việt Nam nói chung, tạo một bước phát triển của nghệ thuật âm nhạc truyền thống Việt Nam. Từ một số ý kiến, nhận định của các học giả đi trước, có thể nói thời điểm hình thành và ra đời của thể loại Ca Huế khoảng từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII, đây là giai đoạn yên bình và cực thịnh của các chúa Nguyễn. Nghệ thuật âm nhạc là thú vui dành cho giới quý tộc đã xuất hiện. Mặc dù sử liệu đã đề cập đến những mốc son lịch sử cụ thể của di sản nghệ thuật truyền thống Huế, nhưng Huế với những thăng trầm của lịch sử, ca nhạc Huế có thể được chia thành 4 giai đoạn hình thành và phát triển: Giai đoạn Ca Huế hình thành: Ca Huế ra đời gắn với nhu cầu cát cứ xây dựng vùng đất mới Đàng Trong của các chúa Nguyễn, đặc biệt dưới thời Sãi Vương. Qua thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, Huế trở thành vùng đất kinh sư trong cảnh thái bình thịnh trị. Xuất phát từ nhu cầu thực tế cấp thiết của một chính thể mới cũng như nhu cầu thưởng ngoạn một thú chơi tao nhã, giải trí thanh cao mà các chúa Nguyễn đã có công lớn khai phá cho ca nhạc Huế hình thành, do vậy, nhạc lễ càng có cơ hội để phát triển. Theo các nhà nghiên cứu về lịch sử, văn hóa và âm nhạc Huế thời điểm ra đời của Ca Huế là vào khoảng thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII.Đây là giai đoạn yên bình và cực thịnh của các Chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong. Thời kỳ 44 hưng thịnh nhất của Ca Huế là vào thế kỷ XIX, thời Tự Đức (1847 – 1883) khi Phú Xuân – Huế đã trở thành kinh đô của nước Đại Nam thống nhất. Ca Huế là thú vui tao nhã dành cho các ông hoàng, bà chúa, các văn nhân, nho sĩ, quan lại ở chốn kinh đô. Nguồn gốc của Ca Huế bước đầu được rút ra từ Tế nhạc cung đìnhnhư các bài bản Long ngâm, Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, 10 bài liên hoàn.Sau đó là những sáng tác mớicủa các ông hoàng, bà chúa, các văn nhân, nho sĩ, các nhạc công tài năng dưới triều Nguyễn. Dưới thời Minh vương Nguyễn Phúc Chu, các làn điệu ca Huế đã bắt đầu xuất hiện; các làn điệu nổi tiếng như Cổ bản, Phú lục, Nam ai, Nam bìnhđã lưu hành rộng rãi trong vùng dinh phủ chúa Nguyễn. Thời kỳ này, âm nhạc truyền thống của dân tộc đã có điệu Bắc và điệu Nam, hai hình thức chính của ca Huế. Chậm nhất là vào đầu thế kỷ XVIII, các nhạc khí cơ bản của ca Huế như đàn tranh, đàn nguyệt - thể loại nhạc cổ điển truyền thống với hai hệ thống bài bản thuộc điệu Bắc và điệu Nam đã được ra đời tại Phú Xuân. Giai đoạnCa Huế phát triển thịnh đạt nhất: Đó là vào thế kỷ XIX đến trước ngày kinh đô thất thủ năm 1885. Trong giai đoạn này, ngoài dân gian cũng như chốn cung đình, ca Huế đã phổ biến rộng rãi. Trong cung đình có một số bài Ca Huế có lời bằng chữ Hán (10 bài Ngự vừa có lời chữ Hán thông dụng trong cung đình vừa có lời Nôm thông dụng trong dân gian). Năm 1863, Có một tập bài bản ca nhạc Huế khá hoàn chỉnh gồm 25 tác phẩm khuyết danh, trong đó 10 bài có kèm theo lời ca và 15 bản không có lời ca. Mười bài có lời ca có những bài giống tên với những bài bản thông dụng trong ca nhạc Huế như: Lưu Thuỷ, Kim tiền, Xuân phong, Hồ Quảng, Nam xuân. Trong thời kỳ này, nhiều cung phủ có hẳn một đội nhạc để phục vụ riêng. Trong cung đình, có một số bài ca Huế có lời ca bằng chữ Hán, đó là 10 bài Ngự (tức là 10 bài liên hoàn) vừa có lời bằng chữ Hán trong cung đình, vừa có chữ Nôm phổ biến trong dân chúng. 45 Trong giai đoạn thịnh đạt nhất của Ca nhạc Huế, có nhiều nghệ nhân dân gian nổi danh như: Đẩu Nương (một ca nhi ở An Cựu), cùng nhiều nhạc công như Biện Nhân, Trần Quang Phổ, Tống Văn Đạt, cậu Thứ, cậu Khánh, cậu Trương Sáu, cậu Cung, các ông Bá Yến, thông phán Châu Hữu Ninh, bố chánh Trương Trọng Hữu, tiến sĩ Đỗ Huy Liên, cử nhân Lê Cảnh.Nhiều ông hoàng bà chúa con vua Minh Mạng còn sáng tác, tham gia diễn xướng hay tổ chức ca nhạc thính phòng, như các ông hoàng Trấn Biên, Lãng BiênNgoài ra, tác giả Hoàng Yến đã kể tên một số người mà ta chưa rõ tiểu sử như thông phán Tôn Thất Toại giỏi đàn tì bà, ông Hoàng Mỹ Hoà nổi tiếng về tiêu, quan Thị Tôn Thất Linh; Hầu Chí, chỉ nằm lòng bài Cổ bản nhưng tài năng của ông được dân chúng truyền tụng. Ông hoàng Nam Sách đàn nguyệt rất hay, đã soạn cuốn Nguyệt cầm phổ vào năm 1859. Cũng trong khoảng thời gian ấy, ông hoàng Miên Thẩm (nhà thơ Tùng Thiện Vương) soạn cuốn Nam cầm phổ. Ông hoàng Miên Bửu (nhà thơ Tương An quận vương) nổi danh về đàn tỳ bà và đã đặt lời cho nhiều bài bản ca nhạc Huế. Một số bài bản lớn được