Luận án Đặc điểm cấu trúc – Ngữ nghĩa và lập luận của câu đố về động thực vật trong Tiếng Việt

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI -------- VŨ THỊ HƢƠNG GIANG ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC – NGỮ NGHĨA VÀ LẬP LUẬN CỦA CÂU ĐỐ VỀ ĐỘNG THỰC VẬT TRONG TIẾNG VIỆT Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 9.22.90.20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS. TS NGUYỄN THỊ LƢƠNG 2. PGS. TS PHẠM VĂN TÌNH Hà Nội - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chưa đượ

pdf192 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 416 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Đặc điểm cấu trúc – Ngữ nghĩa và lập luận của câu đố về động thực vật trong Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Tác giả Vũ Thị Hƣơng Giang MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................. 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 3 4. Phương pháp và thủ pháp nghiên cứu ........................................................................ 4 5. Đóng góp mới của luận án .......................................................................................... 5 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án ..................................................................... 5 7. Cấu trúc luận án .......................................................................................................... 5 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN ... 6 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................ 6 1.1.1.Công trình nghiên cứu câu đố dưới góc độ văn học ............................................. 6 1.1.2. Công trình nghiên cứu câu đố dưới góc độ ngôn ngữ học ................................ 10 1.2. Cơ sở lí luận ............................................................................................ 15 1.2.1. Câu đố và đặc điểm của câu đố ............................................................... 15 1.2.2. Một số lý thuyết ngôn ngữ được chọn làm cơ sở lí luận của luận án ............. 24 1.3. Tiểu kết.................................................................................................................... 39 CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC – NGỮ NGHĨA CỦA CÂU ĐỐ VỀ ĐỘNG THỰC VẬT TRONG TIẾNG VIỆT .................................................. 41 2.1. Đặc điểm cấu trúc của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt .................. 41 2.1.1. Cấu trúc của văn bản câu đố về động thực vật trong tiếng Việt ....................... 41 2.1.2. Mô hình cấu trúc đồng dạng của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt ..... 48 2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt ............... 74 2.2.1. Hệ thống đề tài (chủ đề) được phản ánh trong văn bản câu đố về động thực vật trong tiếng Việt .............................................................................................................. 75 2.2.2. Cách thức triển khai chủ đề trong câu đố về động thực vật trong tiếng Việt ... 78 2.3. Tiểu kết ................................................................................................................ 102 CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM LẬP LUẬN CỦA CÂU ĐỐ VỀ ĐỘNG THỰC VẬT TRONG TIẾNG VIỆT ............................................................................................. 104 3.1. Đặc điểm các thành phần lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt .. 104 3.1.1. Đặc điểm thành phần kết luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt 105 3.1.2. Đặc điểm thành phần luận cứ của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt . 107 3.2. Cấu trúc lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt .................. 112 3.2.1. Cấu trúc lập luận tường minh ........................................................................... 113 3.2.2. Cấu trúc lập luận hàm ẩn ................................................................................. 114 3.3. Cơ sở lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt ....................... 116 3.3.1. Lập luận theo lẽ thường .................................................................................... 116 3.3.2. Lập luận theo tư duy sáng tạo riêng ................................................................. 117 3.4. Tiểu kết ................................................................................................................ 147 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................. 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 152 DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN STT Số bảng Tên bảng Trang 1 2.1 Cấu trúc văn bản câu đố về động thực vật trong tiếng Việt 41 2 2.2 Số lượng lời đố về động thực vật trong tiếng Việt có mô hình cấu trúc đồng dạng 49 3 2.3 Mô hình đồng dạng nghi vấn ở cấu đố có cấu trúc thông thường 50 4 2.4 Mô hình đồng dạng trần thuật của câu đố có cấu trúc thông thường 54 5 2.5 Mô hình đồng dạng của câu đố có cấu trúc đặc biệt 58 6 2.6 Mô hình cấu trúc ngữ pháp đồng dạng ở lời đố về động vật trong tiếng Việt 64 7 2.7 Mô hình cấu trúc ngữ pháp đồng dạng ở lời đố về thực vật trong tiếng Việt 69 8 2.8 Chủ đề ở lời giải của câu đố về động vật trong tiếng Việt 76 9 2.9 Chủ đề ở lời giải của câu đố về thực vật trong tiếng Việt 77 10 2.10 Miêu tả tố ở lời đố về động thực vật trong tiếng Việt 79 11 2.11 Miêu tả tố riêng ở lời đố về động vật trong tiếng Việt 90 12 2.12 Miêu tả tố riêng ở lời đố về thực vật trong tiếng Việt 94 13 2.13 Cách thức miêu tả vật đố trong lời đố về động thực vật trong tiếng Việt 98 14 3.1 Số lượng vật đố ở kết luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt 105 15 3.2 Số lượng luận cứ trong lập luận câu đố về động thực vật trong tiếng Việt 108 16 3.3 Cấu trúc lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt 113 17 3.4 Một số dạng lập luận theo tư duy sáng tạo riêng ở lời đố về động thực vật trong tiếng Việt 118 18 3.5 Phương thức chuyển trường trong lập luận ở lời đố về động thực vật trong tiếng Việt 119 19 3.6 Phương thức chơi chữ ở lời đố về động thực vật trong tiếng Việt 134 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Là một thể loại văn học dân gian nên câu đố cũng được tạo ra từ chất liệu ngôn từ. Cùng với thành ngữ, tục ngữ, câu đố là kho tàng bảo lưu giá trị văn hóa của dân tộc, cộng đồng. Từ lâu, nó đã đi sâu, chiếm vị trí đáng kể, trở thành một món ăn quan trọng, không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân Việt. Tiếp cận thể loại văn học dân gian này từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa sẽ là cơ hội tốt để chỉ ra được bản sắc văn hóa của cộng đồng, bên cạnh đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa, lập luận của câu đố. Đây cũng là hướng nghiên cứu khá phổ biến, được ưa chuộng hiện nay: hướng nghiên cứu liên ngành, nghiên cứu ngôn ngữ trong mối quan hệ với văn học, tâm lý học. 1.2. Đố - giải là một trong những hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, thường xuyên diễn ra trong đời sống cộng đồng. Không đơn thuần chỉ là một trò chơi giải trí thông thường, đó còn là một sân chơi trí tuệ bổ ích bằng ngôn từ - nhờ đó, với cả người ra đố và giải đố; năng lực tư duy, cụ thể là năng lực phán đoán trên cơ sở suy luận được rèn rũa, trau dồi; đồng thời khả năng sử dụng ngôn ngữ linh hoạt cũng được rèn luyện. Nhiều câu đố đã được văn bản hóa, tồn tại với tư cách một văn bản. Là văn bản nhưng văn bản câu đố lại có cấu trúc đặc biệt, so với các thể loại văn học dân gian khác. Câu đố là một loại đơn vị hết sức đặc biệt (Nó là một dạng “câu” đặc biệt và cũng là một dạng văn bản đặc biệt). Được gọi là “câu” nhưng câu đố lại có cấu tạo ở dạng văn bản, trọn vẹn và khép kín. Mặt khác, câu đố vốn là một loại hình văn bản có phong cách chức năng ngôn ngữ khá độc đáo, vừa thể hiện đặc điểm của ngôn ngữ văn học (văn học dân gian) lại vừa mang những nét đặc trưng của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày; vừa là một loại hình văn bản ngôn từ vừa là loại hình văn hóa diễn xướng dân gian. Vì thế, nghiên cứu, tìm hiểu câu đố (kể cả phần lời đố, lời giải hay phần diễn xướng) đều hứa hẹn có nhiều “đất” để khai thác; mang lại những kết luận khoa học hấp dẫn, lí thú. 1.3. Cũng như các thể loại văn học dân gian khác, câu đố chủ yếu là sản phẩm của quần chúng nông dân lao động nên ẩn số (để giải mã) thường là những gì thân quen, gắn bó với đời sống của họ. Với nền văn minh nông nghiệp lúa nước, thế giới 2 động thực vật muôn màu không chỉ là một thực thể bên ngoài của tự nhiên mà còn thâm nhập sâu sắc vào đời sống văn hóa tinh thần của con người. Vì thế, chiếm đa số (gần 1/5) trong kho tàng câu đố Việt Nam là những câu đố về con vật; về cây cỏ, hoa lá, củ quả gần gũi, quen thuộc với người nông dân. Đây cũng là mảng có nhiều câu đố đặc sắc cần khai thác. Dù câu đố được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong đời sống sinh hoạt hàng ngày nhưng không phải ai cũng dễ dàng giải mã, tìm ra ẩn số được kí mã trong bài toán ngôn ngữ ấy. Bởi lẽ nó không phản ánh sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan như lối nói thông thường mà theo “lối nói chệch, nói một đằng, hiểu một nẻo” [44, tr. 257], “bằng phương pháp giấu tên và nghệ thuật chuyển hóa gây nhiễu (chuyển vật nọ thành vật kia)” [43, tr. 48 – 49]. Yêu cầu đặt ra với người đố là luôn phải tìm ra những cách nói mới lạ, nhằm đánh lạc hướng lập luận ở người đoán giải. 1.4. Xem xét đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của câu đố góp phần khẳng định giá trị, vai trò cũng như sự độc đáo, riêng biệt của thể loại này trong đời sống văn học dân tộc. Đồng thời đây là việc làm cần thiết để thấy được nét đặc sắc về ngôn ngữ của thể loại này, cũng như giải mã được lôgic của tư duy, triết lí dân gian qua ngôn ngữ đố. 1.5. Do tính hấp dẫn của câu đố (từ góc độ ngôn ngữ học) nên đã có không ít công trình nghiên cứu về nó song phần lớn các công trình đó mới chỉ dừng lại ở việc sưu tầm và giải đáp ẩn số. Cũng có một số tài liệu nghiên cứu về thể loại này nhưng ở mức khái quát. Cho đến nay, những công trình nghiên cứu câu đố dưới góc độ ngôn ngữ học còn khá khiêm tốn. Các tác giả mới chỉ khai thác nó ở góc độ biểu thức miêu tả chiếu vật, tiền giả định, phương thức chơi chữ, vấn đề ẩn dụ trong câu đố, chứ chưa khai thác đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của nó. Chưa có công trình nào nghiên cứu tổng thể ba đặc điểm này của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt. Vì thế, tiếp cận câu đố một cách hệ thống ở các bình diện trên cho đến thời điểm này, vẫn là điều mới lạ, hứa hẹn kết quả nghiên cứu về đối tượng “được coi là thách thức người tiếp nhận”. Với những căn cứ trên, chọn đề tài Đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt để nghiên cứu, người viết mong muốn góp thêm một cách nhìn về câu đố dưới ánh sáng của một số lý thuyết ngôn ngữ học. 