BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Nguyễn Thị Việt Hà
DIỄN XƯỚNG CA HUẾ
TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA DÂN GIAN
Hà Nội - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Nguyễn Thị Việt Hà
DIỄN XƯỚNG CA HUẾ
TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI
Chuyên ngành: Văn hóa dân gian
Mã số: 9229041
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA DÂN GIAN
NGƯỜI HƯỚNG
250 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 05/01/2022 | Lượt xem: 492 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án - Diễn xướng ca Huế truyền thống và biến đổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Từ Thị Loan
Hà Nội - 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Diễn xướng Ca Huế - Truyền thống
và biến đổi là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Từ Thị Loan. Các tư liệu và trích dẫn đều được trích nguồn trung
thực, chính xác và đầy đủ. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong
luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thị Việt Hà
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN ............................................... iv
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN ...... 10
VÀ KHÁI QUÁT VỀ DIỄN XƯỚNG CA HUẾ ..................................................... 10
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................... 10
1.1.1. Các công trình về cách tiếp cận của nghiên cứu văn hóa dân gian 10
1.1.2. Các công trình nghiên cứu diễn xướng Ca Huế truyền thống .......... 12
1.1.3. Các công trình nghiên cứu sự biến đổi của diễn xướng Ca Huế ...... 23
1.1.4. Nhận xét về tình hình nghiên cứu và những vấn đề có thể tiếp tục
nghiên cứu .................................................................................................... 25
1.2. Cơ sở lý luận .......................................................................................................... 26
1.2.1. Các khái niệm cơ bản ........................................................................ 26
1.2.2. Các lý thuyết vận dụng trong luận án................................................ 36
1.3. Khái quát về diễn xướng Ca Huế ......................................................................... 43
1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển của diễn xướng Ca Huế ................ 43
1.3.2. Các yếu tố văn hóa dân gian trong diễn xướng Ca Huế ................... 50
Tiểu kết .......................................................................................................................... 57
Chương 2: DIỄN XƯỚNG CA HUẾ TRUYỀN THỐNG ...................................... 60
2.1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội của diễn xướng Ca Huế truyền thống ........... 60
2.2. Các thành tố của diễn xướng Ca Huế truyền thống với tư cách một hiện tượng
văn hóa mang tính chỉnh thể nguyên hợp ................................................................... 61
2.2.1. Chủ thể sáng tạo và thực hành diễn xướng Ca Huế truyền thống ........ 62
2.2.2. Chủ đề phản ánh của Ca Huế ........................................................... 71
2.2.3. Thời gian diễn xướng ......................................................................... 75
2.2.4. Môi trường diễn xướng ...................................................................... 75
2.2.5. Ngôn ngữ, lời ca của Ca Huế ............................................................ 77
2.2.6. Âm nhạc trong Ca Huế ...................................................................... 78
2.2.7. Trang phục trong Ca Huế truyền thống ............................................ 90
Tiểu kết .......................................................................................................................... 91
iii
Chương 3: DIỄN XƯỚNG CA HUẾ HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA ....................................................................................................................... 93
3.1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội của diễn xướng Ca Huế hiện nay................ 93
3.2. Biến đổi trong diễn xướng ca Huế hiện nay ........................................................ 94
3.2.1. Chủ thể thực hành ca Huế ................................................................ 95
3.2.2. Chủ thể sáng tác Ca Huế và nội dung phản ánh hiện nay .............. 99
3.2.3. Môi trường diễn xướng .................................................................... 100
3.2.4. Thời gian diễn xướng ....................................................................... 105
3.2.5. Trên phương diện âm nhạc .............................................................. 106
3.2.6. Trang phục trong diễn xướng Ca Huế hiện nay .............................. 108
3.3. Những vấn đề đặt ra đối với diễn xướng Ca Huế trong bối cảnh đương đại .. 113
3.3.1. Bảo tồn diễn xướng Ca Huế với tư cách là một di sản văn hóa ...... 113
3.3.2. Vấn đề phát huy diễn xướng Ca Huế trong bối cảnh đời sống đương
đại .............................................................................................................. 118
3.3.3. Vấn đề chủ thể thực hành diễn xướng Ca Huế ................................ 121
3.3.4. Vấn đề truyền dạy diễn xướng Ca Huế ............................................ 123
3.3.5. Vấn đề sưu tầm, nghiên cứu, sáng tác Ca Huế ............................... 130
3.3.6. Vấn đề giáo dục di sản, phát triển công chúng cho diễn xướng Ca
Huế ............................................................................................................. 132
Tiểu kết ........................................................................................................................ 134
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ........................... 141
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 142
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 149
iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
B.A.V.H. Bulletin des Amis du Vieux Hué
CLB Câu lạc bộ
GS Giáo sư
HCM Hồ Chí Minh
HN Hà Nội
KHXH&NV Khoa học xã hội và Nhân văn
NCS Nghiên cứu sinh
NT Nghệ thuật
NTTD Nghệ thuật trình diễn
Nxb Nhà xuất bản
PGS Phó giáo sư
THVN Truyền hình Việt Nam
Tp Thành phố
TS Tiến sĩ
tr. Trang
UBND Uỷ ban nhân dân
UNESCO United Nations Educational,
Scientific and Cultural
Organization (Tổ chức giáo dục,
Khoa học và Văn hoá của Liên
Hiệp Quốc)
VH Văn hóa
VHDT Văn hóa Dân tộc
VHTT Văn hóa Thông tin
VHTTDL Văn hóa Thể thao và Du lịch
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế là một vùng đất có chiều dài lịch sử hình
thành và phát triển trên 700 năm, tính từ sự kiện công chúa Huyền Trân được
gả cho vua Chiêm Thành cùng với việc hai châu Ô, Rí thuộc về Ðại Việt.
Trong đó, Huế, với gần 400 năm là thủ phủ của xứ Đàng Trong, là kinh đô
chính thức và cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam (qua 9 đời chúa và
13 đời vua, kể cả 24 năm thuộc vương triều Tây Sơn).
Trên phương diện văn hóa, Huế đã tích hợp được những giá trị vật chất
và tinh thần quý báu để tạo nên một truyền thống văn hóa đặc sắc, tồn tại và
phát triển đến hôm nay. Với chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của
Huế, riêng vương triều nhà Nguyễn đủ để tạo dựng ở vùng Thuận Hóa - Huế
này một chiều sâu văn hóa cá biệt mà những di sản để lại hầu như còn nguyên
vẹn với các hình thái vật thể và phi vật thể. Di sản văn hóa này là trí tuệ, là
thành quả của cả cộng đồng cư dân bản địa, là sự hội tụ nhân tài, vật lực của
cả một quốc gia, là quá trình tinh chế vốn văn hóa dân gian có nguồn gốc từ
cội nguồn văn hóa dân tộc Việt hỗn dung với văn hóa bản địa đã hòa nhập vào
tổng thể của nền văn hóa Việt Nam, trong đó có âm nhạc.
Có thể bởi sự chi phối của đặc trưng văn hóa Huế, mà âm nhạc cổ
truyền Huế giữa hai dòng: âm nhạc bác học (cổ truyền chuyên nghiệp) và âm
nhạc dân gian (cổ truyền dân gian) ít có sự phân định rạch ròi. Dòng âm nhạc
bác học bao gồm: Âm nhạc cung đình và Ca Huế (còn gọi là nhạc cổ thính
phòng Huế, Ca đàn Huế hoặc Ca nhạc Huế). Âm nhạc cung đình là bộ phận
âm nhạc chuyên nghiệp của nhà nước phong kiến. Ca Huế là sự gặp gỡ, kết
hợp hài hòa nhuần nhụy những tinh hoa của hai dòng âm nhạc cung đình và
dân gian. Chính sự dung hòa ấy đã giúp cho Ca Huế có sức sống trường tồn
qua những biến thiên của lịch sử dân tộc và phát triển một cách uyển chuyển,
2
linh hoạt, trong khi nhiều thể loại âm nhạc cung đình ngày một mai một và có
nguy cơ thất truyền cao cùng với sự suy vong của các triều đại Vua - Chúa
Việt Nam.
Với lịch sử hàng trăm năm tồn tại kể từ khi ra đời trên tiểu vùng văn
hoá xứ Huế, giá trị nghệ thuật của diễn xướng Ca Huế ngày càng được khẳng
định và có đời sống bền chặt trong lòng nhiều thế hệ người dân xứ Huế. Sở dĩ
như vậy là do bản chất nghệ thuật của Ca Huế không những chỉphù hợp với
tâm hồn Huế, hài hòa nhuần nhuyễn với cảnh sắc thiên nhiên Huế, mà còn
bởi những giá trị nghệ thuật đích thực, đặc sắc của Ca Huế còn được khẳng
định qua hệ thống bài bản, phương thức diễn tấu, hình thức thể hiện, tính văn
học trong lời ca, tính mẫu mực cổ điển trong đường nét giai điệu, nét đặc
trưng trong hình tượng âm nhạc, đã làm cho diễn xướng Ca Huế trở thành
tiếng lòng tri âm, tri kỷ của các giai tầng trong xã hội qua bao đời nay, một
nét đặc sắc riêng có trong tổng thể di sản âm nhạc cổ truyền Huế và kho tàng
âm nhạc cổ truyền chuyên nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, đứng trước xu thế hội nhập quốc tế, đặc biệt là sự tiếp biến
văn hóa ngày càng nhanh chóng trong bối cảnh hiện đại hóa, toàn cầu hóavà
sự xâm nhập của các loại hình nghệ thuật đương đại, việc giữ gìn, bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một nhiệm vụ hết sức bức thiết.Diễn
xướng Ca Huế cũng không nằm ngoài bối cảnh đó.
Trên phương diện khoa học, diễn xướng Ca Huế đã được một số nhà
nghiên cứu âm nhạc và nghiên cứu văn hóa quan tâm tìm hiểu từ các góc nhìn
khác nhau. Đây là nguồn tư liệu rất quý giá và quan trọng, góp phần mô tả,
khảo cứu về nghệ thuật Ca Huế trong quá khứ, đặt nền móng và các dữ liệu
lịch sử, nguồn tài liệu tham khảo cho các thế hệ sau học hỏi.Tuy nhiên, đa
phần các nghiên cứu thường đặt nghệ thuật Ca Huế trong trạng thái “tĩnh” để
xem xét, tức là nghiên cứu nghệ thuật Ca Huế tồn tại trong bối cảnh lịch sử từ
3
khi mới hình thành, chủ yếu trong thời kỳ chế độ quân chủ phong kiến. Cách
tiếp cận như vậy là chưa đầy đủ và toàn diện, chưa đặt nghệ thuật Ca Huế
trong thế “động”, trong sự vận động và phát triển không ngừng trong dòng
chảy của đời sống văn hóa Huế cho đến tận ngày nay. Sự biến đổi của Ca Huế
hiện nay cần được xem như sự biến đổi của một hiện tượng văn hóa phù hợp
với quy luật khách quan của quá trình phát triển Ca Huế hiện đại. Sự biến đổi
ấy diễn ra như thế nào, những đặc trưng văn hóa dân gian trong Ca Huế có
thực sự tồn tại và được giữ vững hay không, việc sân khấu hóa Ca Huế có
những vấn đề gì, Ca Huế hiện nay tồn tại như thế nào, vấn đề bảo tồn ra sao
là những vấn đề cần thiết phải minh định một cách khoa học. Song, cho đến
nay, những câu hỏi này giới nghiên cứu vẫn chưa thực sự quan tâm, lý giải.
Bên cạnh đó, phần lớn các công trình nghiên cứu thường tiếp cận Ca
Huế từ góc độ âm nhạc học hoặc âm nhạc dân tộc học, rất hiếm có các công
trình nghiên cứu từ cách tiếp cận của văn hóa dân gian. Có thể nói cho đến
nay chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính hệ thống, chuyên sâu
về Ca Huế với tư cách là một loại hình diễn xướng mang tính chỉnh thể
nguyên hợp, cũng như nghiên cứu về sự biến đổi của diễn xướng Ca Huế
trong cái nhìn xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại, về sự thích ứng của Ca Huế
để tồn tại và phát triển trong bối cảnh đời sống đương đại hiện nay.
Với những lý do như vậy, NCS lựa chọn đề tài Diễn xướng Ca Huế -
Truyền thống và biến đổi từ cách tiếp cận của nghiên cứu văn hóa dân
gianlàm đề tài luận án Tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án khảo sát sự biến đổi củaCa Huế trong dòng chảy của văn hóa
xứ Huế từ truyền thống đến hiện đại với tư cách là một loại hình nghệ thuật
4
diễn xướng. Từ đó, luận án sẽ làm rõ những vấn đề đặt ra đối với sự tồn tại,
thích ứng và phát triển của diễn xướng Ca Huế trong đời sống hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đíchnghiên cứu nêu trên, luận án tập trung giải quyết
các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về nghệ thuật diễn xướng và diễn
xướng Ca Huế.
- Tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật Ca Huế;nhận
diện những đặc điểm, giá trị của diễn xướng Ca Huế.
- Nghiên cứu, tìm hiểu diễn xướng Ca Huế truyền thống trong quá khứ
với tư cách một loại hình nghệ thuật diễn xướng mang tính chỉnh thể nguyên
hợp.
- Khảo sát sự biến đổi của diễn xướng ca Huế trong bối cảnh hiện nay,
từ đó làm rõ những vấn đề đặt ra và đưa ra một số bàn luận khoa học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là diễn xướng Ca Huế và sự biến đổi
của loại hình diễn xướng này trong bối cảnh xã hội hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi không gian
Không gian nghiên cứu của luận án về cơ bản được giới hạn trong
không gian tỉnh Thừa Thiên - Huế hay tiểu vùng văn hóa xứ Huế.
Bên cạnh đó, để có cái nhìn toàn cảnh và đầy đủ hơn, trong những
trường hợp cần thiết, khi cần có những nghiên cứu so sánh, tham khảo, tìm
hiểu về các vấn đề liên quan, luận án cũng có sự mở rộng không gian và biên
độ nghiên cứu rộng hơn không gian trên.
3.2.2. Phạm vi thời gian
5
Để nghiên cứu về diễn xướng Ca Huế trong truyền thống, luận án chủ
yếu dựa vào việc tham khảo, tìm hiểu các nguồn sử liệu, tư liệu, thư tịch trước
năm 1945 cũng như phỏng vấn hồi cố các nghệ nhân, nhà nghiên cứu văn hóa
hiểu biết về vấn đề này ở Huế trước năm 1975.
