MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình hội nhập, làn sóng đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng trong đó có nhiều doanh nghiệp của Nhật Bản. Đến cuối năm 2006, đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam đạt 7,4 tỷ USD. Nhật Bản đang được coi là nhà đầu tư hiệu quả nhất tại Việt Nam, đứng đầu về số vốn thực hiện, trong đó chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp (85%). Chính phủ hai nước đều thể hiện quyết tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doa
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1574 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh nghiệp Nhật Bản làm ăn tại Việt Nam thông qua việc ký kết và thực hiện Hiệp định xúc tiến, bảo hộ đầu tư và sáng kiến chung nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
Lực lượng lao động Việt Nam được thu hút vào làm việc trong các doanh nghiệp Nhật Bản ngày càng nhiều. Điều đó đã đóng góp đáng kể vào sự ổn định và phát triển nền kinh tế, nó giải quyết được nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động.
Trong thời gian qua thực tế cho thấy, lợi ích người lao động trong các doanh nghiệp có vốn Nhật Bản, phần lớn được đảm bảo, không xảy ra các cuộc đình công, bãi công của công nhân, ông chủ đánh đập công nhân như một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác …
Bên cạnh những thành tựu đó cũng còn có những hạn chế gây ảnh hưởng đến lợi ích của người lao động mà nếu để kéo dài sẽ gây bất lợi không nhỏ đối với sự phát triển không chỉ của người lao động mà còn đối với chính DN. Đầu tháng 10.2006, Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) đã công bố kết quả điều tra về xu hướng và các vấn đề lực lượng lao động và tình hình phát triển nguồn nhân lực ở châu Á, trong đó có Việt Nam. Kết quả của cuộc điều tra này cho thấy, tại Việt Nam, tỷ lệ các công ty lo ngại về vấn đề tăng lương đặc biệt cao, chiếm tới 75,9%. Mặc dù tăng lương là xu hướng khá phổ biến ở hầu hết các nước, nhưng ở Việt Nam, các công ty Nhật Bản vẫn khai thác được lợi thế về mức lương thấp. Xét tới mức lương hàng tháng, khoảng cách giữa lương của các công nhân ở Việt Nam và ở miền Nam Trung Quốc có khoảng cách đáng kể, khoảng 70 – 80 USD (với cùng một công việc như nhau) [43].
Do đó, vấn đề lợi ích kinh tế của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn nước ngoài là một vấn đề cần được nghiên cứu trong tình hình hiện nay, để có những giải pháp cần thiết. Xuất phát từ thực tế đó, Học viên chọn đề tài: "Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề lợi ích kinh tế ở các DN nói chung và các DN có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng đã có một số tác giả đã nghiên cứu:
- Lợi ích kinh tế cá nhân của người lao động trong các doanh ngiệpNhà nước ở nước ta (Qua thực tiễn ở Hải Phòng) (Luận văn Thạc sĩ, 1995) của Đỗ Đăng Dân.
- Lợi ích kinh tế của người lao động, vai trò của công đoàn với việc bảo vệ lợi ích này trong các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân (Luận văn Thạc sĩ, 1995) của Nguyễn Lợi.
- Trần Quang Lâm, An Như Hải chủ biên (2006), Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đỗ Lộc Diệp (2003), Mỹ - Âu - Nhật văn hoá và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Trần Thị Nhung, Nguyễn Huy Dũng (2005). Phát triển nguồn nhân lực trong các công ty Nhật Bản hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản (Luận văn Thạc sĩ, 1998) của Đỗ Viết Thẩn.
- Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh tế trong nông nghiệp tập thể hiện nay ở nước ta (Luận án. PTS, 1988) của Nguyễn Duy Hùng
- Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng nó vào lực lượng vũ trang trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam (Luận án Tiến sĩ khoa học quân sự, 1998), Học viện chính trị Quân Sự
Tuy nhiên để đi sâu vào vấn đề "Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội" thì chưa có tác giả nào nghiên cứu. Do đó, chúng tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở kế thừa các tư liệu đã có, kết hợp với khảo sát thực tiễn
nhằm góp phần làm rõ thêm những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội. Trên cơ sở đó nhằm đề xuất những phương hướng và giải pháp góp phần bảo vệ lợi ích kinh tế cho người lao động trong các doanh nghiệp có vốn nước ngoài.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích trên, luận văn đi vào giải quyết các nhiệm vụ sau:
Một là: Hệ thống hoá làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích kinh tế nói chung và lợi ích kinh tế cá nhân người lao động nói riêng.
Hai là: Đi sâu nghiên cứu về thực trạng tình hình lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản, vạch ra những mặt ưu điểm và hạn chế cần phải khắc phục.
Ba là: Đề ra được hệ thống giải pháp, nhằm bảo vệ lợi ích của người lao động. Từ đó đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhật, góp phần vào công cuộc xây dựng, kiến thiết, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế trên địa bàn thủ đô và trong cả nước.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Đầu tư nước ngoài là một phạm trù rộng, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản.
- Đề tài chỉ nghiên cứu lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội, còn sự đầu tư của các quốc gia, và các lĩnh vực khác không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.
- Phạm vi nghiên cứu là các tư liệu có được trong khoảng thời gian từ năm 1993 – 2006.
4. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp chủ yếu của Kinh tế chính trị Mác – Lênin, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: khảo sát thực tiễn, thống kê, phỏng vấn chuyên gia, phân tích tổng hợp, so sánh…
5. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được trên đây, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập ở các trường Cao đẳng và Đại học trong khuôn khổ môn Kinh tế chính trị.
- Luận văn có thể sử dụng là tài liệu tham khảo bổ ích cho việc soạn thảo các văn bản pháp lý đối với việc sử dụng lực lượng lao động của các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Thông qua những thành tựu và những đóng góp. luận văn có những ý nghĩa thực tiến góp phần giúp cho các doanh nghiệp nước ngoài có vốn đầu tư ở Việt Nam cần phải có quan điểm và nhận thức sâu sắc về vai trò của lợi ích kinh tế đối với người lao động, trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó họ có thái độ cư xử đúng đắn, phù hợp với đạo đức, với quy ước của pháp luật trong quá trình các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.1. LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
1.1.1. Bản chất lợi ích kinh tế và lợi ích kinh tế của người lao động
1.1.1.1. Bản chất của lợi ích kinh tế
Trong bất cứ nền sản xuất xã hội nào, lợi ích kinh tế đều là mối quan tâm của tất cả các chủ thể kinh tế và các thành viên trong xã hội. Điều đó được biểu hiện rất đa dạng, phong phú. Do đó, lợi ích kinh tế là vấn đề cơ bản xuyên suốt mọi nền sản xuất, của toàn bộ tiến trình vận động và phát triển của lịch sử. Theo quan điểm của các nhà kinh điển thì lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của những quan hệ xã hội, những quan hệ kinh tế trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong tác phẩm “Vấn đề nhà ở” Ph.Ăngghen đã viết: “Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích” [30, tr.376].
Khi bàn về lợi ích các nhà nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đã nêu lên những khái niệm về lợi ích kinh tế:
V.P Ca-man-kin cho rằng: “Lợi ích kinh tế của một chủ thể nhất định là sự tác động lẫn nhau giữa các nhu cầu kinh tế của chủ thể đó” [6, tr.13].
Theo quan điểm của tác giả Đào Duy Tùng thì: Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện những quan hệ kinh tế, quan hệ giữa người và người trong sản xuất [39, tr.9].
Điều này thể hiện: người nào nắm tư liệu sản xuất, điều hành quá trình sản xuất, quyết định phân phối sản phẩm cũng chính là người giữa vai trò quyết định trong hệ thống sản xuất.
Tác giả Vũ Hữu Ngoạn cũng khẳng định: Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất… Lợi ích kinh tế là cơ chế tác động chung của tất cả các quy luật kinh tế [33].
Bàn về lợi ích kinh tế tác giả Khoa Minh lại cho rằng: Lợi ích kinh tế là sự biểu hiện của những quan hệ kinh tế đối với việc thoả mãn những nhu cầu vật chất cần thiết cho đời sống dưới hình thức mục đích xác định của hoạt động kinh tế của con người…Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện cụ thể các quan hệ kinh tế và quy luật phản ánh các quan hệ kinh tế đó [32, tr. 296].
Theo Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin: Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách quan của các chủ thể kinh tế khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ sản xuất quyết định [2, tr.289].
Từ những quan điểm khác nhau trên thấy rằng: Trong bất cứ xã hội nào con người muốn tồn tại phải thoả mãn nhu cầu về ăn mặc, ở, đi lại, bảo vệ sức khoẻ, học tập và giải trí. Nói cách khác con người muốn sống, tồn tại cần thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần để phát triển thể lực và trí lực của mình. Toàn bộ những nhu cầu đó được biểu hiện dưới một hình thức chung nhất chính là lợi ích kinh tế. Nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển kinh tế xã hội.
Trong xã hội có nhiều động lực như động lực kinh tế, chính trị … song động lực chủ yếu, suy cho cùng, là động lực kinh tế vì nó có ý nghĩa quyết định thúc đẩy con người hành động, chi phối nội dung các động lực khác. Cuộc sống của con người bao giờ cũng đòi hỏi nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng cao. Nhưng không phải bất kỳ nhu cầu nào của con người cũng được thoả mãn và đều là lợi ích kinh tế, mà chỉ có những nhu cầu mang tính hiện thực mới được thoả mãn và mới thuộc phạm trù lợi ích kinh tế. Nhu cầu đó phụ thuộc vào trình độ phát triển của phương thức sản xuất nhất định. Hay chính là: không phải bản thân nhu cầu là lợi ích kinh tế, mà nhu cầu khi được xác định về mặt xã hội mới trở thành lợi ích kinh tế. Như vậy, lợi ích kinh tế có liên quan đến nhu cầu của con người. Nhưng không phải mọi nhu cầu của con người đều trở thành lợi ích kinh tế, mà chỉ có những nhu cầu vật chất (nhu cầu kinh tế) mới trở thành lợi ích kinh tế.
Về bản chất phải khẳng định rằng: Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan. Lợi ích kinh tế muốn được thực hiện phải thông qua hoạt động có nhận thức của con người. Và con người càng nhận thức tự giác được phạm trù lợi ích, thì hoạt động của họ càng thu được kết quả cao.
Quan hệ sản xuất là khách quan, nó luôn tồn tại trong vận động (như mọi sự vật hiện tượng). Sự vận động của QHSX biểu hiện ở sự vận động của các quy luật kinh tế do nó trực tiếp sinh ra (nghĩa là khi QHSX được xác lập, làm nảy sinh các quy luật kinh tế phù hợp với bản chất của QHSX). Thông qua sự vận động của các quy luật kinh tế mà QHSX ảnh hưởng tới quá trình sản xuất. Mỗi quy luật kinh tế, phản ánh một mặt của QHSX, các quy luật kinh tế là quy luật xã hội, phương thức hoạt động của chúng đều phải thông qua con người. Do đó, tính khách quan của quy luật kinh tế thể hiện qua lợi ích kinh tế để chi phối con người hành động theo quy luật.
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của QHSX, là một khâu chính của cơ chế tác động chung của quy luật kinh tế do QHSX sinh ra. Không có lợi ích kinh tế thuần tuý tồn tại ngoài con người hoặc là con người không ý thức gì về lợi ích. Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, những con người có khả năng nhận thức nó và vì nó mà hành động. Ở đây, cái khách quan được biểu hiện dưới dạng chủ quan, mang hình thức chủ quan, cái chủ quan do khách quan qui định. Trong thực tế, các động cơ hành động kinh tế của con người có vẻ chủ quan nhưng thực ra nó là động cơ mang tính khách quan. Một mặt, thông qua lợi ích, con người mưu cầu đời sống; mặt khác, thông qua lợi ích mà xu hướng phát triển khách quan của sản xuất xã hội được thực hiện. Vì vậy, lợi ích (trước hết là lợi ích kinh tế) trở thành một trong những động lực cơ bản, phổ biến thúc đẩy sản xuất và đời sống xã hội phát triển. Ph.Ăngghen cho rằng, lợi ích kinh tế là những động cơ đã lay chuyển những quân chúng đông đảo. Và khi chúng biến thành sự kích thích hoạt động của con người “thì chúng lay động đời sống nhân dân”.