sáng tác hoặc được hoàn thiện trong thời đại này, ví dụ, bài Tứ đại cảnh tương truyền là đã ra đời vào thời Tự Đức (1848-1883). Về nữ có công chúa Ngọc Am, Lại Đức (tức Mai Am) đều có sáng tác lời cho bài bản nhạc Huế, công chúa Huệ Phố vừa là nhà thơ, vừa giỏi đàn, ca kỹ Đầu nương vang danh với cây đàn Nam cầm và giọng hát tuyệt diệu, bà Thiện, bà Tứ là những tay lão luyện về nhạc cụ. Trong giai đoạn này ta thấy rõ ca Huế dần dần đã phổ biến ra ngoài dân gian. Các nhạc công, nghệ nhân giỏi về đàn của ca Huế đông đảo từ trong cung đình lẫn ngoài dân gian chứng tỏ sự phát triển sinh hoạt ca nhạc thính phòng trong dinh phủ của các ông hoàng và trong các gia đình quyền thế. Các ông hoàng bà chúa còn để lại những công trình nghiên cứu về đàn như: Nguyệt cầm phổ, Nam cầm phổ, ngoài ra Công chúa Ngọc Am, Lại Đức, ông 46 hoàng Miên Trinh, Tương An quận vương Miên Bửu còn sáng tác những bài ca Huế. Các vua triều Nguyễn cũng rất thích ca Huế. Như vua Tự Đức đã sử dụng các nghệ sĩ dân gian tài hoa làm chức suất đội trưởng để điều khiển dàn nhạc như trường hợp đội Chín, đội Phước con cháu Tống Văn Đạt là một chứng cứ cụ thể. Huế là địa điểm thuận lợi, nơi có thể tập hợp một số nghệ nhân giỏi đàn ca, xướng hát trong giai đoạn này. Ca Huế trở thành một nhu cầu văn hoá tinh thần không thể thiếu được ở chốn kinh đô này. Những nghệ nhân tiêu biểu đặt nền móng cho việc khai sinh nền ca nhạc Huế. Trước hết phải kể đến những gương mặt nghệ sĩ trong tầng lớp quý tộc từ thế kỷ XVII – XVIII, như: chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725), Luân Quốc công Nguyễn Phúc Tứ (1698-1753), Nguyễn Phúc Dục (1727-1771), những nghệ sĩ này có thể xem là những người đặt nền móng cho việc định hình và phát triển của loại hình ca nhạc Huế. Giai đoạn Ca Huế suy thoái từ năm 1885 đến trước năm 1945: Đó là giai đoạn kéo dài từ khi kinh đô thất thủ (1885) đến trước Cách mạng tháng 8 năm 1945. Sự suy thoái của Ca Huế và nhiều bộ môn nghệ thuật ở Huếgắn liền với bối cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam, của kinh đô Huế trong thời phong kiến mạt kỳ trước sức xâm nhập ngày càn...ác bài bản lớn khó hát. 4. Tôi được học hát từ năm 10 tuổi. 5. Tôi năm nay đã gần 65 tuổi rồi 6. Hiện nay vẫn hát được, nhưng tuỳ vào tình hình sức khoẻ. 211 7. Đối tượng và không gian như thế này (salon) thì rất phù hợp. Việc ca Huế có tồn hay không là phụ thuộc vào những mô hình như thế này chứ không phải là Ca Huế trên sông Hương với nội dung chủ yếu là tân nhạc 9. Cũng tuỳ vào các cháu chứ không ép buộc. 10. Bây giờ cuộc sống đầy đủ hơn, thế hệ trẻ có nhiều sự lựa chọn hơn. Người trẻ học Ca Huế cũng khác với chúng tôi ngày xưa, ai siêng thì tiến bộ thấy rõ, còn không thì cũng học cho có, chưa có được kết quả xứng đáng. Nghệ nhân 2 1. Ngày xưa đi hát cực lắm. Gia đình ai cũng đa số là đông con, vừa thích đi hát để thoả niềm đam mê nhưng cũng phải nghĩ đến kế sinh nhai là phần nhiều. 2. Các điệu hò và lý ngày xưa cũng được sử dụng trong Ca Huế chứ. 3. Tôi thường hay hát các bài như Cổ bản, Lưu thuỷ, Tương tư khúc. 4. Tôi được học hát từ nhỏ, từ năm 8 tuổi. Học hát rồi sau này có học thêm một nhạc cụ nữa. 5. Tôi năm nay đã hơn 60 tuổi rồi 6. Hiện nay vẫn hát được, nhưng tuỳ vào tình hình sức khoẻ. 7. Ngày nay thấy Ca Huế dưới sông Hương hay hát nhạc mới nhiều hơn. 8. Theo tôi, muốn Ca Huế tồn tại thì cần phải có nhiều hoạt động, nhiều chương trình truyền hình để góp phần quảng bá. Thấy giới trẻ thích các loại nhạc được du nhập từ nước ngoài nhiều hơn. 9. Con cháu trong nhà đứa nào thích thì tôi đều truyền dạy lại. 10. Bây giờ cuộc sống đầy đủ hơn, thế hệ trẻ có nhiều sự lựa chọn hơn. Người trẻ học Ca Huế cũng khác với chúng tôi ngày xưa, ai siêng thì tiến bộ thấy rõ, còn không thì cũng học cho có, chưa có được kết quả xứng đáng. Nghệ nhân3 212 1. Có lần sắp đến giờ đi hát mà chưa kịp ăn gì, vậy là tranh thủ giờ nghỉ phải ra sau đò để ăn. Cuộc sống của chúng tôi, những người thực hành Ca Huế đa số đều vất vả, và Ca Huế chỉ diễn ra vào ban đêm nên phải dành hết sức khoẻ để tập trung cho kế sinh nhai. 2. Các điệu hò và lý ngày xưa được sử dụng nhiều trong Ca Huế 3. Tôi hát bài gì cũng được, nhưng những bài bản lớn thì phải có lúc, ý là phải gặp đúng những tâm hồn đồng điệu thì tôi hát mới thấy hay và ý nghĩa. 