Để điều tra, khảo sát về hiện trạng diễn xướng Ca Huế trong bối cảnh
xã hội đương đại, luận án giới hạn thời gian nghiên cứu trong giai đoạn 10
năm trở lại đây, từ khi Ca Huế được khôi phục trở lại và ngày càng phát triển,
trở thành một loại hình trình diễn cho đại chúng.
3.2.3. Phạm vi nội dung khảo sát
Do Ca Huế là một hình thức diễn xướng mang tính chỉnh thể nguyên
hợp, luận án tập trung khảo sátcác thành tố chính của nó như: chủ thể sáng
tạo, chủ thể thực hành, chủ đề phản ánh, thời gian diễn xướng, môi trường
diễn xướng, phương diện lời ca, phương diện âm nhạc của Ca Huế.
Về bài bản, trong số hơn 25 bài bản Ca Huế còn thịnh hành hiện nay,
NCS không đi sâu phân tích vào chi tiết cụ thể từng bài một, mà chỉ chọn
những bản tiêu biểu, hoặc những đoạn ký âm ngắn để minh họa trong quá
trình phân tích, khảo cứu.
4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Để triển khai luận án, NCS đặt ra các câu hỏi nghiên cứu chính như
sau:
- Diễn xướng Ca Huế hình thành và phát triển trong lịch sử như thế
nào?
- Những thành tố chính của diễn xướng Ca Huế truyền thống là gì? Đặc
trưng chính của diễn xướng Ca Huế giai đoạn này?
- Sự biến đổi của diễn xướng Ca Huế trong bối cảnh hiện nay ra sao?
Những vấn đề gì đặt ra từ sự thay đổi đó?
6
Từ các câu hỏi nghiên cứu trên luận án đưa ra giả thuyết nghiên cứunhư
sau:
Diễn xướng ca Huế được hình thành và phát triển phù hợp với các giai
đoạn lịch sử và bối cảnh văn hóa - xã hội khác nhau: Thời kỳ phong kiến, yếu
tố cung đình, thính phòng mang tính nổi trội. Sau năm 1945 và nhất là từ thời
kỳ đổi mới đến nay, điều kiện văn hóa - xã hội thay đổi khiến cho tính cung
đình, thính phòng suy giảm, diễn xướng Ca Huế tìm được chỗ đứng và cách
thức trình diễn mới, phục vụ cho nhiều mục đích và đối tượng khác nhau, nhờ
đó tiếp tục tồn tại và phát triển trong bối cảnh đương đại.
5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cách tiếp cận
Để có cái nhìn toàn cảnh, đầy đủ và thấy rõ sự biến đổi của diễn xướng
Ca Huế theo dòng lịch sử, luận án sẽ sử dụng chủ yếu cách tiếp cận của
nghiên cứu văn hóa dân gian. Tuy nhiên, bên cạnh đó trong quá trình triển
khai, luận án cũng sử dụng cách tiếp cận liên ngành, phối kết hợp các phương
pháp và thành tựu nghiên cứu của văn hóa học, nhân học văn hóa, xã hội học
văn hóa.
Từ cách tiếp cận của nghiên cứu văn hóa dân gian,NCS tiếp cận diễn
xướng Ca Huế trong không gian văn hóa của nó với những nghiên cứu về
điều kiện lịch sử, địa lý, văn hóa, xã hộivà tìm hiểu về diễn xướng Ca Huế
qua các thành tố của nó trong một tổng thể mang tính hệ thống, chỉnh thể
nguyên hợp, từ chủ thể sáng tác, chủ thể diễn xướng, môi trường diễn xướng,
thời gian diễn xướng đến lời ca, âm nhạc, trang phục trình diễn
Bên cạnh đó, NCS sử dụng bổ trợ cách tiếp cận của nhân học văn hóa,
NCS chú trọng tiếp cận chủ thể sáng tạo và thực hành diễn xướng Ca Huế
trong quá trình nghiên cứu khảo sát thực địa, tìm hiểu, lắng nghe tiếng nói của
người trong cuộc về các giá trị, đặc điểm cũng như những phương diện khác
7
nhau của diễn xướng Ca Huế. Cách tiếp cận xã hội học và văn hoá học được
NCS sử dụng trong khi thu thập các thông tin, số liệu, dữ liệu về những người
làm công tác thực hành, biểu diễn Ca Huế hiện nay, những người phục vụ,
kinh doanh, du khách cũng như các nhà quản lý văn hóa để làm sáng tỏ hiện
trạng và sự biến đổi của diễn xướng Ca Huế trong đời sống đương đại.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính như sau:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu thứ cấp: NCS thu thập, tổng
hợp các công trình nghiên cứu, bài viết, đề tài khoa học đi trước để hệ thống
hóa các vấn đề lý luận và tìm ra lý thuyết phù hợp áp dụng vào luận án; phân
tích văn bản, các nguồn tài liệu để thấy được lịch sử hình thành, phát triển của
nghệ thuật Ca Huế và nhận diện diễn xướng Ca Huế truyền thống trong các
giai đoạn của quá khứ.
- Phương pháp điền dã, quan sát tham dự: NCS thực hiện nhiều đợt
nghiên cứu điền dã để điều tra, khảo sát, thu thập tài liệu cũng như quan sát,
tham sự, trải nghiệm về thực hành diễn xướng Ca Huế trong các không gian
trình diễn khác nhau.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: NCS tiến hành 33 cuộc phỏng vấn đối
với những người thực hành Ca Huế, các nghệ nhân, nghệ sỹ, nhà nghiên cứu
văn hóa, nhà quản lý văn hóa để tìm hiểu về hiện trạng diễn xướng Ca Huế,
sự vận động và biến đổi của Ca Huế trong bối cảnh hiện nay.
- Phương pháp thống kê: NCS thu thập các thông tin, số liệu, tiến hành
thống kê về hiện trạng thực hành và biểu diễn Ca Huế hiện nay, thực trạng
hoạt động kinh doanh du lịch có sử dụng Ca Huế trong bối cảnh đương đại.
- Phương pháp so sánh: NCS tiến hành so sánh, đối chiếu để làm rõ sự
vận động và biến đổi của diễn xướng Ca Huế trong truyền thống và trong giai
đoạn hiện nay.
8
- Ngoài ra, luận án còn sử dụng các thao tác chung trong nghiên cứu
khoa học như: mô tả, phân tích, diễn giải, biện luận...
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
6.1.Ý nghĩa khoa học
Luận án góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận về diễn xướng ca
Huế, làm sáng tỏ quy luật vận động và biến đổi không ngừng của diễn xướng
Ca Huế nhằm thích nghi để tồn tại và phát triển.
Luận án cũng góp phần làm rõ hơn quá trình hình thành và phát triển
của Ca Huế, những đặc điểm và giá trị của nó trong đời sống văn hóa Huế,
hiện trạng diễn xướng Ca Huế trong bối cảnh hiện nay, nhận diện những vấn
đề đặt ra, để từ đó có những bàn luận khoa học thiết thực và hữu ích.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu phục
vụ cho công tác học tập, nghiên cứu của sinh viên, học viên và diễn viên,
nhạc công các đơn vị nghệ thuật, các trường nghệ thuật có đào tạo bộ môn Ca
Huế.
Luận án cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu văn
hóa, quản lý văn hóa và những người quan tâm đến vấn đề này.
Trên phương diện văn hoá dân gian, luận án cung cấp một cách nhìn
mới về diễn xướng Ca Huế với tư cách một hiện tượng văn hoá mang tính
chỉnh thể nguyên hợp của văn hoá dân gian.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu (8 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo (9
trang) và Phụ lục (57 trang), luận án gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát
về diễn xướng Ca Huế(48 trang)
Chương 2: Diễn xướng Ca Huế truyền thống(33 trang).
9
Chương 3: Diễn xướng Ca Huế hiện nay và những vấn đề đặt
ra(42trang).
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ KHÁI QUÁT VỀ DIỄN XƯỚNG CA HUẾ
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các công trình về cách tiếp cận của nghiên cứu văn hóa dân
gian
Về lịch sử phát triển của ngành nghiên cứu văn hóa dân gian, trong bài
viết “Văn hóa dân gian và văn hóa dân tộc”, tác giả Ngô Đức Thịnh viết:
“Thuật ngữ quốc tế folklore (phôn-clo) - văn hóa dân gian, được W. J.Thom
sử dụng đầu tiên vào năm 1846 để chỉ "phong tục, tập quán, nghi thức, mê tín,
ca dao, tục ngữ... của người thời trước". Từ đó đến nay, bộ môn văn hóa dân
gian học đã ra đời và phát triển với ba trường phái lớn: trường phái phôn-clo
Anh - Mỹ chịu ảnh hưởng nhân học, trường phái phôn-clo Tây Âu chịu ảnh
hưởng xã hội học (điển hình là Pháp và I-ta-li-a) và trường phái phôn-clo Nga
chịu ảnh hưởng ngữ văn học [163].
Công trình Nghiên cứu folklore Mỹ của Jan Harold Bruvand, xuất bản
lần đầu vào năm 1968 và lần thứ hai năm 1985, là một công trình nghiên cứu
cơ bản về văn hóa dân gian được đánh giá cao, là cuốn sách hàng đầu được
chọn làm giáo trình giảng dạy cho sinh viên và cho các khóa học về folklore.
Trong công trình này, tác giả đã giới thuyết các định nghĩa, trình bày về phạm
vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, phương pháp phân loại và các tiểu
loại của folklore Trong quá trình nghiên cứu folklore, Jan Harold luôn chú
trọng đến tính chỉnh thể nguyên hợp của một tác phẩm văn hóa dân gian
[159].
Ở Việt Nam, thuật ngữ "phôn-clo" đã được sử dụng từ lâu và tùy theo
mỗi thời kỳ được dịch ra tiếng Việt là "văn học dân gian", "văn nghệ dân
gian" và nay là "văn hóa dân gian". Việc quan niệm rộng hẹp và chuyển ngữ
11
sang tiếng Việt khác nhau như vậy là do sự thay đổi nhận thức của các nhà
nghiên cứu về văn hóa dân gian và cũng do tiếp thu ảnh hưởng của các quan
niệm về phôn-clo từ các trường phái khác nhau trên thế giới [163].
Tác giả Đinh Gia Khánh được giới nghiên cứu văn hóa dân gian đánh
giá là người đã “đặt nền móng cho sự phát triển của ngành folklore học Việt
Nam” với công trình Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian xuất bản năm
1989. Một trong những đóng góp quan trọng của công trình là giới thuyết khái
niệm “văn hóa dân gian”. Đinh Gia Khánh là người đầu tiên đưa ra “tính chất
nguyên hợp” của văn hóa dân gian và phân tích các thành tố cơ bản của nó
như nghệ thuật tạo hình dân gian, nghệ thuật biểu diễn dân gian và nghệ thuật
ngữ văn dân gian. Ông cũng viết về sinh hoạt văn hóa dân gian; các vấn đề
lớn của văn hóa dân gian như: lịch sử, lý luận, phương pháp luận trong nghiên
cứu văn hóa dân gian; vai trò của folklore học Việt Nam hiện nay trong sự
nghiệp xây dựng nền văn hóa mới[56].
Theo ông, tác phẩm folklore tồn tại và vận động như một chỉnh thể
nguyên hợp. Vì vậy, cần tiếp cận nó theo hướng tiếp cận chỉnh thể. Chỉnh thể
ấy được cảm thụ bằng tất cả các giác quan trong cùng một lúc. Ông cho rằng:
“Tác phẩm folklore trong cùng một lúc tác động vào thị giác, vào thính giác,
vào cảm xúc nhịp điệu. Tác phẩm folklore lại có mối quan hệ hữu cơ với môi
trường, với sinh hoạt văn hóa, với thế ứng xử và lối ứng xử, với tập tục và
truyền thống lâu đời của cộng đồng” [142, tr.10]. Để nghiên cứu một tác
phẩm folklore thì cần phải phân tích chỉnh thể nguyên hợp ấy ra các thành tố,
hơn nữa cần phải phân tích từng thành tố ra các yếu tố nhỏ hơn để có thể đi
sâu tìm hiểu nội dung cũng như cấu trúc của từng thành tố nói riêng, của
chỉnh thể nguyên hợp nói chung [142, tr.11].
Trong bài viết Nghiên cứu âm nhạc từ góc độ phôncơlo học, tác giả Tô
Đông Hải cho rằng: “Âm nhạc dân gian là một bộ phận không thể chia cắt nổi
12
của toàn bộ sinh hoạt phôncơlo của một tộc người, một dân tộc. Nó gắn chặt
với lễ hội, với múa, với những hoạt động diễn xướng, với nghệ thuật tạo hình,
với phong tục, tập quán của tộc người, dân tộc đó” [136, tr.234].
Theo tác giả Nguyễn Xuân Kính, nhiều công trình nghiên cứu khẳng
định rằng thành phần ngôn từ trong tác phẩm phôncơlo có thể tồn tại mà
không có giai điệu, nhưng nếu giai điệu mà thiếu lời thì không tồn tại;
trong sự thống nhất giữa lời ca và giai điệu, yếu tố quyết định thường là phần
lời [136, tr.147].
Nhìn chung các công trình nghiên cứu theo hướng tiếp cận văn hóa dân
gian đã cung cấp những kiến thức nền tảng, các phạm trù nhận thức, lý thuyết
nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và các khái niệm, thuật ngữ cơ bản rất
cần thiết và hữu ích để NCS có thể tham khảo, vận dụng trong quá trình triển
khai luận án.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu diễn xướng Ca Huế truyền thống
1.1.2.1. Các công trình khảo cứu về sự hình thành diễn xướng Ca Huế
Trong suốt chặng đường dài lịch sử của âm nhạc dân gian và cổ truyền
Huế, thì sự xuất hiện loại hình nghệ thuật diễn xướng Ca Huế là một sáng tạo
mới, góp phần thúc đẩy dòng âm nhạc cổ truyền Huế nói riêng và Việt Nam
nói chung, tạo một bước phát triển của nghệ thuật âm nhạc truyền thống Việt
Nam. Khảo cứu về nguồn gốc và sự hình thành của Ca Huế thu hút khá nhiều
tác giả.
Về thời điểm ra đời của Ca Huế, có rất nhiều giả thiết khác nhau. Năm
1942, tác giả Ưng Bình Thúc Giạ Thị với sự hiểu biết sâu rộng của mình về
âm nhạc Huế đã viết rằng: “Duy điệu ca khởi điểm từ đời nào, khi nào, sử thơ
không truyền lại, chỉ thấy thời đại yêu chuộng nghề văn mà đoán, thời khởi
điểm từ đời Hiếu Minh (Nguyễn Phúc Chu)” [125, tr.5].
