Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

MỤC LỤC: A.Đặt vấn đề: 2 B.Nội dung 3 1.Lý luận chung về kinh tế thị trường 3 1.1.Khái niệm về thị trường và kinh tế thị trường 3 1.2.Tính chất chung của nền kinh tế thị trường 4 1.3.Mô hình phát triển kinh tế thị trường rút ngắn 4 1.4.Đặc điểm mô hình kinh tế thị trường của Mỹ 5 2.Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 6 2.1.Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN 6 2.2.Sự cần thiết xây dựng,phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam 7 2.3.Tác dụng to lớn của sự p

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1728 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát triển kinh tế thị trường 9 2.4.Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 10 2.5.Vai trò của nhà nước trong việc quản lý nền KTTT 13 2.6.Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN 15 2.7.Thực trạng phát triển kinh tế thị trường ở nước ta 16 3.Kết quả đạt được và thách thức 18 C.Kết luận 22 D.Danh mục tài liệu tham khảo 25 A. ĐẶT VẤN ĐỀ. Sự phát triển hay sụp đổ của mỗi một quốc gia phụ thuộc vào nhiều nhân tố như :thể chế chính trị, thể chế kinh tế, chính sách đối ngoại…trong đó sự lựa chọn thể chế kinh tế có vai trò cực kỳ quan trọng. Lịch sử phát triển của nước ta kể từ năm 1975 chia làm hai giai đoạn với mốc đánh dấu là Đại hội VI (12/1986). Giai đoạn 1975-1986,do chưa nhận thức đúng đắn được sự thay đổi hiện trạng KT-XH sau khi đất nước độc lập; và do quan điểm siêu hình, không biện chứng khi cho rằng KTTT và CNXH là trái ngược nhau, cái nọ phủ định cái kia và không thể cùng tồn tại. Cách hiểu sai lệch như vậy đã dẫn đến việc bài xích KTTT đồng nhất KTTT với CNTB, đối lập KTTT với CNXH. Đại hội VI của Đảng đã quyết định chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền KTTT định hướng XHCN. Chuyển sang thể chế kinh tế mới là một quá trình vô cùng phức tạp và vì nó không chỉ là sự thay đổi phương thức bố trí tài nguyên mà còn là sự thay đổi vị trí lợi ích và quyền lực của các nhóm dân cư, các tổ chức xã hội, sự thay đổi nếp sống, nếp nghĩ của đại bộ phận nhân dân. Những thành tựu của công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo là sự khẳng định một lần nữa tính đúng đắn của chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng HCM cũng như sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta vào thực tiễn đất nước. Nghiên cứu quan điểm lịch sử về việc phát triển nền KTTT ở nước ta là rất quan trọng, nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Hơn nữa, trong bối cảnh của tình hình thế giới hiện nay đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng HCM, phải bảo vệ , phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng HCM vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Được sự hướng dẫn của thầy, em đã hoàn thành bài tiểu luận này. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! B. NỘI DUNG: 1. Lý luận cơ bản về kinh tế thị trường (KTTT): 1.1 Khái niệm về thị trường và KTTT: 1.1.1 Thị trường: - Thị trường là một phạm trù sản xuất và lưu thông hàng hoá, phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa người mua và người bán đã được thể chế hoá nhằm xác định giá cả và khối lượng hàng hoá. - Thị trường chứa đựng tổng cung, tổng cầu, mối quan hệ cung – cầu, mức giá và những yếu tố không gian, thời gian, xã hội đối với một loại sản phẩm nào đó của nền sản xuất hàng hoá. Mức độ phát triển của thị trường phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế. 1.1.2 Kinh tế thị trường: - Khái niệm kinh tế hàng hoá: Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Sản phẩm làm ra không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất mà để bán - để thoả mãn nhu cầu của người mua, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Kinh tế thị trường là sản phẩm của sự phát triển của xã hội loài người, nó là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. KTTT thực hiện phân bổ các nguồn lực xã hội thông qua cơ chế thị trường, được chi phối bởi các quy luật cơ bản: quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. KTTT là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó sản xuất ra cái gì, như thế nào, cho ai được quyết định thông qua thị trường. KTTT xuất hiện như là một yêu cầu khách quan không thể thiếu được của nền kinh tế hàng hoá. Song không nên đồng nhất nó với kinh tế hàng hoá. Xét về mặt lịch sử, kinh tế hàng hoá có trước kinh tế thị trường, kinh tế hàng hoá ra đời thì thị trường cũng xuất hiện nhưng không có nghĩa đó là nền kinh tế thị trường. Với sự tăng trưởng của kinh