4. Tôi được học hát từ nhỏ. 5. Tôi năm nay đã hơn 60 tuổi rồi 6. Hiện nay vẫn hát được, thậm chí còn đi dạy được nếu các cơ sở, các trường có lời mời. Những năm trước tôi vẫn đi dạy ở Học viện Âm nhạc Huế. 7. Ngày nay thấy Ca Huế dưới sông Hương hay hát nhạc mới nhiều hơn. Những người thực hành Ca Huế cũng trẻ hơn, đông hơn, nhưng chất lượng không ổn. Có người chỉ hát được hai bài, còn lại thì ngồi gõ nhịp. 8. Đối tượng và không gian như thế này thì rất phù hợp. Việc ca Huế có tồn hay không là phụ thuộc vào những mô hình như thế này chứ không phải là mô hình ca Huế trên sông Hương với nội dung chủ yếu là tân nhạc 9. Con cháu hoặc bất cứ ai có nhu cầu muốn học thì tôi đều dạy. 10. Bây giờ giới trẻ có nhiều sự lựa chọn hơn, ít ngừoi muốn học những cái cổ mà chỉ chăm chăm đi theo cái mới cho hợp thời đại. Nghệ nhân4 1. Ngày xưa chủ sô rất khắt khe trong việc giờ giấc. Hẹn giờ nào thì ca sĩ và nhạc công phải tới sớm ít nhất mười lăm phút để chuẩn bị, sau đó lên thuyền chờ ổn định. Có lần tôi bị muộn vì hỏng xe giữa đường, vậy mà tới nơi thấy thuyền vẫn còn đợi, sau lần đó may mà không bị la quá nhiều ( cười) 2. Các điệu hò và lý ngày xưa được sử dụng nhiều trong Ca Huế 3. Tôi hát bài gì cũng được, và tôi còn chơi được đàn bầu. 213 4. Tôi được học hát từ nhỏ. Lúc đầu đi học theo ý muốn gia đình, sau đó thì tôi thật sự yêu thích bộ môn này. 5. Tôi năm nay đã gần 70 tuổi rồi 6. Tôi rất mong muốn các thế hệ đi sau học hỏi nhiều hơn để phục vụ du khách tốt hơn, chuyên nghiệp hơn nhưng hình như các em hiện nay ít ai không cố gắng. Các em chỉ muốn học cho nhanh để hát kiếm tiền. Bởi vậy, số lượng học viên học ca Huế thì nhiều nhưng số trưởng thành thì rất ít 7. Ngày nay thấy Ca Huế dưới sông Hương không còn được như ngày xưa. Giờ vì phục vụ khách du lịch là chủ yếu, nên hát theo thị hiếu của khách. Chứ ngày xưa khách đến nghe, mình muốn hát gì mình hát, tuỳ theo tâm trạng, nhưng những lúc đó thật sự thấy “có hồn”, có sự đồng điệu tri âm. 8. Theo tôi, muốn Ca Huế tồn tại thì cần phải có nhiều hoạt động, nhiều chương trình truyền hình để góp phần quảng bá. Thấy giới trẻ thích các loại nhạc được du nhập từ nước ngoài nhiều hơn. 9. Con cháu hoặc bất cứ ai có nhu cầu muốn học thì tôi đều dạy. 10. Bây giờ giới trẻ có nhiều sự lựa chọn hơn, ít ngừoi muốn học những cái cổ mà chỉ chăm chăm đi theo cái mới cho hợp thời đại. 4.4. Nhạc công 4.4.1. Câu hỏi 1. Anh/chị tham gia biểu diễn Ca Huế từ bao giờ ? 2. Anh/chị được học về Ca Huế ở đâu ? Khó hay dễ ? 3. Theo anh/chị làm thế nào để một buổi trình diễn Ca Huế được gọi là thành công? 4. Anh/ chị có cảm nhận thế nào về du khách thưởng thức hiện nay ? 5. Những bài bản anh chị trình diễn có thực sự là những bài Ca huế nguyên bản ? 214 6. Trong quá trình hoạt động trình diễn Ca Huế anh/chị thấy nên thay đổi điều gì để Ca Huế có chất lượng hơn? 7. Trong dàn nhạc Ca Huế thường có những loại nhạc cụ gì? 8. Anh/ chị chơi loại nhạc cụ gì? 9. Loại nhạc cụ mà anh chị chơi có tác dụng gì khi trình diễn Ca Huế? 10. Theo anh chị loại nhạc cụ gì quan trọng trong dàn nhạc Ca Huế? 4.4.2. Câu trả lời Nhạc công 1: 1. Tôi tham gia biểu diễn nghệ thuật Ca Huế đã 5 năm nay. 2. Tôi được học nhạc cụ truyền thống hệ Trung cấp tại trường THVHNT Huế 3. Một buổi trình diễn Ca Huế được gọi là thành công khi trong chương trình biểu diễn có đầy đủ các thể loại, các bài bản của Ca Huế, có cả ngâm thơ, Hò, Vè, Lý, Hầu văn thậm chí có cả những ca khúc tân nhạc viết về Huế. 4. Du khách thưởng thức hiện nay thì rất nhiều đối tượng, và tùy thuộc vào đối tượng như thế nào thì mình phải có những chương trình phục vụ cho phù hợp với từng đối tượng. 5. Những bài bản chúng tôi trình diễn hiện nay chỉ có một vài bài bản là Ca Huế thôi, còn lại phải tùy thuộc rất nhiều vào du khách yêu cầu, và hầu như họ chỉ thích nghe các bản nhạc mới. 6. Trong quá trình hoạt động Ca Huế, chúng tôi nhận thấy cần nhiều hơn nữa sự vào cuộc của các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là có các biện pháp để chấn chỉnh lại hoạt động biểu diễn nghệ thuật Ca Huế trên sông Hương, không thể để tình trạng nhốn nháo như hiện nay. 7. Trong dàn nhạc Ca huế thường có các nhạc cụ sau: đàn Tranh, đàn Tỳ, đàn Nhị, đàn Nguyệt, đàn Bầu. 215 8. Tôi chơi đàn bầu, cây đàn độc đáo của người Việt, chỉ có một dây, có âm thanh rất giống giọng người và rất truyền cảm. 9. Trong dàn nhạc, nhạc cụ này có chức năng dẫn dắt giai điệu chính, trình diễn giai điệu cốt lõi trong toàn bộ bản nhạc. 10. Đối với tôi thì cây đàn Bầu rất quan trọng, và đặc biệt như chương trình biểu diễn Ca Huế hiện nay rất cần thiết cây đàn Bầu, nó là tuyến giai điệu chính, giúp các ca sĩ hình dung trước các bài bản mình chuẩn bị thể hiện. Nhạc công 2: 1. Tôi tham gia biểu diễn nghệ thuật Ca Huế đã 10 năm nay. 2. Tôi được học nhạc cụ truyền thống hệ Trung cấp tại Học viện Âm nhạc Huế 3. Một buổi trình diễn Ca Huế được gọi là thành công đòi hỏi phải có ca sĩ chuẩn, nhạc công cũng phải chuẩn và biểu diễn phải hiểu ý và ăn xăm với nhau. 4. Du khách đến Huế hiện nay thì rất nhiều đối tượng, người Việt cũng có, người nước ngoài cũng có, chúng tôi phải có những chương trình phục vụ phù hợp với từng đối tượng. 