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn: - Làm rõ đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt, để thấy được sự độc đáo của loại văn bản đặc biệt này dưới góc độ ngôn ngữ học. - Chỉ ra nét độc đáo về cấu trúc - ngữ nghĩa, lập luận và đặc trưng tư duy văn hóa, triết lí dân gian qua câu đố về động thực vật trong tiếng Việt. - Chỉ ra căn cứ - cơ chế giải mã để có thể giải đáp câu đố nhanh, đúng và chính xác. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, chúng tôi xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: - Xác lập khung lý thuyết cho đề tài luận án (khái niệm câu đố, lý thuyết văn bản, lý thuyết lập luận, vấn đề nghĩa chiếu vật (sở chỉ), quy chiếu, lý thuyết định danh) - Khảo sát, phân loại câu đố căn cứ vào cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của chúng. - Miêu tả, phân tích các loại câu đố, lần lượt ở các khía cạnh: + Chỉ ra đặc điểm cấu trúc của văn bản câu đố, mô hình hoá cấu trúc đồng dạng của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt. + Làm rõ đặc điểm ngữ nghĩa: xem xét các mảng chủ đề được phản ánh, các đặc điểm được chọn làm miêu tả tố trong lời đố (qua lời đố miêu tả trực tiếp). + Làm rõ đặc điểm lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt: Đặc điểm các thành phần lập luận, cấu trúc lập luận và cơ sở lập luận. - Tổng kết kết quả nghiên cứu bằng bảng biểu hoặc bằng cách nêu nhận định. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Do khuôn khổ của luận án và thời gian thực hiện, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát, tìm hiểu 488 câu đố về động vật và 636 câu đố về thực vật trong tiếng Việt được sưu tầm, biên soạn trong cuốn biên Tổng tập văn học dân gian Việt Nam (Tập 3 – Câu đố), 2005, NXB Khoa học Xã hội [125] (dựa trên ngữ liệu đã được văn bản hóa vì câu đố vốn là trò chơi dân gian bằng ngôn ngữ nói). 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu Từ góc nhìn của ngôn ngữ học, có thể nghiên cứu câu đố trên nhiều phương diện, song luận án chỉ tập trung vào ba phương diện, đó là: Đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận. 4. Phƣơng pháp và thủ pháp nghiên cứu Để đạt được các mục đích và nhiệm vụ đề ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp, thủ pháp nghiên cứu sau đây: 4.1. Phương pháp nghiên cứu (1) Phương pháp phân tích diễn ngôn Từ những ngữ liệu đã thu thập được, chúng tôi tiến hành phân tích, đối chiếu văn bản câu đố (một dạng diễn ngôn đặc biệt) để nhận biết đặc điểm cấu trúc của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt. Phương pháp này dùng để phân tích văn bản câu đố về động thực vật trong tiếng Việt cũng như cấu trúc lập luận của các câu đố loại này. (2) Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được dùng để mô tả đặc điểm cấu trúc, một số mô hình cấu trúc đồng dạng trong lời đố, các nét nghĩa đặc trưng được chọn làm miêu tả tố. (3) Phương pháp nghiên cứu liên ngành ngôn ngữ học – văn hóa học Phương pháp này giúp chúng tôi giải mã được ý đồ nghệ thuật và phần nào hiểu được cách tri nhận của người Việt qua câu đố về động thực vật. 4.2. Thủ pháp nghiên cứu (1) Thủ pháp thống kê, phân loại Thủ pháp này được sử dụng để thống kê, phân loại câu đố theo tiêu chí đã định trước (mô hình cấu trúc đồng dạng, các đặc điểm được chọn làm miêu tả tố, đặc điểm các thành phần lập luận, cấu trúc lập luận, cơ sở lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt). Kết quả thống kê sẽ được tổng hợp dưới hình thức các bảng biểu, giúp hình dung rõ hơn đặc trưng cơ bản về cấu trúc, ngữ nghĩa, lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt; làm cơ sở cho kết luận của luận án. (2) Thủ pháp so sánh: tìm ra điểm chung và nét riêng (về cấu trúc - ngữ nghĩa và lập luận) của câu đố về động vật và thực vật trong tiếng Việt. 5 5. Đóng góp mới của luận án Đây là công trình khảo sát một cách hệ thống và chuyên sâu đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án Tìm hiểu Đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt, tác giả luận án có những đóng góp sau: 6.1. Về lí luận Luận án góp phần bổ sung, hoàn thiện thêm vào các kết quả nghiên cứu về câu đố; góp thêm một cái nhìn mới về câu đố dân gian người Việt từ góc nhìn của ngôn ngữ học (văn bản, lập luận, nghĩa chiếu vật (sở chỉ), định danh). Các kết quả của đề tài sẽ góp phần củng cố hướng nghiên cứu cấu trúc ngữ nghĩa, kết hợp với nghiên cứu lập luận đối với một loại hình diễn ngôn cụ thể là câu đố trong tiếng Việt. 6.2. Về thực tiễn Kết quả của đề tài sẽ góp phần nâng cao công tác biên soạn sách giáo khoa tiếng Việt cho học sinh phổ thông (đặc biệt trong bối cảnh Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng chương trình và biên soạn bộ sách Ngữ văn mới), giáo trình giảng dạy tiếng Việt, phục vụ cho đào tạo ngôn ngữ học ở bậc cử nhân và sau đại học, biên soạn sách tham khảo phục vụ phân tích giảng văn trong nhà trường. Ngoài ra, kết quả của luận án có giá trị hữu ích, phục vụ tốt trong nghiên cứu giảng dạy, khai thác câu đố nói riêng, văn học dân gian nói chung từ góc nhìn ngôn ngữ học. Luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho những ai muốn tìm hiểu thêm về thể loại văn học dân gian độc đáo này. 7. Cấu trúc luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, mục lục, danh mục bảng, danh mục các công trình đã công bố; nội dung của luận án được triển khai trên ba chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận Chương 2: Đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt Chương 3: Đặc điểm lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt 6 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN Chương đầu của luận án, chúng tôi tìm hiểu tổng quan tình hình nghiên cứu và một số vấn đề lí luận chung, liên quan trực tiếp đến đề tài: Vài nét về câu đố, lý thuyết văn bản, lập luận, nghĩa chiếu vật (sở chỉ), quy chiếu và định danh – Đây chính là cơ sở nền tảng cho việc nghiên cứu sâu hơn (đặc điểm cấu trúc - ngữ nghĩa và lập luận), gắn với đối tượng cụ thể (câu đố về động thực vật trong tiếng Việt) ở các chương sau. 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Công trình nghiên cứu câu đố dưới góc độ văn học Câu đố là một giá trị văn hóa, một kho tàng trí tuệ dân gian. So với các thể loại văn học dân gian khác, trước kia câu đố chưa được nhìn nhận và quan tâm thích đáng. Song từ những năm 80 của thế kỉ XX trở lại đây, các nhà nghiên cứu, giảng dạy và những người yêu thích văn học dân gian đã dành sự quan tâm nhiều hơn cho thể loại này. 1.1.1.1. Nghiên cứu câu đố nói chung Trước hết, chúng ta phải kể đến một số công trình chủ yếu mang tính chất sưu tầm về câu đố, tiêu biểu: Câu đố Việt Nam (Thiên Lữ, Võ Hồng sưu tầm), Nxb Thanh Hoá, 2000, Câu đố Việt Nam (Hồ Anh Thái biên soạn), Nxb Hải Phòng, Câu đố Việt Nam (Ninh Viết Giao), Câu đố dân gian Việt Nam (Xuân Thu), Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1998, Câu đố dân gian (Lữ Huy Nguyên, Trần Gia Linh, Nguyễn Đình Chỉnh sưu tầm), Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 1989, Câu đố Việt Nam (Ninh Viết Giao sưu tầm), Nxb Khoa học Xã hội, 1990, Câu đố Việt Nam (Nguyễn Văn Trung biên soạn), Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1986; Câu đố người Việt (Triều Nguyên biên soạn), Nxb Thuận Hoá, 2007. Nhìn nhận vai trò quan trọng của thể loại câu đố, viện KHXH Việt Nam cũng đã cho ra đời bộ sưu tầm câu đố người Việt và câu đố các dân tộc thiểu số: Tổng tập văn học dân gian người Việt, (tập 3, Câu đố), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Trong số các công trình kể trên, có ba công trình được chú ý nhiều hơn cả là công trình của Ninh Viết Giao, Triều Nguyên và Nguyễn Văn Trung. 7 Ninh Viết Giao [36] khi tìm hiểu về Câu đố Việt Nam đã lí giải nguồn gốc ra đời của câu đố, phạm vi đề tài, đặc điểm chủ yếu của nội dung và giới thiệu về một số biện pháp nghệ thuật của câu đố. Tác giả đã nhận thấy vai trò và vị trí riêng của thể loại này trong đời sống tinh thần của dân tộc. Nó đã đáp ứng được những yêu cầu nào đó của nhân dân và có tác động, ảnh hưởng nhất định tới văn học viết. Ông nhận thấy “Trong những lúc đố nhau, câu đố đã đem lại cho người bình dân Việt Nam những tràng cười thoải mái không chỉ ở sự giảng được mà ngay ở bản thân câu đố. Hầu như câu đố nào đọc lên, ta cũng thấy ngộ nghĩnh, hóm hỉnh, tươi mát, đôi khi thấy tục tĩu nữa, song hiện thực sự vật, sự việc lại không tục tĩu chút nào” [36, tr. 268]. Tác giả cũng xem xét những phương tiện nghệ thuật làm nên chất trí tuệ, tính hài hước ở câu đố (ẩn dụ, phép so sánh, người hóa, vật hóa, thực vật hóa). Tìm hiểu về Câu đố người Việt về tự nhiên, Triều Nguyên [92] trình bày một cách tương đối đầy đủ, hệ thống, toàn diện và có những kiến giải thấu đáo những vấn đề thuộc bình diện thể loại: xác định câu đố trên cơ sở phân biệt nó với một số thể loại văn học dân gian khác, phân biệt các kiểu dạng đố thường gặp, tìm hiểu về cách đố - giải, hình thức và nội dung, phân loại câu đố. Có nhiều vấn đề được đặt ra lần đầu như: “trường và hiện tượng xuất nhập trường trong câu đố”,“mô hình câu đố”,“câu đố tá ý” Công phu và chuyên sâu hơn cả là cuốn Câu đố Việt Nam của Nguyễn Văn Trung [119]. Trong công trình này, bên cạnh việc tập hợp một số lượng khá lớn giới thiệu 1.513 câu đố sắp xếp theo đối tượng phản ánh và một vài kiểu đố khác, tác giả đã đi sâu phân tích xuất xứ, nguồn gốc, hoàn cảnh sử dụng, mục đích, chức năng, cách cấu tạo câu đố về mặt tổng quát, về mặt ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ điệu, tần số câu đố, tư tưởng và lối nhìn trong câu đố, khía cạnh văn chương. Ông cũng chỉ ra rằng, qua câu đố, “chúng ta có thể phác họa được những nét lớn nền văn minh vật chất của người Việt Nam. Mỗi câu đố phản ánh hoặc cách sống, hoặc cách ăn uống, làm việc, hoặc tinh thần, tâm tình của người Việt” [119, tr. 200]. Là một thể loại văn học dân gian mang đậm tư duy và bản sắc dân tộc, câu đố có sức thu hút không nhỏ với các nhà nghiên cứu dân gian: Đinh Gia Khánh, Mã Giang Lân, Lê Chí Quế, Hoàng Tiến Tựu, Đỗ Bình Trị Những công trình nghiên cứu của họ chủ yếu tập trung khai thác câu đố dưới góc nhìn văn học, câu đố được 8 bàn đến hết sức sơ lược dưới dạng chương, mục. Nó trở thành đối tượng để nhìn nhận, khám phá về khái niệm và đặc trưng thể loại, trong cái nhìn so sánh với các thể loại văn học dân gian khác. Nhóm tác giả Đinh Gia Khánh, Võ Quang Nhơn, Chu Xuân Diên [73] trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam đã dành 12 trang (257 – 269) để sơ lược, nêu lên những nét khái quát nhất về đối tượng phản ánh, đặc điểm nội dung, chức năng câu đố cũng như vị trí của nó trong đời sống tinh thần của nhân dân, giới thiệu tóm lược nghệ thuật sử dụng câu đố, so sánh sự giống và khác nhau trong ẩn dụ của câu đố và tục ngữ, phân biệt hát đố và câu đố. Câu đố được xem là “một phương tiện nhận thức, vừa thoả mãn được nhu cầu tri thức, vừa thoả mãn được nhu cầu vui chơi, giải trí của nhân dân lao động”. [73, tr. 361]. Dễ nhận thấy, ở góc độ văn học, việc nghiên cứu câu đố nói chung khá phong phú (khoảng 40 công trình) nhưng các tác giả chủ yếu đi vào sưu tầm, biên soạn lại câu đố Việt Nam (11 công trình) và chú trọng bàn về nội dung hay đối tượng phản ánh. Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu câu đố cho những đối tượng cụ thể. 1.1.1.2. Nghiên cứu câu đố cho những đối tượng cụ thể Tác giả Đinh Thị Thu Hương [70] trong luận văn thạc sĩ Câu đố Việt – Tày những tương đồng và khác biệt đã chỉ ra các điểm giống và khác nhau giữa câu đố của người Việt – người Tày. Qua việc so sánh câu đố của người Việt và người Tày về các phương diện (thế giới vật đố, cách thức tư duy cũng như thể thơ, cách gieo vần); tác giả luận văn đã khám phá những điểm tương đồng, khác biệt về văn hoá, phong tục, đời sống kinh tế, xã hội của hai dân tộc Việt - Tày; giải mã và khám phá những bản sắc trong nền văn hoá của hai dân tộc, nhờ chìa khóa là câu đố. Nguyễn Thị Hường [71], trong luận văn tốt nghiệp đại học năm 2008 đã tìm hiểu Không gian làng quê trong thế giới hình ảnh vật đố của câu đố người Việt. Ở luận văn này, sau khi tìm hiểu vài nét khái quát về câu đố và vấn đề khảo sát các hình ảnh thuộc không gian làng quê xuất hiện trong thế giới hình ảnh vật đố; tác giả đã nghiên cứu không gian làng quê Việt Nam và một số đặc điểm nghệ thuật của câu đố; qua đó giúp người đọc thấy được đời sống lao động, sinh hoạt, những quan niệm, tâm tư, tình cảm của con người thời điểm thể loại này ra đời, từ đó có cái nhìn khái quát về hình ảnh làng quê Việt Nam mọi thuở. 9 Trần Thị Lan (1996) [77] tìm hiểu Một số vấn đề về bản chất thể loại câu đố Việt Nam với trẻ em. Theo tác giả, đề tài của câu đố luôn là “sự vật, hiện tượng cụ thể, quen thuộc của thế giới xung quanh, những cái nhìn mà con người ta có thể cảm nhận trực tiếp bằng giác quan" [77; 20]. Điểm đóng góp riêng của luận văn này là sau khi hệ thống lại một số vấn đề về bản chất thể loại câu đố (đặc trưng thi pháp thể loại câu đố đặc biệt là phương pháp ẩn dụ, phân loại câu đố; một vài suy nghĩ về sự hình thành câu đố để làm rõ cái chung và cái riêng của câu đố so với các thể loại khác trong tổng thể văn học dân gian); tác giả đã đi sâu tìm hiểu sự gặp gỡ giữa thể loại này với trẻ em, tìm hiểu sự phát triển của thể loại câu đố từ câu đố cổ truyền đến câu đố hiện đại: sự biến đổi sâu sắc của thể loại này trên nhiều bình diện: mục đích sáng tác, đối tượng tiếp nhận, phương pháp quan sát, phương pháp miêu tả vật đố, hình thức đố. Dựa trên đặc điểm tâm sinh lí trẻ em ở lứa tuổi mẫu giáo – tiểu học với việc tiếp nhận câu đố, chương trình và phương pháp dạy câu đố hiện nay; tác giả cũng đã đưa ra một số đề xuất về chương trình và cách dạy. Như vậy, tác giả luận văn đã nghiên cứu về bản chất thể loại của câu đố trong việc ứng dụng với đối tượng cụ thể (trẻ em). Đặng Thị Mân [88] khi nghiên cứu Câu đố và vai trò của câu đố trong góp phần phát triển tư duy của học sinh tiểu học, đã trình bày khái quát chung về câu đố (khái niệm, nguồn gốc, nội dung và đặc trưng cơ bản); đồng thời chỉ ra vai trò của câu đố trong việc phát triển tư duy gắn với đối tượng cụ thể - học sinh tiểu học. Ngoài ra, có thể kể đến một số luận văn tìm hiểu nghệ thuật câu đố đặt trong việc dạy – học thể loại văn học dân gian này như: Nghệ thuật câu đố Việt Nam và việc dạy – học câu đố ở tiểu học của Đinh Thị Phương [100], Nghệ thuật câu đố về loài vật của Nguyễn Thu Hồng [57]... hay một số bài viết của các tác giả như: Nguyễn Văn Tứ trong “Câu đố chữ và việc dạy tiếng” Ngôn ngữ và đời sống, số 5 (13) đã nói về cơ chế đố chữ (chữ quốc ngữ), cách phân loại đố chữ; Nguyễn Bá Lương trong “Câu đố dân gian Việt Nam tài và hóm” Ngôn ngữ và đời sống, số 5 (104) bàn về cái tái tạo ra nụ cười sảng khoái trong câu đố dân gian Việt Nam. Nhìn chung, dưới góc độ văn học, câu đố đã được tìm hiểu khá toàn diện và hệ thống. Giới nghiên cứu đã dành nhiều công sức tìm tòi, nhận diện (từ khái niệm, đặc trưng bản chất thể loại, nguồn gốc, chức năng cho đến môi trường sản sinh, môi trường diễn xướng trong cái nhìn so sánh với các thể loại văn học dân gian khác) hay gắn nó với đối tượng cụ thể; song họ chưa quan tâm nhiều đến góc độ ngôn ngữ. 10 1.1.2. Công trình nghiên cứu câu đố dưới góc độ ngôn ngữ học Là một thể loại văn học dân gian đặc sắc, câu đố không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu dân gian, các nhà văn hóa học, dân tộc học mà nó còn có sức hấp dẫn lớn với các nhà ngôn ngữ học. Song những công trình nghiên cứu câu đố ở bình diện ngôn ngữ học chưa nhiều. 1.1.2.1. Nghiên cứu các biện pháp tu từ trong câu đố Có thể kể đến một số bài viết nhỏ, xuất hiện lẻ tẻ trên các tạp chí chuyên ngành như: Nguyễn Tấn Phát [96] trên Tạp chí Văn học số 2 – 1986 trong bài “Câu đố sưu tầm ở Nam bộ và vấn đè bản chất thể loại của sáng tác truyền miệng dân gian” đã đưa ra những nhận xét ban đầu, khá tinh tế về câu đố được sưu tầm ở Nam Bộ. Theo tác giả, câu đố miền Nam khác câu đố miền Bắc ở đối tượng phản ánh, dạng thức cấu tạo, cách suy luận, đặc biệt là ở “cách sử dụng từ ngữ, cách láy âm, láy chữ, sử dụng từ ngữ thoải mái hơn, láy âm, láy chữ tươi sáng, sống động” [96, tr. 56]. Trên cơ sở chỉ ra điểm thống nhất chung và các sắc thái địa phương đậm đà của câu đố Nam Bộ, tác giả đã khẳng định những giá trị của câu đố Nam Bộ. Đỗ Bình Trị [118] với phần viết về câu đố gồm 35 trang (164 -189), bàn về đặc điểm thi pháp của câu đố, chủ yếu chú ý về kết cấu của ẩn dụ trong câu đố. Triều Nguyên [93] trong bài Vấn đề ẩn dụ trong câu đố đã khẳng định ẩn dụ trong câu đố phân biệt với ẩn dụ trong văn học nghệ thuật, trong các phong cách ngôn ngữ nói chung; sau khi tổng hợp, phân tích, chỉ ra sự bất ổn trong các quan niệm về ẩn dụ trong câu đố của Chu Xuân Diên, Hoàng Tiến Tựu, Đỗ Bình Trị (vì các tác giả này đều quy biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa (hay vật hóa), các lối nói cùng nghĩa (hay gần nghĩa), cùng trường nghĩa và cả lối chơi chữ về ẩn dụ). Tác giả bài viết cũng chỉ ra rằng: “Câu đố nhìn tổng thể thì ra một vật kì dị, thậm chí quái đản nhưng từng bộ phận hợp thành nó thì lại là những hình ảnh sự vật, hiện tượng thân quen với người lao động” [93, tr. 32]. Một số bài viết của Đỗ Thành Dương [29], [30], [31] trên Tạp chí Ngôn ngữ, tập san Ngữ học trẻ đề cập tới ba loại thủ pháp chơi chữ trong câu đố: hiện tượng đồng âm, hiện tượng đồng nghĩa (đồng nghĩa trực tiếp, đồng nghĩa gián tiếp) và hiện tượng nói lái trong câu đố của người Việt. Trong bài “Nói lái trong câu đố tiếng Việt” - Ngôn ngữ và đời sống, số 9 (17), tác giả đã đề cập đến cách sử dụng biện pháp nói lái trong câu đố và tác dụng của nó. 11 Hay Nguyễn Thị Lê Vân [120] trong luận văn của mình cũng đã tìm hiểu Một số biện pháp tu từ trong câu đố dân gian Việt, trong đó giá trị của biện pháp so sánh, ẩn dụ, chơi chữ... đã được khẳng định. Trong Đề tài NCKH cấp trường – Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt, Trương Chí Hùng [59] đã tập trung nghiên cứu nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt: Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết,; chơi chữ bằng phương tiện từ vựng, ngữ nghĩa; chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp; chơi chữ bằng nói lái; chơi chữ dựa vào cứ liệu ngoài văn bản (cứ liệu văn học dân gian, cứ liệu văn chương bác học), để thấy được chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt vận dụng hầu hết các tiềm năng ngôn ngữ đồng thời vận dụng linh hoạt các phương thức chơi chữ dựa vào cứ liệu ngoài văn bản (cứ liệu văn học). Trên cơ sở đó, tác giả đã tiến hành so sánh với chơi chữ trong ca dao dân ca và trong văn học viết. 1.1.2.2. Nghiên cứu ngữ nghĩa của câu đố Phạm Văn Tình [113] trong Thông báo văn hóa dân gian, 2003, NXB Khoa học Xã hội cũng đã chỉ ra Hiện tượng đồng dạng khác nghĩa và đồng nghĩa khác dạng của câu đố. Tác giả bài viết đã chỉ ra điểm thú vị trong câu đố đó là nhiều câu đố về những sự vật, hiện tượng khác nhau lại có cấu trúc giống...từ đó vận dụng tìm hiểu đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt. 1.2.2. Một số lý thuyết ngôn ngữ được chọn làm cơ sở lí luận của luận án Nghiên cứu đặc điểm gì của bất kì đối tượng nào cũng đều phải xuất phát từ lý thuyết – cơ sở nền tảng của nó. Đối tượng nghiên cứu của luận án là câu đố về động thực vật trong tiếng Việt (với tư cách văn bản), nhưng không phải xem xét tất cả các mặt của nó mà chỉ giới hạn ở phạm vi đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận nên chúng tôi chỉ trình bày lý thuyết liên quan: lý thuyết văn bản, lý thuyết chiếu vật, nghĩa chiếu vật (sở chỉ), quy chiếu, lý thuyết định danh và lý thuyết lập luận. Đây là những lý thuyết làm nền tảng cơ sở để chúng tôi làm rõ những đặc điểm mà luận án hướng tới (đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận), gắn với đối tượng cụ thể (câu đố về động thực vật trong tiếng Việt). 1.2.2.1. Lý thuyết văn bản Do câu đố là một dạng văn bản đặc biệt nên không thể không đề cập đến lý thuyết văn bản. Lý thuyết về văn bản bao gồm nhiều vấn đề, trong luận án này, chúng tôi chỉ trình bày những nội dung được ứng dụng để tìm hiểu đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa của văn bản câu đố: khái niệm, đặc trưng, cấu trúc và liên kết văn bản. 25 i. Khái niệm a. Khái niệm về văn bản của một số nhà ngôn ngữ trên thế giới Các nhà ngôn ngữ trên thế giới đã đưa ra nhiều khái niệm về văn bản. Theo O.I. Moskalskaja, “Bất kì một văn bản nào cũng là một phát ngôn ít nhiều phức tạp về hiện thực. Cơ sở của văn bản là phán đoán về các sự vật và các hiện tượng của hiện thực, về các sự kiện và hoàn cảnh nào đó”. (dẫn theo [89, tr. 140]) G. Brown và G. Yule tuyên bố: “Văn bản – là – sản phẩm‟ (text – as- product‟ view)” (dẫn theo [6; tr. 517]). Với Halliday và Hasan, “Văn bản là một đơn vị ngôn ngữ khi sử dụng, đó là một đơn vị ngữ nghĩa, thuộc về ngữ nghĩa” [134, tr. 1 - 2] I.Galperin định nghĩa: “Văn bản – đó là tác phẩm của quá trình sáng tạo lời, mang tính cách hoàn chỉnh, ... hợp nhất lại bằng những loại hình liên hệ khác nhau về từ vựng, ngữ pháp, logic, tu từ, có một hướng đích nhất định và một mục tiêu thực dụng” [35, tr. 38]. Định nghĩa này đã nhấn mạnh tính liên kết và tính hoàn chỉnh của văn bản. Như vậy, trong ngôn ngữ học văn bản, thuật ngữ văn bản một mặt được hiểu là “bất kì một phát ngôn nào cấu tạo từ một hoặc nhiều câu mang trong mình một nghĩa hoàn chỉnh theo ý đồ của người nói” [89, tr. 19 - 20]; mặt khác nó được coi là “những sản phẩm lời nói như truyện, tiểu thuyết, bài báo và tạp chí, chuyên luận khoa học, những tài liệu các loại” [89, tr. 19 - 20]. b. Khái niệm về văn bản của các nhà ngôn ngữ Việt Nam. Tác giả Trần Ngọc Thêm [89], Nguyễn Hòa [53], Hữu Đạt [33], Diệp Quang Ban [5] trong công trình nghiên cứu của mình cũng đã đưa ra khái niệm về văn bản. Hầu hết, họ đều cho rằng văn bản “là đơn vị của nghĩa” [5, tr. 193]. Ở đây, chúng tôi thống nhất với quan điểm của Trần Ngọc Thêm: “Văn bản là chỉnh thể thống nhất và trọn vẹn về nội dung và hình thức” [110, tr. 43]. Nó là đơn vị giao tiếp hoàn chỉnh. ii. Đặc trưng của văn bản Do phân biệt việc xem xét văn bản ở mặt lý thuyết hay thực hành mà kết quả có sự khác nhau của các nhà nghiên cứu. Theo De Beaugrande (1980) [132, tr.17], De Beaugrande và Dressler [133, tr.3]; văn bản gồm 7 đặc trưng là : “tính liên kết (cohesion), tính mạch lạc (coherence), tính 26 chủ đích (intentionality), tính khả chấp (acceptability), tính thông tin (informativity), tính ngữ cảnh (contextuallity), tính liên văn bản (intertextuallity)” Tác giả Diệp Quang Ban cho rằng, có 5 đặc trưng của văn bản là: “có yếu tố nội dung (có đề tài và chủ đề nhất định), có yếu tố chức năng (chức năng giao tiếp), có cấu trúc – hình thức (tính thống nhất của đề tài – chủ đề, tạo thành sự mạch lạc cho văn bản), có yếu tố chỉ lượng (gồm một số câu, đoạn văn) và có yếu tô định biên (tính trọn vẹn)” [2, tr.22]. Theo chúng tôi, dù tồn tại ở dạng nói hay viết, dung lượng ngắn hay dài, được viết bằng văn vần hay văn xuôi, thì văn bản phải đảm bảo các đặc trưng sau : Thứ nhất, văn bản phải trọn vẹn, hoàn chỉnh về nghĩa (nội dung): Mỗi văn bản phải có sự thống nhất về chủ đề (có một đề tài, chủ đề nhất định). Thứ hai, văn bản phải trọn vẹn, hoàn chỉnh về hình thức. Thứ ba, muốn trọn vẹn về nội dung, hoàn chỉnh về hình thức, văn bản phải có tính liên kết (liên kết nội dung, liên kết hình thức). iii. Cấu trúc của văn bản (Cấu tạo chung của văn bản) Trong các công trình nghiên cứu của mình, nhóm các tác giả Diệp Quang Ban, Trần Ngọc Thêm đều đồng nhất về cách phân chia cấu trúc của một văn bản thông thường thường gồm ba phần: phần mở, phần thân và phần kết. a. Phần mở của văn bản: Với chức năng làm rõ đầu đề và định hướng cho sự phát triển nội dung nêu ở phần thân, phần mở đầu (un commencement) “là cái không cần thiết phải tiếp theo sau một cái khác một cách tự nhiên” [6, tr. 104], thường nêu: - Đề tài – chủ đề được đề cập - Khung cảnh chung của đề tài – chủ đề - Hướng triển khai đề tài – chủ đề của văn bản. Với văn bản miêu tả và truyện kể, phần mở thường: - Nêu đối tượng và đặc trưng được quan tâm của đối tượng miêu tả. Các đặc trưng này là định hướng cho sự phát triển ở phần thân. - Giới thiệu hoàn cảnh không gian, thời gian, hay xuất xứ của đối tượng đó. b. Phần thân (giữa) của văn bản Đây là phần quan trọng nhất trong cấu tạo chung của văn bản. Nó “là cái đi theo sau một cái khác và sau nó là một cái khác nữa.” [6, tr. 104]. Với “chức năng 27 mở rộng, cụ thể hóa hoặc chi tiết hóa tất cả các định hướng được nêu ở phần mở theo tiêu chuẩn lôgic cần và đủ.” [5, tr. 446], phần thân/giữa (un milieu) của văn bản có nhiệm vụ trung tâm “triển khai đầy đủ các chi tiết cần thiết của đề tài – chủ đề theo hướng đã được xác định ở phần mở của văn bản” [5, tr. 447] c. Phần kết của văn bản Phần kết (unefin) của văn bản “có chức năng đánh dấu đầu ra của văn bản, tạo cho văn bản tính chất kết thúc, tính chất “đóng” cả về phương diện nội dung lẫn phương diện hình thức.” [5, tr. 449] “Là cái tự nhiên đi theo sau một cái khác do sự cần thiết hoặc trong phần lớn trường hợp là như vậy, và sau nó không có gì nữa” [6, tr.104]; phần kết thúc thường có nhiệm vụ: - “Điểm lại khái quát toàn bộ nội dung của phần thân một cách có ấn tượng - Nêu bật những kết quả tìm tòi, khảo sát, nghiên cứu mà người thực hiện văn bản đã khám phá được. - Mở ra những phương diện, những đối tượng, những cách thức xem xét khác có quan hệ và có tác dụng tích cực đối với việc khai thác đề tài – chủ đề được nêu ra trong văn bản.” [5, tr. 450] Văn bản được tạo ra từ tổng thể ba phần như trên là kiểu văn bản có tính chất cổ điển. Với câu đố, chỉ có một số ít là có cấu tạo như vậy; còn lại đa số chỉ có phần thân và phần kết mà không có phần mở, do yêu cầu của nó là phải “giấu tên” vật đố. Ở luận án này, chúng tôi vận dụng lý thuyết về cấu tạo văn bản (gồm ba phần: phần mở, phần thân, phần kết) của Diệp Quang Ban để tìm hiểu đặc điểm cấu trúc của văn bản câu đố, đồng thời chỉ ra điểm đặc biệt trong cấu trúc của loại văn bản đặc biệt này (mô hình cấu trúc đồng dạng). iv. Liên kết văn bản Để biến một chuỗi câu trở thành văn bản thì nhân tố quan trọng nhất chính là tính liên kết. “Tính liên kết của văn bản có hai mặt: liên kết hình thức và liên kết nội dung.” [110, tr. 25]. Mỗi văn bản đều có hai loại liên kết này. a. Liên kết hình thức: là “hệ thống các phương thức liên kết hình thức” và những cái được liên kết với nhau trong văn bản là các câu (phát ngôn)” [5, tr. 535] 28 b. Liên kết nội dung Tất cả các câu trong văn bản đều phải phối hợp với nhau, cùng tập trung thể hiện một nội dung. “Trong liên kết nội dung lại tách ra hai bình diện: liên kết chủ đề và liên kết logic” [110, tr. 25]. Liên kết chủ đề: Đây “là bình diện quan trọng thứ nhất của liên kết nội dung” [110, tr. 24]. Chủ đề ở đây được hiểu như đề tài: vật, việc – đối tượng được nói đến. Liên kết này đòi hỏi tất cả các câu trong toàn văn bản phải xoay quanh một chủ đề, cùng “nói đến những đối tượng chung hoặc những đối tượng có quan hệ mật thiết với nhau.” [110, tr. 240]. Có thể thực hiện việc vừa nêu theo hai cách: duy trì chủ đề hoặc triển khai chủ đề. Liên kết logic: “Nếu ở liên kết chủ đề sự chú ý tập trung vào vật, việc được nói đến, thì ở liên kết lôgic cái được chú ý trước hết là phần nêu đặc trưng của vật, việc được nói đến.” [5, tr. 550]. Có thể xem xét liên kết lôgic trong phạm vi một câu hoặc giữa câu với câu (hoặc rộng hơn nữa: giữa cụm câu này với cụm câu khác, giữa phần này của văn bản với phần kia của văn bản). Như vậy, có thể hiểu “liên kết lôgic là sợi dây nối kết hợp lí giữa vật, việc với đặc trưng của chúng trong một câu và giữa đặc trưng này với đặc trưng kia trong những câu liên kết với nhau” [5, tr. 550] Ở luận án này, chúng tôi không nghiên cứu liên kết hình thức mà chỉ xem xét liên kết nội dung văn bản câu đố kết hợp lý thuyết định danh khi tìm hiểu các mảng chủ đề được phản ánh (trong lời giải) và đặc trưng được chọn làm miêu tả tố vật đố (qua lời đố). 1.2.2.2. Lý thuyết chiếu vật, biểu thức chiếu vật và nghĩa chiếu vật (sở chỉ), quy chiếu và biểu thức quy chiếu. i. Chiếu vật, biểu thức chiếu vật và nghĩa chiếu vật (sở chỉ) a. Chiếu vật * Khái niệm Theo Đỗ Hữu Châu: “Quan hệ giữa phát ngôn (diễn ngôn) với các bộ phận tạo nên ngữ cảnh của nó được gọi là sự chiếu vật (referent, cũng được gọi là sự sở chỉ)” [17, tr. 186] * Phân loại: Theo Đỗ Hữu Châu [17], có hai loại chiếu vật: Một là chiếu vật cứng ( rigid reference) còn gọi là chiếu vật duy nhất 29 Hai là chiếu vật linh hoạt hay không duy nhất: tùy theo ngữ cảnh mà sự vật được quy chiếu sẽ thay đổi. (Mỗi biểu thức này có thể thay đổi nhiều nghĩa chiếu vật khác nhau, tùy ngữ cảnh). * Vai trò: “Nhờ chiếu vật mà ngôn ngữ gắn với ngữ cảnh, từ đó mà có căn cứ đầu tiên để xác định nghĩa của đơn vị ngôn ngữ đang thực hiện chức năng giao tiếp”. [17, tr. 186 - 187] b. Biểu thức chiếu vật * Khái niệm Biểu thức chiếu vật là “Kết cấu ngôn ngữ (từ, cụm từ, câu) được dùng để chiếu vật [15, tr. 63]; trong đó, cái biểu đạt “là các đơn vị ngôn ngữ tạo nên nó”, còn cái được biểu đạt “là sự vật được quy chiếu hay nghĩa chiếu vật tương ứng” [17, tr. 187] Với câu đố, nếu lời đố là cái biểu đạt thì lời giải - sự vật được quy chiếu (nghĩa chiếu vật) chính là cái được biểu đạt. “Biểu thức chiếu vật không phải bao giờ cũng chỉ có một nghĩa chiếu vật [17, tr. 196] nên người nghe, người đọc cần “căn cứ vào ngữ cảnh và ngôn cảnh... suy ý, thử nghiệm và loại trừ các khả năng khác nhau (tức các nghĩa chiếu vật khác nhau) mà quyết định chọn một nghĩa chiếu vật trong ngữ cảnh và ngôn cảnh phù hợp nhất với biểu thức chiếu vật nghe được, đọc được” [17, tr. 196] Ở câu đố về động thực vật trong tiếng Việt, có trường hợp một biểu thức nhưng quy chiếu nhiều vật đố. Bên cạnh đó cũng có nhiều biểu thức khác nhau nhưng chỉ quy chiếu một vật đố. Người giải đố phải suy cho đúng cái nghĩa chiếu vật nằm trong ý định chiếu vật của người ra đố. * Vai trò: “Các biểu thức chiếu vật là những cái neo mà phát ngôn thả vào ngữ cảnh để móc nối nó với ngữ cảnh” [17, tr. 187] * Phương thức chiếu vật: dùng tên riêng, biểu thức miêu tả. (Trong câu đố về động thực vật, phương thức chiếu vật chủ yếu là dùng biểu thức miêu tả). b. Nghĩa chiếu vật “Để hiểu được nghĩa của diễn ngôn, trước hết phải xác định được nghĩa chiếu vật của các biểu thức chiếu vật trong diễn ngôn đó. Xác định được nghĩa chiếu vật là xác định được, thứ nhất, thế giới khả hữu – hệ quy chiếu của diễn ngôn và thứ hai, sự vật nào (hoạt động, tính chất, trạng thái nào) trong đó (thế giới khả hữu) được nói tới bằng biểu thức chiếu vật của diễn ngôn đang xem xét.” [15, tr. 63] 30 Theo Đỗ Hữu Châu: “Nghĩa chiếu vật hay sự vật được quy chiếu (referent) của cụm từ (biểu thức chiếu vật (referring expression)” [17, tr. 185] “Sự vật tương ứng với một biểu thức chiếu vật là nghĩa chiếu vật (nghĩa sở chỉ) của biểu thức đó. Nghĩa chiếu vật của các biểu thức chiếu vật thường là sự vật (kể cả người), tuy nhiên, hoạt động, tính chất, trạng thái cũng có thể là nghĩa chiếu vật.” [15, tr. 63] Theo Diệp Quang Ban: Nghĩa chiếu vật (referential meaning) (cũng dịch sở chỉ) là “thứ nghĩa đồng nhất với, hoặc quy chiếu đến một thực thể trong thế giới thực (thực thể này là vật chiếu – referent – của cái nghĩa đó)”... [6, tr. 332] Như vậy, nghĩa chiếu vật chính là sự vật được quy chiếu. Nghĩa chiếu vật của câu đố chính là sự vật được đố (lời giải) ii. Quy chiếu và biểu thức quy chiếu a. Quy chiếu * Khái niệm Lyons cho rằng quy chiếu là mối liên hệ được xác lập giữa người nói/chủ thể phát ngôn với cái mà người nói đề cập đến trong những hoàn cảnh cụ thể. b. Biểu thức quy chiếu * Khái niệm Ngôn ngữ là hệ thống quy chiếu, những gì của thế giới hiện thực đều được biểu đạt thông qua biểu thức quy chiếu, tức là từ vựng của ngôn ngữ. James R. Husford và Brendan Heasley (1997, trang 25) định nghĩa “biểu thức quy chiếu” (referring expression): “By means of reference, a speaker indicates which things in the world (including persons) are being talked about”, tạm dịch: “Biểu thức quy chiếu là phương tiện người nói chỉ ra sự vật nào (bao gồm cả con người) trong thế giới mà họ đang nói tới”. c. Vai trò của quy chiếu và biểu thức quy chiếu Quy chiếu và biểu thức quy chiếu là một phương tiện liên kết của văn bản, là một hành vi dụng học của người viết nhằm thực hiện mục đích giao tiếp. Các biểu thức ngôn ngữ này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập và phân tích diễn ngôn, kết nối văn bản, đảm nhận chức năng liên nhân của ngôn ngữ; góp phần hiểu nghĩa phát ngôn trong từng loại hoạt động giao tiếp cụ thể. 31 Biểu thức quy chiếu không chỉ đơn thuần trỏ tới các sự vật mà còn có thể trỏ tới cả đặc tính, quan hệ, sự kiện, hoạt