Lí luận về lạm phát & vận dụng lí luận ấy vào Việt Nam

Lời nói đầu Cơ chế thị trường đã và đang làm đổi thay của nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây theo hướng tích cực. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được chúng ta không thể không nhắc đến những hạn chế và tiêu cực do nền kinh tế thị trường gây ra. Một trong những vấn đề nổi cộm là lạm phát, hệ quả tất yếu của kinh tế thị trường. Lạm phát là một vấn đề hết sức phức tạp, để có những được cái nhìn chính xác về nó đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ. Lạm phát xảy ra gây ra n

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1546 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lí luận về lạm phát & vận dụng lí luận ấy vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững hậu quả xấu cho nền kinh tế, lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động, vì vậy đòi hỏi cần phải có những biện pháp để chống lạm phát. Chống lạm phát không chỉ là việc của các nhà doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ... của cả nền kinh tế. ở nước ta hiện nay, chống lạm phát, giữ nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và đề xuất các phương án khắc phục. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát. Nét đặc trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả của hầu hết các hàng hoá đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc nghiên cứu về lạm phát. Dựa vào những kiến thức đã học được và tìm hiểu được tôi đã làm làm bài viết này với đề tài : "Lí luận về lạm phát và vận dụng lí luận ấy vào Việt Nam" với mục đích giúp mọi người thấy được tầm quan trọng của việc nghiên cứu lạm phát và đưa ra những hiểu biết của mình về lạm phát đẻ cô giáo và các bạn tham khảo và đóng ghóp ý kiến. I/ Lý luận chung về lạm phát: 1. Khái niệm và phân loại lạm phát: a. Các khái niệm: - Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn trọng, nhất là quy luật lưu thông tiền tệ. ở đâu còn sản xuất hàng hoá , còn tồn tại những quan hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn ẩn náu khả năng lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm. - Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình". Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện. - Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường : "Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian" - Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát. Nó chính là GNP danh nghĩa/ GNP thực tế. Trong thực tế nó được thay thế bằng tỷ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán buôn Ip = ồip.d ip: chỉ số giá cả của từng loại nhóm hàng d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng. b) Phân loại lạm phát: - Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xẩy ra với tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn... Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh. - Lạm phát phi mã: lạm phát xẩy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm. ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế , các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. - Siêu lạm phát: xẩy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xẩy ra. Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và trầm trọng hơn. Vì vậy các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại. Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dướ 50% một năm; lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50%; siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm. 2. Nguyên nhân lạm phát: a) Lạm phát theo thuyết tiền tệ: kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá... có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Chẳng hạn thời tiết không thuận, mất mùa, nông dân thu hoạch thấp, giá lương thực tăng lên. Giá nguyên vật liệu tăng làm cho giá cả hàng tiêu dùng tăng lên. Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất cũng tăng theo, dẫn đến giá các mặt hàng cũng tăng. Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung và có thể giải thích theo 3 cách. - Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung tiền. - Theo học thuyết Keynes, lạm phát xẩy ra do thừa cầu về hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế (do cầu kéo). - Theo học thuyết chi phí đẩy, lạm phát sinh ra do tăng chi phí sản xuất (chi phí đẩy) Trên thực tế lạm phát là kết quả của tổng thể 3 nguyên nhân trên, mỗi nguyên nhân có vai trò khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau. Mức cung tiền là một biến số duy nhất trong đẳng thức tỷ lệ lạm phát, mà dựa vào đó ngân hàng Trung ương đã tạo ra ảnh hưởng trực tiếp. Trong việc chống lạm phát, các ngân hàng Trung ương luôn giảm sút việc cung tiền. Tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách: - Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi suất thấp và điều kiện kinh doanh tốt). hoặc - Các ngân hàng thương mại có thể tăng tín dụng Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về mặt trung hạn và dài hạn, điều đó dẫn tới cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu cung không tăng tương ứng với cầu, thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá. Tuy nhiên, giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng. Ví dụ: Năm 1966 - 1967 chính phủ Mỹ đã sử dụng việc tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang của cuộc chiến tranh tại Việt Nam, lạm phát tăng từ 3% (năm 1967) đến 6% (năm 1970). Xét trong dài hạn lãi suất thực tế (i) và sản lượng thực tế (y) đạt mức cân bằng, nghĩa là (i) và (y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên với tỷ lệ tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây là lý do tại sao ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này. b) Lạm phát theo thuyết Keynes (lạm phát cầu kéo): Tăng cung tiền không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến tăng cầu về hàng hoá, dịch vụ. Tăng tiêu dùng, chi phí công cộng và tăng dân số là những nhân tố phi tiền tệ, sẽ dẫn đến tăng cầu. áp lực lạm phát sẽ tăng sau 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử dụng máy móc với công suất tiến tới giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp ứng được sự gia tăng của cầu. Sự mất cân đối đó sẽ được giá cả lấp đầy. Lạm phát do cầu tăng lên hay lạm phát do cầu kéo được ra đời từ đó. Chẳng hạn ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc là một chỉ số có ích phản ánh lạm phát trong tương lai ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới lạm phát tăng. c) Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy: Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng tăng thêm thất nghiệp nên còn gọi là lạm phát "đình trệ" Hình thức của lạm phát này phát sinh ra từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể được trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn. Ví dụ: Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ. Nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên, điều đó tạo thành vòng xoáy lượng giá. Một yếu tố chi phí chính khác là giá cả nguyên vật liệu đặc biệt là dầu thô. Trong năm 1972 - 1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên toàn thế giới. Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy. Bên cạnh những yếu tố gây nên lạm phát đó là giá nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu càng trở nên đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác. Ngoài ra yếu tố tâm lý dân chúng, sự thay đổi chính trị, an ninh quốc phòng... Song nguyên nhân trực tiếp vẫn là số lượng tiền tệ trong lưu thông vượt quá số lượng hàng hoá sản xuất ra. Việc tăng đột ngột của thuế (VAT) cũng làm tăng chỉ số giá. y y y1 y0 y0 y* y* AD1 AD0 P P1 P0 E1 E0 E0 ASSL ASRL P1 P0 E1 ASLR AD P ASSR1 ASSR2 Chi tiêu quá khả năng cung ứng - Khi sản lượng