13
Nhà nghiên cứu Thái Văn Kiểm trong Cố đô Huế nhất trí với cụ Ưng
Bình là: “Còn như các điệu ca Huế thì có lẽ như mới sản xuất từ đời chúa
Minh Tộ quốc Công Nguyễn Phúc Chu tức là Hiên Tông Hiếu Minh Hoàng
Đế”. Cụ thể hơn, tác giả Lê Văn Hảo trong bài viết “Góp phần tìm hiểu Ca
nhạc Huế” cho rằng: “Thời kỳ hình thành và bước đầu phát triển của ca nhạc
Huế là vào khoảng từ cuối thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII. Đến giữa thế
kỷ XVII, ca múa nhạc đã phát triển phong phú tại đô thành Phú Xuân” [69,
tr.75 - 76].
Về xuất xứ của Ca Huế, Nhạc sĩ Tô Vũ cho rằng:
Nói về gốc gác lịch sử, có lẽ không ai phủ nhận nhạc Huế đã khởi
sự hình thành từ cội nguồn nhạc Bắc. Những cứ liệu lịch sử thời
Nguyễn Hoàng vào Ái Tử (Quảng Trị) hay câu chuyện về Đào Duy
Từ cho thấy: trên đường mở nước vào phía Nam văn hoá nghệ thuật
nơi đất tổ lưu vực sông Hồng từ mấy thế kỷ đã theo bước chân Nam
tiến vượt qua sông Gianh và sông Bến Hải để vào Huế. Lại có thể
thấy chứng cứ khác ngay trong bản thân nhạc Huế, những “bản
Bắc” còn mang một cái tên ý nghĩa nữa là “bản Ngự” với tính chất
một thành phần cơ sở của nhạc Huế đã nói lên xuất xứ và mối quan
hệ khắng khít với nhạc Bắc [145, tr.125 – 126].
Đa số các công trình đều có chung quan điểm.
Các công trình Bán buồn mua vui [125], Đặc khảo về dân nhạc ở Việt
Nam [25, tr.137-138], Tính chất và đặc điểm của Ca Huế có cùng kết luận về
xuất xứ của Ca Huế là từ cung đình nhà Nguyễn. Tác giả Lê Văn Hảo trong
bài viết “Một vốn quý trong kho tàng âm nhạc Việt Nam cổ truyền”đã khảo
cứu về nguồn gốc, quá trình phát triển của Ca Huế, cũng như một số đặc điểm
nghệ thuật của ca Huế, ông khẳng định: “Ca nhạc Huế không phải là nhạc
cung đình triều Nguyễn nhưng cũng không thuộc loại nhạc dân gian” [45].
14
Theo nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc học Trần Văn Khê, Ca Huế có
xuất phát điểm từ cung đình, từ “cung trung nhạc, một loại nhạc thính phòng
trong cung thất của vua và của mẹ vua Nguyễn”[60, tr.68] sau đó mới lan tỏa
ra dân gian, hòa quyện với dòng âm nhạc dân gian Huế đang khởi sắc. Đó là
loại nhạc thính phòng của các hoàng thân, quốc thích, các quan chức của triều
đình Huế, của các ông hoàng bà chúa say mê nghệ thuật. Từ lối thưởng thức
kiểu thính phòng trong tư dinh của giới đại gia, khoa bảng... dần dần không
gian diễn xướng được mở rộng, chan hòa vào sinh hoạt văn nghệ dân gian.
Năm 1961, trong bài viết “Lối ca Huế và lối nhạc Tài tử”, ông đã căn cứ vào
sách Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ để giả định tổ tiên của lối ca Huế là:
“Trong các loại nhạc triều đình, có lẽ lối Cung trung nhạc - hay là Cung trung
chi nhạc - là gần với lối đàn Huế nhất” [61]. Ở đây ông đã xác định Ca Huế
thuộc loại “quan nhạc” chứ không phải “dân nhạc” và cho rằng: “lối "nhạc tài
tử" trong Nam là con đẻ của lối “ca Huế” miền Trung... Những người học
nhạc trong Nam, cũng “đàn Huế” – Ông nội chúng tôi, ông Trần Quang Diệm
chuyên đàn tì bà theo lối Huế và cô ruột chúng tôi, bà Trần Ngọc Viện cũng
thường đàn Cổ bản Huế, kim tiền Huế” [61].
Với những ý kiến xác định và đoán định trên, chúng ta nhận thấy các ý
kiến của tác giả Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Lê Văn Hảo, Tô Vũ, Trần Văn Khê
tuy không thống nhất về thời điểm ca Huế xuất hiện, nhưng đều nằm trong
khoảng thời gian từ thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Ở đây ta không bàn về các
ý kiến trên đâu là chính xác hay không chính xác, mà chỉ biết các tác giả đã
rất để tâm đến sự hình thành của thể loại ca nhạc Huế. Về nguồn gốc, các nhà
nghiên cứu đều có những suy đoán, kiến giải: Các chúa Nguyễn ở Đàng trong
tiếp nối truyền thống thưởng thức âm nhạc ở Đàng ngoài mà cho tổ chức các
buổi ca nhạc có lời ca ở cung đình, ngọn nguồn từ những ban, nhóm, gánh hát
dân gian vốn manh nha từ thời Lý, Trần, Lê đã tụ hội vào Huế qua các cuộc di
15
dân của người Việt từ Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa và đồng bằng Bắc Bộ. Thú
thưởng ngoạn này lúc đầu chỉ giới hạn ở phủ chúa hoặc các bậc vương công,
mãi sau này mới lan ra... Mặt khác,
giả sử nếu ta gọi là “hát Huế” mà không gọi là “Ca Huế”, thì rõ ràng hai từ
31
“hát Huế” mang một ý nghĩa rộng, nó không chỉ riêng cho bất cứ một thể loại
hát nào, mà tất cả những điệu hát ở Huế. Như vậy, “Ca Huế” là một danh từ
để chỉ riêng cho một loại hình nghệ thuật gồm có ca và đàn. Giáo sư Trần Văn
Khê khẳng định Ca Huế, hay đàn Huế không phải là nhạc bình dân mà là một
loại "quan nhạc": “Ca Huế vào loại Quan nhạc để phân biệt với Tục nhạc”
[58, tr.274].
Một số tác giả khác lại đưa ra quan điểm trung dung hơn. Tác giả Lê Văn Hảo
khẳng định: "Ca nhạc Huế không phải là nhạc cung đình triều Nguyễn nhưng
cũng không thuộc loại nhạc dân gian" [43, tr.13].Điều này cũng được tác giả
Vĩnh Phúc đồng quan điểm: “Ca Huế, cũng như Ca trù và Đờn ca Tài tử là
loại nhạc thính phòng thuộc dòng cổ truyền chuyên nghiệp của Việt Nam” [95
, tr.1].
Sau khi tham khảo ý kiến của các học giả đi trước, NCS đưa ra định
nghĩa khái niệm Ca Huế như sau: Ca Huế là một thể loại nhạc hát thính
phòng truyền thống ở Việt Nam, khi diễn xướng có dàn nhạc cổ truyền đệm
theo. Ca Huế vừa mang tính bác học của nghệ thuật cung đình sang trọng,
vừa đậm đà phong cách nghệ thuật dân gian mộc mạc trữ tình.
1.2.1.3.Truyền thống
Truyền thống gốc từ Latin là tradio, nguyên nghĩa là "truyền lại",
"nhường lại", "phân phát". Do vậy, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất của từ này,
truyền thống là sự kế thừa di sản xã hội có giá trị được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Định nghĩa truyền thống trong học thuật khá thống nhất, tập trung ở các
nội dung sau: “Truyền thống là thói quen hình thành đã lâu trong lối sống và
nếp nghĩ, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”[143, tr.1053], “Có tính
chất truyền thống: được truyền lại từ các đời trước[143, tr.1053]. Một cách
định nghĩa rõ hơn về truyền thống:
32
Quá trình chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác những yếu tố
xã hội và văn hóa, những tư tưởng, chuẩn mực xã hội, phong tục,
tập quán, lễ nghi... và được duy trì trong các tầng lớp xã hội và giai
cấp trong một thời gian dài. Tính bền vững của truyền thống cũng
là tương đối. Dù sao nó cũng là một bộ phận ổn định nhất của văn
hóa... làm cho văn hóa có tính kế thừa [54, tr.630].
Theo nghĩa rộng, truyền thống là những tập tục, thói quen và nói chung
là những kinh nghiệm xã hội được hình thành từ lâu đời trong lối sống và nếp
nghĩ của con người, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền
thống có nhiều cấp độ khác nhau. Có truyền thống gia đình, truyền thống của
từng địa phương, đơn vị, truyền thống cách mạng, truyền thống dân tộc.
Sử dụng thuật ngữ “truyền thống” ở tên đề tài luận án này, NCS muốn
nói về nghệ thuật diễn xướng Ca Huế đã có nguồn gốc hình thành từ xa xưa
và vẫn được thực hành cho đến hiện nay. Ca Huế trong “truyền thống” có
những đặc điểm, giá trị, đặc trưng cốt lõi, mặc dù có sự biến đổi nhất định
trong quá trình phát triển do nhu cầu khách quan, nhưng tinh hoa của nó vẫn
được trao truyền cho đến các thế hệ ngày nay.
1.2.1.4. Biến đổi
Biến đổi “là thay đổi thành khác trước”[143, tr.64]. Một khái niệm khác
về thuật ngữ “biến đổi” cũng rất gần với nội hàm “biến đổi” mà đề tài luận án
muốn nói, đó là thuật ngữ biến đổi xã hội:
Khái niệm chỉ những thay đổi chuyển biến trong các điều kiện,
phương thức sinh hoạt hoặc trong cơ cấu của một nhóm, một tổ
chức xã hội, một tập thể, thậm chí trong toàn bộ xã hội. Biến đổi
xã hội có những cấp độ khác nhau, có thể xảy ra trong từng mặt
riêng biệt của đời sống xã hội, dẫn đến những thay đổi dần (biến
đổi theo lối tiến hóa). Nó cũng có thể xảy ra trên tất cả các mặt
33
của xã hội, làm cho xã hội thay đổi dần đến một giai đoạn nào đó
thì có bước nhảy vọt, biến động sâu xa, chuyển hóa về chất từ
một trạng thái này sang một trạng thái khác [53,tr.221].
Với thuật ngữ biến đổi sử dụng trong nghiên cứu diễn xướng Ca Huế,
NCS mong muốn làm rõ về sự biến đổi của văn hoá nghệ thuật nói chung
cũng như diễn xướng Ca Huế nói riêng, khẳng định quy luật vận động và biến
đổi không ngừng của một hiện tượng văn hoá, một di sản văn hóa để có thể
thích ứng, tồn tại và phát triển.
1.2.1.5. Âm nhạc dân gian
Thuật ngữ nhạc dân gian (folk music) xuất phát từ nước Anh, có nguồn
gốc từ chữ "volk" trong tiếng Đức, nghĩa là con người. Thuật ngữ này chỉ
những thường dân ở Anh, những người nông dân mù chữ, họ kể lại các câu
chuyện hay truyền thuyết thông qua các bài hát vì không có khả năng để xuất
bản thành sách. Trên thế giới, dòng nhạc dân gian khá phổ biến vào đầu thời
kỳ lãng mạn, nhưng không có được sự hưng thịnh mãi cho đến thế kỷ XX. Lễ
hội âm nhạc dân gian đầu tiên diễn ra vào năm 1928 tại Asheville, Carolina và
từ đó vai trò của âm nhạc dân gian ngày càng được các nhà nghiên cứu, các
nhà soạn nhạc và nhạc sĩ đề cao.
Nhìn chung nền âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam gồm hai thành
phần lớn. Thành phần thứ nhất do nhân dân lao động sáng tạo và trình diễn,
thường gọi là âm nhạc dân gian hay âm nhạc truyền miệng. Thành phần thứ
hai do các nghệ sĩ sáng tạo và biểu diễn, thường gọi là âm nhạc chuyên
nghiệp. Trong hai thành phần này, âm nhạc dân gian chiếm tỷ trọng lớn, đóng
vai trò cơ sở cho âm nhạc chuyên nghiệp, bác học.
1.2.1.6. Âm nhạc bác học
Khái niệm âm nhạc bác học bắt nguồn từ tiếng Pháplà musique savante,
34
thời kỳ đầu nhằm chỉ nhạc cổ điển Phương Tây do dàn nhạc giao hưởng diễn
tấu. Các nhạc sĩ đã dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt là "nhạc bác học". Tuỳ
ngữ cảnh, tính từ savant(e) có thể dịch là tài giỏi, khéo léo, thông thái, bác
học. Các nhạc sĩ thời đó đã chọn từ "bác học". Cứ thế, từ này được lưu truyền
tới ngày nay.Đây là khái niệm chỉ loại hình âm nhạc có khởi điểm xuất phát
từ những nhà nghiên cứu thuộc tầng lớp hoàng gia, quan lại được cung đình
giao phó nhiệm vụ hoặc các nghệ nhân quý tộc. Họ có kiến thức về âm nhạc
và nghệ thuật múa có thể sáng tạo nên bài bản làm mẫu mực cho giới thưởng
ngoạn là vua quan hoặc tầng lớp cao trong xã hội.
Ở Việt Nam, khái niệm âm nhạc bác học được giới báo chí nêu lên để
chỉ âm nhạc cổ điển phương Tây cùng các loại nhạc cổ truyền Việt Nam như
Ca trù, Tuồng, nhạc Cung đình Huế. Tuy nhiên, thuật ngữ này vẫn chưa tìm
được sự thống nhất, đồng tình trong các nhà nghiên cứu, từ việc định danh
khái niệm, nội hàm thể loại đến thậm chí bác bỏ sự tồn tại của khái niệm. Đối
với phương Tây hay nhạc có tác giả, người ta thường dựa vào không gian,
thời gian mà loại nhạc đó ra đời và tồn tại: Nhạc của thời kỳ Phục Hưng
(1450-1600), nhạc của thời kỳ Baroque (1600-1750), nhạc của chủ nghĩa Cổ
điển Viên (1750-1800), nhạc của chủ nghĩa Lãng mạn (1800-1860), nhạc Thế
kỷ XX, nhạc Hiện đại, v.v
Ở Việt Nam, với nhạc cổ truyền dân tộc không có tác giả thì gọi theo
tên được đặt ra bởi những người sinh ra nó, kèm theo là lịch sử của từng loại
nhạc gắn với vùng miền và giai đoạn ra đời cùng sự tiến triển của nó theo thời
gian, chẳng hạn Hát ru, Hát giao duyên, Hát Ghẹo, Hát chèo đò, Hò kéo gỗ,
Hò sông Mã. Nhạc dân tộc của Việt Nam có thể chia thành nhạc chuyên
nghiệp, nhạc dân gian nhưng cũng phải hiểu rằng ranh giới giữa chúng không
phải lúc nào cũng rõ ràng.