5. Những bài bản chúng tôi trình diễn hiện nay cũng chưa thể khẳng định là Ca Huế nguyên bản, vì chúng tôi cũng chỉ được học truyền khẩu qua các nghệ nhân mà mỗi nghệ nhân lại có một phong cách diễn tấu và hơi đàn khác nhau, thậm chí những ngón đàn cũng khác nhau, như vậy rất khó nói của ai là nguyên bản. 6. Trong quá trình hoạt động Ca Huế, chúng tôi nhận thấy các cơ quan quản lý nhà nước cần tham khảo ý kiến của anh chị em nghệ sĩ cũng như các chuyên gia nghiên cứu để từ đó có những chính sách quản lý chặt chẽ, không để tình trạng lộn xộn của Ca Huế như hiện nay. 216 7. Dàn nhạc Ca huế thường có các nhạc cụ sau: đàn Tranh, đàn Tỳ, đàn Nhị, đàn Nguyệt, đàn Tam sau này có thêm đàn Bầu. 8. Tôi chơi đàn Tranh, cây đàn lúc xưa có 16 dây nay có 19 đến 21 dây, đàn tranh dây sắt nên âm thanh mang tính chất kim loại nên có âm thanh vang, trong trẻo. 9. Trong dàn nhạc, đàn tranh là nhạc cụ dây gảy, có chức năng tạo màu sắc, và tấu phần đệm, làm nền cho toàn dàn nhạc hòa tấu. 10. Đối với tôi, trong dàn nhạc thì cây đàn Bầu có vị trí rất quan trọng, và đặc biệt. Một chương trình biểu diễn Ca Huế hiện nay đa phần là hát nhạc mới thì rất cần thiết cây đàn Bầu, nó là cây đàn thể hiện tuyến giai điệu chính, giúp nâng đỡ giọng ca rất hiệu quả. Nhạc công 3: 1. Tôi tham gia biểu diễn nghệ thuật Ca Huế đã 20 năm nay. 2. Tôi được học nhạc cụ truyền thống tại Học viện Âm nhạc Huế, học với các nghệ nhân Ca Huế. 3. Một buổi trình diễn Ca Huế được gọi là thành công khi nó làm thỏa mãn được cả người biểu diễn lẫn người thưởng thức. Người trình diễn thấy hứng thú, say mê và tâm huyết trong từng lời ca tiếng đàn và người thưởng thức cũng là người đồng điệu. 4. Du khách đến Huế hiện nay thì rất nhiều đối tượng, thông thường thì những đội trình diễn phải có những chương trình phục vụ phù hợp với từng đối tượng. 5. Những bài bản chúng tôi trình diễn chưa phải là Ca Huế nguyên bản, loại âm nhạc truyền khẩu thường có tính dị bản rất cao, hơn nữa mỗi nghệ nhân lại có một phong cách diễn tấu và hơi đàn khác nhau, thậm chí những ngón đàn cũng khác nhau, như vậy rất khó nói của ai là nguyên bản. 217 6. Trong quá trình hoạt động Ca Huế, chúng tôi nhận thấy vấn đề quản lý nhà nước chưa chặt chẽ, những nhà quản lý cần tham khảo ý kiến của anh chị em nghệ sĩ cũng như các chuyên gia nghiên cứu để từ đó có những chính sách quản lý chặt chẽ, không để tình trạng lộn xộn của Ca Huế như hiện nay. 7. Dàn nhạc Ca huế thường có các nhạc cụ như: đàn Tranh, đàn Tỳ, đàn Nhị, đàn Nguyệt và thêm đàn Bầu. 8. Tôi chơi đàn Nhị, cây đàn 2 dây, có âm thanh phát ra gần như cây violon, loại đàn này có rất nhiều kỹ thuật nhấn, rung, vỗ, luyến láy nó thường diễn tấu nét giai điệu của một tác phẩm âm nhạc. 9. Trong dàn nhạc, đàn Nhị là nhạc cụ dây kéo, cũng tạo một màu âm rieng biệt so với các loại nhạc cụ khác, và đánh giai điệu rất rõ 10. Đối với tôi, trong dàn nhạc thì cây đàn Bầu có vị trí rất quan trọng, và đặc biệt. Một chương trình biểu diễn Ca Huế hiện nay đa phần là hát nhạc mới thì rất cần thiết cây đàn Bầu, nó là cây đàn thể hiện tuyến giai điệu chính, giúp nâng đỡ giọng ca rất hiệu quả. Nhạc công 4: 1. Tôi tham gia biểu diễn nghệ thuật Ca Huế đã 20 năm nay. 2. Tôi được học nhạc cụ truyền thống tại Học viện Âm nhạc Huế, hiện nay cũng là nhạc công truyền thống Huế, làm việc tại Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế. 3. Một buổi trình diễn Ca Huế được gọi là thành công khi nó được sự hòa quyện đồng điệu giữa người diễn tấu và người thưởng thức, giữa người ca và người đàn. 4. Du khách đến Huế hiện nay thì rất nhiều đối tượng, đa phần họ đến Huế tham quan du lịch luôn tiện cũng muốn nghe xem thử Ca Huế là gì, có người vì tò mò, có người cũng vì nhu cầu muốn được thưởng thức, nhưng họ đều thực sự chưa biết hết về nghệ thuật Ca Huế. 218 5. Những bài bản chúng tôi trình diễn dựa trên chương trình chuẩn của Sở Văn hóa Huế ban hành, có một ít bản Ca Huế còn lại là các điệu hò, điệu lý, loại âm