Phần I
Cơ sở lý luận của đầu tư trực tiếp nước ngoài
I. Một số khái niệm chung:
1. Đầu tư quốc tế:
2 Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
3. Doanh nghiệp liên doanh.
4. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
II Một số lý thuyết của các nhà kinh tế hiện đại về FDI
1. Quan điểm của P. Samuelson và R. Nurkse
2. Lý thuyết lợi thế so sánh của P.Vernon ( Hoa kỳ ).
iii Vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1. Đối với nước đi đầu tư:
2. Đối với nước nhận đầu tư.
iv Những yế
34 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1424 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam - Thực trạng & Giải pháp cho những năm đầu thế kỷ 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1. Đặc điểm của thị trường bản địa
2. Luật đầu tư.
3. Đặc điểm của thị trường nhân lực
4. Chính sách tiền tệ ổn định và mức độ rủi ro tiền tệ ở nước tiếp nhận vốn đầu tư:
5. Khả năng hồi hương vốn đầu tư.
6. Bảo vệ quyền sở hữu.
7. Chính sách thương mại.
8. Điều chỉnh hoạt động của các công ty nước ngoài.
11. Chính sách kinh tế vĩ mô.
12. Cơ sở hạ tầng phát triển.
v .Kinh nghiệm quốc tế.
1. Trung Quốc.
2. Malaysia.
3. Thái Lan.
Phần hai
Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ năm 1989 đến nay
I.Thực trạng
1.Về số dự án và số vốn đầu tư:
2.Về cơ cấu vốn đầu tư:
3.Về đối tác đầu tư.4. Một số nguyên nhân sụt giảm FDI trong những năm gần đây.
II. Khó khăn và thách thức.
1.Sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút FDI giữa các nước và các khu vực.
2.Vấn đề công nghệ:
3. Vấn đề thị trường.
III .Triển vọng FDI tại Việt nam trong những năm tới.
Phần III:
Những giải pháp cụ thể nhằm huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam trong thời gian tới.
I. Chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam.
iI. Những giải pháp cụ thể nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam trong những năm tới.
1. Duy trì sự ổn định chính trị-xã hội.
2.Cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư:
3.Cụ thể hoá chiến lược và kế hoạch thu hút FDI.
4.Thực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích đầu tư.
5. Chính sách đất đai.
6.Vấn đề quan hệ giữa FDI với các nguồn vốn khác.
6. Xây dựng và lựa chọn đối tác đầu tư
7. Tăng cường kết cấu hạ tầng, đảm bảo điều kiện thuận lợi để thu hút, hấp thu tốt FDI.
8. Vấn đề nguồn nhân lực:
9. Tiếp tục hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô:
10. Đẩy mạnh hoạt động của thị trường và có chính sách tỉ giá thích hợp.
11. Tăng cường hoạt động xúc tiến vận động đầu tư nước ngoài.
12.tạo lập và duy trì triển vọng tăng trưởng nhanh, lâu bền.
Lời nói đầu
Sự nghiệp đổi mới ở Việt nam thời gian qua đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng. Chúng ta không những đã vượt qua được sự khủng hoảng triền miên trong thập niên 80 mà còn đạt được những thành tựu to lớn trong phát triể kinh tế xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 5 năm liền (1993 á 1997 ) đạt mức 8 á 9.5%, lạm phát bị đẩy lùi, đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện cả về vật chất lẫn tinh thần. Có được thành tựu kinh tế đáng ghi nhận này là nhờ phần đóng góp lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ). Tuy nhiên vài năm trở lại đây do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra ở một số nước trong khu vực và trên thế giới, công với mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoaì của các nước như: Trung quốc, Indonesia, Thai lan, Malayxia.... Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam có phần giảm thiểu cả về số lượng và chất lượng ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển kinh tế xã hội. Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra là chúng ta phải có sự nhìn nhận và đánh giá đúng đắn về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua để thấy được những yếu tố tác động; lợi thế và bất lợi của đất nước trên cơ sở đó đề ra hệ thống những giải pháp cụ thể kịp thời nhằm thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam trong những năm tới góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược mà đảng mà nhà nước đã đề ra: Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt nam trở thành một nước công nghiệp phát triển.
Để nhận thức rõ hơn vấn đề đặt ra ở trên, em chọn đề tài: ²Huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam - Thực trạng và giải pháp cho những năm đầu thế kỷ 21².
Vì khả năng còn có hạn, bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết, em rất mong được sự đong góp ý kiến của các thầy cô để bài viết này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, Cô Trần Mai Hương đã giúp em hoàn thành bài viết này !