1.2.1.7. Âm nhạc cung đình (âm nhạc cung đình Huế)
35
Nhạc cung đình gồm có đại nhạc và tiểu nhạc, gọi chung là nhã nhạc,
có các loại như sau: miếu nhạc (nhạc dùng trong các lễ tế miếu ở Thái Miếu,
Triệu Miếu, Thế Miếu, Hưng Miếu, Văn Miếu, Liệt Miếu), giao nhạc (nhạc
dùng trong tế lễ bên ngoài cung đình, đây là lễ tế trời đất tại Nam giao và Bắc
giao), cung nhạc (âm nhạc diễn tấu trong nội cung, có dàn nhạc và các điệu
múa như múa văn, múa võ, múa bông, múa đèn), đại triều nhạc (nhạc dùng
trong các lễ đại triều như các ngày mồng một, rằm, Tết Nguyên đán, Tết Đoan
dương, lễ Vạn thọ, Thánh thọ, lễ đăng quang, ngày truyền lô thi đình, lễ ban
sóc, lễ đón tiếp sứ thần nước ngoài), ngũ tự nhạc (nhạc dùng trong các dịp tế
Thành hoàng, Xã tắc, Thần Nông), thường triều nhạc (nhạc dùng trong các
ngày mồng 5, mồng 10, 20, 25 hằng tháng là các ngày thiết thường triều, sử
dụng ban Tế nhạc và dàn nhạc bát âm gồm 8 loại nhạc khí: bào, thổ, cách,
mộc, thạch, kim, ty, trúc), yến nhạc (nhạc dùng trong các dịp đãi yến tiệc lớn
trong cung đình, có các dàn nhạc, ca công và các đội múa). Như vậy, có thể
thấy, trong nhạc cung đình, phần nhạc lễ giữ một vai trò quan trọng.
1.2.1.8. Âm nhạc thính phòng
Âm nhạc thính phòng có nguồn gốc từ tiếng Latin (camera) - nghĩa
là nhạc để biểu diễn trong phạm vi không gian nhỏ (như phòng hòa nhạc) để
phân biệt với nhạc giao hưởng, nhạc sân khấu (ví dụ opera, oratoria, cantata)
dành cho các gian hòa nhạc lớn.
Tại Việt Nam ở thế kỷ XIX và giữa thế kỷ XX, “nhạc thính phòng”
nhằm chỉ 3 loại hình là Ca trù miền Bắc, Ca Huế miền Trung và Đờn ca tài tử
Nam Bộ. Cả ba loại nhạc này chỉ đàn hát cho một số người đam mê, hiểu biết
thưởng thức trong phạm vi một căn phòng nhỏ.
Trước đây, Ca Huế vốn là hình thức ca nhạc thính phòng với không
gian diễn tấu nhỏ hẹp với một nhóm ít diễn viên, phục vụ giới quý tộc. Tuy
vậy nó đã vượt ra ngoài khuôn khổ của nhạc thính phòng để ngày càng được
36
phổ biến sâu rộng hơn trong dân gian. Chính vì vậy ca Huế dễ được quần
chúng tiếp nhận, nó có đời sống lâu dài cho tới ngày nay và đã trở thành tài
sản chung của dân gian.Cùng với ca Huế trên sông, ca Huế thính phòng là loại
hình nghệ thuật đang được nhiều du khách ngày nay lựa chọn thưởng thức.
1.2.2. Các lý thuyết vận dụng trong luận án
Cho đến nay, nghệ thuật diễn xướng Ca Huế đã trải qua những thử
thách thăng trầm cùng với lịch sử đất nước, sau này được trỗi dậy và nở rộ
mạnh mẽ trong những ngày đất nước hoàn toàn giải phóng và đặc biệt là sau
thời kỳ đổi mới. Theo bước chân thời gian, cùng với những thể loại âm nhạc
khác, Ca Huế như có dịp phục hưng với nhiều hình thức, nhiều sắc thái, và có
nhiều biến đổi mạnh mẽ. Sự biến đổi này là do nhiều nguyên nhân khác nhau,
nhưng chung quy lại là không gian, thời gian, và yếu tố chủ thể đã biến đổi...
Với một hiện tượng văn hoá có nhiều vấn đề đặt ra như vậy khó có thể
lựa chọn một lý thuyết hay một phương pháp duy nhất để giải quyết những
vấn đề có liên quan. Để hiểu được các chiều cạnh của nghệ thuật diễn xướng
Ca Huế, NCS xin sử dụng các lý thuyết:lý thuyết nghệ thuật trình diễn và lý
thuyết biến đổi văn hoáđể soi chiếu, vận dụng vào giải quyết các nhiệm vụ
nghiên cứu của luận án.
1.2.2.1. Lý thuyết nghệ thuật trình diễn
Luận án sử dụng quan điểm về nghệ thuật trình diễn của nhóm nghiên
cứu Roberts Georges và Kenneth Goldstein. Trong bài viết “A Parable in
context: A social interactional analysis of storytelling performance” (Một ví
dụ trong bối cảnh nghiên cứu: Phân tích tương tác xã hội về tác động của
nghệ thuật trình diễn), nhóm nghiên cứu này tìm kiếm, áp dụng những yếu tố
tổng hợp của NTTD vào nghiên cứu truyền thống văn hoá dân gian từ những
nhà ngôn ngữ học với khái niệm về ngôn từ, từ nhân học với phương pháp
chức năng, từ xã hội học với bối cảnh trình diễn, từ tâm lí học với cơ chế của
37
người thực hành và thưởng thức [161, tr.104]. Cách tiếp cận này xem văn hoá
dân gian như một quá trình giao tiếp năng động và nghiên cứu không chỉ trên
văn bản mà trong thực tế trình diễn, vào một thời điểm nhất định mà người
thực hành nghi lễ trình diễn cho khán giả thưởng thức. Việc nghiên cứu này
cần miêu tả tất cả quá trình thực hành, trình diễn trong không gian văn hoá cụ
thể của nó nhằm lí giải về mối liên hệ, tương tác qua lại của các thành tố nghệ
thuật này và giữa chúng với những người tham dự.
Ngoài ra, tác giả Richard Bauman cho rằng:
Về cơ bản, sự diễn xướng với tư cách một phương thức thông tin
bằng miệng bao gồm cả giả thuyết và trách nhiệm trước thính giả về
một sự thể hiện năng lực truyền đạt. Năng lực này nằm ở chỗ kiến
thức và khả năng nói theo những cách thích hợp về mặt xã hội (...)
Như vậy sự diễn xướng thu hút sự chú ý đặc biệt và nhận thức được
nâng cao về hành động biểu đạt và cấp phép cho thính giả xem hành
động biểu đạt và người thực hiện với một cường độ đặc biệt [155].
Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của diễn xướng và cho rằng: “Có vẻ đã
đến lúc thích hợp cho những nỗ lực nhằm mở rộng nội hàm khái niệm của sự
diễn xướng mang tính folklore như một hiện tượng thông tin, vượt ra cái ứng
dụng phổ biến đã đưa chúng ta đạt đến điểm này” [155, tr.744–745].
Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Hữu Thu cũng đưa ra nhận định: “Thuật
ngữ diễn xướng là để chỉ chung việc thể hiện, trình bày những sáng tác văn
nghệ của con người gồm nhiều yếu tố hợp thành... Các yếu tố cấu thành diễn
xướng là con người (xét về mặt sáng tạo), tác phẩm (tiểu phẩm truyền miệng
trong dân gian), địa điểm (các kiểu diễn trường), thời gian (mùa hay dịp),
động tác (đi đứng, cử chỉ, nhảy múa), ngôn ngữ (nói năng, ngâm bình, xướng
kể)... và nhấn mạnh vào yếu tố con người – xuất phát điểm của nghệ thuật
trình diễn [131, tr.56-58].
38
Vận dụng quan điểm lý thuyết trên, NCS tiến hành nghiên cứu diễn
xướng Ca Huế theo các trục thời gian từ quá khứ cho đến hiện tại, cũng như
trong các không gian cụ thể, bối cảnh cụ thể.
1.2.2.2. Lý thuyết biến đổi văn hóa
Các lý thuyết về biến đổi văn hóa được hình thành chủ yếu dựa trên các
lý thuyết về biến đổi xã hội được các học giả phương Tây xây dựng trong
ngành nhân học và xã hội học. Biến đổi văn hoá đã được đề cập đến trong các
khoa học xã hội như một chủ đề trọng tâm của thế kỷ XX và XXI. Trên nền
tảng lý thuyết mang tính khái quát hóa cao như ở trên, với các nghiên cứu về
từng hiện tượng văn hóa cụ thể, đã có những triển khai để xây dựng các
khung lý thuyết để làm cơ sở cho các nghiên cứu thực địa.
Trên phương diện lý thuyết, “biến đổi văn hóa được hiểu là quá trình
vận động của tất cả các xã hội. Biến đổi văn hóa đã được đề cập đến từ khá
sớm bởi những nhà khoa học khởi xướng ủng hộ thuyết tiến hóa văn hóa như
E. Taylor (1891) hay L.Morgan (1877) khi họ phân chia xã hội theo thứ bậc
đơn tuyến và có chung một mẫu hình biến đổi xã hội và biến đổi văn hóa”
[24, tr.9]. Tuy nhiên, mô hình này đã bị phản đối khá rộng trong giới nhân
học, nên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nhiều lý thuyết mới nghiên cứu về
biến đổi văn hóa đã ra đời. Theo tác giả Nguyễn Thị Phương Châm :
ThuyếtTruyền bá văn hóa đại diện là G.Elliot Smith 1911, W.River
1914,...) cho rằng vấn đề mấu chốt của biến đổi văn hóa là sự vay
mượn hoặc sự truyền bá của các đặc trưng văn hóa từ xã hội này
sang xã hội khác... Thuyết Tiếp biến văn hóa (đại diện là Redfiel
1934, Broom 1954,...) chỉ ra sự biến đổi văn hóa trong bối cảnh
những xã hội phương Tây và ngoài phương Tây đã trải qua mối
quan hệ lâu dài, đặc biệt là sự ảnh hưởng của những xã hội có ưu
thế đối với người dân bản địa [21, tr.10].
39
Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay đã là một
bối cảnh mang tính đặc thù để từng ngành nghiên cứu xây dựng cho mình một
khung lý thuyết làm nền tảng lý luận. Các công trình nghiên cứu của các tác
giả như Lê Hồng Lý, Đỗ Lan Phương, Lương Hồng Quang, Nguyễn Thị
Phương Châm cho thấy sự biến đổi kinh tế - xã hội là tiền đề trực tiếp tác
động đến biến đổi văn hóa. Dưới góc độ nghiên cứu văn hóa dân gian, nhân
học văn hóa, văn hóa học, một số tác giả đã phân tích những mặt đạt được và
chưa đạt được của văn hóa Việt Nam trong trong bối cảnh đất nước những
năm đầu thế kỷ XXI. Tác giả Lê Hồng Lý và cộng sự đã đề cập đến những
vấn đề cơ bản của văn hóa Việt Nam [82], điểm qua bối cảnh chung tình hình
thế giới hiện nay với sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là sự phát
triển như vũ bão của công nghệ thông tin, điều này đã tác động mạnh mẽ đến
các xu hướng biến đổi văn hóa trên thế giới. Từ đó dự đoán xu thế phát triển,
biến đổi văn hóa Việt Nam ở thập niên tiếp theo.
Tác giả Đỗ Lan Phương dựa trên cơ sở tiếp cận hệ thống, phương pháp
phân tích văn hóa học, nhân học xã hội và nhiều phương pháp khác đã chỉ ra
những nhân tố tác động đến sự biến đổi văn hóa Việt Nam trên 6 phương
diện: phát triển kinh tế xã hội, phục hưng văn hóa truyền thống, hoạt động tôn
giáo, phát triển truyền thông đại chúng, giao lưu văn hóa quốc tế. Từ đó tìm ra
nguyên nhân của sự biến đổi văn hóa Việt Nam trong giai đoạn này. Công
trình nghiên cứu này là nền tảng, định hướng cho những nghiên cứu tiếp theo
về vấn đề biến đổi văn hóa trong từng lĩnh vực cụ thể [97].
Trong nghiên cứu diễn xướng Ca Huế, thuyết biến đổi văn hóa giúp
giải thích những vấn đề cốt lõi của tiến trình vận động và biến đổi của loại
hình nghệ thuật này. Có thể nói, giao lưu, tiếp biến văn hóa đã ảnh hưởng trực
tiếp đến phương cách sáng tác, hoạt động biểu diễn (do tiếp thu và ảnh hưởng
từ các nghệ thuật khác). Từ đó có thể thấy, lý thuyết biến đổi văn hoá áp dụng
40
cho trường hợp nghiên cứu này là phù hợp, đặc biệt trong bối cảnh xã hội
phát triển như nước ta hiện nay. Lý thuyết biến đổi văn hoá giúp NCS nhận
diện được diễn xướng Ca Huế có sự biến đổi về địa điểm, thời gian, không
gian, đối tượng thành phần tham gia và phương thức thực hành diễn xướng.
Sự biến đổi này diễn ra ở các mức độ khác nhau, có thành tố biến đổi nhiều,
có thành tố biển đổi ít hoặc không biến đổi. Cần khẳng định rằng không phải
mọi biến đổi đều theo chiều hướng tích cực, mà cùng với nó là những chiều
hướng tiêu cực, không phù hợp mà xã hội cần loại bỏ vì những yếu tố đó rất
xa với truyền thống. Trong suốt chặng đường dài lịch sử của âm nhạc dân
gian và cổ truyền Huế, thì sự xuất hiện của một số yếu tố mới cũng làm ảnh
hưởng đến giá trị cốt lõi của di sản văn hoá.
1.2.2.3. Lý thuyết vùng văn hóa
Lý thuyết vùng văn hóa bắt nguồn từ lý thuyếtvăn hóa quyển (culture
sphere), chỉ một địa vực gắn kết với nhau bởi một hình thức văn hóa nhất
định. Khái niệm "văn hóa quyển" được dịch từ từ "kulturkreis" của nhà dân
tộc học Đức Wilhelm Schmidt dùng trong một công trình xuất bản năm 1924.