động khi người nói có ý định cho người nghe/người đọc biết đặc tính, quan hệ, sự kiện nào đang được nói tới. Trong trường hợp có những đặc điểm không tồn tại trong bản thân sự vật. Có thể nói, biểu thức quy chiếu là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng trong giao tiếp. Nếu thiếu đi biểu thức quy chiếu, con người sẽ gặp rất nhiều khó khăn để có thể truyền tải được thông tin cho người khác hiểu mình đang đề cập tới đối tượng nào. Sự liên kết của biểu thức quy chiếu thể hiện trước hết ở tính kết nối giữa “tên gọi” và “sự vật” trong cuộc sống, để người khác có thể biết được đối tượng nào đang được đề cập tới. Theo chúng tôi, đặc trưng ngữ nghĩa của câu đố gồm đặc trưng ngữ nghĩa của lời đố (được hiểu là những đặc trưng/đặc điểm được người ra đố lựa chọn, miêu tả, định hướng quy chiếu vật đố) và đặc trưng ngữ nghĩa của lời giải (nghĩa chiếu vật – vật đố được quy chiếu). Vì vậy, nội dung phần 2.2 – chương 2 và 3.1.1.2. – chương 3 của luận án được chúng tôi triển khai dựa trên lý thuyết về nghĩa chiếu vật, nghĩa chiếu vật, quy chiếu của Đỗ Hữu Châu. 1.2.2.3. Lý thuyết định danh a. Khái niệm Về khái niệm định danh, G.V.Consanski cho rằng, định danh là “sự cố định (hay gắn) cho một kí hiệu ngôn ngữ một khái niệm – biểu niệm (significat) phản ánh cái đặc trưng nhất định của một biểu vật (denotat) – các thuộc tính, phẩm chất và quan hệ của đối tượng cũng như quá trình thuộc phạm vi vật chất và tinh thần; nhờ đó các đơn vị ngôn ngữ tạo thành những yếu tố nội dung của giao tiếp ngôn từ” (dẫn theo [111, tr. 33 – 34]). Theo Nguyễn Như Ý, định danh là “Sự cấu tạo các đơn vị ngôn ngữ có chức năng dùng để gọi tên, chia tách các đoạn của hiện thực khách quan trên cơ sở đó hình thành những khái niệm tương ứng về chúng dưới dạng các từ, cụm từ, ngữ cú và câu” [129, tr. 89]. Ngoài ra, Mai Ngọc Chừ đưa ra cách hiểu về từ định danh là “những từ có khả năng dùng làm tên gọi cho các sự vật, hiện tượng, hoạt động, tính chất, quan hệ, trong thế giới” [22, tr. 195] 32 Như vậy, định danh là một chức năng quan trọng, không thể thiếu của ngôn ngữ. Chúng tôi thống nhất cách hiểu định danh theo khái niệm của Mai Ngọc Chừ. b. Cơ sở của định danh C. Mác quan niệm “Tên gọi của sự vật nào đó không có gì chung với bản chất của nó, tôi hoàn toàn không biết gì về người này, nếu như tôi chỉ biết anh ta là Jakov” (dẫn theo [117, tr. 177]) Đỗ Hữu Châu cho rằng “Nguyên tắc tạo thành các tên gọi là nguyên tắc có lí do” như “Nguyên tắc chi phối các tên gọi trong hoạt động bình thường của nó là nguyên tắc không có lí do” [13, tr. 166]. Nguyễn Đức Tồn thì khẳng định các tên gọi đều có lí do “Tất cả mọi kí hiệu ngôn ngữ đều có lí do, chứ không phải võ đoán” [117, tr. 177]. Theo ông, “không có lí do thì có lẽ khó mà đặt được tên gọi cho một sự vật mới” [117, tr. 178]. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả luận án, định danh có thể có lí do hoặc không có lí do – Đây cũng chính là hai dạng cơ sở của định danh: Thứ nhất, dạng không có lí do (võ đoán): tức là gọi tên sự vật không dựa trên lí do nào cả. Ta sẽ khó có thể giải thích được vì sao lại gọi tên các loài động vật là con trâu, con bò, con gà, hay thực vật là cây tre, cây lúa. Thứ hai, dạng có lí do (phi võ đoán). Ở dạng này, cần xem định danh là một quá trình, bao gồm hai yếu tố là chủ thể định danh và đối tượng được định danh. Căn cứ vào đối tượng được định danh sẽ có lí do khách quan, còn căn cứ chủ thể định danh sẽ có lí do chủ quan. Cụ thể như sau: Lí do khách quan: Đây là loại lí do dễ nhận thấy nhất, vì dấu hiệu khu biệt gọi tên dựa trên một đặc trưng, một thuộc tính nào đó của bản thân sự vật được chọn. Ví dụ: từ đặc điểm cấu tạo của đối tượng “quả trứng” mà có lời đố (20) “Không bưng mà kín” [125, tr. 219]. Lí do chủ quan: ta phải dựa vào ý muốn chủ quan của chủ thể định danh mới biết được lí do vì sao dùng tên này để gọi sự vật – đây là loại lí do không phải ai cũng nhận thấy được. Gắn với đối tượng của luận án, định danh câu đố thực hiện dựa trên cơ sở dạng có lí do (phi võ đoán). Lí do khách quan được dùng nhiều ở lời đố miêu tả trực tiếp; còn lời đố định miêu tả gián tiếp lại chủ yếu sử dụng lí do chủ quan). Không thể có tên vật đố mà ngẫu nhiên tự sinh ra và không có ý nghĩa. Tên vật đố (lời giải) là do người ra đố đặt, người giải đố tìm ra (qua lời đố). Nếu đưa ra lời đố vô nghĩa, không thể lí giải được thì đố - giải không thành công, không có ý nghĩa. 33 c. Các phương thức định danh Căn cứ vào cách thức tiến hành định danh và khả năng lí giải đối tượng định danh, có hai phương thức định danh là định danh trực tiếp và định danh gián tiếp. Thứ nhất là phương thức định danh trực tiếp (phương thức cấu tạo từ, phương thức khách quan). Phương thức định danh này liên quan đến cơ sở định danh (dạng có lí do - cụ thể là lí do khách quan). Nó dựa vào đặc điểm, trạng thái, tính chất của chính đối tượng được định danh hoặc dựa vào sự vật hiện tượng; có liên quan chặt chẽ đến đối tượng để đặt tên đối tượng. Thứ hai là phương thức định danh gián tiếp (phương thức chuyển nghĩa, phương thức chủ quan): Phương thức này “gắn bó khăng khít với sự chuyển nghĩa của các từ” [117] tức là cách gọi nó nhưng không phải là nó. Do cơ sở định danh của phương thức này là dạng có lí do (cụ thể là lí do chủ quan) nên nếu chỉ dựa trên lớp ngôn ngữ bề mặt, nghĩa đen mà từ ngữ đó biểu thị, chúng ta không thể lí giải được ngôn ngữ. d. Đặc trưng tư duy, văn hóa – ngôn ngữ trong định danh Ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau: “Trong ý nghĩa của từ cũng còn ghi giữ lại cả những yếu tố của văn hóa dân tộc như: các hình ảnh, cách so sánh truyền thống, sự biểu trưng.” [117, tr. 98]. Định danh thể hiện khả năng tư duy nhận thức, tư duy văn hóa thế giới khách quan của con người. Theo Humboldt, ngôn ngữ phải được nghiên cứu trong mối quan hệ chặt chẽ với ý thức và tư duy, với văn hoá và cuộc sống tinh thần của con người. Bởi ngôn ngữ không phản ánh trực tiếp thế giới bên ngoài, mà nó cho thấy cách thức riêng của mỗi dân tộc trong việc giải thích thế giới. Ngôn ngữ khác nhau thì thế giới quan khác nhau, các ngôn ngữ khác nhau không phải là những cách biểu đạt khác nhau về thế giới mà là những cách nhìn thế giới khác nhau. Cũng theo ông, cần phải phân biệt giữa “hình thức bên trong” và “hình thức bên ngoài” của ngôn ngữ, của từ; trong đó “hình thức bên trong” gắn với thế giới quan của cộng đồng bản ngữ, còn “hình thức bên ngoài” thì gắn với ngữ âm, ngữ pháp Trong lý thuyết định danh ngôn ngữ, áp dụng ý tưởng của Humboldt khi nói đến “hình thức bên trong” của từ, người ta thường quy vào cách thức người bản ngữ lựa chọn đặc điểm/thuộc tính nào đó của vật làm cơ sở để đặt tên cho nó. Tuy nhiên, có 34 thể thấy rằng trong ngôn ngữ học hiện thời cái công việc nghiên cứu “hình thức bên trong” này thường chỉ tập trung vào các từ, chứ không nhằm tới những kết cấu lớn hơn. Lời đố về động thực vật, những con vật/ cây cối ... thường được miêu tả với một/một số thuộc tính/đặc điểm nào đấy (chúng tôi tạm gọi là “định danh” để nhận diện con vật/cây..); nhằm chỉ dẫn, định hướng và gợi mở cho người giải đố suy đoán, tìm ra lời giải. Nó cung cấp thêm một cách nói thú vị - một kiểu định nghĩa sự vật theo cách tư duy dân gian (theo kiểu định danh bậc hai); đem lại một góc nhìn mới mẻ, bất ngờ về những sự vật, hiện tượng đã trở nên quen thuộc với mỗi người (chứ không giống định nghĩa thông thường trong từ điển). Qua đó, ta nhận ra tài quan sát, sự thông minh và óc phán đoán, nhanh nhạy của nhân dân lao động. Lý thuyết định danh (cùng lý thuyết liên kết logic trong văn bản) được chúng tôi vận dụng để tìm hiểu các đặc điểm được chọn làm miêu tả tố - phần 2.2 chương 2; để thấy được khi miêu tả vật đố (động thực vật), người ra đố thường dựa vào đặc điểm nào, việc lựa chọn những đặc điểm ấy phản ánh điều gì trong tư duy – văn hóa của người Việt. 1.2.2.4. Lý thuyết lập luận Lý thuyết lập luận gắn với tên tuổi của hai nhà ngôn ngữ học Pháp - Oswaỉd Ducrot và Jean Ciaude Anscombre. Lý thuyết này bao gồm nhiều vấn đề (khái niệm lập luận, công thức lập luận, cấu tạo lập luận, quan hệ lập luận, chỉ dẫn lập luận, phân loại lập luận và cơ sở lập luận); song người viết chỉ trình bày những vấn đề liên quan được ứng dụng trong triển khai nội dung chương 3 của luận án: khái niệm lập luận, công thức lập luận, cấu tạo lập luận, quan hệ lập luận và cơ sở lập luận. i. Khái niệm lập luận Trong cuộc sống, con người luôn luôn cần dùng tới lập luận. Dùng lập luận để chứng minh, thanh minh, giải thích hay thuyết phục. Nhà nghiên cứu Đỗ Hữu Châu từng khẳng định Không có diễn ngôn nào không phải là lập luận. Vậy lập luận là gì? Trong Đại cương ngôn ngữ học, tác giả nhận định: “Lập luận là đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói muốn đạt tới” [15, tr. 155]. Đồng quan điểm trên, Đỗ Việt Hùng cho rằng “Lập luận là đưa ra những lí lẽ (được gọi là luận cứ trong lập luận) nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết luận nào đó (mang tính thuyết phục)” [65, tr. 532] 35 Hay đó là “trình bày lí lẽ một cách có hệ thống, có logic nhằm chứng minh cho một kết luận về một vấn đề. Lập luận rất chặt chẽ. Cách lập luận thiếu logic. Những lập luận đó không thể đứng vững” [126, tr. 555] “Lập luận là đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn đến một kết luận nào đấy, các lí lẽ đưa ra được gọi là luận cứ. Luận cứ có thể là một ý kiến mà cũng có thể là sự kiện, một nội dung miêu tả.” [19, tr. 89] Theo định nghĩa của Nguyễn Đức Dân [27] “Lập luận là một hoạt động ngôn từ. Bằng công cụ ngôn ngữ, người nói đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một hệ thống xác tín nào đó: rút ra một (/một số) kết luận hay chấp nhận một (một số) kết luận nào đó”. [27, tr. 165]. Đồng quan điểm trên, nhưng diễn đạt theo một cách khác, Diệp Quang Ban cho rằng: “Trong việc trình bày các ý kiến, người ta có thể từ ý kiến này rút ra ý kiến khác bằng những suy lí. Việc đưa ra những luận cứ (căn cứ để lập luận) nhằm đạt đến một kết luận nào đó (mang tính thuyết phục) được gọi là lập luận” [5, tr. 322]. Như vậy, dù diễn đạt theo những cách khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đều đã chỉ ra bản chất của lập luận là đưa ra những luận cứ (dẫn chứng và lí lẽ) để hướng người đọc, người nghe tới một kết luận nào đó. Dẫn chứng giúp chúng ta tin, lí lẽ để cho chúng ta hiểu, khi đã tin và hiểu thì sẽ bị thuyết phục, lúc ấy lập luận đã thành công. Lập luận được hiểu theo hai nghĩa: Một là chỉ hành vi lập luận (sự lập luận); hai là chỉ toàn bộ cấu trúc của lập luận, cả về nội dung, cả về hình thức (sản phẩm của hành vi lập luận). Trong luận án, chúng tôi thống nhất cách hiểu về lập luận theo quan điểm của Đỗ Hữu Châu: “Lập luận là đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói muốn đạt tới” [15, tr.155]. Cụ thể hơn, lập luận trong câu đố là hành vi ngôn ngữ mà người ra đố đưa ra những lí lẽ (chủ yếu là miêu tả) nhằm dẫn