Phần I
Cơ sở lý luận của đầu tư trực tiếp nước ngoài
I Một số khái niệm chung:
1.1Đầu tư quốc tế: Là những phương thức đầu tư vốn tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất kinh doanh, dịch vụ với mục đích kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Về bản chất đầu tư quốc tế là những hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao của xuất khẩu hàng hoá. Có hai loại hình thức đầu tư:
-Đầu tư trực tiếp.
-Đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn va người sử dụng vốn là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp cá nhân nước ngoài ( Chủ đầu tư ) trực tiếp tham gia quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi vốn đã bỏ ra và thu lợi nhuận.
Đầu tư trực tiếp được thể hiện dưới những hình thức sau:
-Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
-Doanh nghiệp liên doanh.
-Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
1.2 Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (Gọi là các bên hợp doanh ) quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt nam mà không thành lập một pháp nhân.
1.3 Doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình doanh nghiệp do hai bên hoặc các bên nước ngoài hợp tác với nước chủ nhà cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật nước nhận đầu tư.
1.4 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài ( tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài ) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt nam, tự quản lý và tự trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân Việt nam.
2 Một số lý thuyết của các nhà kinh tế hiện đại về FDI
1. Quan điểm của P. Samuelson và R. Nurkse
Vào giữa thế kỷ XX, việc xuất khẩu tư bản nhất là FDI phát triển nhanh chóng. Các nhà kinh tế học cho rằng, để phát triển kinh tế các nước đang phát triển phải có biện pháp thu hút được FDI. Điển hình là hai nhà kinh tế học P.Samuelson và R. Nurkse. Trong lý thuyết “ cái vòng luẩn quẩn” và “cú huých” từ bên ngoài Samuelson cho rằng đa số các nước đang phát triển đều thiếu vốn, mức thu nhập thấp chỉ đủ sống ở mức tối thiểu, do đó khả năng tích luỹ vốn bị hạn chế. “Những nước dẫn đầu trong cuộc chạy đua tăng trưởng phải đầu tư ít nhất 20% sản lượng vào việc tạo vốn. Trái lại, những nước nông nghiệp nghèo nhất thường chỉ có thể tiết kiệm được 5% thu nhập quốc dân. Hơn nữa, phần nhiều trong khoản tiết kiệm nhỏ bé này phải dùng để cung cấp nhà cửa và những công cụ giản đơn cho số dân đang tăng lên.Phần còn lại hầu như rất ít cho phát triển”.
Mặt khác, theo Samuelson ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực bị hạn chế bởi tuổi thọ và dân trí thấp; tài nguyên thiên nhiên bị khan hiếm; kỹ thuật lạc hậu và gặp trở ngại trong việc kết hợp chúng. Do vậy ở nhiều nước đang phát triển ngày càng khó khăn và càng tăng “cái vòng luẩn quẩn”.
Samuelson cho rằng: để phát triển kinh tế phải có “cú huých” từ bên ngoài nhằm phá vỡ “cái vòng luẩn quẩn”. Đó là phải có đầu tư của nước ngoài vào các nước đang phát triển. Theo ông, “nếu có quá nhiều trở ngại như vậy đối với việc đi tìm tiết kiệm trong nước để tạo vốn thì tại sao không dựa nhiều hơn vào các nguồn vốn bên ngoài? chẳng phải lý thuyết kinh tế đã từng nói với chúng ta rằng, một nước giàu sau khi đã hút hết những dự án đầu tư có lợi nhuận cao của mình, cũng có thể làm lợi cho chính nó và nước nhận đầu tư bằng cách đầu tư những dự án lợi nhuận cao ra nước ngoài đó sao?”.