Từ sự tiếp cận ở trên có thể khẳng định rằng: Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan nó phát sinh và tồn tại trên cơ sở của một quan hệ sản xuất nhất định, là hình thức biểu hiện trước hết của quan hệ sản xuất và phản ánh mặt bản chất nhất của QHSX. Lợi ích kinh tế không tuỳ thuộc vào yếu tố chủ quan của con người (không tuỳ thuộc ở chỗ là con người có nhận thức được nó hay không, mà do địa vị của họ trong QHSX quyết định).
1.1.1.2. Lợi ích kinh tế của người lao động
Hiện nay ở Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào với hơn 49 triệu người (hàng năm tăng thêm từ 1,3 đến 1,5 triệu người), đang hoạt động trong các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế khác nhau của nền kinh tế quốc dân, bao gồm tất cả những người làm việc trong lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất không vật chất; những người có chuyên môn kỹ thuật; người lao động trực tiếp và gián tiếp, người lao động chân tay và trí óc…Do sự phát triển của phân công lao động xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế, sự gia nhập WTO và nhất là trong một nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, thì cần coi tất cả mọi người - bất kỳ ai? làm gì? ở đâu? thuộc thành phần kinh tế nào? Tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm cho xã hội và thu nhập quốc dân là người lao động
Người lao động ở mọi thời đại kinh tế, đều là những người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, ra những vật phẩm có giá trị sử dụng cho bản thân và cho xã hội. Nhưng trong các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, địa vị kinh tế và do đó địa vị xã hội của họ trong hệ thống các quan hệ kinh tế - xã hội cũng khác nhau. Rõ ràng lợi ích kinh tế của người nô lệ lao động dưới roi vọt của người quản nô khác hoàn toàn với lợi ích kinh tế của người công nhân làm thuê, dưới sự quản lý của các chủ tư bản.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, khi người lao động tự do làm việc theo năng lực và hưởng theo thành quả lao động của mình. Giá trị sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, đồng thời phản ánh được mức thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu đời sống vật chất tinh thần của bản thân và gia đình người lao động. Sự hoạt động của một DN, thì lợi ích kinh tế không phải ở trong nhận thức của con người, mà ở trong một cơ sở kinh tế nhất định, nhưng phương thức thực hiện lợi ích lại tuỳ thuộc vào nhận thức của con người. Do đó, trong quá trình lao động, sản xuất, người lao động không thể đặt lợi ích của mình ngoài sự tồn tại của DN, cũng như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN mà họ đang làm việc. Ngược lại DN không tự nó đưa lại lợi ích cho người lao động, nó chỉ tạo ra khả năng khách quan để người lao động thực hiện lợi ích mà thôi như việc làm, điều kiện làm việc, môi trường thể hiện năng lực….và do vậy, lợi ích kinh tế phản ánh quan hệ kinh tế giữa người lao động với người lao động, giữa người lao động với chủ DN… Điều này đã được Ph.Ăngghen khẳng định: “Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích” [29].
Từ sự nghiên cứu tiếp cận phạm trù lợi ích kinh tế và phạm trù người lao động nói chung, có thể nêu lên một cách khái quát: Lợi ích kinh tế người lao động là trong quá trình sản xuất người lao động đem trí tuệ, tài năng lao động của chính mình để lao động một cách tự giác, sáng tạo nhằm làm ra ngày càng nhiều của cải vật chất thoả mãn tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của bản thân, gia đình và làm tròn nghĩa vụ với xã hội và cộng đồng.
Lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện của các quan hệ kinh tế, các quy luật kinh tế và phản ánh phương thức, mức độ thoả mãn các nhu cầu vật chất, tinh thần của chủ thể kinh tế, của các thành viên khác nhau trong nền sản xuất xã hội. Do đó khái niệm lợi ích kinh tế của người lao động ở nước ta hiện nay thể hiện trên hai nội dung chủ yếu:
Thứ nhất: Người lao động phát huy được khả năng sáng tạo trong một môi trường chính trị - xã hội ưu việt. Thể hiện, người lao động sẽ lao động một cách tự giác, sáng tạo và có hiệu quả ngày càng cao vì lợi ích của chính người lao động, của tập thể, của cộng đồng. Tuy nhiên, muốn biến khả năng đó thành hiện thực, cần phải có một cơ chế, hình thức kết hợp hài hoà các lợi ích kinh tế trong một hệ thống, nhằm khơi dậy phát huy một sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, của từng tập thể và của từng cá nhân người lao động.
Thứ hai: thoả mãn tốt hơn những nhu cầu về vật chất, tinh thần cá nhân và gia đình người lao động. Trong thực tế lao động sản xuất và cuộc sống nói chung, đa phần những người lao động không chỉ quan tâm đến mức độ thoả mãn các nhu cầu về đời sống vật chất (thu nhập thông qua tiền lương, tiền thưởng và các sản phẩm của lao động), ngoài ra lợi ích kinh tế của người lao động còn biểu hiện thông qua việc hưởng thu các phúc lợi xã hội như: quyền có việc làm, chăm sóc ý tế, các khoản phụ cấp, trợ cấp khác.
Như vậy, lợi ích của người lao động là nói tới khả năng lao động và thành quả lao động với cách thức, mức độ thoả mãn những nhu cầu về đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của người lao động. Khi lợi ích kinh tế của người lao động được thực hiện sẽ tạo ra động lực to lớn thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội phát triển. Đồng thời phát triển sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội sẽ tạo ra tiền đề, khả năng thoả mãn ngày càng hơn nhu cầu về đời sống vật chất và tinh thần của người lao động.
1.1.2. Vai trò của lợi ích kinh tế đối với người lao động
Ph.Ăngghen cho rằng: Lợi ích kinh tế là nguyên tắc điều tiết cơ bản mà tất cả mọi nguyên tắc phải tuân theo.Do đó, bất cứ hoạt động nào của con người cũng bị chi phối bởi hai động lực chính đó là: Động lực vật chất (kinh tế) và động lực tinh thần. Để đạt được những kết quả cao trong hoạt động kinh tế, không chỉ duy nhất là hoạt động kinh tế, mà còn cả động lực tinh thần. Nhưng, ở đây hoạt động kinh tế luôn giữ vai trò quyết định nhất, là động lực quan trọng thúc đẩy hoạt động của con người. Vì mọi hoạt động của con người có mối quan hệ phụ thuộc trực tiếp và chặt chẽ vào hai yếu tố đó là: Khả năng của con người và động lực kích thích. Cho nên, các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế bao giờ cũng phải đặc biệt quan tâm đến lợi ích thiết thân của người lao động, tức là lợi ích kinh tế, vì nó luôn là động lực kích thích đối với con người, đối với tập thể và đối với toàn xã hội. Đồng thời khi lợi ích kinh tế được thực hiện thì nó cũng tạo cơ sở, tiền đề để thực hiện các loại lợi ích khác. Đời sống xã hội được phồn thịnh, thì đời sống tinh thần mới được nâng cao. Thực tế đã kiểm chứng; trong cơ chế kinh tế cũ, chúng ta chỉ tập trung quan tâm đến việc hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung bao cấp, mà ít quan tâm tới lợi ích người lao động, có người còn coi lợi ích cá nhân như là một điều xấu, e ngại nó như là cái gì trái với nền tảng căn bản của xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng, điều đó đã làm triệt tiêu động lực của con người trong lao động sản xuất. Từ khi Đảng và Nhà nước ta đề ra chính sách mới, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện phân phối theo lao động: Ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không hưởng. Đã tạo một động lực rất lớn đối với người lao động, kích thích tính sáng tạo, khả năng lao động của mỗi cá nhân trong sản xuất. Vì vậy, nhận thức đúng đắn lợi ích kinh tế là động lực kích thích hoạt động của con người, có ý nghĩa sâu sắc trong việc phát huy nhân tố con người, điều cơ bản nhất là phải giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích kinh tế, và phải coi lợi ích kinh tế là mục tiêu cơ bản nhất của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, nguồn gốc sâu xa của mọi động lực kinh tế được bắt nguồn từ nhu cầu kinh tế và sự đòi hỏi được thoả mãn nhu cầu đó của con người.
Hiện nay, do nắm bắt được vai trò lợi ích kinh tế đối với người lao động là một tất yếu, để thực hiện mục tiêu lợi nhuận của mình các chủ DN đã biết quan tâm chăm lo phát huy yếu tố con người, coi trọng những lợi ích thiết thân của người lao động, dựa vào lực lượng khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề, đặt lòng tin, khắc phục sự kỳ thị, đảm bảo thu nhập xứng đáng với khả năng đóng góp của người lao động, tìm ra cơ chế quản lý phù hợp, coi trong việc sử dụng các quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, cải thiện điều kiện lao động… để người lao động yên tâm làm việc, phát huy tính sáng tạo, đưa lại hiệu sản xuất cao cho DN. Thế nhưng, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số DN kinh doanh kiểu “chụp giật”, lợi dụng sức lực của người lao động để thu lợi nhuận, không quan tâm đến lợi ích kinh tế của người lao động. Dẫn tới các cuộc đình công, bãi công đòi tăng lương…của người lao động đối với giới chủ. Đây là một vấn đề bức xúc hiện nay đòi hỏi các ngành chức năng giải quyết triệt để, làm sao người lao động yên tâm làm việc và được hưởng đúng với quyền lợi của mình.
1.2. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH LỢI ÍCH KINH TẾ CỦANGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.2.1. Đặc điểm sử dụng lao động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Hai mươi năm, từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (12/1987) đến nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreing Direct Investmen: FDI) ngày càng trở thành một trong những nguồn lực quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng lên đã thật sự có tác động tích cực vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế nhiều thành phần. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành nền kinh tế nước ta: “Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm” [11, tr.99]. Để khẳng định tầm quan trọng của chính sách khuyến khích thu hút đầu tư, trên tinh thần thực hiện chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá trong kinh tế đối ngoại, Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thực tế cho thấy khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã có tốc độ phát triển nhanh, đóng góp ngày càng lớn cho tổng sản phẩm trong nước và khẳng định rõ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Thu hút FDI đã góp phần to lớn vào quá trình thay đổi cơ cấu của nền kinh tế, thực hiện CNH, HĐH đưa Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với sự phát triển tích cực của quan hệ ngoại giao với các nước, năm 2006 vị thế của Việt Nam trên thế giới tiếp tục nâng cao, nhất là sau khi trở thành thành viên thứ 150 của WTO, tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 14 tại Hà Nội và Hoa Kỳ thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR), càng làm tăng mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với Việt Nam.
Theo số liệu của Bộ kế hoạch và Đầu tư: Tính đến cuối năm 2004, Việt Nam đã thu hút được 2.098 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng số vốn đăng ký là 17,8 tỉ USD. Riêng năm 2005, số vốn đăng ký là 5,835 tỉ USD, tăng 45,2% so với năm 2004, vốn đầu tư nước ngoài đã thực hiện 3, 747 tỉ USD so với 2004. Đến năm 2006, FDI là điểm sáng nổi bật trong bức tranh kinh tế Việt Nam, với tổng số vốn FDI đăng ký mới và bổ sung đạt trên 10,2 tỉ USD, mức cao nhất từ năm 1988 (8,8 tỉ USD năm 1995) đến nay. Số vốn bình quân 1 dự án 9,4 triệu USD, cao gấp hai lần quy mô bình quân của năm 2005 (4,6 triệu USD/ dự án). Tính đến cuối năm 2006, cả nước đã có 6.813 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 60,4 tỉ, vốn thực hiện (của các dự án còn hoạt động) đạt trên 28,7 tỷ.
Việc thu hút vốn và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài được phân theo địa phương.
Bảng 1.1: Kết quả thu hút vốn và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài phân theo địa phương, giai đoạn 2000 – 2005
TT
Địa phương
Số dự án (%)
Tổng vốn đăng ký (%)
1.
TP. Hồ Chí Minh
30,19
23,4
2.
Hà Nội
11,11
16,74
3.
Đồng Nai
11,45
14,99
4.
Bình Dương
18,44
9,98
5.
Bà Rịa – Vũng Tàu
2,05
7,61
Nguồn: [4].
Theo số liệu trên thấy rằng, các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thuộc các vùng kinh tế trọng điểm vẫn là những địa phương thu hút được nhiều dự án và vốn đầu tư nước ngoài.