vượt tiềm năng đường AS có độ dốc lớn nên khi cầu tăng mạnh, AD - AD1, giá cả tăng P0 - P1 Chi phí tăng đẩy giá lên cao - Cầu không đổi, giá cả tăng sản lượng giảm xuống Y0 - Y1 AS1 - AS2 Lạm phát dự kiến: Trong nền kinh tế, trừ siêu lạm phát, lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó. Giá cả trong trường hợp này tăng đều một cách ổn định. Mọi người thể dự kiến được trước nên còn gọi là lạm phát dự kiến. y y* AD" AD' AD E E' E" ASLR ASSR2 ASSR1 ASSR0 P2 P1 P0 Trong lạm phát dự kiến AS & AD dịch chuyển lên trên cùng, độ sản lượng vẫn giữ nguyên, giá cả tăng lên theo dự kiến. Các nguyên nhân khác: Giữa lạm phát và lãi suất khi tỷ lệ lạm phát tăng lên lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càng giữ nhiều tiền càng thiệt. Điều này đặc biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát, tiền mất giá càng nhanh, tăng mức độ tiền gửi vào ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị trường để mua về mọi loại hàng hoá có thể dự trữ gây thêm mất cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hoá và tiếp tục đẩy giá lên cao. Giữa lạm phát và tiền tệ khi ngân sách thâm hụt lớn các chính phủ có thể in thêm tiền để trang trại, lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Và một khi giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới nảy sinh, đòi hỏi phải in thêm một lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra trong thời kỳ siêu lạm phát. Tuy nhiên, chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách vay dân thông qua bán tín phiếu. Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm nên không có nguy cơ lạm phát, nhưng nếu thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc lẫn lãi) sẽ lớn đến mức cần phải in tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát mạnh là điều chắc chắn. Các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý. Các chủ thể kinh doanh làm tăng chi phí đầu vào, nguyên nhân do nước ngoài. Những tác động của lạm phát: Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế. * Đối với lĩnh vực sản xuất: Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh - sản xuất ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. * Đối với lĩnh vực lưu thông: Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do có nhiều người tham giâ vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng. * Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàn bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt. * Đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước: Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm... các ngành, các lĩnh vực dự định đựơc chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được. II. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 1. Thực trạng: ở Việt Nam lạm phát không chỉ mới xuất hiện mà lạm phát đã tồn tại từ lâu, chỉ có điều biểu hiện của nó không công khai, các nghị quyết của đảng cộng sản Việt Nam, đại hội V trở về trước không sử dụng khái niệm lạm phát mà chỉ dùng cụm từ "Chênh lệch giữa thu và chi giữa hàng và tiền...."; "Thị trường vật giá không ổn định..." Trong điều hành vĩ mô phát triển nền kinh tế, mọi quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm tới chính sách tài chính, tiền tệ, chống lạm phát. Đối với nước ta hiện nay, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả đang là một vấn đề lớn đặt ra trong điều hành của chính phủ, của các cấp các ngành vì sự phát triển và ổn định. Cho tới nay, Việt Nam đã thành công về phương diện này. Lạm phát đã giảm từ hơn 700% một năm vào năm 1986 xuống chỉ còn 35% vào năm 1989. Đây là một thành công lớn, phản ánh kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, như tự do hoá nền kinh tế, áp dụng một tỷ giá hối đoái thực tế hơn, người dân không còn tồn trữ hàng hoá, vàng và đô la mà bắt đầu tích luỹ bằng đồng tiền trong nước, xuất khẩu dầu thô ngày càng tăng. Tuy