Sơ đồ 1: Vòng luẩn quẩn của các nước đang phát triển
Tiết kiệm và đầu tư thấp
Năng suất lao động thấp
Thu nhập bình quân thấp
Tốc độ tích luỹ vốn thấp
Trong cuốn: “Những vấn đề hình thành vốn ở các nước chậm phát triển”, R.Nurkse đã trình bày một cách có hệ thống việc giải quyết vấn đề vốn. Ông lấy vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói làm lý luận về tạo vốn: Xét về lượng cung, người ta thấy khả năng tiết kiệm ít ỏi, tình hình đó là do mức độ thấp của thu nhập thực tế, mức thu nhập thực tế phản ánh năng suất lao động thấp, đến lượt mình năng suất lao động thấp phần lớn do tình trạng thiếu tư bản gây ra. Thiếu tư bản lại là kết quả của khả năng tiết kiệm ít ỏi đưa lại. Và thế là cái vòng được khép kín. Trong cái vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo đó nguyên nhân cơ bản là thiếu vốn. Do vậy mở cửa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài được ông xem là giải pháp thực tế nhất đối với các nước đang phát triển. Theo ông, mở cửa cho FDI có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển có thể vươn đến những thị trường mới cũng như khuyến khích việc mở rộng kỹ thuật hiện đại và những phương pháp quản lý có hiệu quả. FDI giúp các nước đang phát triển tránh được những đòi hỏi về lãi suất chặt chẽ về điều kiện thanh toán nợ mà những điều này tác động đến vay nợ quốc tế. Mặc dù FDI là để phục vụ cho việc củng cố hệ thống này, các nước có thu nhập thấp được chuyên môn hoá sản xuất nguyên liệu và thực phẩm xuất khẩu, được chuyên môn hoá dựa trên nguyên tắc của lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế, dù rằng FDI trước hết phục vụ cho lợi ích của các nước công nghiệp xuất khẩu vốn chứ không phải của nước nhận vốn. R.Nurkse đã cho rằng FDI mang lại lợi ích chung cho cả hai bên dù chẳng bao giờ cân bằng tuyệt đối nhưng không thể làm khác được vì nó là đòi hỏi tự nhiên, tất yếu của quá trình vận động thị trường. Đầu tư trực tiếp là kết quả hoàn toàn tự nhiên bởi hoạt động tự do của các động cơ kiếm lợi nhuận. Lẽ tất yếu là phương hướng của đầu tư tư nhân chịu tác động lớn của hướng vấn động thị trường.
2. Lý thuyết lợi thế so sánh của P.Vernon ( Hoa kỳ ).
Theo lý thuyết này Vernon đã chứng minh rằng không có nước nào mạnh toàn diện và cũng không có nước nào yếu toàn diện. Nếu chúng ta biết hợp tác thì sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp, có lợi cho tất cả các nước.vernon đã đưa ra và phân tích hàm sản xuất dạng đơn giản sau:
y = f ( K, L ).
P. Vernon cho rằng nên tận dụng lợi thế so sánh sao cho tỷ K/L ngày càng cao.
Như vậy, đối với việc đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế so sánh của nước nhận đầu tư, các chủ đầu tư sẽ đầu tư cả vào các nước đang phát triển: Công nghệ, vốn, mặt hàng mang hàm lượng chất xám cao và hàm lượng cồng nghệ lớn.Còn các nước đang phát triển, để phát huy lợi thế so sánh của mình sẽ tiếp nhận công nghệ, vốn các loại.
iii Vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1. Đối với nước đi đầu tư:
Bằng đầu tư ra nước ngoài, họ tận dụng được những lợi thế về chi phí sản xuất thấp của nước nhận đầu tư ( do giá lao động rẻ, chi phí khai thác nguyên vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước nhận đầu tư, nhờ đó mà nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép các công ty này kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm mới được chế tạo ra trong nước. Thông qua đầu tư trực tiếp, cac công ty của các nước phát triển chuyển được một phần các sản phẩm công nghiệp ở giai đoạn cuối của chu kỳ sống của chúng sang các nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng như sản phẩm mới ở các nước này, nhờ đó mà tiếp tục duy trì được việc sử dụng các sản phẩm này, tạo thêm lợi nhuận cho nhà đầu tư.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp các công ty đi đầu tư tạo dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu dồi dào ổn định với giá rẻ.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cho phép chủ đầu tưbành trướng sức mạnh về kinh tế, tăng cường ảnh hưởng của mình trên thị trường quốc tế, nhờ mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm lại tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước nhận đầu tư, nhờ đó mà giảm được giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với hàng hoá nhập từ nước khác.
Xét cho cùng thì mục tiêu chủ yếu của các chủ đầu tư ra nước ngoài là làm cho đồng vốn được sử dụng hiệu quả cao nhất.
2. Đối với nước nhận đầu tư.
Để phát triển kinh tế - xã hội các nước đang phát triển trước hết đều phải đương đầu với sự thiếu thốn gay gắt các yếu tố cần thiết cho sự phát triển. Việc tiếp nhận FDI có các tác dụng sau:
FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế xã hội do tích luỹ nội bộ thấp. Điều này đã hạn chế quy mô đầu tư và đổi mới kỹ thuật trong điều kiện nền khoa học kỹ thuật thế giới phát triển mạnh. Các nước NICs trong gần 30 năm qua nhờ nhận được trên 50 tỷ USD đầu tư nước ngoài cùng với chính sách kinh tế năng động và có hiệu quả đã trở thành các con rồng Châu á.