Bất cứ một hoạt động kinh tế nào đều gắn liền với lợi ích, bởi các hoạt động kinh tế thực chất là nhằm mục đích là các lợi ích khác nhau. Đầu tư trực tiếp nước ngoài liên quan đến lợi ích của DN nước ngoài, của DN Việt Nam và người lao động làm việc trong các DN đó. DNCVĐTNN khi đầu tư vào Việt Nam, có thể hoạt động đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào, ngành nghề nào mà pháp luật nước sở tại cho phép, với mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Do đó, khu vực nào, ngành nghề nào tạo ra điều kiện thuận lợi, thì khu vực đó, ngành nghề đó sẽ thu hút được vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, nước chủ nhà có quyền ban hành luật pháp riêng cho các nhà đầu tư nước ngoài, còn luật pháp có hấp dẫn họ hay không tuỳ thuộc vào lợi nhuận mà họ sẽ thu được trong quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh.
Thực tiễn hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chỉ rõ rằng: xét về khía cạnh lợi nhuận có sự khác nhau trong hoạt động đầu tư của các DN vừa và nhỏ và các công ty TNCs. Do các DN vừa và nhỏ có vốn đầu tư hạn chế nên thường thực hiện các dự án qui mô nhỏ và trung hạn. Nếu trong trường hợp nước đến đầu tư bị khủng hoảng kinh tế thì các DN đó dễ rút vốn về nước, hoặc không triển khai dự án đầu tư mới. Còn TNCs lớn có chiến lược toàn cầu và mục tiêu dài hạn, nên các dự án đầu tư khi đã lựa chọn thường được thực hiện kể cả trong trường hợp có khủng hoảng kinh tế. Từ đó việc xác định lợi nhuận của hai DN này cũng có sự khác nhau. Nếu như DN vừa và nhỏ cần phải tạo ra được lợi nhuận nhanh, thì các TNCs có thể chịu thua lỗ trong một thời gian nhất định, miễn là sau đó có lãi và toàn bộ chu kỳ của dự án đầu tư thu được lợi nhuận trung bình trên từng thị trường. Từ những đặc điểm trên, khi lợi ích của nước chủ nhà phù hợp với lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài thì dự án đầu tư được thực hiện thuận lợi. Từ đó cho thấy, các đối tác đầu tư vốn lớn trong năm 2006 là Hoa kỳ; Nhật Bản, Hàn Quốc. Với sự gia tăng các dự án của những tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, đặc biệt là Nhật Bản. Cụ thể, trong tháng 11 qua Hội nghị APEC 14 đã báo hiệu dòng đầu tư nước ngoài nói chung và Nhật Bản nói riêng đã và đang đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam. Năm 2006, môi trường kinh doanh của nước ta tiếp tục cải thiện. Ngoài triển khai luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp cùng các nghị định hướng dẫn được ban hành đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu tư, nhiều biện pháp đã được tiến hành nhằm hạn chế và khắc phục tình trạng yếu kém của hệ thống kết cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực…
Đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực vào quá trình thực hiện CNH, HĐH và phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta. Đối với ngành công nghiệp, các DN đầu tư nước ngoài chiếm 38% sản lượng công nghiệp chung của cả nước và có tốc độ tăng trưởng 20%/năm. đầu tư nước ngoài đã góp phần mở ra những ngành công nghiệp mới với công nghệ và phương thức kinh doanh tiên tiến tại Việt Nam. Thể hiện: các DNCVĐTNN chiếm gần 100% về khai thác dầu thô, 80% công nghệ sản xuất ô tô, máy giặt, máy điều hoà nhiệt độ; 60% sản lượng thép cán; 30% xi-măng; 33% thiết bị điện tử; 76% dụng cụ y tế chính xác; 49% da giày; 25% thực phẩm đồ uống… [3]. Các lĩnh vực công nghiệp trên đây đã góp phần tạo ra bước phát triển về tính chất, trình độ hiện có của lực lượng sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất của nước ta phát triển theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế và mục tiêu chung của sự nghiệp CNH, HĐH.
Sự phát triển của FDI đã tác động đến cả chiều rộng và chiều sâu của quá trình tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Từ năm 1991 đến năm 1998 trung bình hàng năm vốn nước ngoài chiếm khoảng 28,7% tổng số vốn đầu tư xã hội; trong đó giai đoạn 1991- 1995 tỷ lệ là 25,7%, từ năm 1996- 1998 gần 30%. Trong giai đoạn 2001 – 2005 tổng vốn FDI thực hiện là 14,3 tỉ USD, vượt 30% so với kế hoạch và tăng 13,6% so với 5 năm trước. Khu vực FDI là lực lượng quan trọng hỗ trợ cho các khu vực kinh tế tế khác trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp lớn vào đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Với gần 20 năm hoạt động, nhưng FDI đã đóng góp một phần không nhỏ vào GDP theo hướng tăng tích cực: Năm 1993: 3,6%; 1995: 6,3%; 1996: 7,9%; 1997: 9,07%; 1998: 10,12%; 1999: 12,3%; 2000: 13,3%; 2001: 13,5%; 2002: 13,91%; 2003: 14,47%; 2004: 14,8%; 2005: 15% và 2006: 15,8% [4]. Như vậy FDI đã đóng góp vào sự tăng trưởng của GDP, vào nguồn ngân sách Nhà nước, đặc biệt có tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp và kim ngạch xuất khẩu. Sự đóng góp này đã tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Khẳng định vị trí, tầm quan trọng của FIE, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định: “Cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng hoá các hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh quan trọng” [13, tr.87].
Đầu tư nước ngoài là nhân tố góp phần quan trọng vào quá trình hình thành một lực lượng lao động mới ở Việt Nam. Những năm qua, theo số liệu thống kê, đầu tư nước ngoài đã giải quyết việc làm trực tiếp cho hơn 860 nghìn lao động có việc làm và hàng triệu lao động khác liên quan gián tiếp
Trong các DNCVĐTNN, quan hệ lao động, trước hết là quan hệ giữa người sử dụng lao động - người chủ và người lao động được thực hiện thông qua hợp đồng lao động giữa công nhân và chủ DN; cũng như hợp đồng lao động tập thể giữa đại diện chủ sở hữu và đại diện người lao động thông qua thoả ước lao động. Một thực tế thường xảy ra là: khi các DN mới bắt đầu đi vào hoạt động, hoặc khi gặp khó khăn về sản xuất – kinh doanh, nhìn chung chủ DN thường muốn trả công cho người lao động thấp hơn so v._.ới số mà họ đáng được hưởng; ngược lại người lao động muốn làm việc ít giờ hơn nhưng được trả công cao hơn. Mâu thuẫn này nếu không được giải quyết thông qua thương lượng giữa chủ DN với đại diện của người lao động sẽ dẫn đến tình trạng đình công, bãi công làm thiệt hại cho DN, cũng như người lao động.
Đầu tư nước ngoài ở nước ta đã thu hút hàng nghìn DN của các nước và vùng lãnh thổ. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hoá trong quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các DNCVĐTNN.
Tất cả những vấn đề thuộc quan hệ giữa những người sử dụng lao động và người lao động được ký kết theo hợp đồng lao động và thông qua thương lượng trên tinh thần hoà giải, nhân nhượng lẫn nhau, tạo sự hiểu biết giữa các nền văn hoá, tập quán sinh hoạt của các dân tộc, hướng đến tạo ra doanh lợi cao cho DN, đồng thời nâng dần thu nhập của người lao động, cải thiện điều kiện làm việc và sinh hoạt của họ
Đã có thời kỳ vấn đề bóc lột trong quan hệ lao động ở các DNCVĐTNN đặt ra như là vấn đề xã hội cần phải giải quyết. Trong thực tế có một số trường hợp chủ DN áp dụng các phương thức thiếu văn minh như kéo dài thời gian lao động, không đảm bảo an toàn lao động và điều kiện lao động tối thiểu, trả lương thấp hơn mức bình quân, kéo dài thời gian học nghề của công nhân để DN có lợi nhuận cao hơn… cần được kiểm tra và xử lý. Song, nhìn chung phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài đã đối xử đúng luật pháp Việt Nam đối với cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và người lao động, chú trọng việc nâng cao thu nhập của người lao động, cải thiện điều kiện lao động và sinh hoạt của công nhân viên chức trong DN.
Theo số liệu thống kê do Bộ lao động - Thương binh và xã hội công bố, chỉ có gần 12% lực lượng nhân công Việt Nam được qua đào tạo (Bộ Lao động - Thương binh và xã hội.- Số liệu điều tra Lao động việc làm năm 2004). Lực lượng nhân công không có chuyên môn kỹ thuật dư thừa trong khi đó lại thiếu lao động chuyên môn kỹ thuật. Thị trường sức lao động Việt Nam vẫn nằm trong giai đoạn hình thành và phát triển chưa cao. Sự chuyển dịch lao động giữa các ngành kinh tế khác nhau tương đối thấp so với các nước. Việc yêu cầu các DN có vốn đầu tư nước ngoài phải tuyển dụng lao động trong nước thông qua các cơ quan tuyển dụng được phép đã hạn chế tính linh hoạt của thị trường sức lao động.
Việt Nam có lợi thế cạnh tranh về đội ngũ nhân công nhiều về số lượng nhưng chất lượng vẫn thấp. Theo báo cáo của JETRO, tháng 6/2006, tiền lương bình quân tháng theo USD của công nhân Việt Nam năm 2005: là 135 USD; kỹ sư: 302 USD; cán bộ quản lý bậc trung là 685 USD; trong khi lương bình quân chung ở khu vực với công nhân là: 205 USD; kỹ sư: 546 USD và cán bộ quản lý là: 1.129 USD.
Sự gia tăng của các DNCVDTNN, đã thu hút được một lực lượng lao động vào làm việc ở khu vực này, nhờ đó mà làm tăng thu nhật cho người lao động và góp phần quan trọng vào ổn định trật tự xã hội.
Trong thời gian qua, cùng với các thành phần kinh tế khác, thì khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút được một số lượng lao động ngày càng tăng. Nếu năm 1990, lực lượng lao động Việt Nam ở khu vực này mới chỉ là 0,004% lực lượng lao động trong cả nước, thì đến năm 2004 nó đã tăng lên 1,7%. Cụ thể, trong thời kỳ 1990 – 1995, đã thu hút 1.784 dự án, với số vốn dăng ký là 25.464 triệu USD và vốn pháp định 11.886 triệu USD. Trong 6 năm đó, lực lượng lao động thu hút làm việc trong khu vực này gần 180 nghìn người, trong đó chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp chế biến (78%), nhà hàng khách sạn (4%), vận tải kho tàng (3%) [44, tr.990]. Với sự phát triển của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, lực lượng lao động thu hút vào làm việc chủ yếu là lao động giản đơn chưa qua đào tạo, do đó mà tăng được thu nhập cho tầng lớp dân cư nghèo, góp phần quan trọng vào tăng GDP và ổn định trật tự xã hội.
Biểu đồ 1.1: Sự tăng trưởng về lao động Việt Nam làm việc ở khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thời kỳ 2000 – 2006
Nguồn: [5].
Từ biểu đồ trên cho thấy, thời kỳ 1996 – 2004, so với thời kỳ trước, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã có sự phát triển cao. Tính đến cuối năm 2004. cả nước đã thu hút được 5.959 dự án, với số đăng ký là 47.380 triệu USD và vốn pháp định là 23.018 triệu USD, thu hút được 739 nghìn lao động trực tiếp và hơn một triệu lao động gián tiếp ở các khâu, gia công, vận chuyển, đai lý. Đến năm 2005, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút trực tiếp hơn 800 nghìn lao động trực tiếp và gần 2 triệu lao động gián tiếp [21, tr.1].
Như vậy, trong thời gian qua đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tuy tốc độ phát triển không đều, nhưng lực lượng lao động làm việc trong khu vực này qua các năm đều tăng. DNCVĐTNN là nơi tạo việc làm cho rất nhiều lao động, phần lớn lao động thu hút vào làm việc trong khu vực này là lao động chưa qua đào tạo và bộ phận không từ khu vực nông nghiệp, nông thôn (có thu nhập thấp). Khi được tuyển dụng vào làm việc thu nhập của họ tăng lên. Theo số liệu của tổng cục thống kê, thu nhập của người lao động ở khu vực này cũng có xu hướng tăng, nếu năm 1994, 1995, thu nhập bình quân bình quân một lao động ở khu vực này là 70 – 80 USD/tháng thì đến năm 2000 đã tăng lên khoảng 100 USD, đến năm 2004 là hơn 110 USD
Trong số lao động làm việc trong các DNCVĐTNN có nhiều lao động chưa được qua đào tạo. Lực lượng lao động trong các DN được tuyển chọn từ nhiều nguồn khác nhau. Họ được làm việc trong hệ thống dây chuyền công nghiệp hiện đại và đòi hỏi tuân thủ kỷ luật lao động cao. Đây cũng chính là môi trường tốt để đào tạo đội ngũ lao động, có phong cách làm việc phù hợp với công việc hiện đại và kinh doanh tiên tiến. Nhiều DNCVĐTNN đã tạo cho lao động Việt Nam có điều kiện được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp cận kỹ năng, công nghệ và kinh nghiệm hoặc được gửi đi đào tạo ở nước ngoài. Người lao động cũng được rèn luyện về kỷ luật, tác phong công nghiệp và thích ứng dần với cơ chế quản lý mới. Qua một thời gian làm việc cho DNCVĐTNN, hiện nay, đội ngũ lao động Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ngày càng trưởng thành và có kinh nghiệm. Thể hiện: theo số liệu thống kê, có 6.000 cán bộ quản lý. 25.000 cán bộ kỹ thuật và trình độ tay nghề của hàng chục vạn công nhân ở các DN có vốn đầu tư được nâng lên rõ rệt.
