Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa

LỜI NÓI ĐẦU Về đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, các nhà khoa học chú trọng đến đặc trưng về chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bao gồm cơ cấu sở hữu nhị nguyên với các hình thức đa dạng, đan xen và hỗn hợp, vai trò thống trị trong cơ cấu sở hữu và đặc trưng vận động của cơ cấu sở hữu; về kết cấu kinh tế theo khu vực trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về đặc trưng của khu vực kinh tế tư nhân;

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1641 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đặc trưng phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đặc trưng về lực lượng sản xuất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và so sánh các mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo ta được biết nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới là một nền kinh tế trì trệ kém phát triển. Nhưng sau hai mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng nền kinh tế nước ta đã vượt qua được thời kì khủng hoảng và đạt được những kết quả vượt trội. Bộ mặt xã hội đã thay đổi lớn, số lượng các thành phố, thị xã, thị trấn tăng lên, đời sống người dân ngày càng được cải thiện. Đặc biệt là trong những năm trở lại đây nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ được thế giới đánh giá cao. Có được những thành quả như vậy là nhờ các chính sách mở của thông thoáng tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư, các chính sách phát triển nền kinh tế trong nước theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được áp dụng một cách có hiệu quả. Ở bài viết về chủ đề “ Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” tôi muốn nói tới sự cần thiết khách quan của kinh tế thị trường cũng như thành tựu và hạn chế của nó. Bài viết của tôi chia làm 3 phần: Phần I: Lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phần II: Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.(1986 tới nay). Phần III: Phần kết luận. Trong quá trình viết do những hạn chế khách quan như khả năng lập luận, số lượng sách tham khảo, . . . Do đó chắc chắn sẽ có những sai sót. Vậy mong thầy cô thông cảm. Tôi xin chân thành cảm ơn. Sinh Viên : Phạm Minh Ngọc. NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM, LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SAU HƠN 20 NĂM ĐỔI MỚI NỘI DUNG 1. Lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 1.1. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc thừa nhận kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ nghiên cứu, vận dụng tốt kho tàng tri thức về kinh tế thị trường và các quy luật của nó nhằm thực hiện mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều được thực hiện thông qua thị trường. Vì thế kinh tế thị trường không chỉ là "công nghệ", là "phương tiện" để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội, nó không chỉ bao gồm các yếu tố của lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ thống quan hệ sản xuất. Như vậy, chứng tỏ không có và không thể có một nền kinh tế thị trường chung chung, thuần túy, trừu tượng tách rời khỏi hình thái kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội của một nước. Do đó, để phân biệt các nền kinh tế thị trường khác nhau, trước hết phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước và nhân dân lựa chọn làm định hướng, chi phối sự vận động phát triển của nền kinh tế đó. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế - xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là, nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xu hướng mới đang vận động, đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò "động lực" thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, hiệu quả; nhóm thứ hai đóng vai trò "hướng dẫn", "chế định" sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội. Có thể nói rằng: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang những đặc trưng chung của kinh tế thị trường, vừa mang tính đặc thù, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật kinh tế thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường ở nước ta với các nước khác. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta thể hiện trước hết ở việc xác định nội dung các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế thị trường và đặc trưng xã hội của nền kinh tế thị trường. Như trên đã phân tích, trong nhiều đặc tính có thể dùng làm tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị trường này với nền kinh tế thị trường khác, phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước và nhân dân đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự vận động của nền kinh tế. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:  - Do nhân dân lao động làm chủ.  - Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.  - Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.  - Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. - Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.  - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới "Cương lĩnh cũng xác định rõ mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là "xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh". Với những định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nêu trên, thì mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, trên cơ sở đó, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự công bằng, bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ đó sẽ khắc phục được tình trạng tự túc tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Áp dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động xã hội, tăng số lượng, chủng loại và chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, với các nước trên thế giới. Động viên mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài. Phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, có thể nói, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là "đòn xeo" để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, là phương tiện để thực hiện xã hội hóa xã hội chủ nghĩa nền sản xuất, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.  Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là ở chỗ đem thành quả của tăng trưởng kinh tế cao đến với mọi người bằng cách không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Chủ trương của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi sản xuất và đời sống nhân dân như nước với thuyền, "nước đẩy thuyền lên", tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, động viên, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xóa đói, giảm nghèo. Ở nước ta, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng trưởng với bảo đảm an sinh và công bằng xã hội. Bởi vấn đề bảo đảm xã hội, công bằng, bình đẳng trong xã hội không chỉ là "phương tiện" để phát triển mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ba điểm rất cơ bản là: Lấy chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu làm nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân; kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, thực hiện tốt các chính sách xã hội; Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể luận giải ba điểm trên như sau: Thứ nhất, chế độ đa sở hữu và đa thành phần kinh tế. Cốt lõi của kinh tế thị trường là sản xuất hàng hóa, trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường theo quy luật thị trường. Sản xuất và trao đổi chỉ xảy ra khi mọi chủ thể tham gia vào nền kinh tế thị trường độc lập với nhau, và vì vậy muốn thỏa mãn nhu cầu xã hội thì phải trao đổi sản phẩm gọi là hàng hóa. Các chủ thể, bởi thế, phải ý thức rõ ràng về sở hữu vật đem trao đổi, cũng như lợi ích từ việc trao đổi đó. Người lao động có thể là một người lao động cá thể hay một người lao động tổng thể. Xét trên phạm vi cả xã hội thì chỉ thông qua trao đổi lao động tư nhân mới biểu hiện thành lao động xã hội, mới chứng tỏ lao động tư nhân đó được xã hội thừa nhận.  Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên nhiều hình thức sở hữu, như: Sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện chủ sở hữu, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, song chế độ sở hữu công cộng (công hữu, toàn dân) về tư liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Từ các hình thức sở hữu cơ bản hình thành nhiều thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp.  Việc thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa nguồn lực bên trong và bên ngoài để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.  Bên cạnh đó phải chủ động đổi mới, củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể để chúng trở thành nền tảng của nền kinh tế, có khả năng hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết cũng như an ninh - quốc phòng, mà các thành phần kinh tế khác không có lợi thế hoặc đầu tư không có hiệu quả. Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn.  Thứ hai, kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chính; thực hiện tốt các chính sách xã hội. Muốn cho nền kinh tế thị trường không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và thực hiện công bằng xã hội, thì Nhà nước phải chủ động thực hiện và điều tiết các quan hệ phân phối, cụ thể như: - Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp này là vừa bảo đảm cho các chủ thể tham gia kinh tế thị trường có điều kiện đua tranh phát huy tài năng và có lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị - xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế.  - Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội và nguyên tắc của kinh tế thị trường, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội... trong đó, phải làm sao để quan hệ phân phối theo lao động đóng vai trò chủ đạo. Thừa nhận sự tồn tại của các hình thức thuê mướn lao động, các quan hệ thị trường sức lao động, nhưng không để chúng biến thành quan hệ thống trị, dẫn đến tình trạng không kiểm soát được sự phân hóa xã hội thành hai cực đối lập. - Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Một mặt, Nhà nước phải có chính sách để giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo, không để diễn ra sự chênh lệch quá mức giữa các vùng, miền, các dân tộc và các tầng lớp dân cư, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Mặt khác, phải có chính sách, biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng, hợp pháp cho người giàu, khuyến khích người có tài năng. Việc điều tiết phân phối thu nhập được thực hiện theo hai kênh: Nhà nước xã hội chủ nghĩa là chủ thể duy nhất tiến hành tổ chức điều tiết phân phối thu nhập trên phạm vi toàn xã hội, nhằm bảo đảm công bằng xã hội; thị trường có những nguyên tắc riêng trong điều tiết phân phối thu nhập. Chế độ phân phối trong xã hội là sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thực hiện công bằng xã hội không thể chỉ dựa vào chính sách điều tiết và phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư, mà còn phải thực hiện tốt các chính sách phát triển xã hội, nhằm giải quyết hài hòa các mối quan hệ xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đối tượng của các chính sách xã hội là toàn thể nhân dân, bởi vậy các chính sách ấy bao gồm:  Chính sách lao động và việc làm là chính sách xã hội cơ bản. Nó có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nguồn lao động có kiến thức, kỹ năng và lương tâm nghề nghiệp ngày càng cao, tạo ra nhiều việc làm mới, đồng thời sử dụng hiệu quả nguồn lực ấy, giảm dần tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm, vươn tới toàn dụng lao động xã hội. Đó chính là biện pháp quan trọng để vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa "phát triển sự phong phú của bản chất con người" trong lao động sáng tạo ra mọi của cải có giá trị cho bản thân, gia đình và xã hội. Chính sách xóa đói, giảm nghèo không đơn thuần chỉ là một chính sách từ thiện, mà là một hệ thống chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị và môi trường nhằm tác động trực tiếp và gián tiếp đến các nguyên nhân cơ bản dẫn đến đói nghèo, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người. Đó là các chính sách giao quyền sử dụng đất, tạo vốn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, hỗ trợ về giáo dục và y tế, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu, phát huy quyền làm chủ cho người nghèo và cộng đồng nghèo để giúp họ tự vươn lên thoát nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư, các thành phần dân tộc, các vùng miền trong cả nước.  