nhiên, những tiến bộ vượt bậc trong năm 1989 đã không được củng cố ngay bằng các chính sách tiền tệ và tài khoản thận trọng, do đó trong các năm 1992 và 1993, giá cả đã tăng gần 70% năm. 2. Lạm phát qua một số giai đoạn - Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1890 trở về trước, lạm phát được hiểu giống hoàn toàn định nghĩa của Marx, cho nên chống lạm phát là tìm tòi mọi cách hạn chế việc phát hành tiền vào lưu thông. - Thời kỳ 1938 - 1945: Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để vơ vét của cải nhân dân Việt Nam đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống phát xít Đức và sau đó để nuôi mấy chục vạn quân nhận bán Đông Dương làm chiếc cầu an toàn đánh Đông Nam á. Hậu quả nặng nề của lạm phát nhân dân Việt Nam phải chịu giá sinh hoạt từ 1939 - 1945 bình quân 25 lần. - Thời kỳ 1946 - 1954: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay đồng Đông Dương và sau đó là đồng ngân hàng để huy động sức người, sức của của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải phòng hoàn toàn nửa đất nước. - Thời kỳ 1955 - 1965: Chính phủ tay sai Mỹ kế tiếp nhau ở miền Nam Việt Nam liên tục lạm phát đồng tiền Miền Nam để bù đắp lại cuộc chiến tranh chống laị phong trào giải phóng dân tộc ở Miền Nam. Mặc dù được chính phủ Mỹ đổ vào miền Nam một khối lượng hàng viện trợ khổng lồ, giá trị hàng trăm tỷ USD cũng không thể bù đắp lại chi phí. - Thời kỳ 1965 - 1975: ở miền Bắc Việt Nam chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại ở Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đã phát hành số tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưu thông của năm 1965 ở miền Bắc) để huy động lực lượng toàn dân, đánh thắng độc quân xâm lược ở Mỹ và tay sai ở cả hai miền. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn và có hiệu quả của Liên xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em đã hạn chế được lạm phát trong thời gian này. -Thời kì 1997 - 2003: Trong thời kì này nền kinh tế nước ta nằm trong giai đoạn lạm phát thấp tuy nhiên cùng với nó là tình trạng nền kinh tế tăng trưởng chậm. Đây thực sự không phải là điều mà chúng ta mong muốn mặc dù tỷ lệ lạm phát đã được hạ xuống tuy nhiên chúng ta cần có tốc đọ tăng trưởng kinh tế cao hơn. Nguyên nhân là khi các biện pháp chống lạm phát bắt đầu phát huy hiệu quả thì nền kinh tế lại phải hứng chịu những tác động xấu của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực. - Thời kì 2004-2005 : Đến giai đoạn này nền kinh tế nước ta lại lâm vào 1 thời kì lạm phát mới. Trong giai đoạn này mặc dù tình hình lạm phát đang ở mức kiểm soát được nhưng nguy cơ lạm phát bùng phát vẫn đe doạ sự ổn định và phát triển của nước ta. Chỉ số giá tiêu dùng liên tục tăng trong cả năm 2004. Đặc biệt trong 6 tháng đầu năm: tháng 1 tăng 1,1%, tháng 2 tăng 3%, tháng 3 tăng 0,8%, tháng 4 tăng 0,5%, tháng 5 tăng 0,9%, tháng 6 tăng 0,8%. Chỉ số giá tháng 6 tăng tới 7,2% so với tháng 12-2003. Dù tình hình này đã được cải thiện vào 6 tháng cuối năm tuy nhiên chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2004 vẫn tăng 9,5% so với năm 2003. Sang năm 2005, tình hình giá 4 tháng đầu năm tuy còn cao nhưng đã thấp hơn so với cùng kỳ năm 2004. Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực nhưng nguy cơ lạm phát bùng phát vẫn còn do những diễn biến phức tạp về giá cả trên thị trường thế giới. - Đầu năm 2006 Các chỉ số thống kê cho thấy, giá tiêu dùng tháng 3 giảm 0,5% so với tháng 2. Trong 10 nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng, cứ 5 nhóm giỏ giảm, trong đó giảm nhiều nhất là giỏ lương thực - thực phẩm giảm 0,9%, riêng thực phẩm giảm 1,9%, tiếp đến là văn hóa giảm 0,7%, phương tiện đi lại và bưu điện giảm 0,6%, đồ uống và thuốc lá giảm 0,5%, đồ dùng khác giảm 0,4% 3. Đặc trưng lạm phát ở nước ta: Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống với lạm phát ở