Thông qua các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, nhiều công nghệ mới, tiên tiến hiện đại được ứng dụng ở nước ta, đã góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ cho nhiều ngành sản xuất, tạo điều kiện góp phần nâng cao trình độ tay nghề, kinh nghiệm quản lý sản xuất, nhân sự, kinh nghiệm kinh doanh trên phạm vi quốc tế, làm tiền đề để phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
Bên cạnh những mặt tích cực thì ở các DN FDI cũng đang đặt ra những thách thức, đe doạ sự phát triển bền vững đối với nền kinh tế nước ta, thể hiện:
Trong quá trình đầu tư, vì mục tiêu lợi nhuận, DNCVĐTNN chỉ chú trọng tập trung vào những lĩnh vực rủi ro thấp, có khả năng thu hồi vốn nhanh, hiệu quả cao như các lĩnh vực công nghiệp tiêu dùng và dịch vụ. Rất ít các công ty tập trung đầu tư phát triển các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, công nghiệp nặng then chốt của nền kinh tế, một số DNCVĐTNN đã nhập khẩu thiết bị cũ, công nghệ không hiện đại, biến nước ta thành “bãi thải phế liệu của thế giới”. Theo thống kê của các cơ quan có thẩm quyền, thời kỳ đầu 70% các thiết bị công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam đều là những thiết bị được chế tạo trước những năm 60-70 của thế kỷ XX. Những năm gần đây, tình hình có thay đổi do chúng ta có nhiều tiêu chuẩn kiểm tra nghiêm ngặt, nhưng nhìn chung các thiết bị công nghệ được chuyển giao về cơ bản không thuộc nhóm công nghệ hiện đại. Từ thực tế trên đã tác động rất lớn đến vấn đề ô nhiễm môi trường, dẫn tới không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp, an toàn cho người lao động. Hầu hết các nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam đều chỉ đạt tiêu chuẩn xử lý ô nhiễm ở mức trung bình, không ít các DN thuộc nhóm xử lý thấp, rất thấp. Trước đây, vì mục tiêu tăng trưởng và việc làm, nhiều chỉ tiêu về môi trường không được đặt ra như những vấn đề có tính chất pháp lệnh trong thu hút đầu tư. Hiện nay vấn đề ô nhiễm môi trường từ thu hút đầu tư, đang trở thành vấn đề bức xúc, cần được giải quyết và quán triện thực hiện.
Nguồn lao động có tay nghề cao đang là vấn đề được đặt ra giữa DN trong nước và DNCVĐTNN. Vì các DNCVĐTNN có ưu thế về lương, thưởng cao hơn DN trong nước, nên đã thu hút được một lượng lao động có tay nghề cao và trình độ chuyên môn vững vào làm việc, dẫn tới “chảy máu chất xám” từ khu vực kinh tế vốn trong nước.
Thực tế cũng cho thấy, còn có hiện tượng một số DNCVĐTNN gian lận, trốn thuế, lấn át bên Việt Nam. Thực tế đã xảy ra đối với Công ty liên doanh, hiện tượng các đối tác nước ngoài ngăn chặn sự phát triển của DN, đẩy chi phí đầu vào tăng, kéo dài thua lỗ để Bên bên không đủ khả năng tài chính, đành rút lui và bán cổ phần cho họ, trở thành DN 100% vốn nước ngoài.
Quá trình thu hút đầu tư nước ngoài cũng đang bộc lộ hàng loạt vấn đề khác rất cần có sự quan tâm: như vấn đề thống nhất về chính sách, vấn đề bất cập của hệ thống pháp luật, chất lượng nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng và môi trường đầu tư… Những vấn đề này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chiến lược thu hút đầu tư - một nguồn lực quan trọng để tạo động lực tăng tốc sự phát triển của đất nước.
1.2.2. Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Hiện nay ở nước ta có hơn 860 nghìn lao động làm việc trong các DNCVĐTNN [4]. Trong bộ luật Lao động Việt Nam đã qui định đầy đủ phương thức hợp đồng lao động giữa đại diện DN và người lao động, cách tính tiền lương và trả lương, bảo hiểm xã hội, quyền và nghĩa vụ của người lao động đối với DN, kể cả quyền được đình công, bãi công…. Lợi ích của người lao động được thể hiện với tư cách là từng cá nhân, đồng thời với tư cách là tập thể thông qua các tổ chức công đoàn.Việc bảo vệ lợi ích của người lao động trong các DNCVĐTNN đồng thời cũng là trách nhiệm của các cán bộ bên Việt Nam làm trong liên doanh hoặc cán bộ là người Việt Nam trong các DN 100% vốn nước ngoài. Do đó, người lao động cần có nhận thức đúng quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong các DNCVĐTNN, bởi thành công của DN cũng đồng thời là sự bảo đảm thu nhập ngày càng tăng và điều kiện ngày càng được cải thiện đối với họ. Các DNCVĐTNN thường áp dụng các phương pháp lôi cuốn người lao động tham gia quá trình sáng tạo trong sản xuất và kinh doanh, như tăng lương trước thời hạn, thưởng tháng lương thứ 13…Trong trường hợp xảy ra mâu thuẫn lợi ích giữa DN và người lao động, thì tổ chức công đoàn sẽ đứng ra giải quyết, nếu mâu thuẫn quá gay gắt, thì cần phải kịp thời giải quyết theo pháp luật hiện hành, tránh làm tổn hại đến lợi ích của DN cũng như người lao động.
Về phía người sử dụng lao động, hiện nay, ở một số DNCVĐTNN, nhiều nơi giới chủ đã và đang có những tác động bất lợi đối với người lao động trong DN như: kỷ luật có tính cưỡng bức, thời gian lao động căng thẳng và kéo dài… Do đó, phần lớn các cuộc đình công xảy ra do giới chủ đã vi phạm các quy đinh đối với người lao động về tiền lương, thời gian lao động và nghỉ ngơi, tuyển dụng lao động, không ký hợp đồng với người lao động, hoặc nếu có thì nội dung sơ sài, vi phạm luật lao động Việt Nam, trong quá trình làm việc thực hiện không đầy đủ các quy định về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hộ lao động, vi phạm an toàn và vệ sinh lao động…có khi còn vi phạm đến danh dự, nhân phẩm của người lao động.
Điển hình là vụ đình công đòi tăng lương xảy ra ngày 12.04.2007 tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Kido Hanoi (Hưng Yên), với 100% vốn Hàn Quốc, chuyên sản xuất may mặc. Nguyên nhân của vụ đình công do giới chủ trả lương quá thấp, kéo dài thời gian lao động mỗi ngày. Theo hợp đồng lao động với mức lương 710.000đ – 790.000đồng/ tháng, thời gian làm việc 8 giờ /ngày và mỗi năm được tăng lương một lần từ 5 – 10% (vào tháng 3 hàng năm). Nhưng trên thực tế, công nhân phải làm việc từ 10 – 12 tiếng một ngày mà không hề trả lương làm thêm theo đúng qui định của BLLĐ. Trong khi đó, chủ DN lại áp dụng các biện pháp quản lý hà khắc với người lao động, khiến họ không thể chịu đựng được. Nhà xưởng toàn lợp tôn nóng bức, nhưng không được trang bị quạt gió cho công nhân, bởi giới chủ sợ gió làm bay vải, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm. Theo phản ánh của người lao động thì đã nhiều trường hợp công nhân bị ngất ngay tại nơi làm việc, do phải làm việc trong điều kiện lao động tồi tệ. Ngoài ra công nhân buộc phải nộp tiền Bảo hiểm y tế, nhưng không được Công ty phát thẻ Bảo hiểm y tế…Không những vậy một số chủ còn áp dụng các kiểu hình phạt rất thô bạo với người lao động mỗi khi họ bị sai sót trong công việc, đó là phạt công nhân đứng im cả buổi ngay trong xưởng. Hành vi, vi phạm pháp luật này cần được lên án.
Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên, đó là do mâu thuẫn giữa chủ DN và người lao động Việt Nam, thể hiện:
Do sự khác biệt về tập quán kinh doanh, về phong tục, về sinh hoạt văn hoá. Vì bên chủ DN đã quen với cơ chế thị trường, với sự cạnh tranh gay gắt, với quan hệ của ông chủ và người làm thuê…, những điều này đối với người lao động Việt Nam còn khá mới mẻ nên đôi khi đã xảy ra xung đột giữa chủ DN và người làm thuê. Mặt khác, do bất đồng về ngôn ngữ đã gây ra những bất lợi cho cả hai phía, gây nên nhữg hiểu lầm lẫn nhau
Trong khu vực FDI, mối quan hệ lao động dựa trên cơ sở sức lao động và tư liệu sản xuất tách rời nhau. Nhưng để tạo việc làm cho người lao động, tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, cách quản lý của tư bản nước ngoài… vào sự phát triển kinh tế của đất nước, trong chừng mực nhất định, phải thừa nhận có quan hệ bóc lột sức lao động, nhưng đây là hình thức bóc lột cần thiết trong điều kiện hiện nay của đất nước và của người lao động. Bên cạnh đó, khu vực FDI tồn tại trong sự kiểm soát của pháp luật của Nhà nước, do đó, lao động làm thuê ở đây, có một phần cũng là làm cho mình và cho xã hội.
Mối quan hệ lao động trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hiện nay, đó là mối quan hệ giữa người sử dụng lao động (chủ DN) và người lao động. Theo qui định tại Chương I, Bộ luật lao động (2005), thì: Chủ DN có quyền tuyển chọn, bố trí, điều hành lao động theo yêu cầu sản xuất kinh doanh, có quyền khen thưởng và xử lý các vi phạm kỷ luật theo qui định của luật lao động, việc trả lương lao động được thực hiện theo quyền hạn của DN với sự thoả thuận của người lao động và chủ DN trên cơ sở lợi ích mà bên này tìm thấy ở bên kia.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động được qui định ở Chương IV- bộ luật lao động, phần lớn các DN đều thực hiện đúng những gì đã cam kết trong hợp đồng với người lao động. Nhiều chủ DN bên cạnh việc trả lương cho người lao động, còn quan tâm đến khen thưởng, sử dụng những người có kỹ thuật cao, đào tạo tay nghề… mở rộng qui mô sản xuất, tăng lương … Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng một số DN trong quá trình thực hiện đã vi phạm hợp đồng, trái với qui ước tại điều 29 của Bộ luật lao động; đó là vấn đề, ngoài tiền công ra, thì các chủ DN đã không quan tâm đến điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm đối với người lao động …điều đó làm cho người lao động không yên tâm làm việc trong DN. Rõ ràng là việc thừa nhận sự tồn tại thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, là thừa nhận sự bóc lột lao động trong phạm vi quản lý của các cơ quan chức năng. Việc các chủ DN chạy theo mục đích lợi nhuận là một điều tất nhiên. Trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động luôn nảy sinh mâu thuẫn về lợi ích giữa chủ DN và người lao động, DN bao giờ cũng muốn trả tiền công cho người lao động và các chi phí với giá thấp, và ngược lại người lao động mong được trả công cao hơn và các khoản phúc lợi khác. Các chủ DN có chiến lược kinh doanh lâu dài bao giờ họ cũng ý thức được rằng, muốn cho DN phát triển, không còn con đường nào tốt hơn là xây dựng mối quan hệ chủ - thợ bình đẳng, cùng có lợi. Người lao động là động lực của quá trình sản xuất, do đó, phải biết tranh thủ, khai thác sức lực, trí tuệ của người lao động để tạo ra năng suất và lợi nhuận cao.Vì mục tiêu không ngừng tăng tích luỹ, tái sản xuất của DN, chủ DN cũng phải quan tâm tới vấn đề tái sản xuất sức lao động, cả lao động cơ bắp lẫn lao động trí tuệ, do vậy, nếu vì lợi nhuận mà chủ DN đối lập với người lao động là một điều không có lợi về lâu dài trong hoạt động sản xuất – kinh doanh.