nhạc truyền khẩu thường có tính dị bản rất cao, do vậy, đê xác định bản nào là gốc thì rất khó, nếu không nói là không thể xác định. 6. Trong quá trình hoạt động Ca Huế, chúng tôi nhận thấy vấn đề quản lý nhà nước chưa chặt chẽ, những nhà quản lý cần tham khảo ý kiến của anh chị em nghệ sĩ cũng như các chuyên gia nghiên cứu để từ đó có những chính sách quản lý chặt chẽ, không để tình trạng lộn xộn của Ca Huế như hiện nay. 7. Dàn nhạc Ca huế thường có các nhạc cụ như: đàn Tranh, đàn Tỳ, đàn Nhị, đàn Nguyệt và thêm đàn Bầu. 8. Tôi chơi đàn Nguyệt, cây đàn 2 dây, có âm thanh phát ra hơi đục, tiếng đàn khoan thai đĩnh đạc, loại đàn này có rất nhiều kỹ thuật đặc biệt là ngón nhấn, nhấn dật, rung, vỗ nó là nhạc cụ dây gảy thường làm phần nền cho dàn nhạc khi hòa tấu cũng như đệm hát. 9. Trong dàn nhạc, đàn Nguyệt là nhạc cụ dây gẩy nó cũng tạo màu âm riêng và đặc biệt là nhạc cụ chơi các âm hình tiết tấu, đệm, cho dàn nhạc và ca sĩ 10. Đối với tôi, trong dàn nhạc thì cây đàn Nguyệt có vị trí rất quan trọng, và đặc biệt. Đàn Nguyệt trong dàn nhạc là cây đàn giữ nhịp, giữ tốc độ nên có tầm quan trọng hơn so với các nhạc cụ khác, chính vì vậy, người chơi đàn Nguyệt thông thường cũng là người gõ Song loan. Nhạc công 5: 1. Tôi tham gia biểu diễn nghệ thuật Ca Huế đã 30 năm nay. 2. Tôi được học nhạc cụ truyền thống tại trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Huế nay là Học viện Âm nhạc Huế, thời trước tôi được học với các nghệ nhân rất giỏi đàn. 3. Một buổi trình diễn Ca Huế được gọi là thành công khi khoảng cách giữa người thưởng thức và người trình diễn được thu hẹp lại. Người trình diễn 219 thấy hứng thú, say mê và tâm huyết trong từng lời ca tiếng đàn và người thưởng thức cũng là người đồng điệu. 4. Khách xem ca Huế trên sông Hương chủ yếu là khách vãng lai và thường là giới trẻ. Họ thưởng thức ca Huế như một món “mì ăn liền”. Thực tế những người biểu diễn ca Huế trên sông Hương hiện nay đều có đào tạo ở trường lớp nhưng thực tế phần lớn không ai đạt tới được trình độ như ngày xưa. 5. Những bài bản chúng tôi trình diễn chưa phải là Ca Huế chính thống, đối với một loại hình nghệ thuật âm nhạc cổ truyền rất khó để nói về nguyên gốc. Mặc dù nó có bài bản hẳn hoi đấy, tuy nhiên không phải cứ đánh đúng bài bản mà được. Cần phải có nghệ nhân chỉ dẫn thêm và chính mỗi nghệ nhân tạo ra một lớp thế hệ học trò với những phong cách khác nhau. 6. Quản lý nhà nước đối với hoạt động Ca Huế, là vấn đề cấp bách quan trọng hiện nay, bên cạnh đó cần thanh tra, kiểm tra, và xử lý kịp thời những hoạt động Ca Huế kém chất lượng. 7. Nhạc cụ sử dụng trong Ca huế thường có các nhạc cụ như: đàn Tranh, đàn Tỳ, đàn Nhị, đàn Nguyệt và thêm đàn Bầu. 8. Tôi chơi đàn nguyệt, cây đàn 2 dây, có rất nhiều kỹ thuật nhấn, rung, vỗ, luyến láy nó thường diễn tấu nét âm hình tiết tấu của một tác phẩm âm nhạc. 9. Trong dàn nhạc, đàn Nguyệt là nhạc cụ dây gảy, cũng tạo một màu âm riêng và tạo nền tiết tấu cho toàn dàn nhạc 10. Đối với tôi, trong dàn nhạc thì cây đàn Bầu có vị trí rất quan trọng, và đặc biệt. Một chương trình biểu diễn Ca Huế hiện nay đa phần là hát nhạc mới thì rất cần thiết cây đàn Bầu, nó là cây đàn thể hiện tuyến giai điệu chính, giúp nâng đỡ giọng ca rất hiệu quả. 4.5. Nhà nghiên cứu 4.5.1 Câu hỏi 220 1. Theo ông/bà Ca Huế là loại hình nghệ thuật có nguồn gốc từ đâu? 2. Có nhiều ý kiến cho rằng Ca Huế có sự trộn lẫn yếu tố Dân gian và Cung đình, ông /bà suy nghĩ như thế nào về ý kiến đó. 3. Theo ông /bà Âm nhạc dân gian xứ Huế có ảnh hưởng đến Ca Huế không? Mức độ ảnh hưởng như thế nào? 4. Theo ông/bà Ca Huế xưa và nay có gì khác nhau? Tại sao? Và khác như thế nào? 5. Theo ông/bà để Ca Huế tồn tại và phát triển chúng ta cần làm gì? 6. Quan điểm của ông/bà về việc biểu diễn Ca Huế như hiện nay? 7. Theo ông /bà điều gì tạo nên nét đặc trưng của nghệ thuật Ca Huế? 4.5.2 Câu trả lời Nhà nghiên cứu 1 1. Thật khó để có thể khẳng định nguồn gốc của Ca Huế, theo GS Trần Văn Khê, Ca Huế có thể xuất hiện từ trước thế kỷ XVII, từ một loại nhạc chỉ sử dụng trong cung vủa phủ chúa, mãi đến sau đời các vua Nguyễn mới có tên gọi là Ca Huế. 2. Thứ nhất, mọi loại hình nghệ thuật nhất thiết đều bắt nguồn từ nghệ thuật dân gian, Ca Huế cũng vậy, nó cũng đều là những sáng tác dựa trên nguồn chất liệu dân gian, có cả những câu hò điệu lý. Do vậy trong ca Huế hiện nay có sự trộn lẫn giữa dòng dân gian và Cung đình là chuyện hiển nhiên. 