các quốc gia khác như: chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến do vậy giá trị của đồng tiền giảm. Song lạm phát ở Việt Nam có đặc trưng riêng do điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể: - Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh tế nhà nước có địa vị thống trị. Nền kinh tế Việt Nam thuộc loại kém phát triển nhất thế giới, các chỉ tiêu bình quân đầu người rất thấp. Khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam chiếm 1 tỷ trọng lớn hiếm có trên thế giới. Mặc dù khu vực nhà nước chiếm phần lớn số vốn đầu tư và chất xám trong cả nước nhưng lại chỉ có thể làm ra từ 30% - 37% tổng sản phẩm xã hội. Các xí nghiệp quốc doanh nhìn chung đã nộp cho ngân sách nhà nước một số tiền thấp rất xa so với số tiền nhà nước cung cấp cho nó qua bù lỗ, bù giá, cấp phát tín dụng, lãi suất thấp... Khu vực kinh tế tư nhân làm ăn có hiệu quả hơn và đóng góp một phần quan trọng trong ngân sách của nhà nước. Chính hoạt động của các hãng kinh tế nhà nước với lãi giả, lỗ thật đã đẩy nền kinh tế lạm phát, thị trường rối loạn, lỗ lãi khó kiểm tra - Lạm phát Việt Nam có cơ cấu của nó bao gồm những ngành kém hiệu quả có được sự ưu tiên phát triển. Mọi người đều thấy sự mất cân đối khi ưu tiên phát triển công nghiệp nặng (vốn lớn, thu hồi lãi chậm). - Lạm phát ở một nước chịu ảnh hưởng nặng nề của các cuộc chiến tranh kéo dài do đó chi phí cho lĩnh vực quốc phòng lớn, tiền trợ cấp gia đình chính sách... Những khoản này đã làm tăng thêm thâm hụt ngân sách và tăng lạm phát. - Việt Nam là nước nông nghiệp mà luôn chịu ảnh hưởng của thiên tai, hạn hán, mất mùa... Do đó, ngân sách hụt đi do phải chi ra 1 khoản trợ cấp cho các vùng thiên tai. 4. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam: Lạm phát ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân và ý kiến khác nhau. Từ những phân tích về đặc trưng của nó ta có thể thấy con đường dẫn đến lạm phát. - Trước đây nguyên nhân của lạm phát từ trong chính các thể chế kinh tế quan liêu bao cấp mệnh lệnh, đóng cửa... thể chế này hướng nền kinh tế Việt Nam phát triển các ngành có chi phí cao, tách rời cầu thị trường, cô lập với thế giới bên ngoài dẫn đến sự mất cân đối giữa cung và cầu, thu và chi ngân sách... thể hiện nền kinh tế thích xu hướng phát triển kém hiệu quả, các xi nghiệp làm ăn thua lỗ... Đó là nguyên nhân sâu xa đưa nền kinh tế lâm vào lạm phát phi mã. - Do điều hành sai lầm của bộ máy nhà nước, như xác định cơ cấu không xuất phát từ hiệu quả. Sự đổi tiền và tăng giá năm 1985 là chính sách phá giá đồng tiền, làm giảm niềm tin của dân vào đồng tiền của nhà nước. Chính sách lãi suất thấp so với mức trượt giá làm cho người dân không muốn g ửi tiết kiệm. Sự mất cân đối tài chính gây lạm phát qua kênh tín dụng, ngân hàng nhà nước luôn phải phát hành tiền để cân đối các nguồn vốn cho vay của ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của các ngành kinh tế và xây dựng cơ bản ngày càng tăng. Nhà nước lại không chủ động được việc cung cầu hàng hoá, gây ra sự rối loạn trên thị trường, giá cả thay đổi một cách bất hợp lý so với giá quốc tế. Mặt hàng giá cả bị nhích lên do cơn sốt xi măng, thép, xăng dầu, vàng và ngoại tệ. - Cho đến nay, xương sống của nền kinh tế Việt Nam vẫn là các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp này đóng góp 37% vào ngân sách nhà nước. Trong số gần 6000 doanh nghiệp nhà nước thì chỉ riêng 18 tổng công ty lớn với hơn 300 thành viên đã đóng góp trên 70% tổng nộp ngân sách của khu vực kinh tế quốc doanh. Việc làm ăn của nhiều công ty xuất nhập khẩu hàng năm nhà nước phải bù lỗ, bù giá quá lớn có năm chiếm gần 40% tổng số chi cho ngân sách, không những không làm thêm mà còn phải chi ra. - Môi trường đầu tư chậm được cải tiến, tích luỹ ở trong nước còn ở mức thấp, mới ở khoảng 25 á 26% GDP. Đầu tư những công trình có vốn lớn, thời gian thi công kéo dài quá sức chịu đựng của nền kinh tế trong lúc đó nguồn thu hạn hẹp, thất thu lớn. Tình hình đó làm cho nguồn tài chính quốc gia bị thâm hụt, không còn cách nào khác buộc nhà nước phải in tiền giấy bù đắp, vì vậy đã gây ra lạm phát tiền giấy. - Nguyên nhân từ cơ chế kinh tế độc quyền mà nhà nước có vị trí thống trị trên mọi lĩnh vực. Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động của nền kinh tế. Các quan hệ tiền tệ không được phát huy một cách đầy đủ tác dụng kích thích, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Quy luật giá trị vi phạm một cách nghiêm trọng. Các nhà lãnh đạo đầy tham vọng muốn kiểm soát toàn bộ các cơ sở kinh tế quốc dân bằng kế hoạch hoá tập trung. Sự điều hành quản lí còn nhiều bất cập cùng với đó là tình trạng tham nhũng và buôn lậu đã và đang hoành hành gây ra những khó khăn cho sự phát triển của sản xuất và bình ổn giá. -cùng với những yếu kém của nền kinh tế, chúng ta còn phải đối mặt với những diễn biến phúc tạp trong nền kinh tế thế giới. Ngoài ra cũng phải kể đến những khó khăn do thiên tai gây ra và những dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như cúm gia cầm ... III. Các biện pháp kiềm chế lạm phát ở nước ta: 1. Các quan điểm và khắc phục lạm phát Tăng lãi suất ngân hàng cao hơn mức lạm phát. Muốn khắc phục lạm phát cần phải thi hành chính sách "hạn chế tiền tệ" hay " khắc khổ" thu, tăng lãi suất tín dụng của ngân hàng trung ương, hạn chế tăng lương, duy trì thất nghiệp ở mức thấp. * Theo cách tiếp cận khác. + Đối với mọi cuộc siêu lạm phát và lạm phát phi mã, hầu như đều gắn liền với sự tăng trưởng nhanh chóng về tiền tệ, thâm hụt ngân sách lớn... nên đề ra biện pháp giảm mạnh tốc độ tăng cung tiền, cắt giảm mạnh mẽ chi tiêu và kiểm soát có hiệu quả việc tăng lương danh nghĩa, chắc chắn sẽ chặn đứng và đẩy lùi lạm phát. + Đối với lạm phát vừa phải, muốn kiềm chế và đẩy lùi từ từ xuống mức thấp hơn cũng đòi hỏi áp dụng các chính sách nói trên. Tuy nhiên, biện pháp này kéo theo suy thoái và thất nghiệp - một giá đắt - nên việc kiểm soát chính sách tiền tệ và tài khoá trở nên phức tạp và đòi hỏi phải thận trọng. Có thể xoá bỏ lạm phát hay không? Cái giá phải trả của việc xoá bỏ hoàn toàn lạm phát không tương xứng với lợi ích đem lại của nó, vì vậy các quốc gia thường chấp nhận lạm phát ở mức thấp và xử lý ảnh hưởng của nó chỉ số hoá các yếu tố chi phí như tiền lương, giá vật tư, lãi suất... Đó là cách làm cho sự thiệt hại của lạm phát là ít nhất. Lĩnh vực tài chính - tiền tệ đạt tiến bộ đáng kể, nổi bật nhất là đã chặn được nạn lạm phát cao, từng bước đẩy lùi lạm phát. Chỉ số hàng tiêu dùng và dịch vụ giảm từ 67,4% năm 1993 xuống còn 17,5% năm 1994. Năm 1995: 5,2% Năm 1996: 14,,4%; Năm 1997: 12,7% Năm 1998: 4,5%; Năm 1999: 3,6% 2. Giải pháp chống lạm phát ở nước ta: Căn cứ vào thực tế thực thi và các giải pháp chống lạm phát, chúng ta có thể kể đến một số giải pháp chủ yếu sau: a. Giải pháp đầu tiên:là Đảng cần nâng cao nhận thức chính trị, nhận thức kinh tế cán bộ, Đảng viên theo hướng đổi mới. Đồng thời nhà nước phải vững mạnh chuyên chính vô sản, lập lại trật tự kỷ cương xã hội, giữ vững phép nước phải kiên quyết thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong hệ thống Đảng và các cơ quan nhà nước, đấu tranh không khoan nhượng, xóa bỏ những đặc quyền, đặc lợi, những tư tưởng cục bộ địa phương đang làm trì trệ, tê liệt những chủ trương chính sách của nhà nước. Để làm việc này, nhà nước cần ban hành những đạo luật chung về kinh tế, các đạo luật cụ thể về giá cả, lao động, tài chính, ngân hàng... làm cơ sở thống nhất cho việc thi hành trong cả nước đồng thời phải đề cao chức năng thoái soát kiểm kê của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, hoạt động xã hội. b. Các biện pháp về tiền tệ, tín dụng, thanh toán và ngân hàng trong việc chống lạm phát. Đảng đã thấy rõ tầm quan trọng của việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát với việc thi hành các chính sách tài chính, tín dụng, tiền tệ, xây dựng một nền tài chính lành mạnh. Nghị quyết TW II đã vạch rõ: + Xoá bao cấp qua tín dụng + Đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối, hạ cơn sốt ngoại tệ + Đổi mới cơ cấu và phương thức cân đối ngân sách + Cải tiến việc phân cấp quản lý ngân sách. + Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, giáo dục việc thực hiện các giải pháp này không nằm ngoài nội dung hoàn thiện chính sách lãi suất. Giảm hoặc rút bớt về một khối lượng tuyệt đối giấy bạc để thực hiện biện pháp này, thông thường chính phủ và ngân hàng sử dụng các hình thức thu hút vốn vào quỹ ngân hàng như sau: + Khuyến khích vào mở rộng tiền vốn ngân hàng (bao gồm cả gửi tiết kiệm của nhân dân bằng cách nâng cao mức lãi suất gửi tiết kiệm vào ngân hàng trên mức lạm phát, với sự sụt giá đồng bảng và chính sách bảo vệ bảo hiểm giá trị đồng vốn gửi vào ngân hàng. + Phát hành công trái, trái phiếu và xổ số kiến thiết với quy mô mở rộng và bâừng những biện pháp hành chính cưỡng bức với người sản xuất, kinh doanh trong việc mua công phiếu trái phiếu hoặc bằng những chế độ thưởng hiện vật và giải cao, phòng giúp kích khích. +Thu hẹp khả năng thanh toán cuối cùng các hối phiếu hoặc kỳ phiếu thương mại đối với ngân hàng thương mại thông qua việc hạn chế chiết khấu và các chiết khấuvà nâng cao tỷ lệ quỹ vốn lao động. + ấn định giá hối đoái, hợp lý đồng bạc quốc gia theo chế độ 1 giá hối đoái và thực hiện nghiêm ngặt điều kiện quản lý ngoại hối, biện pháp này cho phép ngân hàng nhà nước thu về một khối lượng tiền tệ đáng kể trênthị ttrường tăng thu nhập ngân sách, đó là một cách để thấy và bù đắp một phần thiếu hụt cán cân thu chi ngân sách. + Hạn chế và thu hẹp tín dụng ngân hàng nói chung, nhất là tín dụng do hoạt động thương mại thuần tuý, hối đoái trong điều kiện sản xuấtnhất là sản xuất hàng tiêu dùng bị đình đốn. Song có thể gia tăng khối lượng tiêu dùng ngắn hạn hướng vào sản xuất hàng tiều dùng thiết yếu bằng số ngoại tệ thu được qua xuất khẩu, cung ứng dịch vụđối ngoại hoặc vay nợ, viện trợ. c. Nhà nước thực hiện thả nổi giá cả hầu hết trên các mặt hàng, giờ đây giá cả của hàng hoá do thị trường định đoạt. Nhà nước chỉ dừng lại ở mức quy định một ít mặt hàng treo giá của nhà nước đưa ra. Từ năm 1989 giá cả hầu hết các hàng hoá đựơc thị trường xác định, đến nay nhà nước chỉ còn xác định giá cước tải liên lạc, giá năng lượng, xăng dầu. Một số mặt hàng quan trọng nhà nước can thiệp bằng các biện pháp kinh tế tích cực. Chẳng hạn giá gạo hạ thấp, nhà nước bỏ tiền ra mua với giá gạo cao hơn thị trường tự do để giữ vững và khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Giá vàng lên cao, ngân hàng nhà nước bán vàng ra thị trường với mức giá thấp hơn để kéo vàng hạ xuống. Với giải pháp này nhà nước đã xóa bỏ tình trạng ngân sách phải bao cấp cho các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế thông qua hệ thống giá thấp. Do trực tiếp chịu sự quy định của quan hệ cung cầu, của người sản xuất và người tiêu dùng... là chức năng điều tiết giá cả do thị trường đảm nhận đã được khôi phục trở lại. Trên thị trường giá cả đã có sự co giãn lên xuống và thực sự trở thành tấm gương phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Giá cả trở thành mệnh lệnh của thị trường và nó cũng rất khắc nghiệt. Đồng thời giá cả có tác động đến nhu cầu, làm cho nhu cầu được điều chỉnh tốt hơn theo hướng đa dạng, tiết kiệm... Mọi người tiêu dùng đã tính toán được các khoản chi tiêu không cần thiết. Nhà nước Việt Nam cho phép ngân hàng quốc gia được xác định tỷ giá ngoại tệ xấp xỉ với thị trường tự do, biện pháp này có tác dụng xoá bỏ hiện tượng đầu cơ vàng và ngoại tệ gây rối loạn thị trường. Hiện nay nhà nước cùng với ngân hàng TW đa._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0468.doc
Tài liệu liên quan