tế hàng hoá, thị trường được mở rộng, phong phú, đồng bộ, các quan hệ thị trường tương đối ổn định thì mới có kinh tế thị trường. Vậy, kinh tế thị trường không phải là một giai đoạn khác biệt, độc lập, đứng ngoài kinh tế hàng hoá mà là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hoá và KTTT không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển, về cơ bản chúng có cùng bản chất và nguồn gốc. 1.2 Tính chất chung của nền kinh tế thị trường: - Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất – kinh doanh. - Giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. - Nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị,quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh … Sự tác động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. - Nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua các luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế… 1.3 Mô hình phát triển kinh tế thị trường rút ngắn: Các quốc gia với những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau sẽ có những phương thức và tiến trình xây dựng kinh tế thị trường hoàn toàn khác nhau. Có 2 mô hình phát triển KTTT chính: Mô hình phát triển tuần tự Mô hình phát triển rút ngắn: gồm 2 kiểu: + Mô hình rút ngắn cổ điển. + Mô hình rút ngắn hiện đại. Trong khuôn khổ bài tiểu luận, em xin trình bày sơ qua về mô hình phát triển rút ngắn hiện đại – Mô hình mà nước ta lựa chọn để phát triển kinh tế thị trường. Có thể nói mô hình rút ngắn hiện đại là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản hiện đại và cũng là sản phẩm của thời đại ngày nay. Nó hội tụ được các ưu điểm: phát triển kinh tế thị trường hoàn hảo với sự điều tiết mạnh mẽ và thông minh của nhà nước, tiếp thu tinh hoa phát triển của các nước đi trước, khai thác được mọi tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế quốc gia, lợi dụng tối đa tư bản nước ngoài và mở của nền kinh tế. Mô hình này xuất hiện nhờ các điều kiện: Sự tiến bộ của khoa học công nghệ. Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia. Hiện nay, nền kinh tế nước ta còn ở trình độ kém phát triển bởi lẽ cơ sở vật chất kĩ thuật của nó còn lạc hậu, thấp kém, nền kinh tế ít nhiều còn mang tính tự cấp, tự túc. Tuy nhiên nước ta không lặp lại nguyên vẹn tiến trình phát triển của các nước đi trước: Kinh tế hàng hoá giản đơn KTTT tự do KTTT hiện đại mà xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, theo định hướng XHCN theo kiểu rút ngắn. Điều này có nghĩa: Đẩy mạnh CNH-HĐH để phát triển nhanh chóng LLSX, trong một thời gian tương đối ngắn xây dựng được cơ sở vật chất- kĩ thuật hiện đại để nền kinh tế nước ta bắt kịp với trình độ phát triển chung của thế giới, đồng thời phải hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc quản lý kinh tế vĩ mô và thực hiện định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa. 1.4 Đặc điểm mô hình kinh tế thị trường của Mỹ: Mô hình kinh tế thị trường của Mỹ tức là mô hình KTTT chịu sự dẫn dắt của người tiêu dùng còn gọi là kinh tế thị trường tự do. Mô hình này đặc biệt nhấn mạnh vai trò của thị trường trong việc thúc đẩy trong nền kinh tế và cho rằng nhà nước chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với phát triển kinh tế. Mô hình này đề cao tinh thần của các chủ xí nghiệp, chủ trương thị trường hiệu quả, trong khi phê phán sự can thiệp của nhà nước.Mô hình này còn mang đặc trưng tố tụng luật pháp không hạn chế, nhà nước có tiến hành điều tiết khống chế hay không thường căn cứ vào mục tiêu là việc đó có lợi cho người tiêu dùng hay không, ít khi xuất phát từ góc độ người sản xuất. Nền KTTT hướng vào người tiêu dùng đang trong quá trình không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Xuất phát từ quan niệm của Mỹ là “Sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc” nên nước Mỹ đề cao tinh thần tự do xí nghiệp chứ không chủ trương chính phủ can thiệp. Điều này hoàn toàn trái ngược với sự phát triển nền kinh tế thị trường của nước ta: nền kinh tế có sự quản lý của nhà nước. 2.Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 2.1 Khái niệm KTTT định hướng XHCN Kinh tế thị trường định hướng XHCN theo quan điểm của Đảng ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Về bản chất, khác với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nền KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế vì nhân dân phục vụ nhân dân, lấy đời sống nhân dân, công bằng xã hội là mục tiêu để tăng trưởng kinh tế. KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế có mức tăng trưởng cao và bền vững, LLSX được phát triển trên cơ sở áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới cùng với đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao. KTTT định hướng XHCN là một kiểu tổ chức kinh tế dựa trên nguyên tắc, quy luật của KTTT, đồng thời được dẫn dắt, định hướng bởi nguyên tắc và bản chất của CNXH nhằm thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Mục tiêu của phát triển KTTT định hướng XHCN là nâng cao đời sống của nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội, hạn chế những bất bình đẳng trong thu nhập, bảo vệ môi trường, bản sắc văn hoá dân tộc, ổn định chính trị - xã hội và an ninh – quốc phòng. KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế mở và mang tính khu vực hoá, quốc tế hoá. Phát triển KTTT định hướng XHCN phải góp phần nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế. Nước ta xây dựng và phát triển KTTT định hướng XHCN chứ không phải KTTT TBCN. Chúng ta lấy phát triển kinh tế là phương tiện để đạt được mục tiêu cơ bản xây dựng XHCN, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Vì vậy mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.Việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội và tập thể có ý nghĩa quan trọng để thực hiện mục tiêu đó. 2.2 Sự cần thiết xây dựng, phát triển nền Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 2.2.1 Tính khách quan của việc chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta. Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về TLSX. Với sự nỗ lực của nhân dân cùng với sự giúp đỡ của các nước XHCN khác, mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được tính ưu việt của nó: từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán bằng công cụ kế hoạch hoá, nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản, tiền bạc để ổn định và phát triển nền kinh tế, huy động tối đa sức người và sức của phục vụ cho tiền tuyến … Sau ngày giải phóng miền Nam, hiện trạng kinh tế - xã hội đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại 3 loại hình kinh tế: tự cấp tự túc, kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Nhưng nước ta vẫn chủ trương xây dựng nền kinh tế chỉ huy như ở miền Bắc trước đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng rập khuôn mô hình kinh tế chưa thích hợp với điều kiện của đất nước và kém hiệu quả đã làm xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực. Do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đất nước, trái lại đã dẫn đến việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc đó đã gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở lên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm gần như không có, vốn đầu tư dựa vào cho vay và viện trợ từ nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi cùng với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí ở một số địa phương nạn đói đang rình rập. Những sai lầm cơ bản là: Ta đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về TLSX trên một quy mô lớn trong điều kiện chưa cho phép. Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện không cho phép. Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp, lại dùng hình thức vừa phân phối bình quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển. Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu người lao động. Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng, viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta tới sự bức bách phải đổi mới. Tại đại hội VI(tháng 12/1986) của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến đại hội VII(tháng 4/1991), Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó, tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Xem xét dưới góc độ khoa học việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta, phù hợp với các quy luật kinh tế và với xu thế của thời đại. 2.2.2 Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, - Phân công lao động XH – cơ sở của sản xuất hàng hoá được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động thể hiện ở tình trạng phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường. - Nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu: Sở hữu toàn dân. Sở hữu tập thể. Sở hữu tư nhân (Cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân). Sở hữu hỗn hợp. Vì thế tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá – tiền tệ. Thành phần nền kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về TLSX nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kĩ thuật công nghệ, trình độ tổ chức quản lý nên chi phí và hiệu quả sản xuất khác nhau. Quan hệ hàng hoá – tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc. Như vậy, KTTT ở nước ta là một tồn tại tất yếu khách quan, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp CNH-HĐH. 2.3 Tác dụng to lớn của sự phát triển KTTT Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ lên CNXH còn mang nặng tính tự túc tự cấp vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất. . - Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu để được cạnh tranh về giá. KTTT tạo ra động lực thúc đẩy LLSX phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội. KTTT kích thích tính năng động sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, của thị trường. KTTT thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất nên phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng, lợi ích của đất nước để mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, tạo điều kiện cho sự ra đời của sản xuất lớn, xã hội hoá cao đồng thời hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. 2.4 Đặc trưng của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam 2.4.1 Mục tiêu phát triển KTTT - Mục tiêu hàng đầu của phát triển KTTT ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện CNH-HĐH , xây dựng cơ sở vật chất của CNXH , nâng cao hiệu quả KT-XH , cải thiện từng bước đời sống nhân dân. - Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xoá đói, giảm nghèo. 2.4.2 Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần trong đó KTNN giữ vai trò chủ đạo. - Nền kinh tế nước ta gồm nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh: Kinh tế nhà nước Kinh tế tập thể Kinh tế tư nhân Kinh tế tư bản nhà nước Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài - Các thành phần kinh tế nói trên tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Vì vậy phát triển KTTT nhiều thành phần là một tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy chúng ta mới khai thác được mọi nguồn lực kinh tế phát huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế vào phát triển nền kinh tế của đất nước. - Trong nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa nền KTTT định hướng XHCN với KTTT TBCN. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường nước ta đã quyết định nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần bởi vì mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó. KTNN cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho xã hội mới –XHCN. Mỗi thành phần kinh tế đều có bản chất kinh tế- xã hội chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng nên bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế còn có những khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế có khả năng phát triển theo các hướng khác nhau. Vì vậy kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình, đồng thời nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý vĩ mô kinh tế - xã hội để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. 2.4.3 Trong nền KTTT định hướng XHCN, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. Mỗi chế độ xã hội đều có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do QHSX thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quy định: quan hệ phân phối, các hình thức thu nhập là hình thức thực hiện về các mặt kinh tế của các quan hệ sở hữu về TLSX. Mỗi chế độ sở hữu có nguyên tắc, hình thức phân phối tương ứng với nó. Vì vậy, nền kinh tế thị trường nước ta tồn tại cơ cấu đa dạng về hình thức phân phối: Phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế. Phân phối theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác. Phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của KTTT định hướng XHCN, nó là hình thức thực hiện mặt kinh tế của chế độ công hữu. Đây là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kì quá độ lên XHCN. 2.4.4 Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước XHCN. - Sự quản lý của nhà nước XHCN nhằm sửa chữa những “thất bại của thị trường” thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân cơ chế thị trường không thể làm được, đảm bảo cho nền KTTT phát triển theo định hướng XHCN. Vai trò quản lý của nhà nước XHCN là hết sức quan trọng. Nó bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là đảm bảo công bằng xã hội. Không ai ngoài nhà nước có thể giảm bớt được sự chênh lệch giữa giàu & nghèo, giữa thành thị & nông thôn, giữa các vùng của đất nước trong điều kiện KTTT. - Nhà nước quản lý nền KTTT định hướng XHCN theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường: Thị trường là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, nó tồn tại khách quan, tự vận