3. Âm nhạc dân gian Huế ảnh hưởng rất lớn đến các bài bản Ca Huế, cũng có nhà nghiên cứu cho rằng, bộ phận đặc sắc nhất trong ca Huế lại là hò huế, lý huế, vè huế, dân ca Huế. 4. Ca Huế xưa người ta gọi là ca salon tức là ca thính phòng, rất ít người thưởng thức và hầu như người thưởng thức và người biểu diễn hòa quyện tri âm, tri kỷ. Ca Huế hiện nay diễn ra trong không gian khác, với đối tượng khán giả đa dạng hơn chính vì vậy mà có sự thay đổi trong bài bản làn điệu của Ca Huế tùy vào thời kỳ nhất định 221 Nhà nghiên cứu 2 1. Giờ nói chính xác về nguồn gốc của Ca Huế thì khó, chỉ biết khởi nguồn của nó là bắt đầu từ chốn cung đình, cung vua phủ chúa, sau mới lưu truyền ra dân gian. 2. Theo tôi, loại hình âm nhạc nào cũng có nguồn gốc từ dân gian, từ cái dân gian mới phát triển thành những bài bản chính thống, cũng từ cái dân gian nó mới có sự gần gũi dung dị và dễ hiểu, dễ đi vào lòng người. 3. Trong Ca Huế có chứa đựng rất nhiều yếu tố của âm nhạc dân gian, đơn cử như các điệu hò, câu lý. Và điều dễ thấy nhất là phần nhạc đệm có cây đàn bầu, ngày xưa đàn bầu không được sử dụng trong Ca Huế.. 4. Ca Huế xưa người ta gọi là ca salon tức là ca thính phòng, rất ít người thưởng thức và hầu như người thưởng thức và người biểu diễn hòa quyện tri âm, tri kỷ. Ca Huế hiện nay diễn ra trong không gian khác, với đối tượng khán giả đa dạng hơn chính vì vậy mà có sự thay đổi trong bài bản làn điệu của Ca Huế tùy vào thời kỳ nhất định 5. Để Ca Huế phát triển hơn thì tôi nghĩ chính quyền phải bắt tay vào cuộc. Phải có nhiều chương trình quảng bá Ca Huế rộng rãi hơn đến công chúng, thậm chí đưa Ca Huế vào các chương trình học ngoại khoá ở hệ thống trường học trên địa bàn. 6. Theo tôi nhận thấy, việc biểu diễn Ca Huế hiện nay đã không còn giữ được cái hồn của Ca Huế ngày xưa nữa. Giờ việc biểu diễn trên sông Hương rất lộn xộn, không có thiết chế quy trình đúng nghĩa. 7. Ca Huế sỡ dĩ đặc biệt bởi vì nhiều yếu tố, riêng đặc điểm chỉ diễn ra vào ban đêm trong không gian sông nước hữu tình thơ mộng cũng đủ để gây tò mò với người nghe, với du khách. 4.6. Các nhà quản lý 4.6.1 Câu hỏi 222 1. Ông bà thấy như thế nào về tình hình biểu diễn nghệ thuật Ca Huế hiện nay? 2. Làm thế nào để giữ gìn và bảo vệ nghệ thuật Ca Huế trong xã hội đương đại? 3. Làm thế nào để công chúng, du khách thích thú khi nghe Ca Huế? 4. Theo ông (bà), vai trò của nhà nước, các cơ quan văn hóa, Hội Âm nhạc và các tổ chức xã hội phải làm gì để giữ gìn, phát huy nghệ thuật Ca Huế trong đời sống hiện nay? 5. Trên cương vị người quản lý văn hóa, ông bà có đánh giá gì về nhu cầu của du khách hiện nay khi đến xem Ca Huế? 6. Theo ông/bà cần có những biện pháp gì để quản lý, hoạt động biểu diễn Ca Huế? 7. Ông /bà nghĩ như thế nào về ý kiến của các nhà nghiên cứu trong việc tìm ra hướng phát triển cho Ca Huế? 8. Theo ông/bà nguyện vọng lớn nhất của những người làm công tác biểu diễn Ca Huế là gì? 4.6.2 Câu trả lời Quản lý 1 1. Việc biểu diễn Ca Huế trên địa bàn thành phố hiện nay đang diễn ra một cách rất lộn xộn. Việc các công ty tư nhân ồ ạt mọc lên trong việc mời chào, bán vé cũng dẫn đến giảm sút về chất lượng nghệ thuật của một chương trình Ca Huế. 2. Cần xây dựng cơ chế quản lý thật cụ thể để kiểm tra và chấn chỉnh kịp thời hoạt động biểu diễn Ca Huế. 3. Ca Huế trong bối cảnh kinh tế thị trường như hiện nay cũng được xem như một sản phẩm văn hóa. Do vậy, muốn du khách thích thú khi nghe Ca Huế thì những người hoạt động trong lĩnh vực này cần quan tâm nhiều đến 223 chất lượng nghệ thuật, không ngừng học hỏi tự nâng cao trình độ chuyên môn để có những chương trình Ca Huế có chất lượng nghệ thuật. 4. Mặc dù tỉnh đã tăng mức thù lao cho nghệ sĩ, diễn viên ca Huế trong mỗi suất diễn, nhưng thực thu của họ chẳng được bao nhiêu, vì đã bị bớt ngược bớt xuôi. Cơ quan tôi có đến 50% nghệ sĩ, diễn viên hiện sống hết sức chật vật. 5. Nhu cầu của du khách thì rất lớn, và nhiều đối tượng thì có nhiều nhu cầu khác nhau, để đáp ứng được, đòi hỏi phải có những sự linh hoạt thay đổi tư duy, xây dựng nhiều chương trình, đa dạng về thể loại, bài bản, tính chất, và xây dựng được hệ thống các ca sĩ, nghệ sĩ có chất lượng và năng động. 6. Để quản lý tốt hoạt động biểu diễn Ca Huế đòi hỏi phải có cơ chế quản lý về mặt nhà nước, gồm các quy định về hoạt động này và phỉa được xây dựng dựa trên ý kiến từ nhiều phía, đặc biệt là chủ thể, các ca sĩ và nhạc công là những ý kiến quan trọng cần được quan tâm. 7 Tôi cho rằng, ý kiến của các nhà nghiên cứu văn hóa nói chung và các nhà nghiên