dắt người giải đố tìm ra vật đố (lời giải). ii. Cấu tạo của lập luận Theo Nguyễn Đức Dân [27], một lập luận gồm ba thành tố logic là: tiền đề (luận cứ), kết đề và lí lẽ. Trong đó, dữ kiện (một hoặc nhiều) xuất phát làm cơ sở cho lập luận để suy ra kết đề được gọi là tiền đề; còn kết đề (kết luận) là một khẳng định đích hay là một khẳng định mục tiêu. Lí lẽ (luật suy diễn/luận chứng) là những 36 yếu tố mà từ tiền đề chúng ta suy ra kết đề. Những yếu tố này có thể là những nguyên lí khoa học hay chỉ là lí lẽ trong logic đời thường. Theo Đỗ Hữu Châu [15], trong lập luận, lí lẽ được gọi là luận cứ. Vì vậy, luận cứ và kết luận là những thành phần trong lập luận. Chúng tôi thống nhất theo quan điểm của Đỗ Hữu Châu: Một lập luận đầy đủ có hai phần: Luận cứ và kết luận. a. Luận cứ là tiền đề của lập luận, là những căn cứ để rút ra kết luận. Luận cứ có thể là lí lẽ (là điều suy luận hay một luận điểm, một nguyên tắc đã được chứng minh) hoặc bằng chứng (vật chứng, nhân chứng) Theo Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị Lương [116], luận cứ có thể là những sự việc, hiện tượng trong thực tế, có thể là những lí lẽ thông thường hay những tiền đề, định luật khoa học Nguyễn Đức Dân [27] khi bàn về các phương thức gây hiệu quả lập luận cho rằng có các loại luận cứ (5 phương thức gây hiệu quả của lập luận) Loại 1: Luận cứ là sự định nghĩa: Sự định nghĩa trong lập luận có thể hoàn toàn khoa học, theo đúng phương pháp định nghĩa khoa học, xuất hiện nhiều ở các bộ môn khoa học cơ bản như toán học, hóa học, sinh học. Loại định nghĩa này mang lại những hiệu quả về tri thức ở người nghe. Trong lập luận cũng có thể dùng loại định nghĩa thông thường mang tính chấp nhận được. Nó nêu lên một đặc điểm, một khía cạnh nào đó của sự vật nhằm gây ra một hiệu quả hiển nhiên ở người nghe. Trong câu đố Việt về động thực vật, loại lập luận này được sử dụng nhiều nhất trong những câu đố tả thực. Loại 2: Luận cứ là cấu trúc so sánh: Là hình thức so sánh ngang bằng, không ngang bằng đều có thể dùng làm luận cứ cho lập luận (21) “Cây bằng cột nhà, lá bằng cánh phản” (Cây chuối) [125, tr. 100] Trong lập luận trên, cấu trúc so sánh “Cây bằng cột nhà, lá bằng cánh phản” được dùng làm luận cứ cho kết luận Cây chuối So sánh là một phương thức nhằm tăng cường thêm luận cứ cho lập luận. Một số hình thức ngôn ngữ biểu hiện phương thức so sánh thường gặp trong câu đố Việt về thực vật: bằng, bằng trang, vừa bằng.. 37 Loại 3: Trích dẫn: đây là sự thuật lại một lời nói, một sự kiện hay một tri thức theo cách trực tiếp hay gián tiếp. Lời đố sau được trích nguyên văn trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du). Nếu không biết nỗi niềm - sầu riêng (cô đơn, đau đớn, xót xa) của Kiều khi ở lầu xanh thì cũng khó có thể tìm ra ẩn số cho bài toán đố: (22) “Vui là vui gượng kẻo mà Ai tri âm đó mặn mà với ai.” (Quả sầu riêng) [125, tr. 179] Sự trích dẫn càng chính xác thì càng đạt hiệu quả trong lập luận. (Ở lời đố Việt về động thực vật, phương thức lập luận này được dùng nhiều trong câu đố tá ý). Loại 4: Những câu hỏi và chất vấn trong lập luận: Thay vì khẳng định, nhiều lúc sự đưa ra câu hỏi, câu chất vấn về một yếu tố nào đó lại có tác dụng nhấn mạnh và gây hiệu quả tốt hơn. Có những cách nêu câu hỏi sau đây: Câu hỏi về sự kiện để nhấn mạnh một lập luận. Câu hỏi để nhấn mạnh một sự kiện Câu hỏi để kiểm tra thông tin, kiểm tra tri thức. (Câu hỏi trong lời đố chủ yếu thuộc loại câu hỏi thứ ba). Loại 5: Sự miêu tả: dùng cách miêu tả, tường thuật kể lại một sự việc, nêu những dữ kiện, những con số để củng cố thêm cho chứng cứ, lí lẽ. Vậy, “lõi miêu tả, nói đúng hơn là nội dung miêu tả có thể là luận cứ của lập luận” [19, tr. 91]. Nói cách khác “các thông tin miêu tả có tiềm năng lập luận” [19, tr. 127]. Bởi theo Oswald Durcot “ý nghĩa đích thực của một nội dung miêu tả là giá trị lập luận của nó. Có nghĩa là nội dung miêu tả đó hướng tới kết luận +r hoặc –r nào đó. Giá trị lập luận của +r hoặc -r của một nội dung miêu tả có thể tùy ngữ cảnh, nhưng có những nội dung miêu tả tự nó đã chứa sẵn một hướng kết luận nhất định.” (dẫn theo [19, tr. 92]). Luận cứ trong câu đố chủ yếu là luận cứ miêu tả. Ví dụ để đi đến kết luận là Quả bí đao, lời đố đã miêu tả các đặc điểm cấu tạo, màu sắc từng bộ phận của loại quả này (23) “Hoa vàng mà kết quả xanh. Quả xanh, ruột trắng lại sinh hạt vàng” [125, tr. 83]. Về sự hiện diện, trong một lập luận, có thể có một luận cứ nào đó hàm ẩn. Phương pháp thuyết phục ngầm ẩn: Có những trường hợp người ta không nói thẳng ra lập luận cần đi tới mà dùng những cách nói tạo ra hàm ý là kết luận cần đi 38 tới hoặc dùng các tác tử có định hướng lập luận là những kết luận cần đi tới. Đó là trường hợp người đố dùng lập luận ảo, lập ..., le the mặt nước. Con đỉa 7 Vừa bằng hột lạc, trong nạc ngoài xương. Con ốc 8 Vừa bằng cái kim, chìm xuống ao Đào chẳng thấy, lấy chẳng được. Râu tôm 9 Vừa bằng hột mít Lỗ đít khảm châu. Con đom đóm 10 Vừa bằng hột quýt, Lỗ đít trắng tinh, Bay ra rập rình, Đêm trăng trời tối. Con đom đóm 11 Vừa bằng hạt thóc mà bọc dạ quang ở khắp xóm làng đâu đâu cũng có. Con đom đóm 12 Vừa bằng ngón tay, Thay lay những thịt, Thin thít những lông, Đời cha đời ông, Không ai dám mó. Con sâu róm 13 Vừa bằng cánh cửa, nằm ngửa giữa trời Tàu lá chuối 14 Vừa bằng cái hũ Thò lõ xuống ao Tàu lá chuối 15 Vừa bằng cổ tay Thày lay những thịt Thin thít những lông Bố bảo đem trồng Củ khoai từ PL-9 Mẹ bảo đem bán Chị bảo nấu canh Anh bảo đem luộc. 16 Vừa bằng đứa bé lên ba Nịt ngang lưng thắt, chạy ra ngoài đồng. Bó mạ 17 Vừa bằng đầu đũa Tua tủa xung quanh Già màu đỏ, nhỏ màu xanh Chờ người quân tử hữu tình trao duyên. Quả ớt 18 Vừa bằng đốt tay, Thay lay những máu Đến mùa tháng sáu Con cháu được ăn. Quả sim 19 Vừa bằng ngón tay, thay lay những thịt, Thin thít những lông, bố bảo đem trồng, Mẹ bảo đem bán, con bảo đem luộc, Đánh chén một bữa. Củ từ * Mô hình 2.1.2: Có X (mà) không (chẳng có) Y STT Lời đố Lời giải 1 Làm thịt mà không ăn thịt. Con cá 2 Có chân mà chẳng có tay Con mắt thì có lông mày thì không Có da mà chẳng có lưng Con mắt thì có mà không có mày Con rạm 3 Có lửa không có khói Đêm ngày bốc cháy Đêm thì thấy, ngày thì không. Con đom đóm 4 Cái như cái tổ ong Một trăm bóng nguyệt ở trong cái nhà Ngày thời chơi nguyệt giỡn hoa Tối lại về nhà đông đã quá đông Có cánh mà chẳng có đuôi Vừa bay lên trời đã chẳng thấy đâu. Con ong 5 Có cánh không có đuôi Bay khắp núi rừng, Tụ về một tổ Tròn một quả tròn Ăn cũng ngon, ngửi cũng thơm. Ong và mật ong 6 Mình vàng mà thắt đai vàng Tiếng kêu thỏ thẻ rõ ràng trên cây Có chân mà chẳng có tay Con mắt thì có lông mày thì không Con ong 7 Xà lầu có đầu không cẳng Rắn và cua PL-10 Xà lẳng có cẳng không đầu. 8 Có vú mà chẳng nuôi con Mỗi người mỗi vú, vú non vú già Hồi thương trật áo chia ba Hồi ghét để áo chia ra làm mười. Trái cau 9 Có cây mà chẳng có cành Có quả để dành mà cúng tiên sư Cây cau 10 Có hình mà chẳng có gan Sanh con đẻ cháu bộng thang trong lòng. Cây hành 11 Có thân mà chẳng có lòng Người trong thiên hạ tây đông đều dùng Những người nghèo khổ nói chung Bạn bầu hôm sớm khắp cùng nước non Rau muống 12 Có cây mà chẳng có cành Có hai thằng bé rập rình hai bên. - Có cây mà chẳng có cành, Vài cô tóc xoã dập dềnh đôi bên. Cây ngô 13 Có thân mà chẳng có cành Quả ra giữa mình, hạt bọc trong da Khi cười răng trắng như ngà Non thì râu mọc, già thì rụng râu. Cây ngô 14 Có hoa, không có quả, Lại mang hạt trong mình Hương bay qua bờ ruộng, Lá đội đầu mướt xanh Đầm sâu hoa trắng, hoa hồng Ai khéo tạc lại cho ông Phật ngồi. Cây sen 15 Không có hoa có quả mới kỳ Có hoa có quả cây gì là không? Cây sung 16 Có búp, mà không có nở Có áo, mà không có quần Biết nhảy, mà không có chân Trong lòng gan ruột trắng ngần Tách rời từ mẫu lập thân một mình. Búp măng 17 Có xương không có thịt Có thịt không có da Ở ngoài thì có Ở trong nhà thì không Không có lá lại có cành Quả đâm gai nhọn. Cây xương rồng 18 Cây thấp la đà, có hoa không trái Rau muống * Mô hình 2.1.3: Không X mà (có) Y STT Lời đố Lời giải PL-11 1 Không học mà hay Chim hót 2 Không bưng mà kín. Trứng gà 3 Không phải lưỡi câu mà có ngạnh, Chẳng bị ai đánh bẹp đầu, Còn nhỏ đã mọc đôi râu, Tháng ngày ở chốn đầm sâu vẫy vùng. Cá trê 4 Không vú sao lại phải che Tưởng là nữ giới, ai dè nam nhân. Cua đực 5 Ngỡ là công, không phải công Ngỡ là phụng, không phải phụng Đi đâu cũng đủ vợ, đủ chồng Khó trông bẫy sập, khôn mong bẫy dò. Chim trĩ 6 Không vê mà tròn Quả bưởi 7 Không uốn mà ngay Cây cau 8 Không bào mà trơn, không sơn mà đỏ Không uốn mà khum, không um mà chín. Cây chuối 9 Không bào mà nhẵn Thân cây chuối 10 Không trồng mà mọc Không học mà hay, Không vay mà trả, Không vả mà sưng, Không bưng mà kín. Cây cỏ, chim hót, sưu thuế, cái nhọt, quả trứng 11 Không sông mà lội, Không chợ mà đông, Không chồng mà chửa Gò cỏ may, trường học, cây cau 12 Không vót mà nhọn. Cái gai 13 Không phải núi mà có khe Không phải bưởi mà có múi. Quả khế * Mô hình 2.1.4: Vừa (bằng) trang + X + Y STT Lời đố Lời giải 1 Bằng trang trái cà Trong da ngoài nạc. Mề gà 2 Bằng trang lục lạc Trong nạc ngoài xương. Trứng gà 3 Vừa trang khúc cửi Nó lủi vô lùm. Con chuột 4 Bằng trang lưỡi dao Nó chao dưới nước. Cá lưỡi trâu 5 Bằng trang hột quýt Dưới đít ngậm châu. Con đom đóm 6 Bằng trang sợi chỉ Thủ thỉ ngoài hè Con ruồi PL-12 7 Bằng trang hột cám Mười tám con mắt Con mắt nào con mắt ấy Bằng cái cối xay. Quả bí 8 Bằng trang cườm tay Để ngay bàn Phật. Quả chuối 9 Bằng trang mũi chĩa Nó xỉa lên trời. Cây hành 10 Bằng trang trái quýt Dưới đít có lông. Củ hành 11 Bằng trang trái cà Có hoa dưới đít. Quả măng cụt 12 Bằng trang hột cau Đỏ au bốn phía. Quả ớt * Mô hình 2.1.5: Bằng X + Y STT Lời đố Lời giải 1 Bằng khúc cửi, lủi vô lùm Cái lưng khum khum, cái đuôi thậm thượt. Con chuột 2 Bằng quả lim, khi chìm khi nổi Bằng quả ổi, khi nổi khi chìm. Con đỉa và con ốc 3 Bằng hạt cát, cả hát cả ca. Con bần hàn 4 Bằng hột đỗ, ăn giỗ cả làng. Con ruồi 5 Bằng chiếc đũa dài một gang Lắm đốm, nhiều khoang Xây lâu đài trong lòng đất. Con trùn 6 Bằng nửa cổ tay, nhay nhay những máu Con cháu muốn ăn, bà chẳng cho ăn, bà đem bà bán. Quả chay 7 Bằng cái ách Một trăm khách ngồi Buồng chuối 8 Bằng con gà rằn Nằm lăn trong bụi. Quả dứa 9 Bằng cái mũi khoan, đâm ngay lên trời. Cây hành 10 Bằng trái cau Đau chứng bệnh Quả mù u 11 Bằng ngón tay loay hoay ứa máu Thằng cháu xin bà, bà cáu không cho. Rằng cho mày, mày ăn no Còn gì đem bán để lo việc nhà. Trái xay * Mô hình 2.1.6: X + như (tựa, bằng) + Y + Z STT Lời đố Lời giải 1 Cái bằng bàn tay Mưa ba đêm ba ngày không ướt. Tai bò PL-13 2 Đầu như cọp, đuôi như đinh Bay qua, bay lại trước dinh quan Nghè Có cậu học trò nhà quê Hỏng thi, tiền hết đường về xin ăn Quan Nghè thương kẻ tài năng Số sui, phận rủi bâng khuâng cho tiền Có cậu học dốt láo liên Nghe lỏm câu chuyện đến xin ăn dinh quan Nghè Quan Nghè lại ra đầu đề: “Một con thú khác ồ ề vườn bên” Cậu liền ê a đọc tên