động theo những quy luật vốn có của nó. Kế hoạch hoá là hình thức thực hiện của tính kế hoạch, là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý. Kế hoạch & cơ chế thị trường là hai phương tiện khác nhau để phát triển và điều tiết nền kinh tế. Kế hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lý đối với nền kinh tế, cơ chế thị trường là sự điều tiết của bản thân nền kinh tế. Kế hoạch & thị trường cần được kết hợp với nhau trong cơ chế vận hành nền kinh tế. Thị trường là căn cứ để xây dựng và kiểm tra các kế hoạch phát triển kinh tế. Những mục tiêu và biện pháp mà kế hoạch nêu ra muốn được thực hiện có hiệu quả phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường. Mặt khác muốn cho thị trường hoạt động phù hợp với định hướng XHCN thì nó phải được hướng dẫn và điều tiết bởi kế hoạch. 2.4.5 Nền KTTT định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập. - Mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kĩ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn. 2.5 Vai trò của nhà nước trong việc quản lý nền KTTT ở nước ta Ngày nay nhận thức chung của nhiều quốc gia trên thế giới về kinh tế thị trường hiện đại là nền KTTT có sự quản lý của nhà nước trong đó vai trò của nhà nước là rất quan trọng và không thể thiếu trong mỗi một mô hình kinh tế. 2.5.1 Nền KTTT cần sự quản lý của nhà nước: -Ta thấy nền KTTT có khả năng tập hợp được hành động, trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người và hướng đến lợi ích chung của toàn bộ xã hội đó là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả sản xuất. Nhưng nền kinh tế thị trường không phải là một hệ thống được tổ chức hài hoà mà trong hệ thống đó cũng chứa đựng rất nhiều các yếu tố phức tạp và nan giải. Vì vậy để khắc phục, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường cần thiết phải có sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế. -Sự can thiệp của nhà nước, một mặt nhằm định hướng thị trường, phục vụ tốt các mục tiêu KT-XH trong từng thời kỳ, mặt khác nhằm sửa chữa khắc phục những khuyết tật vốn có của KTTT tạo ra những công cụ quan trọng điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô mà không vi phạm cơ chế tự điều chỉnh ở tầm vi mô. Bằng cách đó nhà nước kiềm chế sức mạnh nguy hiểm của tính tự phát chứa đựng trong lòng thị trường, đồng thời phát huy những ưu thế vốn có của nó. 2.5.2 Vai trò của sự quản lý của nhà nước đối với nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta Trong nền KTTT định hướng XHCN với bản chất và đặc thù của nền kinh tế vừa chịu tác động của các quy luật kinh tế, vừa chịu sự chi phối của các nguyên tắc và bản chất của CNXH. Vì vậy, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế phải có sự kết hợp giữa tính năng động, linh hoạt của cơ chế thị trường với sự phát triển cân đối, có kế hoạch nền kinh tế quốc dân theo định hướng XHCN. Cụ thể, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải quản lý, điều tiết và can thiệp vào nền kinh tế để khai thác mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường đồng thời hướng nền kinh tế phát triển theo mục tiêu đã xác định. Vai trò của nhà nước thể hiện: - Nhà nước tạo môi trường thuận lợi cho nền KTTT phát triển: tạo môi trường pháp lý, KT-XH , môi trường để hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường , tạo điều kiện thuận lợi cho sự tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế, tạo môi trường chính trị - xã hội ổn định cho nền KTTT phát triển. - Nhà nước tăng cường vai trò kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động của các chủ thể kinh tế ( cả khu vực tư nhân và khu vực nhà nước) để phát triển, xử lý sai sót, vướng mắc, khó khăn cũng như khai thác yếu tố tích cực trong nền kinh tế nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế. Đồng thời thông qua sự kiểm tra, kiểm soát để quy tụ và hướng các lực lượng của nền kinh tế thực hiện các mục tiêu đã định -Nhà nước có vai trò sử dụng các tác nhân của nền KTTT để thực hiên mục tiêu KT-XH đã xây dựng. Nhà nước vừa phải tạo cơ hội và điều kiện để các chủ thể kinh tế đảm bảo lợi ích của họ và vừa thông qua yếu tố đó để đảm bảo lợi ích của xã hội. -Nhà nước có vai trò trong việc thúc đẩy, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Vai trò của nhà nước thể hiện thông qua các hoạt động: xúc tiến, đàm phán, cung cấp các thông tin về thương mại, đầu tư quốc tế để các chủ thể kinh tế có cơ sở căn cứ xây dựng kế hoạch, chiến lược hoạt động sản xuất, đồng thời đẩy nhanh sự tham gia phân công lao động quốc tế, đảm bảo cho nền KTTT phát triển ổn