cứu âm nhạc là rất quan trọng trong việc tìm hướng phát triển cho hoạt động của nghệ thuật Ca Huế hiện nay, đây là các nhà quản lý và hoạt định các chính sách cần lưu tâm. 8. Theo tôi, nguyện vọng lớn nhất của những người làm công tác hoạt động biểu diễn Ca Huế là nhu cầu được hoạt động trong một môi trường nghệ thuật thực thụ, được tôn trọng nghề nghiệp và được hành nghề đúng nghĩa và được trả công xứng đáng. Quản lý 2 1. Hiện nay, việc biểu diễn Ca Huế trên địa bàn thành phố diễn ra dưới hình thức các nhóm ca thuộc các công ty tư nhân, hoạt động một cách độc lập kết nối với các công ty du lịch để phục vụ du khách. Việc lập các công ty tư 224 nhân ồ ạt cũng dẫn đến giảm sút về chất lượng nghệ thuật của một chương trình Ca Huế. 2. Cần quản lý thật chặt chẽ hơn để kịp thời kiểm tra và chấn chỉnh hoạt động biểu diễn Ca Huế một cách nhịp nhàng. 3. Trong bối cảnh kinh tế thị trường như hiện nay thì Ca Huế cũng được xem như một sản phẩm văn hóa. Do vậy, cần quan tâm nhiều đến chất lượng nghệ thuật, không ngừng học hỏi tự nâng cao trình độ chuyên môn để có những chương trình Ca Huế có chất lượng nghệ thuật. 4. Vai trò quản lý của nhà nước là hết sức quan trọng, kết hợp với các cơ quan ban ngành liên quan đến văn hóa và âm nhạc cùng trao đổi thảo luận để tìm ra biện pháp giúp cho nghệ thuật Ca Huế ngày càng phát triển. Đặc biệt quan tâm xây dựng những chương trình Ca Huế có chất lượng cao, tạm gọi là những sản phẩm chất lượng phục vụ cho các đối tượng sành về âm nhạc. 5. Phải có sự linh hoạt trong thay đổi tư duy, xây dựng nhiều chương trình, đa dạng về thể loại, bài bản, tính chất, và xây dựng được hệ thống các ca sĩ, nghệ sĩ có chất lượng và năng động. 6. Để quản lý tốt hoạt động biểu diễn Ca Huế đòi hỏi phải có cơ chế quản lý về mặt nhà nước, gồm các quy định về hoạt động này và phỉa được xây dựng dựa trên ý kiến từ nhiều phía, đặc biệt là chủ thể, các ca sĩ và nhạc công là những ý kiến quan trọng cần được quan tâm. 7 Theo tôi, ý kiến của các nhà nghiên cứu văn hóa nói chung và các nhà nghiên cứu âm nhạc là rất quan trọng trong việc tìm hướng phát triển cho hoạt động của nghệ thuật Ca Huế hiện nay, đây là các nhà quản lý và hoạt định các chính sách cần lưu tâm. 8. Nguyện vọng lớn nhất của những người làm công tác hoạt động biểu diễn Ca Huế là nhu cầu được hoạt động trong một môi trường nghệ thuật thực 225 thụ, được tôn trọng nghề nghiệp và được hành nghề đúng nghĩa và được trả công xứng đáng. QL3 1. Hiện nay, việc biểu diễn Ca Huế trên địa bàn thành phố diễn ra đang không được ổn định. Cần có chế tài để đưa loại hình Ca Huế về đúng với trật tự của nó, dưới sự quản lý của chỉ một đơn vị duy nhất thì có lẽ tình trạng sẽ được cải thiện. 2. Theo tôi, cần quản lý thật chặt chẽ hơn để kịp thời kiểm tra và chấn chỉnh hoạt động biểu diễn Ca Huế một cách nhịp nhàng. 3. Ca Huế cũng chính là một sản phẩm văn hoá . Do vậy, cần quan tâm nhiều đến chất lượng nghệ thuật, không ngừng học hỏi tự nâng cao trình độ chuyên môn để có những chương trình Ca Huế có chất lượng nghệ thuật. 4. Thiết nghĩ, vai trò quản lý của nhà nước là hết sức quan trọng, kết hợp với các cơ quan ban ngành liên quan đến văn hóa và âm nhạc cùng trao đổi thảo luận để tìm ra biện pháp giúp cho nghệ thuật Ca Huế ngày càng phát triển. Đặc biệt quan tâm xây dựng những chương trình Ca Huế có chất lượng cao, tạm gọi là những sản phẩm chất lượng phục vụ cho các đối tượng sành về âm nhạc. 5. Du khách hiện nay đến Huế đa phần ít có người hiểu rõ về Ca Huế, phần lớn là tò mò về “đặc sản” này. Nên chúng ta cũng cần có sự linh hoạt trong thay đổi tư duy, xây dựng nhiều chương trình, đa dạng về thể loại, bài bản, tính chất, và xây dựng được hệ thống các ca sĩ, nghệ sĩ có chất lượng và năng động. 6. Theo tôi, để quản lý tốt hoạt động biểu diễn Ca Huế đòi hỏi phải có cơ chế quản lý về mặt nhà nước, gồm các quy định về hoạt động này và phải được xây dựng dựa trên ý kiến từ nhiều phía, đặc biệt là chủ thể, các ca sĩ và nhạc công là những ý kiến quan trọng cần được quan tâm. 226 7. Ý kiến của các nhà nghiên cứu văn hóa nói chung và các nhà nghiên cứu âm nhạc là rất quan trọng trong việc tìm hướng phát triển cho hoạt động của nghệ thuật Ca Huế hiện nay, đây là các nhà quản lý và hoạt định các chính sách cần lưu tâm. 8. Nguyện vọng lớn nhất của những người làm công tác hoạt động biểu diễn Ca Huế là nhu cầu được hoạt động trong một môi trường nghệ thuật thực thụ, được tôn trọng nghề nghiệp và được hành nghề đúng nghĩa và