Sau đó lý thuyết này được các nhà nhân học văn hóa Mỹ kế thừa và phát triển.
Chẳng hạn, Alfred L. Kroeber và Clark Wissler cho rằng lý thuyết văn hóa
quyển có giá trị trong việc nghiên cứu dân tộc học và truyền bá văn hóa, bởi
người ta có thể tìm thấy và lý giải những mối liên hệ về sự hình thành và phát
triển giữa các dân tộc có cùng những đặc điểm văn hóa. Tuy nhiên, các học
giả Bắc Mỹ thường sử dụng khái niệm "khu vực văn hóa" hay là “vùng văn
hóa” (cultural area) trong các nghiên cứu dân tộc học hơn, bởitrong khái
niệm này có sự xác định rõ ràng hơn về mặt địa lý, còn khái niệm văn hóa
quyển lại khá mơ hồ về địa vực (như "khí quyển", "sinh quyển", "cực quyển")
và tập trung vào "phát triển lịch sử" và "hội nhập địa vực".
41
Bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng khái niệm vùng văn hóa là hơi
hẹp nếu nhìn một cách xa rộng hơn vềmặt thời gian và không gian, còn văn
hóa quyển có không gian lớn hơn và thời gian lâu hơn, cho phép nghiên cứu
được sâu hơn. Theo W. Schmidt, văn hóa quyển không giới hạn trong một
không gian địa lý. Một số không gian tại các địa điểm khác nhau có thể thuộc
về cùng một văn hóa quyển, và một văn hóa quyển có thể bao gồm một số bộ
tộc hoặc dân tộc, nó là một nhóm dân tộc. Tại các khu vực khác nhau, miễn là
có một số yếu tố văn hóa nhất định như nhau (tôn giáo, thể chế xã hội, ngôn
ngữ, v.v) thì đều thuộc về cùng một văn hóa quyển, như Văn hóa quyển Đông
Á, Văn hóa quyển Ấn Độ.
Lý thuyết vùng văn hóa được các nhà nghiên cứu Xô Viết kế thừa và
phát triển rất thành công, với các quy mô rộng hẹp khác nhau như “khu vực
học”, đất nước học”, các vùng văn hóa và tiểu vùng văn hóa.Theo lý thuyết
này, vùng văn hóa hay khu vực văn hóa chỉ một không gian địa lý - lịch sử
đồng nhất, mà sự hình thành của nó cơ bản dựa trên việc tổ hợp các yếu tố
văn hóa được chia sẻ và lan truyền. Có giả thuyết cho rằng những đặc điểm
văn hóa có nguồn gốc ở trung tâm và khuếch tán ra những khu vực xung
quanh, cung cấp khả năng suy luận lịch đại dựa trên mối quan hệ thời gian và
không gian. Các nhà nghiên cứu Nga đã xem xét vấn đề trung tâm và ngoại vi
của văn hoá từ thực tế hình thành và phát triển các nền văn minh lớn trên thế
giới, như văn minh Đông Á, mà văn minh Trung Hoa là trung tâm, văn minh
Nam Á, trong đó văn minh Ấn Độ là trung tâm.Có sự tác động giữa trung tâm
và các ngoại vi văn hoá, như giữa văn minh Trung Hoa với các vùng ngoại vi
Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, giữa văn minh Ấn Độ với các nền văn hoá
khác ở Nam Á, Đông Nam Á.
Ở Việt Nam, người kế thừa xuất sắc và có công truyền bá lý thuyết
vùng văn hóa là GS.TS. Ngô Đức Thịnh. Trong công trình Văn hóa vùng và
42
phân vùng văn hóa ở Việt Nam, ông đã làm rõ khái niệm vùng văn hóa, các
quan điểm lý thuyết cơ bản trong nghiên cứu vùng văn hóa, đặc biệt, ông đã
xác định được 7 vùng văn hóa lớn của Việt Nam và 37 tiểu vùng văn hóa,
trong đó có tiểu vùng văn hóa xứ Huế [127]
Từ cách tiếp cận của lý thuyết vùng văn hóa, NCS xác định việc nghiên
cứu diễn xướng Ca Huế phải được đặt trong nền cảnh tiểu vùng văn hóa xứ
Huế, từ đó mới có thể lý giải, tìm hiểu một cách đầy đủ, sâu sắc, toàn diện về
những đặc điểm và giá trị của Ca Huế.
Tiểu vùng văn hóa Huế là tổng hòa các giá trị vật chất và tinh thần,
truyền thống, thị hiếu và phong cách sống, được tạo nên từ quá trình hoạt
động thực tiễn gắn với sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên
và xã hội để khẳng định bản sắc riêng của vùng đất và con người Thuận Hóa -
Phú Xuân - Huế. Về mặt văn hóa sinh thái, xứ Huế được chia thành 4 vùng
sinh thái: vùng núi, vùng gò đồi, vùng đồng bằng, vùng đầm phá và cồn cát
ven biển. Chính điều kiện tự nhiên đó đã ảnh hưởng đến tâm tính và cảm quan
của người Huế, hình thành nên nếp nhà vườn xứ Huế, quy định tính cách,
phong cách sống và lối ứng xử của người Huế, cũng như góp phần hình thành
một vùng văn hóa độc đáo và đậm bản sắc. Về mặt văn hóa chính trị, xứ Huế
một thời gian dài là kinh đô của quốc gia Đại Việt, trung tâm chính trị của cả
nước, điều đó tác động không nhỏ đến văn hóa - nghệ thuật của xứ Huế. Về
văn hóa vật thể, Huế có hệ thống kiến trúc hài hòa giữa cung đình và dân
gian, kiến trúc tôn giáo và kiến trúc đền miếu, kiến trúc truyền thống và hiện
đại, kiến trúc đô thị và truyền thống, kiến trúc nhà vườn, phủ đệ và kiến trúc
đình làng. Về văn hóa phi vật thể, Huế là nơi hội tụ nhiều dòng nhạc mang
đậm bản sắc Huế như: nhạc cung đình bác học, nhạc dân gian, nhạc tín
ngưỡng tôn giáo, cùng với nền tảng thơ văn, mĩ thuật, lễ hội dân gian đã định
hình những đặc trưng của không gian văn hóa Huế. Về văn hóa giáo dục, Huế
43
là vùng đất hiếu học, đề cao đạo lí gia phong, lễ giáo, nơi hội tụ của các bậc
chí nhân hào kiệt, nơi của những trường học và nền giáo dục Nho học, nơi rất
coi trọng học hành, khoa cử. Tất cả những đặc trưng đó đều tìm được sự phản
chiếu trong diễn xướng Ca Huế với tư cách là một loại hình nghệ thuật trình
diễn vừa mang yếu tố cung đình, vừa mang đậm yếu tố dân gian.
1.3. Khái quát về diễn xướng Ca Huế
1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển của diễn xướng Ca Huế
Sự xuất hiện diễn xướng Ca Huế là một sáng tạo mới, góp phần thúc
đẩy dòng âm nhạc cổ truyền Huế nói riêng và Việt Nam nói chung, tạo một
bước phát triển của nghệ thuật âm nhạc truyền thống Việt Nam. Từ một số ý
kiến, nhận định của các học giả đi trước, có thể nói thời điểm hình thành và ra
đời của thể loại Ca Huế khoảng từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII, đây là
giai đoạn yên bình và cực thịnh của các chúa Nguyễn. Nghệ thuật âm nhạc là
thú vui dành cho giới quý tộc đã xuất hiện. Mặc dù sử liệu đã đề cập đến
những mốc son lịch sử cụ thể của di sản nghệ thuật truyền thống Huế, nhưng
Huế với những thăng trầm của lịch sử, ca nhạc Huế có thể được chia thành 4
giai đoạn hình thành và phát triển:
Giai đoạn Ca Huế hình thành: Ca Huế ra đời gắn với nhu cầu cát cứ
xây dựng vùng đất mới Đàng Trong của các chúa Nguyễn, đặc biệt dưới thời
Sãi Vương. Qua thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, Huế trở thành vùng đất
kinh sư trong cảnh thái bình thịnh trị. Xuất phát từ nhu cầu thực tế cấp thiết
của một chính thể mới cũng như nhu cầu thưởng ngoạn một thú chơi tao nhã,
giải trí thanh cao mà các chúa Nguyễn đã có công lớn khai phá cho ca nhạc
Huế hình thành, do vậy, nhạc lễ càng có cơ hội để phát triển.
Theo các nhà nghiên cứu về lịch sử, văn hóa và âm nhạc Huế thời điểm
ra đời của Ca Huế là vào khoảng thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII.Đây là giai
đoạn yên bình và cực thịnh của các Chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong. Thời kỳ
44
hưng thịnh nhất của Ca Huế là vào thế kỷ XIX, thời Tự Đức (1847 – 1883)
khi Phú Xuân – Huế đã trở thành kinh đô của nước Đại Nam thống nhất. Ca
Huế là thú vui tao nhã dành cho các ông hoàng, bà chúa, các văn nhân, nho sĩ,
quan lại ở chốn kinh đô. Nguồn gốc của Ca Huế bước đầu được rút ra từ Tế
nhạc cung đìnhnhư các bài bản Long ngâm, Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, 10
bài liên hoàn.Sau đó là những sáng tác mớicủa các ông hoàng, bà chúa, các
văn nhân, nho sĩ, các nhạc công tài năng dưới triều Nguyễn.
Dưới thời Minh vương Nguyễn Phúc Chu, các làn điệu ca Huế đã bắt
đầu xuất hiện; các làn điệu nổi tiếng như Cổ bản, Phú lục, Nam ai, Nam
bìnhđã lưu hành rộng rãi trong vùng dinh phủ chúa Nguyễn. Thời kỳ này, âm
nhạc truyền thống của dân tộc đã có điệu Bắc và điệu Nam, hai hình thức chính
của ca Huế. Chậm nhất là vào đầu thế kỷ XVIII, các nhạc khí cơ bản của ca
Huế như đàn tranh, đàn nguyệt - thể loại nhạc cổ điển truyền thống với hai hệ
thống bài bản thuộc điệu Bắc và điệu Nam đã được ra đời tại Phú Xuân.
Giai đoạnCa Huế phát triển thịnh đạt nhất: Đó là vào thế kỷ XIX đến
trước ngày kinh đô thất thủ năm 1885. Trong giai đoạn này, ngoài dân gian
cũng như chốn cung đình, ca Huế đã phổ biến rộng rãi. Trong cung đình có
một số bài Ca Huế có lời bằng chữ Hán (10 bài Ngự vừa có lời chữ Hán thông
dụng trong cung đình vừa có lời Nôm thông dụng trong dân gian).
Năm 1863, Có một tập bài bản ca nhạc Huế khá hoàn chỉnh gồm 25 tác
phẩm khuyết danh, trong đó 10 bài có kèm theo lời ca và 15 bản không có lời
ca. Mười bài có lời ca có những bài giống tên với những bài bản thông dụng
trong ca nhạc Huế như: Lưu Thuỷ, Kim tiền, Xuân phong, Hồ Quảng, Nam
xuân. Trong thời kỳ này, nhiều cung phủ có hẳn một đội nhạc để phục vụ
riêng. Trong cung đình, có một số bài ca Huế có lời ca bằng chữ Hán, đó là 10
bài Ngự (tức là 10 bài liên hoàn) vừa có lời bằng chữ Hán trong cung đình,
vừa có chữ Nôm phổ biến trong dân chúng.
45
Trong giai đoạn thịnh đạt nhất của Ca nhạc Huế, có nhiều nghệ nhân
dân gian nổi danh như: Đẩu Nương (một ca nhi ở An Cựu), cùng nhiều nhạc
công như Biện Nhân, Trần Quang Phổ, Tống Văn Đạt, cậu Thứ, cậu Khánh,
cậu Trương Sáu, cậu Cung, các ông Bá Yến, thông phán Châu Hữu Ninh, bố
chánh Trương Trọng Hữu, tiến sĩ Đỗ Huy Liên, cử nhân Lê Cảnh.Nhiều ông
hoàng bà chúa con vua Minh Mạng còn sáng tác, tham gia diễn xướng hay tổ
chức ca nhạc thính phòng, như các ông hoàng Trấn Biên, Lãng BiênNgoài ra,
tác giả Hoàng Yến đã kể tên một số người mà ta chưa rõ tiểu sử như thông
phán Tôn Thất Toại giỏi đàn tì bà, ông Hoàng Mỹ Hoà nổi tiếng về tiêu, quan
Thị Tôn Thất Linh; Hầu Chí, chỉ nằm lòng bài Cổ bản nhưng tài năng của ông
được dân chúng truyền tụng. Ông hoàng Nam Sách đàn nguyệt rất hay, đã
soạn cuốn Nguyệt cầm phổ vào năm 1859. Cũng trong khoảng thời gian ấy,
ông hoàng Miên Thẩm (nhà thơ Tùng Thiện Vương) soạn cuốn Nam cầm phổ.
Ông hoàng Miên Bửu (nhà thơ Tương An quận vương) nổi danh về đàn tỳ bà
và đã đặt lời cho nhiều bài bản ca nhạc Huế. Một số bài bản lớn được sáng tác
hoặc được hoàn thiện trong thời đại này, ví dụ, bài Tứ đại cảnh tương truyền
là đã ra đời vào thời Tự Đức (1848-1883).
Về nữ có công chúa Ngọc Am, Lại Đức (tức Mai Am) đều có sáng tác
lời cho bài bản nhạc Huế, công chúa Huệ Phố vừa là nhà thơ, vừa giỏi đàn, ca
kỹ Đầu nương vang danh với cây đàn Nam cầm và giọng hát tuyệt diệu, bà
Thiện, bà Tứ là những tay lão luyện về nhạc cụ.
Trong giai đoạn này ta thấy rõ ca Huế dần dần đã phổ biến ra ngoài dân
gian. Các nhạc công, nghệ nhân giỏi về đàn của ca Huế đông đảo từ trong
cung đình lẫn ngoài dân gian chứng tỏ sự phát triển sinh hoạt ca nhạc thính
phòng trong dinh phủ của các ông hoàng và trong các gia đình quyền thế. Các
ông hoàng bà chúa còn để lại những công trình nghiên cứu về đàn như:
Nguyệt cầm phổ, Nam cầm phổ, ngoài ra Công chúa Ngọc Am, Lại Đức, ông
46
hoàng Miên Trinh, Tương An quận vương Miên Bửu còn sáng tác những bài
ca Huế.