Cùng với việc cung cấp vốn, thông qua hoạt động FDI các công ty nước ngoài đã chuyển giao công nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang nước nhận đầu tư do đó các nước này nhận được kỹ thuật tiên tiến ( trong đó có những công nghệ không thể mua được bằng quan hệ thương mại đơn thuần ), kinh nghiệm quản lý, năng lực maketing, đội ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về mọi mặt ( trình độ kỹ thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động...)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cho các hoạt động đầu tư trong nước phát triển, tính năng động và khả năng cạnh tranh trong nước ngày càng được tăng cường, các tiềm năng cho phát triển kinh tế xã hội đất nước có điều kiện để khai thác và được khai thác. Điều đó có tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.
Với việc tiếp nhận FDI, nước chủ nhà không phải lo trả nợ. Thông qua hợp tác với nước ngoài, nước chủ nhà có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới.FDI tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc đánh thuế các công ty nước ngoài.Từ đó các nước đang phát triển có nhiều khả năng hơn trong việc huy động nguồn tài chính cho các dự án phát triển
Ngày nay FDI đã trở thành một tất yếu khách quan trong điều kiện quúc tế hoá nền sản xuất, lưu thông và được tăng cường mạnh mẽ. Có thể nói, hiệ nay không một quốc gia nào lại không cần đến nguồn vốn DI của nước ngoài và coi đó là một nguồn lực cần khai thác để hoà nhập vào cộng đồng quốc tế Tuy nhiên theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư ,bên cạnh những ưu điểm thì FDI cũng có những hạn chế nhất định.Đó là:
-Nếu đầu tư vào môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị thì nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn
-Nếu nước sở tại không có quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học dẫn tới sự đầu tư tràn lan,kém hiệu quả ,tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
Cũng như các nước đang phát triển, để phá “cái vòng luẩn quẩn” và phát triển kinh tế, đòi hỏi Việt Nam phải có biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhất là FDI. Ngày 18 - 11 - 1977, nước ta thông qua “Điều lệ đầu tư nước ngoài”. Ngày 29- 12 - 1987 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông qua và đến nay được bổ sung 4 lần vào tháng 6 -1990, 12 -1992, 11- 1996 và tháng 6 - 2000. Qua các lần sửa đổi bổ sung luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới FDI vì đối với nước ta hình thức này có vai trò rất quan trọng. Điều này được thể hiện:
- Giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế đất nước. Để đạt được những chỉ tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới thì tốc độ phát triển bình quân hàng năm phải đạt ít nhất 7% và nhu cầu về vốn đầu tư có từ 4,2 tỉ USD trở lên cho mỗi năm. Đây là con số không nhỏ đối với nền kinh tế nước ta, cho nên FDI là nguồn bổ sung quan trọng để phát triển kinh tế ở Việt Nam.
- FDI đem lại khả năng mở rộng qui mô sản xuất, xây dựng những doanh nghiệp và cơ sở sản xuất dịch vụ mới làm cho tổng sản phẩm xã hội của Việt Nam tăng lên và cho phép giải quyết được tình trạng thất nghiệp của người lao động. Tăng thu ngân sách nhà nước.
- Thông qua đầu tư nước ngoài, chúng ta tiếp nhận thành tựu khoa học tiên tiến của thế giới, nhờ đó rút ngắn khoảng cách của ta so với thế giới.
- Nhờ có FDI chúng ta sử dụng có hiệu quả những lợi thế của đất nước mà nhiều năm qua không thể thực hiện do thiếu vốn như khai thác dầu mỏ, khoáng sản...
Ngoài ra trong quá trình tiếp nhận FDI chúng ta học được kinh nghiệm quản lý kinh doanh và cách làm thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường của các nước tiên tiến.
Tóm lại, FDI có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để đưa nước ta nhanh chóng hội nhập với sự phát triển của thế giới và khu vực.
iv Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hiện nay trên thị trường đầu tư quốc tế đang có sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà đầu tư có nguồn vốn lớn cũng như giữa các nước tiếp nhận đầu tư với nhau. Qua nhiều công trình nghiên cứu, các học giả kinh tế đã đưa ra 12 yếu tố có ý nghĩa quyết định cho việc chọn lựa một vùng hay một nước nào đó để đâù tư, đó là:
1. Đặc điểm của thị trường bản địa ( quy mô, dung lượng của thị trường, sức mua của dân bản xứ và khả năng mở rộng quy mô đầu tư ).