được trả công xứng đáng. 227 PHỤ LỤC 4 DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN CHO ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5.1. Danh sách nghệ nhân trả lời phỏng vấn Năm TT Họ và tên Nơi ở hiện nay sinh Nguyễn Thị Thanh Thành phố Huế 1 1946 Tâm Nguyễn Thị Kim Thành phố Huế 2 1949 Vàng Nguyễn Thị Kim Thành phố Huế 3 1955 Kiều 4 Trần Thảo 1956 Thành phố Huế 5.2. Danh sách ca sĩ trả lời phỏng vấn Năm TT Họ và tên Học vấn Nơi công tác sinh Hoàng Thị Thu Nhà hát nghệ thuật ca kịch 1 1980 Đại học Hằng Huế Khoa Thanh nhạc – Học 2 Hoàng Xuân Uyên 1990 Đại học viện âm nhạc Huế 3 Nguyễn Thị Thuỷ 1989 Thạc sĩ Học viện Âm nhạc Huế Nhà hát Nghệ thuật truyền 4 Trần Lệ Thu 1985 Trung cấp thống Huế Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch 5 Lê Thị Mộng Loan 1984 Đại học Huế 5.3. Danh sách nhà quản lý 228 Năm TT Họ và tên Chức danh Nơi công tác sinh Nguyên Giám đốc Nhà hát 1 Trương Văn Hải 1952 nghệ thuật Thành phố Huế truyền thống Huế Nguyên Giám đốc Nhà hát 2 Nguyễn Ngọc Bình 1957 Thành phố Huế Nghệ thuật Ca kịch Huế Nguyên Giám 3 Nguyễn Việt Đức 1958 đốc Học viện Thành phố Huế Âm nhạc Huế Chủ tịch Hội Liên hiệp Các 4 Lê Phùng 1957 hội Văn học Thành phố Huế Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế 5.4. Danh sách khán giả trả lời phỏng vấn Giới Nghề TT Họ và tên Tuổi Nơi ở hiện nay tính nghiệp 1 Trần Hoài Vũ Nam 37 Cán bộ Thành phố Huế Thành phố Đồng Hới 2 Lê Thị Mơ Nữ 34 Giáo viên – tỉnh Quảng Bình 3 Nguyễn Trần Minh Nữ 20 Sinh viên Thành phố Huế 229 Châu 4 Nguyễn Văn Tư Nam 29 Giảng viên Thành phố Huế 5 Hoàng Minh Hương Nữ 33 Nội trợ Thành phố Đà Nẵng 6 Lê Nhất Ấn Nam 31 Cán bộ Tỉnh Quảng Trị Kinh 7 Trần Diệp Hương Nữ 25 Thành phố Hà Nội doanh 8 Trịnh Hoài Diệp Nữ 22 Sinh viên Thành phố Huế Kinh 9 Trần Quốc Cường Nam 40 Thành phố Huế doanh 10 Nguyễn Thị Lợi Nữ 30 Giáo viên Tỉnh Quảng Trị 11 Nguyễn Việt Bách Nam 33 Cán bộ Thành phố Huế Thành phố Quảng 12 Nguyễn Thị Ly Na Nữ 45 Nội trợ Nam 13 Trần Đình Quang Nam 15 Học sinh Tỉnh Quảng Ngãi 14 Bùi Thị Hạnh Nữ 60 Hưu trí Thành phố Huế 15 Nguyễn Mỹ Loan Nữ 22 Sinh viên Thành phố Huế 5.5. Danh sách nhà nghiên cứu Năm TT Họ và tên Nơi ở hiện nay sinh 1 Bửu Ý 1937 Thành phố Huế 2 Nguyễn Đắc Xuân 1937 Thành phố Huế 230 PHỤ LỤC 5 MỘT SỐ HÌNH ẢNH DIỄN XƯỚNG CA HUẾ I. Một số hình ảnh của diễn xướng Ca Huế truyền thống Ảnh 6.1: Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba (nguồn: internet) Ảnh 6.2: Nghệ sĩ Châu Loan (nguồn: internet) 231 Ảnh 6.3: Nghệ sĩ Minh Mẫn (nguồn: internet) Ảnh 6.4: Ông hoàng Nam Sách (nguồn: internet) 232 Ảnh 6.5: Nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị và con gái tại Châu Hương viên (nguồn: internet) Ảnh 6.6: Ban nhạc ca Huế quý tộc (nguồn: internet) 233 Ảnh 6.7: Dàn nhạc cổ điển Huế ( Ca Huế, đờn Huế) đầu thế kỷ 20 (nguồn: internet) Ảnh 6.8: Biểu diễn Ca Huế (nguồn: Sở VHTT&DL Thừa Thiên Huế) 234 II. Một số hình ảnh của diễn xướng Ca Huế hiện nay Ảnh 6.9: Nghệ sĩ Kim Liên trình bày Ca Huế trên sông Hương (nguồn: Sở VHTT&DL Thừa Thiên Huế) 235 Ảnh 6.10: Sinh hoạt Ca Huế tại phủ thờ Ngọc Sơn công chúa (nguồn: Trần Dũng - 2016) Ảnh 6.11: Nghệ nhân Thanh Hương đang truyền dạy Ca Huế tại Câu lạc bộ Nguyễn Thị Lợi (nguồn: Sở VHTT&DL Thừa Thiên Huế) 236 Ảnh 6.12: Sinh hoạt Ca Huế tại Câu lạc bộ Ca Huế thính phòng (nguồn internet) Ảnh 6.13: Sinh hoạt Ca Huế tại khuôn viên nhà hàng (nguồn NCS - 2019) 237 Ảnh 6.14:Thực hành Ca Huế trên sông Hương (nguồn NCS - 2019) Ảnh 6.15: Mô hình tam tấu (nguồn NCS - 2019) 238 Ảnh 6.16: Sinh hoạt Ca Huế tại một đám tang (nguồn NCS - 2018) Ảnh 6.17: Sinh hoạt Ca Huế tại một đám tang (nguồn NCS - 2018) 239 Ảnh 6.18: Thả đèn trên sông Hương (nguồn NCS - 2019) Ảnh 6.19: Tiết mục Ca Huế hiện nay trên sông Hương có nhiều người hát cùng lúc (nguồn NCS - 2019) 240 Ảnh 6.20: Trang phục thịnh hành hiện nay của ca sĩ thực hành Ca Huế (nguồn NCS - 2019) 241 Ảnh 6.21: Trang phục thịnh hành hiện nay của nhạc công thực hành Ca Huế (nguồn NCS - 2019) Ảnh 6.22: Lễ khai mạc chương trình đưa Di sản Ca Huế vào trường học (nguồn: internet) Ảnh 6.23: Tiết mục Ca Huế nằm trong chương trình ngoại khoá của học sinh tiểu học (nguồn: internet) 242 Ảnh 6.24: Đưa di sản Ca Huế vào trường học (nguồn: internet) Ảnh 6.25: Ca Huế được công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia (nguồn: internet)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_dien_xuong_ca_hue_truyen_thong_va_bien_doi.pdf
Tài liệu liên quan