Các vua triều Nguyễn cũng rất thích ca Huế. Như vua Tự Đức đã sử
dụng các nghệ sĩ dân gian tài hoa làm chức suất đội trưởng để điều khiển dàn
nhạc như trường hợp đội Chín, đội Phước con cháu Tống Văn Đạt là một
chứng cứ cụ thể. Huế là địa điểm thuận lợi, nơi có thể tập hợp một số nghệ
nhân giỏi đàn ca, xướng hát trong giai đoạn này. Ca Huế trở thành một nhu
cầu văn hoá tinh thần không thể thiếu được ở chốn kinh đô này.
Những nghệ nhân tiêu biểu đặt nền móng cho việc khai sinh nền ca
nhạc Huế. Trước hết phải kể đến những gương mặt nghệ sĩ trong tầng lớp quý
tộc từ thế kỷ XVII – XVIII, như: chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725), Luân
Quốc công Nguyễn Phúc Tứ (1698-1753), Nguyễn Phúc Dục (1727-1771),
những nghệ sĩ này có thể xem là những người đặt nền móng cho việc định
hình và phát triển của loại hình ca nhạc Huế.
Giai đoạn Ca Huế suy thoái từ năm 1885 đến trước năm 1945: Đó là
giai đoạn kéo dài từ khi kinh đô thất thủ (1885) đến trước Cách mạng tháng 8
năm 1945. Sự suy thoái của Ca Huế và nhiều bộ môn nghệ thuật ở Huếgắn liền
với bối cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam, của kinh đô Huế trong thời phong kiến
mạt kỳ trước sức xâm nhập ngày càn...ác bài
bản lớn khó hát.
4. Tôi được học hát từ năm 10 tuổi. 5. Tôi năm nay đã gần 65 tuổi rồi
6. Hiện nay vẫn hát được, nhưng tuỳ vào tình hình sức khoẻ.
211
7. Đối tượng và không gian như thế này (salon) thì rất phù hợp. Việc ca Huế
có tồn hay không là phụ thuộc vào những mô hình như thế này chứ không
phải là Ca Huế trên sông Hương với nội dung chủ yếu là tân nhạc
9. Cũng tuỳ vào các cháu chứ không ép buộc.
10. Bây giờ cuộc sống đầy đủ hơn, thế hệ trẻ có nhiều sự lựa chọn hơn.
Người trẻ học Ca Huế cũng khác với chúng tôi ngày xưa, ai siêng thì tiến bộ
thấy rõ, còn không thì cũng học cho có, chưa có được kết quả xứng đáng.
Nghệ nhân 2
1. Ngày xưa đi hát cực lắm. Gia đình ai cũng đa số là đông con, vừa thích đi
hát để thoả niềm đam mê nhưng cũng phải nghĩ đến kế sinh nhai là phần
nhiều.
2. Các điệu hò và lý ngày xưa cũng được sử dụng trong Ca Huế chứ.
3. Tôi thường hay hát các bài như Cổ bản, Lưu thuỷ, Tương tư khúc.
4. Tôi được học hát từ nhỏ, từ năm 8 tuổi. Học hát rồi sau này có học
thêm một nhạc cụ nữa.
5. Tôi năm nay đã hơn 60 tuổi rồi
6. Hiện nay vẫn hát được, nhưng tuỳ vào tình hình sức khoẻ.
7. Ngày nay thấy Ca Huế dưới sông Hương hay hát nhạc mới nhiều hơn.
8. Theo tôi, muốn Ca Huế tồn tại thì cần phải có nhiều hoạt động, nhiều
chương trình truyền hình để góp phần quảng bá. Thấy giới trẻ thích các loại
nhạc được du nhập từ nước ngoài nhiều hơn.
9. Con cháu trong nhà đứa nào thích thì tôi đều truyền dạy lại.
10. Bây giờ cuộc sống đầy đủ hơn, thế hệ trẻ có nhiều sự lựa chọn hơn.
Người trẻ học Ca Huế cũng khác với chúng tôi ngày xưa, ai siêng thì tiến bộ
thấy rõ, còn không thì cũng học cho có, chưa có được kết quả xứng đáng.
Nghệ nhân3
212
1. Có lần sắp đến giờ đi hát mà chưa kịp ăn gì, vậy là tranh thủ giờ nghỉ
phải ra sau đò để ăn. Cuộc sống của chúng tôi, những người thực hành Ca
Huế đa số đều vất vả, và Ca Huế chỉ diễn ra vào ban đêm nên phải dành hết
sức khoẻ để tập trung cho kế sinh nhai.
2. Các điệu hò và lý ngày xưa được sử dụng nhiều trong Ca Huế
3. Tôi hát bài gì cũng được, nhưng những bài bản lớn thì phải có lúc, ý là
phải gặp đúng những tâm hồn đồng điệu thì tôi hát mới thấy hay và ý nghĩa.
4. Tôi được học hát từ nhỏ.
5. Tôi năm nay đã hơn 60 tuổi rồi
6. Hiện nay vẫn hát được, thậm chí còn đi dạy được nếu các cơ sở, các
trường có lời mời. Những năm trước tôi vẫn đi dạy ở Học viện Âm nhạc Huế.
7. Ngày nay thấy Ca Huế dưới sông Hương hay hát nhạc mới nhiều hơn.
Những người thực hành Ca Huế cũng trẻ hơn, đông hơn, nhưng chất lượng
không ổn. Có người chỉ hát được hai bài, còn lại thì ngồi gõ nhịp.
8. Đối tượng và không gian như thế này thì rất phù hợp. Việc ca Huế có
tồn hay không là phụ thuộc vào những mô hình như thế này chứ không phải là
mô hình ca Huế trên sông Hương với nội dung chủ yếu là tân nhạc
9. Con cháu hoặc bất cứ ai có nhu cầu muốn học thì tôi đều dạy.
10. Bây giờ giới trẻ có nhiều sự lựa chọn hơn, ít ngừoi muốn học những
cái cổ mà chỉ chăm chăm đi theo cái mới cho hợp thời đại.
Nghệ nhân4
1. Ngày xưa chủ sô rất khắt khe trong việc giờ giấc. Hẹn giờ nào thì ca sĩ
và nhạc công phải tới sớm ít nhất mười lăm phút để chuẩn bị, sau đó lên
thuyền chờ ổn định. Có lần tôi bị muộn vì hỏng xe giữa đường, vậy mà tới
nơi thấy thuyền vẫn còn đợi, sau lần đó may mà không bị la quá nhiều ( cười)
2. Các điệu hò và lý ngày xưa được sử dụng nhiều trong Ca Huế
3. Tôi hát bài gì cũng được, và tôi còn chơi được đàn bầu.
213
4. Tôi được học hát từ nhỏ. Lúc đầu đi học theo ý muốn gia đình, sau đó thì
tôi thật sự yêu thích bộ môn này.
5. Tôi năm nay đã gần 70 tuổi rồi
6. Tôi rất mong muốn các thế hệ đi sau học hỏi nhiều hơn để phục vụ du
khách tốt hơn, chuyên nghiệp hơn nhưng hình như các em hiện nay ít ai
không cố gắng. Các em chỉ muốn học cho nhanh để hát kiếm tiền. Bởi vậy, số
lượng học viên học ca Huế thì nhiều nhưng số trưởng thành thì rất ít
7. Ngày nay thấy Ca Huế dưới sông Hương không còn được như ngày
xưa. Giờ vì phục vụ khách du lịch là chủ yếu, nên hát theo thị hiếu của khách.
Chứ ngày xưa khách đến nghe, mình muốn hát gì mình hát, tuỳ theo tâm
trạng, nhưng những lúc đó thật sự thấy “có hồn”, có sự đồng điệu tri âm.
8. Theo tôi, muốn Ca Huế tồn tại thì cần phải có nhiều hoạt động, nhiều
chương trình truyền hình để góp phần quảng bá. Thấy giới trẻ thích các loại
nhạc được du nhập từ nước ngoài nhiều hơn.
9. Con cháu hoặc bất cứ ai có nhu cầu muốn học thì tôi đều dạy.
10. Bây giờ giới trẻ có nhiều sự lựa chọn hơn, ít ngừoi muốn học những
cái cổ mà chỉ chăm chăm đi theo cái mới cho hợp thời đại.
4.4. Nhạc công
4.4.1. Câu hỏi
1. Anh/chị tham gia biểu diễn Ca Huế từ bao giờ ?
2. Anh/chị được học về Ca Huế ở đâu ? Khó hay dễ ?
3. Theo anh/chị làm thế nào để một buổi trình diễn Ca Huế được gọi là thành
công?
4. Anh/ chị có cảm nhận thế nào về du khách thưởng thức hiện nay ?
5. Những bài bản anh chị trình diễn có thực sự là những bài Ca huế nguyên
bản ?
214
6. Trong quá trình hoạt động trình diễn Ca Huế anh/chị thấy nên thay
đổi điều gì để Ca Huế có chất lượng hơn?
7. Trong dàn nhạc Ca Huế thường có những loại nhạc cụ gì?
8. Anh/ chị chơi loại nhạc cụ gì?
9. Loại nhạc cụ mà anh chị chơi có tác dụng gì khi trình diễn Ca Huế?
10. Theo anh chị loại nhạc cụ gì quan trọng trong dàn nhạc Ca Huế?
4.4.2. Câu trả lời
Nhạc công 1:
1. Tôi tham gia biểu diễn nghệ thuật Ca Huế đã 5 năm nay.
2. Tôi được học nhạc cụ truyền thống hệ Trung cấp tại trường
THVHNT Huế
3. Một buổi trình diễn Ca Huế được gọi là thành công khi trong chương
trình biểu diễn có đầy đủ các thể loại, các bài bản của Ca Huế, có cả ngâm
thơ, Hò, Vè, Lý, Hầu văn thậm chí có cả những ca khúc tân nhạc viết về Huế.
4. Du khách thưởng thức hiện nay thì rất nhiều đối tượng, và tùy thuộc
vào đối tượng như thế nào thì mình phải có những chương trình phục vụ cho
phù hợp với từng đối tượng.
5. Những bài bản chúng tôi trình diễn hiện nay chỉ có một vài bài bản là
Ca Huế thôi, còn lại phải tùy thuộc rất nhiều vào du khách yêu cầu, và hầu
như họ chỉ thích nghe các bản nhạc mới.
6. Trong quá trình hoạt động Ca Huế, chúng tôi nhận thấy cần nhiều
hơn nữa sự vào cuộc của các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là có các
biện pháp để chấn chỉnh lại hoạt động biểu diễn nghệ thuật Ca Huế trên sông
Hương, không thể để tình trạng nhốn nháo như hiện nay.
7. Trong dàn nhạc Ca huế thường có các nhạc cụ sau: đàn Tranh, đàn
Tỳ, đàn Nhị, đàn Nguyệt, đàn Bầu.
215
8. Tôi chơi đàn bầu, cây đàn độc đáo của người Việt, chỉ có một dây, có
âm thanh rất giống giọng người và rất truyền cảm.
9. Trong dàn nhạc, nhạc cụ này có chức năng dẫn dắt giai điệu chính,
trình diễn giai điệu cốt lõi trong toàn bộ bản nhạc.
10. Đối với tôi thì cây đàn Bầu rất quan trọng, và đặc biệt như chương
trình biểu diễn Ca Huế hiện nay rất cần thiết cây đàn Bầu, nó là tuyến giai
điệu chính, giúp các ca sĩ hình dung trước các bài bản mình chuẩn bị thể hiện.
Nhạc công 2:
1. Tôi tham gia biểu diễn nghệ thuật Ca Huế đã 10 năm nay.
2. Tôi được học nhạc cụ truyền thống hệ Trung cấp tại Học viện Âm nhạc
Huế
3. Một buổi trình diễn Ca Huế được gọi là thành công đòi hỏi phải có
ca sĩ chuẩn, nhạc công cũng phải chuẩn và biểu diễn phải hiểu ý và ăn xăm
với nhau.
4. Du khách đến Huế hiện nay thì rất nhiều đối tượng, người Việt cũng
có, người nước ngoài cũng có, chúng tôi phải có những chương trình phục vụ
phù hợp với từng đối tượng.
5. Những bài bản chúng tôi trình diễn hiện nay cũng chưa thể khẳng
định là Ca Huế nguyên bản, vì chúng tôi cũng chỉ được học truyền khẩu qua
các nghệ nhân mà mỗi nghệ nhân lại có một phong cách diễn tấu và hơi đàn
khác nhau, thậm chí những ngón đàn cũng khác nhau, như vậy rất khó nói của
ai là nguyên bản.
6. Trong quá trình hoạt động Ca Huế, chúng tôi nhận thấy các cơ quan
quản lý nhà nước cần tham khảo ý kiến của anh chị em nghệ sĩ cũng như các
chuyên gia nghiên cứu để từ đó có những chính sách quản lý chặt chẽ, không
để tình trạng lộn xộn của Ca Huế như hiện nay.
216
7. Dàn nhạc Ca huế thường có các nhạc cụ sau: đàn Tranh, đàn Tỳ, đàn
Nhị, đàn Nguyệt, đàn Tam sau này có thêm đàn Bầu.
8. Tôi chơi đàn Tranh, cây đàn lúc xưa có 16 dây nay có 19 đến 21 dây,
đàn tranh dây sắt nên âm thanh mang tính chất kim loại nên có âm thanh
vang, trong trẻo.
9. Trong dàn nhạc, đàn tranh là nhạc cụ dây gảy, có chức năng tạo màu
sắc, và tấu phần đệm, làm nền cho toàn dàn nhạc hòa tấu.
10. Đối với tôi, trong dàn nhạc thì cây đàn Bầu có vị trí rất quan trọng,
và đặc biệt. Một chương trình biểu diễn Ca Huế hiện nay đa phần là hát nhạc
mới thì rất cần thiết cây đàn Bầu, nó là cây đàn thể hiện tuyến giai điệu chính,
giúp nâng đỡ giọng ca rất hiệu quả.
Nhạc công 3:
1. Tôi tham gia biểu diễn nghệ thuật Ca Huế đã 20 năm nay.
2. Tôi được học nhạc cụ truyền thống tại Học viện Âm nhạc Huế, học với
các nghệ nhân Ca Huế.
3. Một buổi trình diễn Ca Huế được gọi là thành công khi nó làm thỏa
mãn được cả người biểu diễn lẫn người thưởng thức. Người trình diễn thấy
hứng thú, say mê và tâm huyết trong từng lời ca tiếng đàn và người thưởng
thức cũng là người đồng điệu.