1.2.2.1. Lợi ích kinh tế trực tiếp
Lợi ích kinh tế người lao động là một trong ba loại lợi ích chủ yếu của nước ta hiện nay, được coi là động lực trực tiếp bên trong của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Cũng như đối với những người lao động khác, lợi ích của người lao động trong các DNCVĐTNN bao gồm tổng thể những quyền lợi của người lao động trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá tinh thần…, trong đó, trực tiếp là lợi ích vật chất (lợi ích kinh tế) đó là tiền công, tiền thưởng, các loại phụ cấp. Lợi ích kinh tế trực tiếp của người lao động, biểu hiện dưới hình thức thu nhập bằng tiền gồm có:
- Thứ nhất: Tiền công
Cùng với quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị
trường, thì sức lao động của người lao động trong các DNCVĐTNN thật sự là một hàng hoá. Theo lý luận tiền công của C.Mác, việc mua bán trao đổi hàng hoá sức lao động được thực hiện thông qua hợp đồng lao động giữa người lao động và chủ DN có nhu cầu sử dụng sức lao động đó. Và khi sức lao động trở thành hàng hoá thì tiền công chính là hình thức biểu hiện bằng tiền là giá cả hay giá trị của sức lao động.
Trên thực tế, hiện nay việc mua bán sức lao động diễn ra trước quá trình sản xuất, số tiền công mà người lao động nhận được sau khi đã tiến hành sản xuất ra hàng hoá hoặc một thời gian nhất định theo số lượng và chất lượng của DN. Đúng như C.Mác đã viết: “giá trị sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức lao ấy” [31, tr.256].
Về nguyên tắc, số tiền công đó phải đảm bảo giá trị của toàn bộ tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động, và để duy trì cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Vì vậy, số lượng giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết đó cũng khác nhau phụ thuộc vào giá trị sức lao động của từng người lao động bỏ ra: “hao phí càng nhiều thì việc bù đắp lại càng lớn” [31, tr.256].
Khi cuộc sống của người lao động và gia đình họ được ổn định, họ sẽ yên tâm lao động, sáng tạo, cống hiến sức lực cho DN. Trong mỗi DN có mục đích kinh doanh, sản xuất riêng, do đó tuỳ theo tính chất công việc mà DN yêu cầu sẽ có mức tiền công khác nhau. Tiền công cơ bản của từng người lao động là cơ sở để xác định đơn giá tiền công trong đơn vị sản phẩm hoặc đơn vị thời gian. Việc trả tiền công theo đơn vị sản phẩm hay đơn vị thời gian có tác dụng kích thích người lao động tăng cường độ và năng suất lao động phát huy tinh thần sáng tạo, có ý thức trách nhiệm với công việc của DN.
Trong DNCVĐTNN tính chất thị trường của tiền công được thể hiện rõ nét, tiền công chịu sự chi phối rất lớn của thị trường và thị trường lao động, tiền công trong khu vực này cho dù vẫn nằm trong khuôn khổ phát luật và theo những chính sách của Nhà nước Việt Nam, nhưng là những hợp đồng trực tiếp giữa chủ DN và người lao động, hay là giữa bên làm thuê và một bên đi thuê thông qua quan hệ thuê mướn lao động - trả thù lao theo thoả thuận.
Tiền công là giá cả sức lao động của người lao động, cho nên nó cũng bị tác động của quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Điều đó đôi khi cũng gây nên những biến động lớn về tiền công của người lao động. Nó có thể lên xuống tuân theo lượng cung và lượng cầu về lao động. Một mặt, các chủ DN đã lợi dụng tình hình cung lớn hơn cầu về lao động mà trả tiền công dưới giá trị sức lao động, thậm trí trả dưới mức tối thiểu của giá trị lao động để thu lợi nhuận cao, nhất là đối với các DN hoạt động với mục đích lợi nhuận là trên hết. Điều đó dễ gây ra cảnh bất công, bần cùng hoá người lao động, dẫn đến đình công, bãi công đòi tăng tiền lương, dẫn đến xung đột xã hội và tác động tiêu cực đến quá trình sản xuất. Mặt khác, nếu cung nhỏ hơn cầu về loại hình lao động nào đó, thì người lao động dễ gây áp lực đòi tiền công cao hơn giá trị sức lao động, điều này sẽ làm tăng chi phí sản xuất và gây bất lợi cho chủ DN.
Hiện nay, ở nước ta để bảo vệ người lao động, Bộ luật Lao động (2005) đã qui định rõ tiền lương trong Chương VI gồm 13 điều, qui định về tiền lương cho người lao động. Mặc dù tiền công trong các DNCVĐTNN là do sự thoả thuận giữa chủ DN và người lao động thông qua hợp đồng lao động, tiền công đó trả theo năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc, song BLLĐ đã qui định tiền lương của người lao động không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước qui định tại điều 55 BLLĐ. Tại điều 56 BLLĐ qui định mức lương tối thiểu
Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích luỹ, tác sản xuất sức lao động mở rộng và được dùng làm căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động khác [36, tr.37].
Như vậy, tiền công mặc dù do cơ chế thị trường và các qui luật kinh tế chi phối nhưng cũng không thể thấp hơn mức lương tối thiểu theo BLLĐ ban hành. Tiền công của người lao động nhận được là kết quả phân phối lần đầu, theo quy luật phân phối theo lao động, có liên quan đến lợi ích của DN. Doanh nghiệp và người sử dụng lao động chỉ đồng ý tăng tiền công khi nào lợi ích của họ không bị vi phạm. Tiền công được xác định vào chi phí sản xuất. Lợi ích của người sản xuất, DN thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí sản xuất. Như vậy việc tăng tiền công sẽ làm tăng chi phí sản xuất, nếu doanh thu không tăng thì sẽ làm cho lợi nhuận giảm. Do đó, DN chỉ đồng ý tăng tiền công cho người lao động khi có giải pháp vừa đảm bảo tăng tiền công cho người lao động, vừa có lợi nhuận cho DN mà thôi.
Thứ hai: Tiền thưởng:
Đối với người lao động bên cạnh tiền công cơ bản thì tiền thưởng cũng là một bộ phận quan trọng trong thu nhập bằng tiền. Vì thực chất tiền thưởng là phần thưởng cho người lao động khi làm tốt công việc của mình hơn mức trung bình, nó kích thích người lao động hăng say làm việc, cống hiến và sáng tạo, thúc đẩy tăng năng suất lao động. Tiền thưởng là một bộ phận hợp thành của tiền công, được phân phối theo số lượng và chất lượng lao động. Nhưng tiền công cơ bản là bộ phận tiền công cố định, hình thành nên đơn giá tiền công trong đơn vị sản phẩm hoặc đơn vị thời gian lao động mà người công nhân nhận được qua phân phối lần đầu, còn tiền thưởng là bộ phận tiền công không cố định, nó được tính toán theo một tỷ lệ nhất định trên tiền công cơ bản và thông thường là thấp hơn tiền công cơ bản rất nhiều, đồng thời người lao động nhận được nó thông qua phân phối lại từ quỹ khen thưởng được trích lập từ lợi nhuận của DN
Thứ ba: Quý phúc lợi, bảo hiểm:
Quá trình sản xuất – kinh doanh của các DN càng phát triển, hiệu quả kinh tế đưa lại càng cao, thì quy mô của các quỹ phúc lợi và bảo hiểm càng lớn. Từ đó các DN sẽ có điều kiện thực hiện từ các quỹ này. Người lao động nhận được thu nhập, hay thực hiện được lợi ích kinh tế của mình từ quỹ phúc lợi và quỹ bảo hiểm thông qua quá trình tái phân phối các quỹ đó dưới hình thức bằng tiền như (thăm hỏi hiếu hỷ, lễ tết, trợ cấp khó khăn, sinh đẻ, ốm đau…) hoặc được hưởng lợi ích của mình thông qua hình thức tham quan, nghỉ mát…Ngoài ra, từ quỹ phúc lợi DN trích ra một phần gọi là tiền phụ cấp là số tiền bổ sung thể hiện trách nhiệm của người lao động, bù đắp cho người lao động làm việc trong điều kiện khó khăn, nguy hiểm, độc hại… Các DN còn có trách nhiệm trích một phần tiền từ quỹ phúc lợi cùng với người lao động đóng góp và mua Bảo hiểm y tế; Bảo hiểm xã hội, cho người lao động, đảm bảo đúng quyền lợi và nghĩa vụ đối với người lao động.
1.2.2.2. Lợi ích kinh tế gián tiếp
Trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động đối với người lao động về công việc, giờ làm việc và nhất là tiền công là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu, nhưng bên cạnh đó thì lợi ích kinh tế gián tiếp đối với người lao động cũng là vấn đề quan trọng. Lợi ích kinh tế gián tiếp của người lao động trong quá trình làm việc thể hiện ở những nội dung: Điều kiện môi trường làm việc (môi trường tự nhiên, môi trường xã hội); Đào tạo nâng cao tay nghề; Đảm bảo đời sống tinh thần, được thực hiện thông qua hoạt động sản xuất ở DN
- Về điều kiện môi trường làm việc:
Khi nghiên cứu về tiền công, chúng ta thấy rằng, để có thu nhập người lao động phải làm việc một thời gian nhất định hoặc tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của chủ DN. Khi ký kết hợp đồng lao động bên cạnh việc đảm bảo tiền công cho người lao động thì DN còn cần phải thực hiện tốt điều kiện môi trường làm việc theo tiêu chuẩn. Trong BLLĐ dành riêng chương IX qui định về: An toàn lao động, vệ sinh lao động, cho người lao động. Tại điều 97 BLLĐ chỉ rõ:
Người sử dụng lao động phải đảm bảo nơi làm việc đạt tiêu chuẩn về không gian, độ thoáng, độ sáng, đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép về bụi, hơi, khí độc, phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn, rung và các yếu tố có hại khác. Các yếu tố đó phải được định kỳ kiểm tra đo lường [36, tr.184].
Thực tế, hiện nay ở nước ta phần lớn các DNCVĐTNN áp dụng quy trình ISO thì sẽ đảm bảo được điều kiện môi trường làm việc cho người lao động, khi đó lợi ích của người lao động sẽ được đảm bảo. Bên cạnh đó vẫn còn một số DNCVĐTNN chưa thực hiện tốt điều kiện làm việc của người lao động thể hiện:
Một là: Điều kiện nhà xưởng, máy móc thiết bị cũ, lạc hậu dễ gây ra tai nạn lao động. Thực tế đã diễn ra ở một số DN, đòi hỏi các cơ quan có trách nhiệm phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá và cấp giấy phép sử dụng, có vậy mới hạn chế và phòng ngừa được tai nạn lao động cho người lao động
Hai là: Trình độ cơ khí hoá, tự động hoá chưa cao, nhà xưởng chật hẹp, ẩm thấp, một số DN không trang bị đủ thiết bị kỹ thuật vệ sinh và kỹ thuật an toàn lao động như tiếng ồn, bụi, khói vượt quá khả năng cho phép, hệ thống thông gió, chống nóng, nhiệt độ, độ ẩm không đảm bảo chất lượng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ người lao động
Ba là: Người lao động không được huấn luyện về kiến thức bảo hộ lao động, an toàn lao động, không được theo dõi, kiểm tra sức khoẻ định kỳ thường xuyên.
Để dẫn tới tình hình trên, là do nguyên nhân sau: Mục đích chạy theo lợi nhuận trước mắt, các chủ DN không muốn chi phí đầu tư ban đầu nhiều, đồng thời chưa thực hiện tốt nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong công tác bảo hộ lao động như BLLĐ đã qui định.
Về đào tạo nâng cao tay nghề:
Theo thống kê của Bộ lao động & Thương binh xã hội, hiện nay trong khu vực FIE có khoảng hơn 860 nghìn lao động. Những người lao động vào làm việc trong khu vực này, được tuyển dụng trực tiếp từ hai nguồn chính:
Thứ nhất: lao động kỹ thuật cao (người lao động có trình độ học vấn, sinh viên tốt nghiệp các trường đại học…)
Thứ hai: lao động phổ thông từ mọi miền quê khác nhau, độ tuổi từ 18 đến 40 tuổi.
Xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, tiểu nông, lực lượng lao động Việt Nam tuy nhiều nhưng chất lượng chưa cao, lao động chưa qua đào tạo chiếm tới 73%, người lao động quen với lề thói làm việc tự do, tính tự giác thấp, nên ý thức kỷ luật lao động kém. Do đó, khi các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng lao động Việt Nam để đạt mục đích kinh doanh có lãi, thì trước hết họ cần phải đào tạo cho người lao động có trình độ chuyên môn nhất định, để đảm nhận được công việc của DN. Các DN đã có mở các lớp dạy nghề, đào tạo chuyên môn theo ngành nghề sản xuất của mình. Bên cạnh đó, đội ngũ lao động có trình độ cao, quản lý … cũng được các chủ DN cho đi đào tạo tại chỗ hoặc đào tạo ở nước ngoài nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, tiếp thu công nghệ mới…đáp ứng sự phát triển của khoa học công nghệ. Thế nhưng, thực tế vẫn còn một số DN đã lợi dụng danh nghĩa dạy nghề, truyền nghề để trục lợi, bóc lột sức lao động trái pháp luật
Về đời sống tinh thần
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, con người là tổng hoà mối
quan hệ xã hội, bên cạnh những nhu cầu vật chất thì nhu cầu tinh thần cũng đóng vị trí rất quan trong trong đời sống hàng ngày. Ngoài thời gian lao động sản xuất, con người phải có thời gian nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí để phục hồi sức khoẻ của mình. Ở đây, người lao động làm việc trong các DNCVĐTNN hàng ngày với áp lực công việc rất lớn, tác phong làm việc công nghiệp…cho nên người lao động cần được đảm bảo có một đời sống tinh thần tốt, đảm bảo sức khoẻ. Vị trí các DNCVĐTNN phần lớn nằm trong các khu công nghiệp, cho nên người lao động làm việc trong các DN này thường ở trong các khu lưu trú chung của DN hoặc thuê nhà trọ gần nơi làm việc. Nhiều DN đã quan tâm đến người lao động, như xây khu lưu trú cho công nhân, tổ chức tham quan, du lịch… để người lao động thật sự được thể chất và tinh thần, hay săng làm việc với năng suất lao động cao… Nhưng một số DN đầu tư kiểu “chụp giật” ở Việt Nam, trả lương công nhân với mức thấp, và không quan tâm đến đời sống tinh thần của họ. Phần lớn công nhân tự tìm thuê nhà phòng trọ gần nơi làm việc của mình, với mức lương khoảng 100 USD, họ phải chọn giải pháp vài người chung nhau thuê một phòng. Các nhà trọ này đều được xây dựng một cách tạm bợ, không gian chật hẹp, ẩm thấp, điện nước thường xuyên thiếu thốn. Và không hề có ti vi, báo chí, phim ảnh, giao lưu tập thể…thiếu những thông tin về xã hội. Hầu như DN không xây dựng các công trình văn hoá cho người lao động.
Như vậy, lợi ích kinh tế của người lao động làm việc trong các DNCVĐTNN ở nước ta phần lớn vẫn chưa thực sự được đảm bảo, giới chủ mặc dù luôn đặt mục đích lợi nhuận lên hàng đầu nhưng họ lại không quan tâm đến người lao động – nhân tố quan trọng quyết định năng suất lao động và lợi nhuận của DN. Đời sống vật chất của người lao động nếu là lao động có trình độ cao thì được đảm bảo, còn đa số người lao động phổ thông mức lương còn thấp, đòi sống tinh thần chưa được quan tâm, dẫn tới người lao động chưa thật sự yên tâm làm việc. Do đó cần có những giải pháp hữu hiệu để giới ._.. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU BẢO ĐẢM LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN NHẬT BẢN TRONG THỜI GIAN TỚI
Nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của người lao động trong các DN có vốn đầu tư Nhật Bản, ổn định môi trường đầu tư cho các DN Nhật Bản kinh doanh sản xuất trên địa bàn Hà Nội, cần tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
3.2.1. Không ngừng củng cố và nâng cao mối quan hệ hợp tác Việt - Nhật nhằm thu hút đầu tư tạo việc làm cho người lao động
Với những thành tựu quan trọng của quan hệ hợp tác Việt - Nhật trong những năm gần đây, đặc biệt Nhật Bản đã trở thành đối tác kinh tế thương mại hàng đầu, đồng thời cũng là nhà tài trợ lớn của Việt Nam. Trung tâm JETRO tại Hà Nội đã đánh giá về môi trường đầu tư ở Việt Nam đang được cải thiện, đã thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài trong đó có Nhật Bản. Thể hiện: Chính phủ Việt Nam có nhiều nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, hội nhập kinh tế thế giới trong khi giữ ổn định về chính trị, xã hội, duy trì được tốc độ tăng trưởng liên tục ở mức cao và nhờ những lợi thế về địa lý, tài nguyên, nguồn lao động dồi dào, ít tranh chấp lao động. Đặc biệt, Nhật Bản tìm thấy ở con người Việt Nam luôn có thái độ hợp tác chân thành và muốn làm bạn với tất cả các nước.
Cuối 2006, Nhật Bản có 688 dự án với tổng số vốn trên 6,8 tỷ USD đang hoạt động ở Việt Nam, đứng thứ 3 trong 71 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, tạo ra hàng nghìn việc làm cho người lao động. Điều đó cho thấy mối quan tâm lớn của Nhật Bản đối với việc mở rộng và gia tăng đầu tư tại Việt Nam, mở ra cơ hội mới cho làn sóng đầu tư thứ hai của Nhật Bản vào Việt Nam. Đặc biệt, chính sách miễn thị thực nhập cảnh ngắn hạn đối với công dân Nhật Bản khi vào Việt Nam được nhiều doanh nhân hoan nghênh.
Việt Nam đang tiếp nhận thêm nhiều vốn đầu tư, trong đó có “làn sóng” đầu tư từ Nhật Bản, đó là kết quả của chương trình “Sáng kiến chung Việt - Nhật”. Các chuyên gia Nhật Bản theo dõi chương trình nhận định: môi trường đầu tư của Việt Nam đã thay đổi vượt bậc. Nhật Bản đánh giá những bước tiến triển nhất định của Việt Nam trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho FDI như: giảm thuế thu nhập của người nước ngoài (từ 50% xuống 40%), bãi bỏ hầu hết các chính sách hai giá (áp dụng giá cao cho người nước ngoài), DN Nhật Bản đã được dùng giá điện cùng biểu giá như người trong nước. Bên cạnh đó, giá cước điện thoại quốc tế và phí thuê kênh quốc tế trước đây cao “vời vợi” so với nhiều nước trong khu vực thì nay giá ở mức có thể chấp nhận được.
Mặc dù các nhà đầu tư Nhật Bản đánh giá cao về môi trường đầu tư của Việt Nam, song Việt Nam vẫn tồn tại một số vấn đề cần giải quyết. Cụ thể: cơ sở hạ tầng kém phát triển, thủ tục hành chính còn phiền hà, phức tạp và đôi khi còn thiếu minh bạch, các ngành phụ trợ của Việt Nam mới phát triển ở mức độ nhất định, chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, cần giải quyết những tồn tại trên Việt Nam sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có Nhật Bản.
Để khắc phục những hạn chế trên nhằm ngày càng thu hút và tạo điều kiện cho các DN Nhật Bản vào đầu tư trên địa bàn Hà Nội cần phải:
Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, huỷ bỏ các luật và các nghị định không còn tác dụng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng các dịch vụ cung cấp bởi các cơ quan Nhà nước và khối DN; Thông thoáng các thủ tục đầu tư; Thực hiện đúng các cam kết về lộ trình giảm thuế nhập khẩu; Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng: điện năng và đường sá.
Thứ hai, Việt Nam vẫn coi nhẹ việc tiếp thị môi trường đầu tư của mình, và chủ yếu trông chờ vào thương vụ các đại sứ quán tại nước ngoài. Do vậy cần phải: đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá về môi trường, tiềm năng đầu tư, thương mại, du lịch, định hướng phát triển, tạo dựng và đề cao hình ảnh Hà Nội với Nhật bản; Thường xuyên tổ chức các diễn đàn, hội thảo giới thiệu tiềm năng, thế mạnh của Hà Nội nhằm kêu gọi đầu tư từ các DN Nhật bản; Thành lập trung tâm xúc tiến đầu tư để giải quyết các công việc liên quan đến đầu tư, bảo đảm nhanh gọn, chính xác, thuận lợi cho nhà đầu tư; Triển khai mở văn phòng đại diện kinh tế của Hà Nội ở Tokyo và một số thành phố lớn tại Nhật Bản; Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục đầu tư theo hướng thông thoáng và tập trung một đầu mối. Ðơn giản các tiêu chí xem xét, thẩm định dự án, rút ngắn thời gian xét duyệt, thẩm định, cấp giấy phép đầu tư; Ðịnh kỳ tổ chức đối thoại, thiết lập "đường dây nóng" giữa lãnh đạo thành phố với các DN FDI Nhật bản để kịp thời giải quyết vướng mắc cho DN.
Thứ ba, Bên cạnh các DN lớn, để phát triển toàn diện cần thu hút các DN vừa và nhỏ của Nhật Bản đầu tư vào Hà Nội, từ đó sẽ phát triển được các ngành công nghiệp phụ trợ đối với các ngành: ôtô, xe máy, điện tử… góp phần tăng cường sức cạnh tranh đồng bộ trên tất cả các ngành các lĩnh vực. Nâng cao năng lực hoạt động của DN trong nước, tạo điều kiện hợp tác với DN Nhật bản. Có kế hoạch đồng bộ để giúp DN giảm chi phí trung gian trong sản xuất, kinh doanh.
Thứ tư, Thành phố Hà nội cần tạo cơ chế khuyến khích, ưu đãi cho các DN Nhật bản như: xây dựng quỹ đất để nhà đầu tư dễ dàng lựa chọn địa điểm đầu tư bằng cách đền bù giải tỏa trước hoặc tổ chức đấu giá đất đã hoàn thành hạ tầng kỹ thuật. Ðối với các dự án ưu tiên, thành phố sẽ chịu một phần chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng. Chính quyền địa phương sẽ giúp các nhà đầu tư giải quyết đền bù, giải phóng mặt bằng. Ðối với các dự án đặc biệt, thành phố sẽ ứng trước tiền đền bù, giải phóng mặt bằng và nhà đầu tư cam kết thanh toán khoản tiền này. Khuyến khích các nhà đầu tư Nhật bản đầu tư vào các KCN tập trung bằng các cơ chế, chính sách cụ thể. Có chính sách đặc biệt ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư cao như công nghiệp điện tử, thông tin, công nghệ sinh học, hạ tầng đô thị, khu đô thị mới, giao thông công cộng... Thành phố khuyến khích và giúp đỡ các DN Nhật bản tham gia đầu tư, xây dựng khu đô thị mới và hạ tầng đô thị, giao thông công cộng bằng xe điện, xe buýt, cầu qua sông Hồng, các bệnh viện và trường học quốc tế.
Thực tế cho thấy, thông qua các giải pháp thu hút vốn đầu tư FDI, số lượng các Nhà đầu tư Nhật bản đã không ngừng tăng lên trên địa bàn Hà nội. Bên cạnh đó, các DN luôn mở rộng quy mô sản như Công ty Canon…Nhờ đó giải quyết công ăn việc làm cho hàng nghìn người lao động. Số liệu thống kê cho thấy, trong vòng 15 năm qua (1989 - 2003), trên địa bàn Hà Nội đã có 601 dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) được cấp phép, với tổng vốn đăng ký lên đến 9,1 tỉ USD. Trong đó, 3,7 tỉ USD đã được thực hiện. Các dự án FDI này đã đóng góp 25 - 32% kim ngạch xuất khẩu của thành phố, tạo việc làm cho 25.000 lao động với tổng doanh thu 6,4 tỉ USD. (nguồn Sở kế hoach đầu tư Hà nội). Dự kiến, đến năm 2010 thành phố sẽ cấp giấy phép cho 960 dự án FDI, đưa tổng vốn đăng ký lên 15,813 tỉ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 6 tỉ USD, và giải quyết việc làm trên 30.000 lao động [40]. Thực hiện tốt những mục tiêu trên thì thủ đô Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung sẽ thu hút được nhiều DN Nhật Bản vào đầu tư, bên cạnh những ưu việt khác thì vấn đề tạo việc làm tăng thu nhập cho người lao động là vấn đề quan trọng cần thực hiện. Theo số liệu thống kê dự kiến năm 2007 các DNCVĐTNN sẽ tạo 1.550.000 việc làm cho người lao động [4].