định. -Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bên cạnh vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế còn thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Vai trò của nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN là phát triển, tạo điều kiện thuận lợi, ổn đinh cho nền kinh tế phát triển bền vững. Nhà nước đóng vai trò là “ bà đỡ “ cho nền KTTT định hướng XHCN phát triển.Tuy nhiên, vai trò của nhà nước chỉ có thể thực hiện được trên cơ sơ năng lực thực tế của bộ máy nhà nước ứng với sự phát triển của KT-XH và nếu trong nền KTTT vai trò của nhà nước yếu kém thì vai trò của thị trường sẽ lấn át, nền kinh tế dễ bị chệch hướng. Vì vậy, nâng cao năng lực và hiệu lực hoạt động của nhà nước để nâng cao vai trò của nhà nước là một vấn đề quan trọng cần được làm ngay. 2.6 Xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta: Nhận thức được vai trò của KTTT trong việc phát triển kinh tế nước ta, vận dụng sáng tạo những tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng một xã hội mới- xã hội XHCN, đồng thời khắc phục những khuyết tật của KTTT tư bản chủ nghĩa.Ở ngay giai đoạn đầu xây dựng CNXH, Đảng ta đề ra chủ trương chính sách phát triển KTTT định hướng XHCN. Những đặc trưng xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN được cụ thể hoá trong văn kiện Đại hội IX,X của Đảng ta thể hiện ở một số mặt như sau: Về cơ chế thị trường:Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ như tỉ giá, lãi suất, nhiệm vụ thị trường mở theo các nguyên tắc của thị trường. Nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam. Về các loại thị trường:Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường: thị trường vốn và tiền tệ nhất là thị trường trung và dài hạn, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường dịch vụ khoa học- công nghệ, sản phẩm trí tuệ, dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ tư vấn và phục vụ sản xuất – kinh doanh…”phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh”. Về phân bổ các nguồn vốn:Chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay nhà nước mang tính hành chính sang cho vay theo cơ chế thị trường, xoá bỏ bao cấp trong kinh doanh, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Về các chủ thể kinh doanh:Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật,cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Phát triển quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Về hội nhập kinh tế quốc tế: Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta đã đoạn tuyệt hoàn toàn với cách hiểu đối lập giữa CNXH và KTTT, đồng nhất KTTT với CNTB. Sử dụng các công cụ KTTT để xây dựng CNXH cũng thể hiện mong muốn hội nhập, hợp tác của Đảng ta với kinh tế thế giới. Điều kiện để hội nhập kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá là phát triển KTTT và muốn phát triển KTTT thì phải hội nhập với kinh tế thế giới. Toàn cầu hoá về thực chất là sự thể hiện phát triển KTTT ở mức độ cao, mang tính quốc tế.Không có thị trường không thể thực hiện tự do hoá, toàn cầu hoá . Chỉ trên cơ sở KTTT mới có thể tạo ra môi trường bình đẳng, thông thoáng, công khai, minh bạch cho trao đổi thương mại trên phạm vi toàn cầu. Muốn gia nhập hệ thống thương mại toàn cầu thì phải có KTTT . Không có KTTT thì sẽ không tìm được đối tác thương mại . Muốn phát triển KTTT,giải phóng sức sản xuất, thực hiện dân chủ hoá trong kinh tế, đoạn tuyệt với cơ chế quan liêu, mệnh lệnh hành chính…thì phải hội nhập với kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là phương tiện, điều kiện để phát triển KTTT .Hội nhập kinh tế và phát triển KTTT là công cụ để phát triển LLSX,tăng trưởng nhanh về kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện các mục tiêu của CNXH. Hội nhập vào nền kinh tế thế giới, ngoài những lợi ích căn bản, to lớn, lâu dài và tổng thể, còn có những bất lợi do những khuyết tật và tác động tiêu cực của KTTT như vấn đề việc làm, bất bình đẳng xã hội, ô nhiễm môi trường, tha hoá người lao động…vì vậy phải tạo ra một cơ chế phòng ngừa thích hợp và chỉ có chủ động hội nhập, chủ động tạo ra cơ hội thì mới hạn chế được những bất lợi nói trên. 2.7 Thực trạng phát triển KTTT ở nước ta 2.7.1 Thực trạng nền KTTT của nước ta: - Trình độ phát triển nền KTTT ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai: Theo UNDP Việt Nam ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ( có lĩnh vực 4-5 thế hệ) lao động thủ công chiếm tỷ trọng lớn, năng suất,chất lượng, hiệu quả sản xuất còn rất thấp so với khu vực và thế g._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0338.doc