4. Du khách đến Huế hiện nay thì rất nhiều đối tượng, thông thường thì
những đội trình diễn phải có những chương trình phục vụ phù hợp với từng đối
tượng.
5. Những bài bản chúng tôi trình diễn chưa phải là Ca Huế nguyên bản,
loại âm nhạc truyền khẩu thường có tính dị bản rất cao, hơn nữa mỗi nghệ
nhân lại có một phong cách diễn tấu và hơi đàn khác nhau, thậm chí những
ngón đàn cũng khác nhau, như vậy rất khó nói của ai là nguyên bản.
217
6. Trong quá trình hoạt động Ca Huế, chúng tôi nhận thấy vấn đề quản
lý nhà nước chưa chặt chẽ, những nhà quản lý cần tham khảo ý kiến của anh
chị em nghệ sĩ cũng như các chuyên gia nghiên cứu để từ đó có những chính
sách quản lý chặt chẽ, không để tình trạng lộn xộn của Ca Huế như hiện nay.
7. Dàn nhạc Ca huế thường có các nhạc cụ như: đàn Tranh, đàn Tỳ, đàn
Nhị, đàn Nguyệt và thêm đàn Bầu.
8. Tôi chơi đàn Nhị, cây đàn 2 dây, có âm thanh phát ra gần như cây
violon, loại đàn này có rất nhiều kỹ thuật nhấn, rung, vỗ, luyến láy nó
thường diễn tấu nét giai điệu của một tác phẩm âm nhạc.
9. Trong dàn nhạc, đàn Nhị là nhạc cụ dây kéo, cũng tạo một màu âm
rieng biệt so với các loại nhạc cụ khác, và đánh giai điệu rất rõ
10. Đối với tôi, trong dàn nhạc thì cây đàn Bầu có vị trí rất quan trọng,
và đặc biệt. Một chương trình biểu diễn Ca Huế hiện nay đa phần là hát nhạc
mới thì rất cần thiết cây đàn Bầu, nó là cây đàn thể hiện tuyến giai điệu chính,
giúp nâng đỡ giọng ca rất hiệu quả.
Nhạc công 4:
1. Tôi tham gia biểu diễn nghệ thuật Ca Huế đã 20 năm nay.
2. Tôi được học nhạc cụ truyền thống tại Học viện Âm nhạc Huế, hiện nay
cũng là nhạc công truyền thống Huế, làm việc tại Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô
Huế.
3. Một buổi trình diễn Ca Huế được gọi là thành công khi nó được sự hòa
quyện đồng điệu giữa người diễn tấu và người thưởng thức, giữa người ca và
người đàn.
4. Du khách đến Huế hiện nay thì rất nhiều đối tượng, đa phần họ đến
Huế tham quan du lịch luôn tiện cũng muốn nghe xem thử Ca Huế là gì, có
người vì tò mò, có người cũng vì nhu cầu muốn được thưởng thức, nhưng họ
đều thực sự chưa biết hết về nghệ thuật Ca Huế.
218
5. Những bài bản chúng tôi trình diễn dựa trên chương trình chuẩn của
Sở Văn hóa Huế ban hành, có một ít bản Ca Huế còn lại là các điệu hò, điệu
lý, loại âm nhạc truyền khẩu thường có tính dị bản rất cao, do vậy, đê xác
định bản nào là gốc thì rất khó, nếu không nói là không thể xác định.
6. Trong quá trình hoạt động Ca Huế, chúng tôi nhận thấy vấn đề quản
lý nhà nước chưa chặt chẽ, những nhà quản lý cần tham khảo ý kiến của anh
chị em nghệ sĩ cũng như các chuyên gia nghiên cứu để từ đó có những chính
sách quản lý chặt chẽ, không để tình trạng lộn xộn của Ca Huế như hiện nay.
7. Dàn nhạc Ca huế thường có các nhạc cụ như: đàn Tranh, đàn Tỳ, đàn
Nhị, đàn Nguyệt và thêm đàn Bầu.
8. Tôi chơi đàn Nguyệt, cây đàn 2 dây, có âm thanh phát ra hơi đục,
tiếng đàn khoan thai đĩnh đạc, loại đàn này có rất nhiều kỹ thuật đặc biệt là
ngón nhấn, nhấn dật, rung, vỗ nó là nhạc cụ dây gảy thường làm phần nền
cho dàn nhạc khi hòa tấu cũng như đệm hát.
9. Trong dàn nhạc, đàn Nguyệt là nhạc cụ dây gẩy nó cũng tạo màu âm
riêng và đặc biệt là nhạc cụ chơi các âm hình tiết tấu, đệm, cho dàn nhạc và ca
sĩ
10. Đối với tôi, trong dàn nhạc thì cây đàn Nguyệt có vị trí rất quan
trọng, và đặc biệt. Đàn Nguyệt trong dàn nhạc là cây đàn giữ nhịp, giữ tốc độ
nên có tầm quan trọng hơn so với các nhạc cụ khác, chính vì vậy, người chơi
đàn Nguyệt thông thường cũng là người gõ Song loan.
Nhạc công 5:
1. Tôi tham gia biểu diễn nghệ thuật Ca Huế đã 30 năm nay.
2. Tôi được học nhạc cụ truyền thống tại trường Quốc gia âm nhạc và
kịch nghệ Huế nay là Học viện Âm nhạc Huế, thời trước tôi được học với các
nghệ nhân rất giỏi đàn.
3. Một buổi trình diễn Ca Huế được gọi là thành công khi khoảng cách
giữa người thưởng thức và người trình diễn được thu hẹp lại. Người trình diễn
219
thấy hứng thú, say mê và tâm huyết trong từng lời ca tiếng đàn và người
thưởng thức cũng là người đồng điệu.
4. Khách xem ca Huế trên sông Hương chủ yếu là khách vãng lai và
thường là giới trẻ. Họ thưởng thức ca Huế như một món “mì ăn liền”. Thực tế
những người biểu diễn ca Huế trên sông Hương hiện nay đều có đào tạo ở
trường lớp nhưng thực tế phần lớn không ai đạt tới được trình độ như ngày
xưa.
5. Những bài bản chúng tôi trình diễn chưa phải là Ca Huế chính thống,
đối với một loại hình nghệ thuật âm nhạc cổ truyền rất khó để nói về nguyên
gốc. Mặc dù nó có bài bản hẳn hoi đấy, tuy nhiên không phải cứ đánh đúng
bài bản mà được. Cần phải có nghệ nhân chỉ dẫn thêm và chính mỗi nghệ
nhân tạo ra một lớp thế hệ học trò với những phong cách khác nhau.
6. Quản lý nhà nước đối với hoạt động Ca Huế, là vấn đề cấp bách quan
trọng hiện nay, bên cạnh đó cần thanh tra, kiểm tra, và xử lý kịp thời những
hoạt động Ca Huế kém chất lượng.
7. Nhạc cụ sử dụng trong Ca huế thường có các nhạc cụ như: đàn
Tranh, đàn Tỳ, đàn Nhị, đàn Nguyệt và thêm đàn Bầu.
8. Tôi chơi đàn nguyệt, cây đàn 2 dây, có rất nhiều kỹ thuật nhấn, rung,
vỗ, luyến láy nó thường diễn tấu nét âm hình tiết tấu của một tác phẩm âm
nhạc.
9. Trong dàn nhạc, đàn Nguyệt là nhạc cụ dây gảy, cũng tạo một màu
âm riêng và tạo nền tiết tấu cho toàn dàn nhạc
10. Đối với tôi, trong dàn nhạc thì cây đàn Bầu có vị trí rất quan trọng,
và đặc biệt. Một chương trình biểu diễn Ca Huế hiện nay đa phần là hát nhạc
mới thì rất cần thiết cây đàn Bầu, nó là cây đàn thể hiện tuyến giai điệu chính,
giúp nâng đỡ giọng ca rất hiệu quả.
4.5. Nhà nghiên cứu
4.5.1 Câu hỏi
220
1. Theo ông/bà Ca Huế là loại hình nghệ thuật có nguồn gốc từ đâu?
2. Có nhiều ý kiến cho rằng Ca Huế có sự trộn lẫn yếu tố Dân gian và
Cung đình, ông /bà suy nghĩ như thế nào về ý kiến đó.
3. Theo ông /bà Âm nhạc dân gian xứ Huế có ảnh hưởng đến Ca Huế
không? Mức độ ảnh hưởng như thế nào?
4. Theo ông/bà Ca Huế xưa và nay có gì khác nhau? Tại sao? Và khác
như thế nào?
5. Theo ông/bà để Ca Huế tồn tại và phát triển chúng ta cần làm gì?
6. Quan điểm của ông/bà về việc biểu diễn Ca Huế như hiện nay?
7. Theo ông /bà điều gì tạo nên nét đặc trưng của nghệ thuật Ca Huế?
4.5.2 Câu trả lời
Nhà nghiên cứu 1
1. Thật khó để có thể khẳng định nguồn gốc của Ca Huế, theo GS Trần
Văn Khê, Ca Huế có thể xuất hiện từ trước thế kỷ XVII, từ một loại nhạc chỉ sử
dụng trong cung vủa phủ chúa, mãi đến sau đời các vua Nguyễn mới có tên gọi
là Ca Huế.
2. Thứ nhất, mọi loại hình nghệ thuật nhất thiết đều bắt nguồn từ nghệ
thuật dân gian, Ca Huế cũng vậy, nó cũng đều là những sáng tác dựa trên
nguồn chất liệu dân gian, có cả những câu hò điệu lý. Do vậy trong ca Huế hiện
nay có sự trộn lẫn giữa dòng dân gian và Cung đình là chuyện hiển nhiên.
3. Âm nhạc dân gian Huế ảnh hưởng rất lớn đến các bài bản Ca Huế,
cũng có nhà nghiên cứu cho rằng, bộ phận đặc sắc nhất trong ca Huế lại là hò
huế, lý huế, vè huế, dân ca Huế.
4. Ca Huế xưa người ta gọi là ca salon tức là ca thính phòng, rất ít người
thưởng thức và hầu như người thưởng thức và người biểu diễn hòa quyện tri
âm, tri kỷ. Ca Huế hiện nay diễn ra trong không gian khác, với đối tượng khán
giả đa dạng hơn chính vì vậy mà có sự thay đổi trong bài bản làn điệu của Ca
Huế tùy vào thời kỳ nhất định
221
Nhà nghiên cứu 2
1. Giờ nói chính xác về nguồn gốc của Ca Huế thì khó, chỉ biết khởi
nguồn của nó là bắt đầu từ chốn cung đình, cung vua phủ chúa, sau mới lưu
truyền ra dân gian.
2. Theo tôi, loại hình âm nhạc nào cũng có nguồn gốc từ dân gian, từ cái
dân gian mới phát triển thành những bài bản chính thống, cũng từ cái dân gian
nó mới có sự gần gũi dung dị và dễ hiểu, dễ đi vào lòng người.
3. Trong Ca Huế có chứa đựng rất nhiều yếu tố của âm nhạc dân gian,
đơn cử như các điệu hò, câu lý. Và điều dễ thấy nhất là phần nhạc đệm có cây
đàn bầu, ngày xưa đàn bầu không được sử dụng trong Ca Huế..
4. Ca Huế xưa người ta gọi là ca salon tức là ca thính phòng, rất ít người
thưởng thức và hầu như người thưởng thức và người biểu diễn hòa quyện tri
âm, tri kỷ. Ca Huế hiện nay diễn ra trong không gian khác, với đối tượng khán
giả đa dạng hơn chính vì vậy mà có sự thay đổi trong bài bản làn điệu của Ca
Huế tùy vào thời kỳ nhất định
5. Để Ca Huế phát triển hơn thì tôi nghĩ chính quyền phải bắt tay vào cuộc.
Phải có nhiều chương trình quảng bá Ca Huế rộng rãi hơn đến công chúng,
thậm chí đưa Ca Huế vào các chương trình học ngoại khoá ở hệ thống trường
học trên địa bàn.
6. Theo tôi nhận thấy, việc biểu diễn Ca Huế hiện nay đã không còn giữ được
cái hồn của Ca Huế ngày xưa nữa. Giờ việc biểu diễn trên sông Hương rất lộn
xộn, không có thiết chế quy trình đúng nghĩa.
7. Ca Huế sỡ dĩ đặc biệt bởi vì nhiều yếu tố, riêng đặc điểm chỉ diễn ra vào
ban đêm trong không gian sông nước hữu tình thơ mộng cũng đủ để gây tò
mò với người nghe, với du khách.
4.6. Các nhà quản lý
4.6.1 Câu hỏi
222
1. Ông bà thấy như thế nào về tình hình biểu diễn nghệ thuật Ca Huế hiện
nay?
2. Làm thế nào để giữ gìn và bảo vệ nghệ thuật Ca Huế trong xã hội
đương đại?
3. Làm thế nào để công chúng, du khách thích thú khi nghe Ca Huế?
4. Theo ông (bà), vai trò của nhà nước, các cơ quan văn hóa, Hội Âm
nhạc và các tổ chức xã hội phải làm gì để giữ gìn, phát huy nghệ thuật Ca Huế
trong đời sống hiện nay?
5. Trên cương vị người quản lý văn hóa, ông bà có đánh giá gì về nhu
cầu của du khách hiện nay khi đến xem Ca Huế?
6. Theo ông/bà cần có những biện pháp gì để quản lý, hoạt động biểu
diễn Ca Huế?
7. Ông /bà nghĩ như thế nào về ý kiến của các nhà nghiên cứu trong
việc tìm ra hướng phát triển cho Ca Huế?
8. Theo ông/bà nguyện vọng lớn nhất của những người làm công tác
biểu diễn Ca Huế là gì?
4.6.2 Câu trả lời
Quản lý 1
1. Việc biểu diễn Ca Huế trên địa bàn thành phố hiện nay đang diễn ra
một cách rất lộn xộn. Việc các công ty tư nhân ồ ạt mọc lên trong việc mời
chào, bán vé cũng dẫn đến giảm sút về chất lượng nghệ thuật của một chương
trình Ca Huế.
2. Cần xây dựng cơ chế quản lý thật cụ thể để kiểm tra và chấn chỉnh
kịp thời hoạt động biểu diễn Ca Huế.
3. Ca Huế trong bối cảnh kinh tế thị trường như hiện nay cũng được
xem như một sản phẩm văn hóa. Do vậy, muốn du khách thích thú khi nghe
Ca Huế thì những người hoạt động trong lĩnh vực này cần quan tâm nhiều đến
223
chất lượng nghệ thuật, không ngừng học hỏi tự nâng cao trình độ chuyên môn
để có những chương trình Ca Huế có chất lượng nghệ thuật.