Cậu lén học thuộc, nỗi nênh đâu dè Quan Nghè sai lính ra đe Đánh đòn tơi đít dầm dề máu me Chuyện xưa ai biết kể nghe Quan Nghè ứng khẩu ra đầu đề con chi. Con chuồn chuồn, con heo nái 3 Đầu tựa hổ, đuôi tựa đình Phi vân, phi kiếm tiền trình đáo lai. Con chuồn chuồn 4 Cái bằng nồi da, ông bà cũng hãi Ông vãi cũng kinh, kẻ trộm ngồi rình Mà rình không được. Con ong 5 Cái như cái tổ ong Một trăm bóng nguyệt ở trong cái nhà Ngày thời chơi nguyệt giỡn hoa Tối lại về nhà đông đã quá đông Có cánh mà chẳng có đuôi Vừa bay lên trời đã chẳng thấy đâu. Con ong 6 Thân bằng hạt sạn Lạng quạng khắp nhà Nực cười chó ngáp cánh sa Ban đêm trốn biệt, ngày bay ra bay vào. Con ruồi 7 Mình bằng ngón tay Hai dãy cột chèo Lên non rồi lại qua đèo Chèo lia chèo lịa. Con rết 8 Mình bằng quả chuối tiêu L bằng vỏ trấu, lỗ bằng niêu. Con chuột 9 Mình bằng cái kim, khi chìm khi nổi. Cá lòng tong 10 Mình bằng hạt gạo, vỏ bằng hạt kê Hỏi đi đâu về, ông đi làm thợ mộc Con mọt 11 Mình bằng con nhang Đen thui đen thủi Con mọt bắp PL-14 Lấy lúa ngô xây dựng làng Ngô lúa hết thì chịu chết. * Mô hình 2.1.7: X lại bảo/ nhưng Y 1 Trách người quân tử không công Tôi có sinh có đẻ bảo là đàn ông Can cớ chi Ngậm buồn thôi nói năng gì Rừng già ẩn lánh thị phi mặc người. Con chấy 2 Ở gần mà gọi bằng xa Ở đất ông bà có trái, không bông. Cây ngái 3 Mình gần nhưng tiếng lại xa Trong xương, giữa thịt, ngoài da ba tầng. Củ sắn đậu 4 Đứng gần lại bảo rằng xa Có chồng lại bảo rằng ta không chồng. Cây sa mộc 5 Không biết bơi sao ở dưới nước Không có chức tước đeo nó làm chi Phận quần thoa đâu phải tu mi Đam mê chi nó thị phi nẫu cười. Hoa súng 6 Cây trên rừng không lá Cá dưới bể không xương Ngựa long cương không ai dám cưỡi Đất đồng nội không ai dám cày. Cây tơ hồng, sứa, hổ, mồ mả * Mô hình 2.1.8: X không phải X, mà lại Y STT Lời đố Lời giải 1 Chuột chẳng phải chuột, Chim chẳng phải chim, Tối ngày mà lại sáng đêm Đời khinh sao lại còn tìm điểm trang. Con dơi 2 Con gì sống ở trên cây Không chạy như bay cũng gọi là ngựa Không phải thợ xẻ cũng có cưa Không phải cua cũng có càng. Con bọ ngựa 3 Không phải gừng Mà rất cay Bằng ngón tay Mặc áo đỏ. Quả ớt 4 Cá không phải cá Chim không phải chim Rõ ràng cây có lá Mà đẻ ra trứng mới kì Cây trứng cá 5 Không là con gái, như con gái mới kỳ Mình đầy gai nhọn, ai ghẹo chi thẹn thò Cây mắc cỡ 2.2. Mô hình cấu trúc đồng dạng riêng ở lời đố trong câu đố về động thực vật chỉ gồm PL-15 phần thân, phần kết 2.2.1. Mô hình cấu trúc đồng dạng ở lời đố về động thực vật chỉ gồm phần thân, phần kết * Mô hình 2.2.1.1: (Thân) mình vàng mặc áo cánh tiên + X STT Lời đố Lời giải 1 Thân mình mặc áo cánh tiên Đứng đi yểu điệu dáng duyên trong đời Có gì xấu hổ mày ơi! Mà mày than thở, hay cười ai kia? Chim công 2 Mình vàng mặc áo cánh tiên Nửa đêm thức dậy hổ liên vang trời. Gà trống 3 Mình vàng mặc áo cánh tiên Đánh ba hồi mõ, dân liền nhảy ra. Chim gõ kiến 4 Mình xanh mặc áo chỉ vàng Cái ruột tím tím, cái gan hồng hồng Ra đi dạo khắp ruộng đồng Bốn chân chấm đất hai chân co quỳ. Con cào cào 5 Mình vàng thắt đai châu sa Tiếng kêu rủ rỉ như là đàn tranh Thân bé, cánh mỏng bay quanh Hái hoa, bắt nhụy, xây thành nuôi con. Con ong 6 Mình đen mặc áo da sồi Nghe trời chuyển động thì ngồi kêu vang. Con cóc * Mô hình 2.2.1.2 Tám + X + Y + Z STT Lời đố Lời giải 1 Tám thằng dân khiêng cái quả Hai ông hương cả đi không. Con cua 2 Tám thằng dân khiêng cái quả Hai ông xã xách hai cái kềm Một lòng vì nước ngày đêm Xây nhà dưới hố, bên trên giậu rào. Con cua 3 Tám sào chống cạn Hai nạng chống xiên Cặp mắt láo liên Cái đầu không có. Con cua 4 Tám cẳng quằn quại, ôm bao đứng dựa vách. Con nhện 5 Tám chân đi đất không mòn Mà mang trống lệnh trèo hòn núi cao. Nhện ôm trứng 6 Tám tên dân lêu khêu Khiêng bao hàng tổ bố Không đi trên đường lộ Mà trèo trên vách núi cao. Nhện ôm trứng PL-16 * Mô hình 2.2.1.3: X như (bằng) Y + Z STT Lời đố Lời giải 1 Đen như quạ, vàng như hoa Trắng như ngà, xồm như sư tử Không biết một chữ, miệng nói ba hoa Buồn nằm nhà, vui la cà hàng xóm. Con chó 2 Trùng trục như con chó thui, Chín mắt, chín mũi, chín đuôi, chín đầu. Con chó thui 3 To bằng quả ổi, vừa nổi vừa chìm. Con ốc nhồi 4 Lỗ chỗ như mặt sàng, Trong bụng mang đầy nước. Tổ ong, bọng mật 5 Phồm phộp như cái bàn tay Ban đêm thì có, ban ngày thì không Dưới bụng thì trắng như bông Trên lưng nhẵn thín không lông đen sì. Con cóc * Mô hình 2.2.1.4: Mình bằng + X + Y STT Lời đố Lời giải 1 Mình bằng quả chuối tiêu L bằng vỏ trấu, lỗ bằng niêu. Con chuột 2 Mình bằng cái kim, khi chìm khi nổi. Cá lòng tong 3 Mình bằng hạt gạo, vỏ bằng hạt kê Hỏi đi đâu về, ông đi làm thợ mộc Con mọt 4 Mình bằng con nhang Đen thui đen thủi Lấy lúa ngô xây dựng làng Ngô lúa hết thì chịu chết. Con mọt bắp * Mô hình 2.2.1.5: Bốn anh cùng ở (chung) một X + cùng Y + Z STT Lời đố Lời giải 1 Bốn anh cùng chung một tên Cùng đi một buổi như in rành rành Anh thì chiếm bảng dễ dàng Anh thì hôi rích như hình cú ma Anh thì lắm bạn thay là Anh thì bé tí chẳng ma nào nhìn. Chuột cống, chuột chù, chuột đồng, chuột nhắt 2 Bốn anh cùng ở một nhà, Cùng sinh một giống, cùng ra một hình Anh Cả đi lính tuần hành, Anh Hai nhỏ nhắn ra tình quan văn. Anh Ba mộ vụ tùng quân, Anh Tư đến gần, bạn chẳng ai chơi. Chuột đồng, chuột nhắt, chuột cống, chuột chù 3 Bốn anh cùng ở một nhà Cùng sinh một giáp cùng ra một hình Một anh thi đỗ cống sinh Chuột cống, chuột nhắt, chuột chù, chuột đồng PL-17 Một anh quỷ quái như tinh trong nhà Một anh thì xấu nết na Một anh ăn vụng cả nhà đều ghen. * Mô hình 2.2.1.6: Mình vàng mà thắt đai vàng STT Lời đố Lời giải 1 Mình vàng mà thắt đai vàng, Tiếng kêu thỏ thẻ rõ ràng trên cây. Có chân mà chẳng có tay, Con mắt thì có lông mày thì không. Chim bồ các 2 Mình vàng mà thắt đai vàng Tiếng kêu thỏ thẻ rõ ràng trên cây Có chân mà chẳng có tay Con mắt thì có lông mày thì không Con ong 3 Mình vàng lại mặc áo vàng Đang đi trên đàng lội xuống hồ sen Mượn người quân tử vớt lên mình trần. Cái kén và con nhộng * Mô hình 2.2.1.7: Có (những) bạn + X + Y STT Lời đố Lời giải 1 Có bạn giữa ruộng nương Đứng một chân ngủ được Con cò 2 Có những bạn khắc khoải Kêu suốt cả mùa hè. Chim cuốc 3 Có những bạn lẻn lút Kêu vẳng giữa đêm sương Chim vạc * Mô hình 2.2.1.8: Ban ngày + X + Y STT Lời đố Lời giải 1 Ban ngày dạo chơi vườn cam, vườn quýt Tối ẩn vườn đào khu ấy nàng tiên trong giấc chiêm bao Không đánh mày thì ngặt bụng tao Đánh mày thì phải đau tao Nhiều khi tao đánh lấy tao một mình. Con muỗi 2 Ban ngày dạo chơi vườn cảnh Tối lại thơ thẩn má đào Dựa mành tiên chờ lúc chiêm bao Đút (đốt) thiếu nữ đương cơn mộng mị Con muỗi * Mô hình.2.2.1.9: Mẹ đi trước đánh cồng đánh bạt. Con đi sau, vừa X vừa Y. STT Lời đố Lời giải 1 Mẹ đi trước đánh cồng đánh bạt Con đi sau, vừa hát vừa reo. Gà mẹ và đàn gà con 2 Mẹ đi trước đánh bồng đánh bạt Con theo sau vừa quát vừa la. Lợn lái và lợn con PL-18 * Mô hình 2.2.1.10: Mình mặc áo đỏ + X STT Lời đố Lời giải 1 Mình mặc áo đỏ, mà có sáu chân, Làm nghề đào đất Kiến lửa 2 Mình mặc áo đỏ Người nhỏ cả gan Xây nhà lòng đất Giỏi việc đào hang. Kiến lửa 2.2.2. Mô hình cấu trúc đồng dạng riêng ở lời đố về thực vật chỉ gồm phần thân, phần kết * Mô hình 2.2.2.1: Ngoài (trong) X trong (ngoài) Y. STT Lời đố Lời giải 1 Ngoài da cóc, Trong bột lọc, Giữa đỗ đen. Quả na – mãng cầu 2 Trong trắng ngoài xanh, Nó đi chung quanh, Nó dòm, nó ngó, Nó thấy tôi có, Nó rút nó lôi, Khốn nạn thân tôi, Nó lôi, nó rút. Cây bông khi có người hái 3 Trong nạc ngoài xương Biến hóa vô lường Trong xương ngoài nạc. Quả bưởi 4 Bên trong ăn ngọt Bên ngoài ngửi thơm Bụng dạ đầy những tép tôm Da dẻ vàng ửng, có rôm mọc dầy. Qủa bưởi 5 Ngoài xanh trong trắng đầu vàng Tên em nhà gái nhà chàng kết đôi. Quả cam 6 Ngoài xanh trong trắng như ngà Khi khách tới nhà cắt cổ mổ gan. Quả cam 7 Ngoài vàng trong ruột cũng vàng Khách đi ngoài đàng trông thấy liền vô Bà già cắt cổ mời cô Moi gan ăn thử - Hớm hồ thua ai! Quả cam 8 Ngoài xanh trong trắng như ngà Đức ông cũng chuộng đức bà cũng yêu. Trái cau 9 Ngoài xanh, trong đỏ như vang Bán mua thủng thỉnh sao nàng nôn nao. Quả dưa hấu 10 Ngoài xanh, trong đỏ hồng hồng Quan vua cũng chuộng mẹ chồng cũng yêu Mùa hè lắm kẻ nâng niu Quả dưa hấu PL-19 Mùa đông lắm kẻ dập dìu duyên ta 11 Ngoài xanh, trong ruột điểm hồng Mùa hè dễ kiếm, mùa đông khó tìm. Quả dưa hấu 12 Ngoài xanh trong trắng Da cóc xù xì Chẳng họ hàng chi Mà mang tên chuột Quả dưa chuột 13 Trong trắng, ngoài xanh Đóng đanh từng khúc như sừng Sum vầy họ tộc giữa rừng bao la Những ai tuổi tác về già Xuất thân hành đạo, đi ra giúp đời. Cây tre 14 Trong trắng, ngoài xanh Đóng đanh từng khúc. Cây tre * Mô hình 2.2.2.2: Sừng sững mà đứng giữa X STT Lời đố Lời giải 1 Sừng sững mà đứng giữa trời Mặc ba áo kép, mặc mười áo đơn. Cây chuối 2 Sừng sững mà đứng giữa đường Quan đi chẳng tránh lại thường đánh quan Cỏ may 3 Sừng sừng mà đứng gác hồ, Ai đem người ngọc tới ra cho? Người tơ liễu, mặc quần tơ liễu Cổ liêm chì, đeo hột tầm rơi. Cây dừa 4 Sừng sững mà đứng giữa trời Vai mang chùm sọ bọc ngoài vỏ xanh Nước trong, một vũng ngon lành Mùa hè giải khát thoả tình ước ao. Cây dừa và quả dừa 5 Sừng sững mà đứng giữa đồng Chân tay chẳng có lại bồng đứa con. Cây ngô 6 Sừng sững mà đứng giữa trời Chồng con không có chịu lời chửa hoang Cây ngô 7 Sầm sầm đứng ở giữa trời Vai mang bị muối đứng chờ người xưa. Quả mít 8 Sầm sầm mà đứng giữa trời Đeo xâu chuỗi hạt cứu người đói meo Ngẫm trong Chiêm, Việt, Miên, Lào Giàu sang tột đỉnh, đói nghèo mặc ai. Cây sung * Mô hình 2.2.2.3: Chân chẳng đến đất, cật chẳng đến trời. Lơ lửng giữa X + Y. STT Lời đố Lời giải 1 Chân chẳng đến đất, cật chẳng đến trời Lửng lơ mặt nước, không ăn mà đẻ. Cây bèo PL-20 2 Chân không tới đất, cật chẳng tới trời Lơ lửng tầng không bụng đeo bị tép Quả bưởi 3 Chân chẳng đến đất, cật chẳng đến trời, Lơ lửng giữa trời, đeo bị tiền chinh. Quả gấc 4 Chân chẳng đến đất, cật chẳng đến trời, Lơ lửng giữa trời mà đeo bị sỏi Quả lựu 5 Chân chẳng đến đất, cật chẳng đến trời Lơ lửng giữa trời mà đeo bị cát Quả ổi 6 Chân chẳng đến đất, cật chẳng đến trời, Lơ lửng giữa trời mà đeo bị đá. Quả thị 7 Chân chẳng đến đất, cật chẳng đến trời Lơ lửng giữa vời, mà đeo bị đạn Quả ổi * Mô hình 2.2.2.4: Da cóc mà bọc bột lọc, bột lọc mà bọc hòn X STT Lời đố Lời giải 1 Da cóc mà bọc trứng gà, Bổ ra thơm nức, cả nhà muốn ăn. Quả mít 2 Da cóc mà bọc bột lọc, Bột lọc mà bọc hòn than. Quả nhãn 3 Da cóc mà bọc bột lọc Bột lọc mà bọc hòn son. Quả vải thiều * Mô hình 2.2.2.5: Giữa (lưng chừng) trời có X STT Lời đố Lời giải 1 Giữa lưng trời có ao nước lã. Quả dừa 2 Giữa lưng trời có vũng nước trong Cá lòng tong không mong lội tới. 3 Giữa trời có giếng nước tiên Không cho chim uống, chim phiền chim bay. * Mô hình 2.2.2.6: [hai vật/người] cùng có một tên, [vật/người thì X, vật/người thì Y] STT Lời đố Lời giải 1 Hai chị em cùng có một tên Chị ở dưới nước, em lên trên nguồn (rừng) Cây sen 2 Hai người cùng họ khác tên Kẻ ở dưới