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản
Nhìn lại gần 1.200 cuộc đấu tranh tự phát có đông người lao động tham gia trong thời gian qua, cho thấy: về bản chất, 90% các vụ “ngừng việc” [48] có nguyên nhân do chưa có biện pháp chế tài đủ mạnh buộc người sử dụng lao động phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Vì vậy, phía người chủ lao động cứ công khai xâm hại quyền của người lao động về tiền lương, về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… Trong khi đó, cơ quan quản lý lao động đã yếu năng lực, còn thiếu nhân lực, không thể hạn chế chủ DN phạm pháp. Vì thế, chủ DN càng vi phạm pháp luật thì càng có nhiều lợi nhuận. Nếu người lao động không ngừng việc khi họ bị bóc lột thì chẳng khác nào họ tiếp tay cho chủ DN để khống chế người lao động. Trên thực tế, nếu người lao động bị xâm hại quyền lợi mà không đấu tranh thì chủ DN cũng không bao giờ tự nguyện sửa sai. Tuy nhiên, sau khi người lao động ngừng việc để đấu tranh, hầu hết các chủ DN đều tỏ ra lo lắng, có tâm lý muốn hoà giải. Đặc biệt có các cơ quan chức năng cùng tổ chức công đoàn tiến hành hoà giải, phân tích sai phạm của chủ DN và buộc họ giải quyết thoả đáng các yêu sách của người lao động, lập tức, quan hệ lao động sẽ ổn định trở lại. Do đó để tạo điều kiện thuận lợi cho các DN Nhật Bản trong quá trình kinh doanh, cũng như đảm bảo lợi ích kinh tế cho người lao động cần phải thực hiện tốt vấn đề sau:
Thứ nhất: DN Nhật Bản và người lao động phải ký hợp đồng lao động đúng theo quy định của BLLĐ Việt Nam, thực hiện đúng nội dung bản hợp đồng. Xây dựng thang, bảng lương cụ thể phù hợp với cơ chế thị trường, áp dụng quy chế tiền thưởng căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh và mức độ hoàn thành công việc của người lao động, đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội… Nhằm đảm bảo chủ DN làm ăn có lãi, mở rộng sản xuất; người lao động ổn định việc làm, được hưởng đầy đủ quyền lợi về vật chất và tinh thần, yên tâm làm việc. Bên cạnh đó Bộ luật lao động cần phải có những điều khoản thật cụ thể, chi tiết quy định rõ, để đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong các DN nước ngoài và các DN của Nhật Bản nói riêng.
Thứ hai: Các DN Nhật Bản sau khi được cấp giấy phép kinh doanh, tất cả các DN phải xây dựng tổ chức công đoàn. Tổ chức này sẽ giám sát quá trình quan hệ lao động, bao gồm ký kết thoả ước lao động tập thể; tham gia xây dựng nội quy DN, quy chế trả lương, trả thưởng, tham gia giải quyết các vấn đề quan hệ lao động liên quan đến quyền lợi ích của người lao động.
Thứ ba: Tiếp tục rà soát, chỉnh sửa các bộ luật liên quan đến lợi ích người lao động, môi trường đầu tư, các chính sách ưu đãi đầu tư, chính sách thuế,…nhằm ngày càng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các Nhà đầu tư, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của người lao động.
3.2.3. Nâng cao vai trò của cơ quan Nhà nước, của chính quyền địa phương đối với các dự án đầu tư nước ngoài
Việc thu hút các dự án đầu tư, vai trò của cơ quan Nhà nước và của chính quyền địa phương giữ vị trí quan trọng. Khi đánh giá về sự đầu tư trên địa bàn Hà Nội, ông Fumikazu Gocho, Tổng Giám đốc Công ty Khu công nghiệp Thăng Long: "Hà Nội có sức thu hút đặc biệt đối với các nhà đầu tư trực tiếp Nhật Bản". Điều đó được thể hiện, khi hoàn thành công tác xây dựng KCN Thăng Long vào tháng 6/2000 với tổng diện tích phát triển là 121ha. Ðến nay, KCN Thăng Long đã kêu gọi thành công 28 nhà đầu tư vào KCN, với tổng diện tích đất đã thuê lên tới 80%. Phần lớn các nhà đầu tư trong KCN Thăng Long đều là các nhà sản xuất danh tiếng của Nhật Bản như Canon, Toto, Sumitomo Bakelite, Denso, Matsushita... Ðiều đó chứng tỏ Hà Nội có sức thu hút đặc biệt đối với các nhà đầu tư trực tiếp Nhật Bản. Trong năm 2004, có 60% nhà đầu tư Nhật Bản ở Việt Nam đã quyết định đầu tư vào Hà Nội thay vì TP.HCM, hay các khu vực phía Nam. Các nhà đầu tư FDI Nhật Bản thường đánh giá cao sự ổn định về chính trị và an ninh của Việt Nam. Ngoài ra, còn các lợi thế về kỹ năng khéo léo, chăm chỉ của người lao động, ưu đãi về thuế và thị trường tiềm năng. Tuy nhiên, thủ tục hành chính cần được rút gọn để giảm gánh nặng giấy tờ và tiết kiệm thời gian cho nhà đầu tư. Do đó, để thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư đặc biệt là các DN Nhật Bản cần phải:
Một là, tiếp tục duy trì chế độ giao ban định kỳ giữa các bộ, ngành trung ương với các địa phương có nhiều dự án đầu tư nước ngoài nhằm tăng cường quản lý, điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài theo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về quy hoạch, cơ cấu, chính sách và cơ chế, tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư của các DNCVĐTNN, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài.
Hai là, đẩy mạnh công tác hướng dẫn, kiểm tra, xử lý các trương hợp vi phạm pháp luật, chính sách, quy hoạch. Chú trọng việc quản lý dự án sau giấy phép, nắm chắc tình hình thực hiện dự án, xử lý kịp thời những vướng mắc phát sinh để các DN triển khai dự án thuận lợi. Đồng thời thể chế pháp luật thiếu rõ ràng, chưa đồng bộ, thủ tục rườm rà (cấp phép xây dựng, đánh giá môi trường…),
Ba là, tạo môi trường kinh doanh tốt với các nhà đầu tư. Cụ thể là:
- Xây dựng chính sách quản lý nguồn lực khoa học và phù hợp. Nguồn lực cơ bản nhất như đất đai, tín dụng và cơ sở hạ tầng như điện, nước…có ảnh hưởng rất lớn tới quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư, đặc biệt đối với DN Nhật Bản.
- Cần phải minh bạch và nâng cao tính trách nhiệm của bộ máy quản lý địa phương. Nhiều DN còn phàn nàn về thủ tục hành chính phức tạp gây tốn kém thời gian và tiền bạc. Ví dụ như: việc kiểm tra, thanh tra của các cán bộ công quyền địa phương, hay việc xin cấp phép, vay vốn, cấp đất, đã làm tăng phí giao dịch của DN. Nếu giảm thiểu được chi phí này sẽ giúp cho các DN hoạt động hiệu quả hơn.
- Chính quyền địa phương cần lưu ý đến việc được miễn tiền sử dụng đất cho loại hình nhà ở xã hội để khuyến khích các DN, tư nhân đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng gần các KCN.
Đối với Hà Nội, để giải quyết vấn đề, Chính phủ áp dụng một số biện pháp như ưu đãi thuế, trợ cấp hoặc cho vay vốn ưu đãi. Cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về các KCN, tiến tới ban hành Luật về KCN làm cơ sở pháp lý ổn định và thống nhất cho việc tổ chức và hoạt động của các KCN ở nước ta. Các công cụ chính sách đầu tư phát triển KCN phải rõ ràng, minh bạch, đặc biệt phải nhất quán, có tầm nhìn dài hạn và toàn cục được xây dựng trên cơ sở cân nhắc kỹ mục tiêu công nghiệp hoá cho từng thời kỳ.
Hà Nội cần áp dụng các biện pháp hỗ trợ đầu tư đối với các DN Nhật Bản đầu tư vào lĩnh vực phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn như trợ cấp vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng miễn giảm thuế…nhằm phát triển đồng bộ cơ cấu ngành trên địa bàn.
3.2.4. Nâng cao vai trò của các tổ chức công đoàn trong các DN có vốn Nhật Bản
Theo BLLĐ Việt Nam, các DNCVĐTNN nói chung và DN Nhật Bản nói riêng, sau khi hoạt động cần phải thành lập tổ chức công đoàn để đại diện bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp cho người lao động. Hiện nay, trong các DN Nhật Bản có 78% DN đã thành lập tổ chức công đoàn, số còn lại chưa có tổ chức công đoàn. Do đó, để đảm bảo lợi ích người lao động trong các DN Nhật Bản cần thực hiện tốt các yêu cầu sau đây:
Một là, Đối với các DN chưa có tổ chức công đoàn: Cần phải nhanh chóng xây dựng tổ chức công đoàn trong DN để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động, làm chỗ dựa cho người lao động, đồng thời là tổ chức để người lao động.
Hai là, Đối với các DN đã có tổ chức công đoàn: Định kỳ tổ chức cho cán bộ công đoàn trong DN học luật lao động, luật Công đoàn; thường xuyên nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp trong sản xuất cho mọi người lao động, nâng cao hiệu lực hoạt động của tổ chức công đoàn, công đoàn phải là tổ chức thực sự mang lại và bảo vệ lợi ích của người lao động.
Ba là: Các cấp công đoàn tập trung tuyên truyền vận động thành lập công đoàn cơ sở và phát triển đoàn viên công đoàn, củng cố và nâng cao năng lực cán bộ công đoàn, chất lượng hoạt động của công đoàn..
Bốn là: Công đoàn cần phải làm tốt việc xây dựng, thương thảo, ký kết Thoả ước lao động tập thể với DN. Bởi Thoả ước lao động tập thể là cơ sở thừa nhận quyền của người lao động được thông qua đại diện của mình là công đoàn. Nó sẽ là cơ shế tự kiểm soát, tự điều chỉnh quan hệ lao động nội bộ DN trên cơ sở pháp luật.
Năm là: Là người đứng giữa DN và người lao động, cán bộ công đoàn cần phải có năng lực, sự nhiệt tình. Công đoàn cần lắng nghe và tham khảo ý kiến của người lao động, chọn thời cơ đúng lúc đề đạt ý kiến của công đoàn với giới chủ. Thường xuyên xây dựng chương tình công tác của Ban chấp hành công đoàn, quy chế phối hợp làm ciệc giữa công đoàn với chủ DN.
Sáu là: Để người lao động yên tâm công tác, công đoàn cần chủ động tham gia cùng DN tạo việc làm ổn định, đảm bảo chế độ, chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, hợp đồng lao động. Bên cạnh yếu tố vật chất, công đoàn cần quan tâm đến lĩnh vực văn hoá tư tưởng, tình cảm và đời sống tinh thần của người lao động. Chủ tịch công đoàn cơ sở nên là những người có vị trí lãnh đạo như nhóm trưởng…thì tiếng nói mới có trọng lượng và dành thời gian cho hoạt động công đoàn.
3.2.5. Người lao động cần được nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tự giác, khi làm việc trong các doanh nghiệp Nhật Bản
Hà Nội là trung tâm văn hoá lớn, với nhiều trường đại học, cao đẳng và trung tâm dạy nghề, hàng năm cung ứng hàng vạn lao động có tay nghề và trình độ cao cho các DN trong các KCN của thủ đô cũng như các tỉnh lân cận. Tuy nhiên, hạn chế của các cơ sở dạy nghề hiện nay là thiết bị dạy và học, nhất là thiết bị thực hành thường không theo kịp với những thay đổi về công nghệ của các DNCVĐTNN nói chung và DN Nhật Bản nói riêng. Ngoài ra, chương trình dạy nghề rộng và chưa thể đào tạo được những nghề chuyên sâu và đặc thù theo yêu cầu của DN.