4. Mặc dù tỉnh đã tăng mức thù lao cho nghệ sĩ, diễn viên ca Huế trong
mỗi suất diễn, nhưng thực thu của họ chẳng được bao nhiêu, vì đã bị bớt
ngược bớt xuôi. Cơ quan tôi có đến 50% nghệ sĩ, diễn viên hiện sống hết sức
chật vật.
5. Nhu cầu của du khách thì rất lớn, và nhiều đối tượng thì có nhiều
nhu cầu khác nhau, để đáp ứng được, đòi hỏi phải có những sự linh hoạt thay
đổi tư duy, xây dựng nhiều chương trình, đa dạng về thể loại, bài bản, tính
chất, và xây dựng được hệ thống các ca sĩ, nghệ sĩ có chất lượng và năng
động.
6. Để quản lý tốt hoạt động biểu diễn Ca Huế đòi hỏi phải có cơ chế
quản lý về mặt nhà nước, gồm các quy định về hoạt động này và phỉa được
xây dựng dựa trên ý kiến từ nhiều phía, đặc biệt là chủ thể, các ca sĩ và nhạc
công là những ý kiến quan trọng cần được quan tâm.
7 Tôi cho rằng, ý kiến của các nhà nghiên cứu văn hóa nói chung và
các nhà nghiên cứu âm nhạc là rất quan trọng trong việc tìm hướng phát triển
cho hoạt động của nghệ thuật Ca Huế hiện nay, đây là các nhà quản lý và hoạt
định các chính sách cần lưu tâm.
8. Theo tôi, nguyện vọng lớn nhất của những người làm công tác hoạt
động biểu diễn Ca Huế là nhu cầu được hoạt động trong một môi trường nghệ
thuật thực thụ, được tôn trọng nghề nghiệp và được hành nghề đúng nghĩa và
được trả công xứng đáng.
Quản lý 2
1. Hiện nay, việc biểu diễn Ca Huế trên địa bàn thành phố diễn ra dưới
hình thức các nhóm ca thuộc các công ty tư nhân, hoạt động một cách độc lập
kết nối với các công ty du lịch để phục vụ du khách. Việc lập các công ty tư
224
nhân ồ ạt cũng dẫn đến giảm sút về chất lượng nghệ thuật của một chương
trình Ca Huế.
2. Cần quản lý thật chặt chẽ hơn để kịp thời kiểm tra và chấn chỉnh
hoạt động biểu diễn Ca Huế một cách nhịp nhàng.
3. Trong bối cảnh kinh tế thị trường như hiện nay thì Ca Huế cũng
được xem như một sản phẩm văn hóa. Do vậy, cần quan tâm nhiều đến chất
lượng nghệ thuật, không ngừng học hỏi tự nâng cao trình độ chuyên môn để
có những chương trình Ca Huế có chất lượng nghệ thuật.
4. Vai trò quản lý của nhà nước là hết sức quan trọng, kết hợp với các
cơ quan ban ngành liên quan đến văn hóa và âm nhạc cùng trao đổi thảo luận
để tìm ra biện pháp giúp cho nghệ thuật Ca Huế ngày càng phát triển. Đặc
biệt quan tâm xây dựng những chương trình Ca Huế có chất lượng cao, tạm
gọi là những sản phẩm chất lượng phục vụ cho các đối tượng sành về âm
nhạc.
5. Phải có sự linh hoạt trong thay đổi tư duy, xây dựng nhiều chương
trình, đa dạng về thể loại, bài bản, tính chất, và xây dựng được hệ thống các
ca sĩ, nghệ sĩ có chất lượng và năng động.
6. Để quản lý tốt hoạt động biểu diễn Ca Huế đòi hỏi phải có cơ chế
quản lý về mặt nhà nước, gồm các quy định về hoạt động này và phỉa được
xây dựng dựa trên ý kiến từ nhiều phía, đặc biệt là chủ thể, các ca sĩ và nhạc
công là những ý kiến quan trọng cần được quan tâm.
7 Theo tôi, ý kiến của các nhà nghiên cứu văn hóa nói chung và các nhà
nghiên cứu âm nhạc là rất quan trọng trong việc tìm hướng phát triển cho hoạt
động của nghệ thuật Ca Huế hiện nay, đây là các nhà quản lý và hoạt định các
chính sách cần lưu tâm.
8. Nguyện vọng lớn nhất của những người làm công tác hoạt động biểu
diễn Ca Huế là nhu cầu được hoạt động trong một môi trường nghệ thuật thực
225
thụ, được tôn trọng nghề nghiệp và được hành nghề đúng nghĩa và được trả
công xứng đáng.
QL3
1. Hiện nay, việc biểu diễn Ca Huế trên địa bàn thành phố diễn ra đang
không được ổn định. Cần có chế tài để đưa loại hình Ca Huế về đúng với trật
tự của nó, dưới sự quản lý của chỉ một đơn vị duy nhất thì có lẽ tình trạng sẽ
được cải thiện.
2. Theo tôi, cần quản lý thật chặt chẽ hơn để kịp thời kiểm tra và chấn
chỉnh hoạt động biểu diễn Ca Huế một cách nhịp nhàng.
3. Ca Huế cũng chính là một sản phẩm văn hoá . Do vậy, cần quan tâm
nhiều đến chất lượng nghệ thuật, không ngừng học hỏi tự nâng cao trình độ
chuyên môn để có những chương trình Ca Huế có chất lượng nghệ thuật.
4. Thiết nghĩ, vai trò quản lý của nhà nước là hết sức quan trọng, kết
hợp với các cơ quan ban ngành liên quan đến văn hóa và âm nhạc cùng trao
đổi thảo luận để tìm ra biện pháp giúp cho nghệ thuật Ca Huế ngày càng phát
triển. Đặc biệt quan tâm xây dựng những chương trình Ca Huế có chất lượng
cao, tạm gọi là những sản phẩm chất lượng phục vụ cho các đối tượng sành về
âm nhạc.
5. Du khách hiện nay đến Huế đa phần ít có người hiểu rõ về Ca Huế,
phần lớn là tò mò về “đặc sản” này. Nên chúng ta cũng cần có sự linh hoạt
trong thay đổi tư duy, xây dựng nhiều chương trình, đa dạng về thể loại, bài
bản, tính chất, và xây dựng được hệ thống các ca sĩ, nghệ sĩ có chất lượng và
năng động.
6. Theo tôi, để quản lý tốt hoạt động biểu diễn Ca Huế đòi hỏi phải có
cơ chế quản lý về mặt nhà nước, gồm các quy định về hoạt động này và phải
được xây dựng dựa trên ý kiến từ nhiều phía, đặc biệt là chủ thể, các ca sĩ và
nhạc công là những ý kiến quan trọng cần được quan tâm.
226
7. Ý kiến của các nhà nghiên cứu văn hóa nói chung và các nhà nghiên
cứu âm nhạc là rất quan trọng trong việc tìm hướng phát triển cho hoạt động
của nghệ thuật Ca Huế hiện nay, đây là các nhà quản lý và hoạt định các
chính sách cần lưu tâm.
8. Nguyện vọng lớn nhất của những người làm công tác hoạt động biểu
diễn Ca Huế là nhu cầu được hoạt động trong một môi trường nghệ thuật thực
thụ, được tôn trọng nghề nghiệp và được hành nghề đúng nghĩa và được trả
công xứng đáng.
227
PHỤ LỤC 4
DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN
CHO ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
5.1. Danh sách nghệ nhân trả lời phỏng vấn
Năm
TT Họ và tên Nơi ở hiện nay
sinh
Nguyễn Thị Thanh Thành phố Huế
1 1946
Tâm
Nguyễn Thị Kim Thành phố Huế
2 1949
Vàng
Nguyễn Thị Kim Thành phố Huế
3 1955
Kiều
4 Trần Thảo 1956 Thành phố Huế
5.2. Danh sách ca sĩ trả lời phỏng vấn
Năm
TT Họ và tên Học vấn Nơi công tác
sinh
Hoàng Thị Thu Nhà hát nghệ thuật ca kịch
1 1980 Đại học
Hằng Huế
Khoa Thanh nhạc – Học
2 Hoàng Xuân Uyên 1990 Đại học
viện âm nhạc Huế
3 Nguyễn Thị Thuỷ 1989 Thạc sĩ Học viện Âm nhạc Huế
Nhà hát Nghệ thuật truyền
4 Trần Lệ Thu 1985 Trung cấp
thống Huế
Nhà hát Nghệ thuật Ca kịch
5 Lê Thị Mộng Loan 1984 Đại học
Huế
5.3. Danh sách nhà quản lý
228
Năm
TT Họ và tên Chức danh Nơi công tác
sinh
Nguyên Giám
đốc Nhà hát
1 Trương Văn Hải 1952 nghệ thuật Thành phố Huế
truyền thống
Huế
Nguyên Giám
đốc Nhà hát
2 Nguyễn Ngọc Bình 1957 Thành phố Huế
Nghệ thuật Ca
kịch Huế
Nguyên Giám
3 Nguyễn Việt Đức 1958 đốc Học viện Thành phố Huế
Âm nhạc Huế
Chủ tịch Hội
Liên hiệp Các
4 Lê Phùng 1957 hội Văn học Thành phố Huế
Nghệ thuật tỉnh
Thừa Thiên Huế
5.4. Danh sách khán giả trả lời phỏng vấn
Giới Nghề
TT Họ và tên Tuổi Nơi ở hiện nay
tính nghiệp
1 Trần Hoài Vũ Nam 37 Cán bộ Thành phố Huế
Thành phố Đồng Hới
2 Lê Thị Mơ Nữ 34 Giáo viên
– tỉnh Quảng Bình
3 Nguyễn Trần Minh Nữ 20 Sinh viên Thành phố Huế
229
Châu
4 Nguyễn Văn Tư Nam 29 Giảng viên Thành phố Huế
5 Hoàng Minh Hương Nữ 33 Nội trợ Thành phố Đà Nẵng
6 Lê Nhất Ấn Nam 31 Cán bộ Tỉnh Quảng Trị
Kinh
7 Trần Diệp Hương Nữ 25 Thành phố Hà Nội
doanh
8 Trịnh Hoài Diệp Nữ 22 Sinh viên Thành phố Huế
Kinh
9 Trần Quốc Cường Nam 40 Thành phố Huế
doanh
10 Nguyễn Thị Lợi Nữ 30 Giáo viên Tỉnh Quảng Trị
11 Nguyễn Việt Bách Nam 33 Cán bộ Thành phố Huế
Thành phố Quảng
12 Nguyễn Thị Ly Na Nữ 45 Nội trợ
Nam
13 Trần Đình Quang Nam 15 Học sinh Tỉnh Quảng Ngãi
14 Bùi Thị Hạnh Nữ 60 Hưu trí Thành phố Huế
15 Nguyễn Mỹ Loan Nữ 22 Sinh viên Thành phố Huế
5.5. Danh sách nhà nghiên cứu
Năm
TT Họ và tên Nơi ở hiện nay
sinh
1 Bửu Ý 1937 Thành phố Huế
2 Nguyễn Đắc Xuân 1937 Thành phố Huế
230
PHỤ LỤC 5
MỘT SỐ HÌNH ẢNH DIỄN XƯỚNG CA HUẾ
I. Một số hình ảnh của diễn xướng Ca Huế truyền thống
Ảnh 6.1: Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba (nguồn: internet)
Ảnh 6.2: Nghệ sĩ Châu Loan (nguồn: internet)
231
Ảnh 6.3: Nghệ sĩ Minh Mẫn (nguồn: internet)
Ảnh 6.4: Ông hoàng Nam Sách (nguồn: internet)
232
Ảnh 6.5: Nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị và con gái tại Châu Hương
viên (nguồn: internet)
Ảnh 6.6: Ban nhạc ca Huế quý tộc (nguồn: internet)
233
Ảnh 6.7: Dàn nhạc cổ điển Huế ( Ca Huế, đờn Huế) đầu thế kỷ 20
(nguồn: internet)
Ảnh 6.8: Biểu diễn Ca Huế (nguồn: Sở VHTT&DL Thừa Thiên Huế)
234
II. Một số hình ảnh của diễn xướng Ca Huế hiện nay
Ảnh 6.9: Nghệ sĩ Kim Liên trình bày Ca Huế trên sông Hương (nguồn:
Sở VHTT&DL Thừa Thiên Huế)
235
Ảnh 6.10: Sinh hoạt Ca Huế tại phủ thờ Ngọc Sơn công chúa (nguồn:
Trần Dũng - 2016)
Ảnh 6.11: Nghệ nhân Thanh Hương đang truyền dạy Ca Huế tại Câu lạc
bộ Nguyễn Thị Lợi (nguồn: Sở VHTT&DL Thừa Thiên Huế)
236
Ảnh 6.12: Sinh hoạt Ca Huế tại Câu lạc bộ Ca Huế thính phòng (nguồn
internet)
Ảnh 6.13: Sinh hoạt Ca Huế tại khuôn viên nhà hàng (nguồn NCS - 2019)
237
Ảnh 6.14:Thực hành Ca Huế trên sông Hương (nguồn NCS - 2019)
Ảnh 6.15: Mô hình tam tấu (nguồn NCS - 2019)
238
Ảnh 6.16: Sinh hoạt Ca Huế tại một đám tang (nguồn NCS - 2018)
Ảnh 6.17: Sinh hoạt Ca Huế tại một đám tang (nguồn NCS - 2018)
239
Ảnh 6.18: Thả đèn trên sông Hương (nguồn NCS - 2019)
Ảnh 6.19: Tiết mục Ca Huế hiện nay trên sông Hương có nhiều người hát
cùng lúc (nguồn NCS - 2019)
240
Ảnh 6.20: Trang phục thịnh hành hiện nay của ca sĩ thực hành Ca Huế
(nguồn NCS - 2019)
241
Ảnh 6.21: Trang phục thịnh hành hiện nay của nhạc công thực hành Ca
Huế (nguồn NCS - 2019)
Ảnh 6.22: Lễ khai mạc chương trình đưa Di sản Ca Huế vào trường học
(nguồn: internet)
Ảnh 6.23: Tiết mục Ca Huế nằm trong chương trình ngoại khoá của học
sinh tiểu học (nguồn: internet)
242
Ảnh 6.24: Đưa di sản Ca Huế vào trường học (nguồn: internet)
Ảnh 6.25: Ca Huế được công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia
(nguồn: internet)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_dien_xuong_ca_hue_truyen_thong_va_bien_doi.pdf