nước, người lên chiến trường Cây súng, khẩu súng 3 Hai người cùng có một tên Anh dưới vùng vẫy, anh trên dùm dòa Cá chuối, cây chuối PL-21 PHỤ LỤC 2 (Bảng thống kê một số phƣơng thức chơi chữ trong câu đố về động thực vật trong tiếng Việt) B. Đồng nghĩa, gần nghĩa I Câu đố về động vật STT Lời đố Lời giải 1 Ai sinh, ai đẻ mày ra Mày không đoái tưởng, quả là bội vong Lấy chồng mày đi theo chồng Sinh con đẻ cái, rặt dòng vô ơn Chim bạc má 2 Thương chồng mang gối thẳng dông Mẹ kêu mặc mẹ, thương chồng em theo. Chim bạc má 3 Là “bồ” không để đựng Là “bồ” lại chẳng sâu Nương náu ở hồ ao Cớ sao người ít biết? Chim bồ nông 4 Bảy mươi chống gậy mà ngồi Ai kêu đi sớm lần hồi đi theo. Cò ráng 5 Tuy giống hiền mà đeo tiếng dữ Dạo sông Tần bến Sở nghênh ngang Khắp đông tây nam bắc bốn phương Thường thấy bóng anh chàng đi lại. Chim còng cộc, chim cộc cằn 6 Cầu cao, ván yếu, gió rung Anh qua chẳng đặng, cậy còn có em. Chim lão nhƣợc 7 Thôi đừng la lối làm chi Hãy đi kiếm lấy thức gì mà ăn Vài ba con gà tơ măng Mẹ nó dữ chằn chẳng mó được đâu ! Chim ó 8 Giúp người trả mấy ngàn thu Sao người lại bảo ta ngu vô cùng Sách ta mang luôn trong lòng Sao người lại bảo dốt lạ lùng lắm thay Của ta, ta mang xưa nay Sao người lại bảo của ngay đàn bà. Con bò đực 9 Nhìn con lòng mẹ mừng thay Lật xong, con sắp đến ngày biết đi. Con bò 10 Chín mắt, chín mũi, chín đầu, chín đuôi Không nói chuyện xa xôi Chuyện trong nhà ngoài ngõ. Con chó thui 11 Đánh trên đầu, kêu dưới cẳng Đánh dưới cẳng, kêu ở đâu? Con chó 12 Trùng trục như con chó thui, Con chó thui PL-22 Chín mắt, chín mũi, chín đuôi, chín đầu. 13 Hơn đời tốt bộ mày râu, Trong làng sừng sỏ dễ hầu kém ai, Tính quen dâu bộc ăn chơi, Dâm ô để một tiếng cười về sau. Con dê 14 Con gì đến ba cái tên Lỡ bưng, lỡ gánh, lỡ khiêng lạ lùng. Con mang hay còn gọi là con xách, con quảy 15 Cha ở La Mã, mẹ ở Hoa Lư Cụ đạo không phải cụ đạo, Thầy tu không phải thầy tu, Suốt đời không sinh dục. Con la 16 Đầu làng đánh trống ra rả, Cuối làng có mã bông lau, Chạy cho mau, lên rồi sẽ xuống. Con ngựa 17 Trông ra chính thực con trâu, Chín tai, chín mắt, chín đầu, chín đuôi. Con trâu thui 18 Làm thịt mà không ăn thịt. Con cá 19 Ngồi buồn nói chuyện bông lơn Ngó xuống dưới biển thấy con, không thằng. Con cá 20 Ai kêu ai hú bên sông Mẹ kêu mặc mẹ có chồng phải theo. Con cá bạc má 21 Ai sinh, ai đẻ mày ra Nuôi mày khôn lớn, mày ra lấy chồng Lấy chồng, theo về nhà chồng Không thèm thăm viếng, tiếc công nuôi mày. Con cá bạc má 22 Đồng ai có một nấm rơm Khói lên nghi ngút không thơm chút nào Bắc Đẩu lại hỏi Nam Tào Thế ở hạ giới thằng nào đốt rơm. Cá cháy 23 Lưng xám xịt Bụng trắng phau ở nơi đâu cũng chè bè, dẹp lép vốn ở dưới nước lại chết vì nước. Cá đuối 24 Cớ sao mà phải chịu nghèo Cớ sao hờn oán mà theo cắn người Con mạt 25 Gối rơm theo phận gối rơm Có đâu dưới thấp mà chồm lên cao. Cá leo 26 Mình nhỏ mà khá chắc Nhanh chậm đều đi ngang Không xây mà có gạch Con cua PL-23 Để trong bụng sẵn sàng. 27 Mồm bò không phải mồm bò Lại phải mồm bò Con ốc 28 Cha truyền con nối Hành tội người ta Chẳng đậu thủ khoa Đậu đầu thiên hạ. Con chấy 29 Thân ở dưới biển Làm chúa ở trên non Mặc áo nhuộm nhiều màu Râu ria dài thậm thượt. Tôm hùm 30 Cánh tôi mỏng mảnh đường hoa Tên tôi nếu nói gọi ra hai lần Bay vừa tôi bảo trời râm Bay cao trời nắng, thấp dần trời mưa. Con chuồn chuồn 31 Than thân dòng mỏng như tờ, Thế gian ai cũng gọi ra hai lần, Tìm nơi quân tử gửi thân, Biết đâu là tổ nó gần hay xa. Con chuồn chuồn 32 Thân nho nhỏ, đuôi dài dài Một tên mà gọi thành hai lạ đời Ban ngày vườn kiểng dạo chơi Ban đêm trốn biệt, đâu nơi, khôn tìm? Con chuồn chuồn II Câu đố về thực vật STT Lời đố Lời giải 1 Bốn bề súng nổ đùng đùng Cửa thành đóng kín anh hùng tính sao? Rang hạt bí 2 Cũng dây cũng lá khác gì đâu Chẳng phải dưa, cũng chẳng phải bầu Hỏi đến ngập ngừng không nói được Đánh cờ nước ấy chịu buồn rầu. Quả bí 3 Tới không đường, lui không đường Trước khó, sau càng khó. Quả bí 4 Xe xe ngựa ngựa nghênh ngang Ai ngờ nước pháo ăn sang tượng bồ Sĩ đang lúng túng bơ ngơ Tướng đành chịu phép bàn cờ đành thua. Quả bí 5 Muốn giữ thì rịt chẳng rời Ai mua chẳng bán, ai cười chẳng nao Chạnh niềm săn sóc quản bao Lẽ đâu đem cái ngọt ngào cho ai. Quả cam 6 Nào khi nắng sớm mưa chiều Ôm lòng mà chịu những điều gian nan Cây cam PL-24 7 Trông chàng mà chẳng thấy chàng Để dành một chữ má hồng vô duyên. Quả cam 8 Hoa gì vạn tuổi lừng danh? Hoa cúc vạn thọ 9 Hoa gì bé ngủ Ngan ngát hương đưa Nửa đêm về sáng Hương càng nức hương Hoa dạ hƣơng 10 Má ơi con muốn lấy chồng Ôn dịch bắt mày để đấy cho tao. Cây dành dành con 11 Dù hư cũng tiếng thơm hoài Có trăm con mắt đố ai thấy đường. Quả dứa 12 Cây cao, cây khá là cao, Ai ai cũng liệt nó vào cây thấp. Cây dƣới 13 Anh ta họ mận lá đài Hạt kêu chật chội ra ngoài đùa chơi Quả đào lộn hột, quả điều 14 Trải bao đêm trắng cùng mưa móc Vẫn một màu son với chị em. Hoa đào 15 Hai tên – tên đỏ, tên hường Tên nào cũng đẹp dễ thương lạ lùng Ví bằng em chưa có chồng Đây anh chưa vợ - chỉ hồng xe duyên Quả đào 16 Dài dài chiều dọc một gang Cha ai mà lại nghênh ngang tôn mình Quả đậu phụ 17 Nghĩ mình cũng chánh vì vương Cớ sao phải chịu tuyết sương dãi dầu. Cây đế 18 Chẳng thiếu mà cũng chẳng thừa Thân em hương sắc có vừa dạ anh? Là gái, cha mẹ dỗ dành Là trai, cha mẹ bất bình đuổi đi. Cây đu đủ 19 Làm người ăn chơi chẳng thiếu, Tay bỏ ra yểu điệu Mình trăm ngấn nẫn nà Sinh con, sinh cháu bỏ ra tứ bề. Cây đu đủ 20 Quả gì không thiếu, không thừa, Ai mà ngã nước thì chừa nó ra. Quả đu đủ 21 Quả mọc bốn bên, Xanh trên chín dưới, Cứ nghe tên gọi, Chẳng thiếu chẳng thừa. Quả đu đủ 22 Tên em không thiếu, chẳng thừa Tấm lòng vàng ngọt, ngon vừa lòng anh. Quả đu đủ 23 Trái chi chi không thiếu, không thừa Những người nhạy cảm, hãy chừa nó ra. Quả đu đủ PL-25 24 Hoa gì theo ánh mặt trời? Hoa hƣớng dƣơng 25 Cành vàng đậu nhánh cành xanh Hôm nay đâu lại nối thành hôm sau. Cây mai 26 Không là bữa nay Không là bữa mốt Bốn mùa đều tốt Bốn mùa trổ hoa Xinh xinh đứng trước hiên nhà Đàn ông cũng thích, đàn bà cũng ưa Hoa mai 27 Cây họ mận lá xanh tươi Hoa soi xuống nước trăng ngời, đợi ai. Hoa mai chiếu thuỷ 28 Bốn mùa nghe đều có Đâu phải chỉ mỗi mùa Giả thử đem tiền đi mua Biết tìm đâu cho thấy May ra vào dịp tết Cũng có một vài nơi Thành thị thì hời Thôn quê giá đắt Mai tứ quý 29 Lưng đâu sao gọi là đầy Việc chi mà phải đêm ngày van xin Người người sao khéo cả tin Dâng cúng Trời, Phật được thêm phước lành. Quả mãng cầu 30 Hoa gì mọc ở trên đầu hùng kê? Hoa mào gà 31 Chàng Vương quen mặt ra chào Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa. Cây mắc cỡ 32 Nghĩ mình võ vẽ bút nghiên Biết đâu sách thánh kinh hiền là đâu? Quả me dốt 33 Nghĩ mình tăm tối nhiều bề Sử kinh chẳng thuộc, thì đề cũng không. Quả me dốt 34 Da xù xì, bụng đeo túi mật Tên là con gái nghe thật là xinh Don don vừa bằng lộc bình Giá treo vàng chín, nặng tình với ai. Mít tố nữ 35 Hoa trắng như hoa mận Quả đẹp tựa quả đào Tên gọi mới đẹp làm sao Đêm đêm nhiều mộng ước Cây mơ 36 Hoa trắng như hoa mận Quả đẹp tựa quả đào Tên gọi mới mê sao Hát cười trong giấc ngủ. Cây mơ 37 Chểnh mà chểnh mảng PL-26 Ngủ sớm dậy trưa Bạn nhỏ không ưa Hoa gì thế nhỉ? Hoa mƣời giờ 38 Ở gần mà gọi bằng xa Ở đất ông bà có trái, không bông. Cây ngái 40 Cây chi không leo mà té? Cây nhào 41 Cây chi không vò mà nát? Cây nhàu 42 Hoa gì sớm nở chiều tàn Kẻ qua người lại chẳng ngỡ ngàng đoái trông. Hoa nở ngày 43 Quả vàng, hoa trắng, lá xanh Quýt cam làm chị, làm anh tức thì Tên nghe mới thật dị kỳ Nghe như chú bé ham bi bị đòn. Cây quất 44 Cây gì ham uống Cây sặc 45 Đi bao dặm đường Hoa sao vất vả Về đây với bé Giữa giàn cao cao. Hoa thiên lý 46 Hoa gì muôn dặm đường dài? Hoa thiên lý 47 Học thì giỏi, không đi thi Ức tình với bạn ra đi ở chùa. Cây thông 48 Học thì giỏi, đi thi thì không Thích ở non cao, chẳng thích ở đồng Hai lăm tháng chạp người trồng khắp nơi. Cây thông 49 Đầu thì đội nước, Đuôi thì ở thượng thiên, Mang năm cánh trắng lá mềm, Nằm trong chậu nước, êm đềm chơi xuân. Cây thuỷ tiên 50 Đi đâu mà chẳng thấy về Hay là quần tía dựa kề áo nâu. Hạt tiêu 51 Ví dù sấm sét búa rìu Yêu anh em cũng cố chiều ý anh. Cây tùng 52 Sống lâu muôn tuổi là ai Mà trong thực tế không ngoài tuần trăng Hoa vạn thọ B. Đồng âm, gần âm I Câu đố về động vật STT Lời đố Lời giải 1 Bốn cột một kèo Có lọ mắm heo, mèo bò không tới Con bò 2 Thương thay lũ trẻ bơ vơ Lạc cha, lạc mẹ biết nhờ cậy ai. Chim bồ câu 3 Khi đi bằng cưa ngọn Khi về bằng cữa ngợi.. Con ngựa, cƣỡi ngựa PL-27 4 Chiếc tàu nó chìm đáy sông Cái mui nó mục, cái cong nó còn. Con còng 5 Làm trai cho đáng nên trai, Sông sâu không quản, lối dài không lo, Một mình vui thú giang hồ, Vợ thì không dạm, các cô đứng nhìn. Con trai 6 Trai thanh tân vui thú giang hà Sao anh trẻ mãi, không già hả anh? Con trai 7 Kiển tố vừa đố vừa giảng Bằng cái nồi ba tha la kiển tố Tổ kiến 8 Bằng trang lưỡi dao Nó chao dưới nước. Cá lƣỡi trâu II Câu đố về thực vật STT Lời đố Lời giải 1 Ai mua mà mãi tới lui Thử hỏi làm vui gì bán Giàn bí – nói lái 2 Nửa làm mứt Nửa nấu canh Đến khi mất sắc theo anh học trò Quả bí và bút bi 3 Ruột vàng như nghệ Da lại xanh rì Chẳng tính toán chi Thế màbấn bí. Quả bí 4 Má ơi, đừng đánh con hoài Để con câu cá, nấu xoài má ăn. Cây cà quánh con 5 Người chết năm ngoái Để dái năm nay. Quả cà dái dê 6 Cưới nhầm lại cái, mẹ ơi Em tôi gả nhầm nơi đàn bà. Rễ cái dâu đực 7 Da em nắng rám màu dâu, Mà lòng vẫn giữ trắng phau mới là. Quả dâu gia 8 Ngoài xanh, trong trắng Da cóc xù xì Chẳng họ hàng chi Mà mang tên chuột Quả dưa chuột 9 Thân ở Việt Nam, lá ở bên Tàu Trên nguồn, dưới biển đâu đâu Đứng làm tán lọng, chờ hầu người xưa. Cây dừa 10 Ruột gan đặc sịt Da thịt nhẵn lì Chẳng biết chữ gì Đi thi cũng “đậu” Củ đậu 11 Thân hình bé nhỏ PL-28 Áo lụa đỏ au Chẳng dám đi đâu Thế mà cứ lạc. Hạt lạc 12 Hoa gì hẹn đến ngày mai? Hoa mai 13 Sinh ra ta đã cùng tên, Anh ở dưới đất, tôi trên bầu trời Tôi thì thành hạt mưa rơi, Anh buộc rổ rá, giúp người làm dây. Cây mây, mây trên trời 14 Bán đâu mà bảo rằng mua Đi học mực đỏ dây dưa khắp người Phố sang chẳng ở, ở đồi Bởi vì yêu đất nên người thuỷ chung Hoa mua 15 Ai đi ngoài ngõ ngó vô Bà tôi qua sở, sang Ngô chưa về. Cây ngô 16 Trái gì tên đượm mối sầu Nhưng ăn vào chẳng thấy rầu lòng ai. Trái sầu riêng 17 Quả chua nhưng chẳng ngoa Tên nghe xấu xa, viết ra chẳng xấu Quả sấu 18 Hoa gì nuôi bé Từng tháng từng ngày Bé lớn bằng này Má hồng bụ sữa. Hoa sữa 19 Trái gì tên gọi dịu êm Nhớ bầu sữa mẹ nuôi em thuở nào? Quả vú sữa 20 Trai Đà Lạt, cưới vợ sài Gòn Môn đăng hộ đối cô còn chê xa. Trái Xabôchê

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_dac_diem_cau_truc_ngu_nghia_va_lap_luan_cua_cau_do_v.pdf
  • pdfTHÔNG TIN TÓM TẮT TA - Vũ Thị Hương Giang.pdf
  • pdfTHÔNG TIN TÓM TẮT TV - Vũ Thị Hương Giang.pdf
  • pdfTóm tắt Tiếng Anh - Vũ Thị Hương Giang.pdf
  • pdfTóm tắt Tiếng Việt - Vũ Thị Hương Giang.pdf
Tài liệu liên quan