Chính sách an sinh xã hội phải từng bước tạo ra "mạng lưới" gồm nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều hình thức phong phú về bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm cuộc sống xứng đáng cho những người về hưu, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, người gặp rủi ro bất hạnh và đặc biệt là những người có công với nước. Chính sách phòng chống các tệ nạn xã hội phải kết hợp sử dụng nhiều biện pháp giáo dục, hành chính và pháp luật để giữ vững sự ổn định, an toàn của một xã hội có kỷ cương; xây dựng lối sống lành mạnh theo quy phạm đạo đức và chuẩn mực xã hội tiến bộ, văn minh, có tác dụng cảm hóa những người lầm lỗi, tạo điều kiện cho họ tái hòa nhập cộng đồng.  Thứ ba, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực hiện cơ chế đó sẽ bảo đảm tính định hướng, điều khiển hướng tới đích xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế theo phương châm: nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.  Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện trên các mặt, như Nhà nước đóng vai trò là "nhân vật trung tâm" và quản lý kinh tế vĩ mô, thông qua các chức năng:  - Tạo môi trường pháp lý, kinh tế - xã hội ổn định, thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường;  - Định hướng và hướng dẫn sự phát triển kinh tế - xã hội bằng việc soạn thảo, ban hành các kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và các chính sách (đặc biệt là các chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng) để hướng các chủ thể kinh tế vào thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội đã đặt ra;  - Tổ chức là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước về kinh tế, nó bao gồm: Nhà nước sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị kinh tế, đặc biệt là sắp xếp, củng cố các doanh nghiệp nhà nước; phân phối các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với nền kinh tế thị trường; tổ chức lại hệ thống quản lý, sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Đổi mới thể chế và thủ tục hành chính. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước và quản lý doanh nghiệp; thiết lập mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ chức kinh tế quốc tế. - Điều tiết kinh tế, điều hành vĩ mô nền kinh tế, trong đó Nhà nước cần cân nhắc kỹ lưỡng những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh; bảo đảm nguyên tắc vận hành của nền kinh tế là nguyên tắc thị trường "tự điều chỉnh". Mặt khác, do thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị trường tự điều tiết hoàn toàn, mà còn phải phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, do đó nó còn phải chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do vậy, không thể xem các quan hệ thị trường hoạt động theo quy luật kinh tế khách quan một cách biệt lập với sự điều tiết của Nhà nước bằng các chính sách kinh tế của mình.  - Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập kỷ cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn chặn các hiện tượng vi phạm pháp luật và làm sai chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã hội.  Cơ chế thị trường là nhân tố "trung tâm" của nền kinh tế, đóng vai trò "trung gian" giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước ta quản lý nền kinh tế - xã hội theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và của toàn thể nhân dân.  Quan điểm cho rằng, khi chuyển sang kinh tế thị trường thì Nhà nước không cần phải can thiệp vào kinh tế và không cần thiết phải kế hoạch hóa vĩ mô nền kinh tế... là hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận, thực tiễn. Trong tất cả các mô hình kinh tế đã được đúc kết trên thế giới có hai dạng điều tiết kinh tế: thứ nhất, điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hóa và các biện pháp hành chính; thứ hai, điều tiết gián tiếp thông qua thị trường, vận dụng cơ chế thị trường để tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ pháp luật và theo hướng kế hoạch do Nhà nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế này chỉ khác nhau ở mức độ, liều lượng và hình thức của mỗi dạng trong cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch hóa và thị trường đều có cả ưu thế lẫn khuyết tật. Bởi vậy, chúng cần bổ sung cho nhau để hạn chế những khuyết tật.  Thực chất của vấn đề kế hoạch hóa trong kinh tế thị trường, xét từ góc độ Nhà nước, có thể được coi là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội đúng hướng. 1.2. Đường lối của Đảng và Nhà Nước qua các kì Đại hội. Từ những năm 1979-1986, Đảng và nhân dân ta đã bắt đầu có những tìm tòi và thử nghiệm để cải cách theo hướng thị trường. Tuy có những chuyển biến nhận thức và thực tiễn quan trọng, nhưng chủ yếu là cải cách thể chế cục bộ trong khuôn khổ cũ, chưa mang tính đột phá đủ để tạo ra bước ngoặt căn bản trong quan điểm lí luận và thực tiễn xã hội chủ nghĩa. Và trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn, đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội cùng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam ( tháng 12-1986 ) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xa hội. Đại hội đưa ra những quan điển mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan điểm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kì quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hành hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hoạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hôi, chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng toàn dân trong nhiều năm. Hội Nghị Trung Ương 6 ( tháng 3-19989 ), khóa VI, phát triển thêm một bước quan trọng, đưa ra quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội.” Và các đại hội tiếp sau đã khẳng định được sự phát triển của nên kinh tế thị trường là đúng đắn. Đại hội VII ( tháng 6-1991 ) tiếp tục thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo hướng phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung cho nhau phát triển. Đại hội đã đưa ra kết luận mới rất quan trọng là: Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, và cả khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng. Đại hội VIII ( tháng 6-1996 ) xác định nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận dụng theo cơ chế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX ( tháng 4-2001 ) chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, khẳng định chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, là đường lối chiến lược nhât quán. Đại hội X của Đảng khẳng định những thành tựu rất quan trọng đã đạt được trong 5 năm ( 2001-2005 ), trong đó “ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bắt đầu được xây dựng tương đối đồng bộ, một số loại thị trường mới được hình thành, các thị trường hàng hóa, dịnh vụ, lao động, khoa học và công nghệ, tài chính, bất động sản có những bước phát triển phù hơp với cơ chế mới. Như vậy, Đảng ta đã một lần nữa khẳng định tính khách quan của sự tồn tại và phát triển của kinh tế thị trường ở Việt Nam, thừa nhận sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân ( gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân ), sở hữu hỗn hợp. Coi quan hệ hàng hóa – tiền tệ cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng như ở các nước khác đều có những đặc trưng riêng và đặc trưng ở Việt Nam là: Thứ nhất, Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, vai trò làm chủ nghĩa xã hội của nhân dân và sự quản lí của Nhà Nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, được nhân dân đồng tình và là chủ thể xây dựng, không phải là sự gán ghép, chủ quan giữ kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và tự giác vận dụng, sáng tạo xu thế vận động khách quancủa kinh tế thị trường trong thời đại ngày ngay, tiếp thu có chọn lọc thành tựu của nền văn minh nhân loại, sử dụng và phát huy cao độ vai trò tích cực của nền kinh tế thị trường, đồng thời hạn chế những khuyết tật của tinh s tự phát trong kinh tế thị trường, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thứ hai, Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu để tạo động lực mạnh mẽ phát triển nền kinh tế - xã hội. Thứ ba, Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thưc hiện xóa bỏ phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, cùng phá triển lâu dài, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể là nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa đó là một động lực phát triển kinh tế – xã hội. Thứ tư, Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường là giải phóng sức sản xuất, động viện mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, xâydựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Vậy mục tiêu của kinh tế thị trường ở Việt Nam là vì con người. Con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Thứ năm, Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở, hội nhập. Đăc trưng này phản ánh xu hướng hội nhập của nền kinh tế nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế. Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đang diễn ra quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là một tất yếu với nước ta. 2. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.(1986 tới nay). 2.1. Thực trạng nền kinh tế nước ta sau hơn 20 năm đổi mới ( từ 1986 tới nay ). Kể từ năm 1986, Việt Namthực hiện chính sách đổi mới, mở cửa, xóa bỏ bao cấp và từng bước chuyển dịch sang nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế dần thoát khỏi khủng khoảng và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tăng trưởng GDP: Sau năm 1986, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển to lớn và đạt được tốc độ tăng trưởng trung bình 9% hàng năm từ năm 1993 đến 1997. Năm 1998, tăng trưởng GDP giảm xuống 4% do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997, sau đónlại tăng lên đền 4,8% năm 1999. Trong những năm 2002 – 2003 tăng trưởng GDP tăng từ 6% đến 7% trong khi tình hình kinh tế thế giới đang suy thoái. Năm 2004 mức tăng GDP là 7,7% và năm 2005 là 8,4%, trong đó khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 11% và khu vực dịch vụ tăng 8%. Nền kinh tế Việt Nam đã diễn ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách rõ rệt, khu vực nông nghiệp đã giảm từ 21,7% năm 2004 xuống còn 19% năm 2005, trong khi khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 40,1% năm 2004 lên 41% năm 2005, khu vực dịch vụ tăng từ 38.2% lên 39%. Cùng với sự tăng trưởng các khu vực của nền kinh tế nước ta thì GDP tính theo đầu người cũng tăng từ 289 USD năm 1995 lên 490 USD năm 2003. CÓ được sự tăng trưởng đó là nhờ vào tự do hóa thương mại và hội nhập quốc tế của nước ta. Đầu tư: Từ năm 2000, tổng vốn đầu tư liên tục tăng theo các năm và đặc biệt đạt mức tăng cao trong năm 2005, với khoảng 18-19 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2004 và tương đương 36,5% GDP. Cơ cấu huy động vốn đầu tư gồm từ vốn ngân sách nhà nước và có nguồn gốc ngân sách chiêm khoảng 21,8% tổng số vốn đầu tư xã hội, vốn tín dụng nhà nước chiếm khoảng 10,2%, tổng đầu tư của các doanh nghiệp quốc doanh chiếm 19,8%, vốn đầu tư của khu vực tư nhân chiếm 28,8% và còn lại là vốn nước ngoài. Việc làm: Năm 2005có 1,6 triệu việc làm mới được tạo ra, trong đó khu vực công nghiệp và xây dựng thu hút trên 448000 nhân công, đưa tổng sô._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0205.doc
Tài liệu liên quan