Đối với DN Nhật Bản do có những phương thức kinh doanh đặc thù, họ đã tìm thấy ở người lao động Việt Nam nhiều điểm tương đồng, thông minh, chăm chỉ…Nhưng thực tế người lao động Việt nam còn gặp khó khăn về trình độ, đặc biệt ở các vị trí quản lý hoặc lao động có tay nghề cao. Phần lớn các DN Nhật Bản sau khi tuyển dụng lao động, họ đều phải tổ chức đào tạo lại lao động, kể tay nghề chuyên sâu và trình độ ngoại ngữ. Các DN đều thấy rằng, khả năng làm việc theo nhóm là một trong những điểm yếu của lao động Việt Nam, người lao động chưa phát huy được khả năng của mình trong hoạt động tập thể. Để đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng của các DN Nhật Bản, cần phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Một là: Nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động: Cần phải rà soát, bổ sung quy hoạch mang lưới các cơ sở dạy nghề đáp ứng nhu cầu lao động trong các DNCVĐTNN nói chung và DN Nhật Bản nói riêng, trong đó khuyến khích thành lập cơ sở dạy nghề trong các DN, nhất là trong các DN có quy mô sử dụng lao động lớn. Theo mục tiêu trong giai đoạn 2006-2010, phấn đấu đạt tỷ lệ lao động đã qua đào tạo 40%. Do đó, phát triển chương trình dạy nghề bao gồm: xây dựng và ban hành chương trình khung trình độ trung cấp nghề, trình độ cao đẳng nghề, căn cứ vào tiêu chuẩn kỹ năng nghề, phù hợp với tiến bộ kỹ thuật, công nghệ sản xuất hiện đại. Bên cạnh việc đào tạo lao động lành nghề để làm việc trong khối đầu tư nước ngoài, cần giải quyết tốt mối quan hệ cung cầu, tiến hành đào tạo theo địa chỉ, theo nhu cầu thị trường để đảm bảo nguồn nhân lực được sử dụng ngay tới đó, tránh lãng phí cho xã hội. Hà Nội sẽ tiên phong đi đầu, cũng như sẽ là”cái nôi” đào tạo trình độ chuyên môn sâu rộng cho người lao động, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng tốt nhu cầu tuyển dụng của các DN Nhật Bản.
Hai là: Khi được tuyển dụng làm việc trong DN Nhật Bản, bên cạnh năng lực nghiệp vụ chuyên môn, người lao động cần rèn luyện cho mình tác phong công nghiệp, cần cù chịu khó, tiết kiệm, sáng tạo và biết cách làm việc theo nhóm, phát huy năng lực cá nhân và gắn bó lâu dài với DN.
Ba là: Người lao động trong các DN Nhật Bản cũng cần phải tăng cường tìm hiểu, nắm vững luật pháp, các quy định và chế độ chính sách của công ty để từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm, sử xự đúng mực và phù hợp với “phong cách Nhật bản”.Cùng với những nỗ lực của người lao động thì các DN Nhật Bản cũng cần từng bước quan tâm đối với gia đình những người lao động làm viêc trong DN.
Cùng với chủ trương kế hoạch đào tạo cho người lao động có trình độ chuyên môn nhất định của các cấp các ngành, thì người lao động tự mình cũng không ngừng học hỏi để nâng cao tay nghề. Vì, tiêu chí “nhân công giá rẻ” hiện nay ở nước ta là một lợi thế. Nhưng để có mức tăng trưởng và bền vững và trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, thì nhân công giá rẻ không thu hút FDI lâu dài, mà phải thay vào đó là lao động lành nghề, có trình độ cao để làm việc trong khối đầu tư FDI.
Trong thời gian tới, việc thu hút các DN Nhật Bản trên địa bàn Hà Nội là vấn đề chiến lược có tầm cỡ quốc gia, để phát triển thủ đô ngày càng giàu mạnh, chính quyền địa phương phải tạo môi trường đầu tư thuận lợi, các chế độ đãi ngộ thu hút đầu tư. Bên cạnh đó việc đảm bảo lợi ích kinh tế cho người lao động làm việc trong các DN Nhật Bản, đòi hỏi phải có một đội ngũ lao động đã qua đào tạo, thường xuyên rèn luyện nâng cao tay nghề, có ý thức kỷ luật lao động, làm việc theo nhóm, nhằm nâng cao chất lượng lao động….
Có thể nói hệ thống giải pháp trên mang tính thiết thực và khả thi. Thực hiện tốt các giải pháp đó, chúng ta tin rằng Hà Nội sẽ là địa bàn thu hút đầu tư lớn nhất đối với các DN Nhật Bản, và sẽ cung ứng những lao động có chất lượng cao cho nhà đầu tư. Đồng thời với những hợp đồng lao động được ký kết chặt chẽ, lợi ích kinh tế của người lao động trong các DN Nhật Bản đã được đảm bảo đúng quyền lợi, quan hệ lao động hài hoà, khắc phục những DN có quan hệ lao động chưa được thiết lập chặt chẽ, quyền công đoàn của người lao động còn bị vi phạm.
KẾT LUẬN
Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá lớn nhất của cả nước, có vị trí địa lý và nguồn nhân lực dồi dào, đã thu hút được nhiều DNCVDTNN trong đó có các DN Nhật Bản. Với phong cách kinh doanh và triết lý của các DN Nhật Bản là “Sống và làm việc cùng nhau vì lợi ích chung”, người lao động làm việc trong hầu hết các DN Nhật Bản đã được đảm bảo lợi ích kinh tế, ổn định việc làm, góp phần vào sự phát triển bền vững của DN. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít các DN Nhật bản chưa thực hiện tốt việc đảm bảo lợi ích kinh tế cho người lao động.
Thực tiễn đang đặt ra vấn đề là, đảm bảo lợi ích kinh tế cho người lao động trong các DN Nhật bản được thực hiện tốt, sẽ không những đem lại hình ảnh tốt đẹp cho các DN trong con mắt người lao động Việt nam mà còn đem lại sự ổn định việc làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ tay nghề và ý thức tổ chức kỷ luật của người lao động. Đồng thời đây sẽ là mô hình để nhân rộng ra cho các DNCVĐTNN khác trên địa bàn và trong cả nước. Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã quan tâm và lựa chọn vấn đề này để nghiên cứu luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ.
Sau một thời gian tìm kiếm tư liệu, nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đến nay tác giả đã hoàn thành luận văn với những nội dung sau đây:
- Làm rõ khái niệm lợi ích kinh tế của người lao động, phân tích các bộ phận cấu thành lợi ích kinh tế của người lao động trong các DNCVĐTNN. Từ đó thấy được những nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của người lao động trong các DNCVĐTNN ở nước ta hiện nay.
- Nêu và phân tích đặc điểm kinh doanh rất đặc thù của người Nhật, đặc biệt DN Nhật Bản đã tìm thấy ở đất nước và con người Việt Nam có những nét tương đồng, do đó đã đặt niềm tin trong quá trình đầu tư. Trong các DN Nhật Bản lợi ích kinh tế phần lớn được đảm bảo như tiền lương, tiền thưởng, các khoản phụ cấp, bên cạnh đó yếu tố tinh thần cũng được các DN quan tâm. Giữa chủ DN và người lao động đều được ký kết hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể được thực hiện, nên hầu hết trong các DN Nhật Bản không xảy ra các cuộc đình công, bãi công….
Từ kết quả nghiên cứu lý luận và phân tích thực tiễn ở Chương 1 và Chương 2, tác giả đã đưa ra những giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất lượng lao động và bảo vệ lợi ích kinh tế cho người lao động làm việc trong các DN Nhật Bản trong thời gian tới. Các giải pháp tập trung vào: nâng cao mối quan hệ hợp tác Việt - Nhật nhằm thu hút đầu tư tạo việc làm cho người lao động; Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản; nâng cao vai trò của cơ quan Nhà nước, của chính quyền địa phương đối với các dự án đầu tư nước ngoài; nâng cao vai trò của các tổ chức công đoàn trong các DN có vốn Nhật Bản; người lao động cần nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tự giác, khi làm việc trong các DN Nhật Bản.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do hạn chế về nguồn thông tin, tư liệu và hạn chế chủ quan về phía tác giả nên luận văn không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Tác giả mong nhận được những đóng góp quý báu của các nhà khoa học và những ai quan tâm đến vấn đề này. Tác giả xin trân trọng cảm ơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Chính trị (2000), Nghị quyết số 15 – NQ/TW ngày 15/12/2000 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ 2001 – 2010.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dùng cho khối ngành không chuyên Kinh tế - Quản trị kinh doanh trong các trường Đại học, Cao đẳng), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Cục Đầu tư nước ngoài (2005), Báo cáo về quan hệ hợp tác đầu tư với Nhật Bản (tháng 6 năm 2005)
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2006, định hướng 2007.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Cục đầu tư nước ngoài (2007), Báo cáo đầu tư nước ngoài tháng 5 và 5 tháng, năm 2007.
V.P. Ca-man-kin (1982), Các lợi ích kinh tế dưới chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Chương trình sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản.
Cục Đầu tư nước ngoài (2007), Báo cáo trình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản tại Việt Nam của Việt Nam sang Nhật Bản.
Đỗ Đăng Dân (1995), Lợi ích kinh tế cá nhân của người lao động trong các doanh ngiệp Nhà nước ở nước ta (Qua thực tiễn ở Hải Phòng), Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hố Chí Minh, Hà Nội.
Đỗ Lộc Diệp (2003), Mỹ - Âu - Nhật văn hoá và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ VI, Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Bích Đạt (2006), Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Edwin O.Reischauer (1998), Nhật Bản câu chuyện về một quốc gia, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Vũ Văn Hà (2000), Quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản trong những năm 1990 và triển vọng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Đình Hiển – Hải Ninh (1994), Quản trị nhân sự trong công ty Nhật Bản, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Duy Hùng (1988), Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh tế trong nông nghiệp tập thể hiện nay ở nước ta, Luận án PTS Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Kaôru Ixikaoa (1990), Quản lý chất lượng theo phương pháp Nhật, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
Nguyễn Linh Khiếu (1999), Lợi ích, động lực của sự phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Vũ Khoan (2/11/2005), "Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế", Thời báo kinh tế, (218), tr.1
Phan Thanh Khôi (2003), Ý thức chính trị của công nhân trong mộy số doanh nghiệp ở Hà Nội hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ladanov and Pronicov (1991), Tuyển chọn và quản lý công nhân viên ở Nhật Bản, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Trần Quang Lâm, An Như Hải (2006), Kinh tế có vốn đầu tư nướcngoài ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Long - Trần Hiệp (1996), Tác động tâm lý đối với sự phát triển kinh tế Nhật Bản, Viện thông tin khoa học, Hà Nội.
Nguyễn Lợi (1995), Lợi ích kinh tế của người lao động, vai trò của công đoàn với việc bảo vệ lợi ích này trong các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hố Chí Minh, Hà Nội.
Mark Zimmerman (1991), Làm ăn với người Nhật như tế nào (người dịch : Lê Năng An), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Matin Wolt (1990), Những bài học từ sự thành công của nền kinh tế Nhật Bản, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Khoa Minh (1995), Lợi ích kinh tế và cơ chế hoạt động của các quy luật kinh tế - Về lợi ích kinh tế, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
Vũ Hữu Ngoạn (1982), Vai trò của lợi ích kinh tế và những hình thức kinh tế, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Trần Thị Nhung, Nguyễn Huy Dũng (2005), Phát triển nguồn nhân lực trong các công ty Nhật Bản hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Công Nhự (2003), Vấn đề phân phối thu nhập trong các loại hình dn ở Việt Nam: Thực trạng, quan điểm và giải pháp hoàn thiện, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật lao động, Nxb Lao động – xã hội, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật đầu tư, Nxb Lao động – xã hội, Hà Nội.
Lê Văn Sang – Lưu Ngọc Trịnh (1991), Nhật Bản đường đi đến một siêu cường kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tập thể tác giả (1982), Bàn về lợi ích kinh tế, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Thành uỷ Hà Nội (2005), Chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm 01X – 13, Hai mươi năm đổi mới ở Thủ đô Hà Nội - Định hướng phát triển đến năm 2010, Nxb Hà Nội.
Đỗ Viết Thẩn (1998), Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hố Chí Minh, Hà Nội.
Nguyễn Thị Thơm (2006), Thị trường lao động Việt Nam trực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO).
Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê Việt Nam thế kỷ XX (2004), Nxb Thống kê, Hà Nội, T.3.
Nguyễn Văn Tuấn (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Chử Văn Tuyên (1998), Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng nó vào lực lượng vũ trang trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ khoa học Quân sự, Học viện kỹ thuật quân sự, Hà Nội.
www Báo Đầu tư, ra ngày 3/12/2006
www Báo lao động,ra ngày 27/10/2006
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2460.doc