Việt nam là một thị trường khá rộng lớn với quy mô dân số gần 80 triệu người, nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao, đây là một lợi thế song trên 80% dân số sống ở khu vực nông thôn, thu nhập thấp, sức mua chưa cao. Đây là nhân tố cản trở khả năng thu hút FDI.
2. Luật đầu tư.
Yếu tố này có thể là thúc đẩy hoặc hạn chế hoạt động của các công ty nước ngoài trên thị trường bản địa. Luật này thường bảo vệ lợi ích của các nhà sản xuất bản xứ. Nhiều nước mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài theo các điều kiện giống như các nhà đầu tư bản xứ .
Sau nhiều lần sửa đổi ,bổ sung luật đầu tư nước ngoài ở việt nam đã khá thông thoáng và cởi mở song còn tồn tại nhiều yêú tố cần được xem xét hoàn thiện hơn nhằm thúc đẩy thu hút FDI tại Việt Nam
3. Đặc điểm của thị trường nhân lực.
Nhân công rẻ là mối quan tâm hàng đầu ở đây đặc biệt là đối với những nhà đầu tư nước ngoài muốn bỏ vốn vào các lĩnh vực cần nhiều lao động,có khối lượng sản xuất lớn như: Dệt may,lắp ráp điện tử ,xe máy...Trình độ học vấn và nghề nghiệp của những công nhân đầu đàn (có tiềm năng và triển vọng ) có ý nghĩa quan trọng.
Việt Nam có nguồn nhân công dồi dào, giá nhân công rẻ so với các nước trong khu vực,song còn tồn tại nhiều bất cập :
Năng xuất lao động thấp do lực lượng lao động qua đào tạo ít,trình độ tay nghề thấp thiếu đội ngũ kỹ sư,công nhân lành nghề và cán bộ quản lý có năng lực thực sự. cơ cấu lao động chưa hợp lý,xuất hiện và tồn tại tình trạng ²thừa thầy, thiếu thợ “. Cơ chế thi tuyển chưa rõ ràng, công khai và phổ biến....
4. Chính sách tiền tệ ổn định và mức độ rủi ro tiền tệ ở nước tiếp nhận vốn đầu tư:
Yếu tố đầu tiên ở đây góp phần mở rộng hoạt động xuất khẩu của nhà đầu tư. Tỷ giá đồng bản tệ bị nâng cao hay hạ thấp đều ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
5. Khả năng hồi hương vốn đầu tư.
Vốn và lợi nhuận được tự do qua biên giới ( hồi hương ) là tiền đề quan trọng để thu hút vốn FDI. ở một số nước thủ tục mang ngoại tệ ra nước ngoài khá rầy rà, cản trở hoạt động đầu tư nước ngoài.
ở Việt nam bên cạnh việc quản lý hồi hương vốn, lợi nhuận bằng ngoại tệ chuyển ra nước ngoài ở một trừng mực nhất định chúng ta đã có những chính sách hạn chế những rầy rà, tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài.
6. Bảo vệ quyền sở hữu.
Quyền này gồm quyền của người phát minh, sáng chế, quyền tác giả, cả nhãn hiệu hàng hoá và bí quyết thương nghiệp...đây là yếu tố đặc biệt có ý nghĩa đối với những người muốn đầu tư vào các ngành có hàm lượng khoa học cao và phát triển năng động( như sản xuất máy tính và thiết bị liên lạc ...)ở một số nước,lĩnh vực này được kiểm tra,giám sát khá lỏng lẻo,phổ biến là dùng bất hợp pháp các công nghệ ấycủa nước ngoài.chính vì vậy mà mốtố nước bị các nhà đầu tư loại khỏi danh sách các nước có kha năng nhận vốn đầu tư.
7. Chính sách thương mại.
Yếu tố này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với vấn đề đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. Hạn ngạch xuất nhập khẩu thấp và các hàng rào thương mại khác trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng có thể không kích thích hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài. chính những yếu tố này làm phức tạp thêm cho thủ tục xuất nhập khẩu.
8. Điều chỉnh hoạt động của các công ty nước ngoài.
Luật lệ cứng rắn cũng làm tăng chi phí của các công ty nước ngoài. Các nhà đầu tư rất thích có sự tự do hơn trong hoạt động và do vậy họ rất mong muốn có luật mềm rẻo , linh hoạt ,các nhà đầu tư có thể ứng phó đạt hiệu quả trước những diễn biến của thị trường
Vấn đề can thiệp qúa sâu vào hoạt động của các công ty nước ngoài cũng là một lực cản trong việc thu hút FDI .Ví dụ một số nước cấm sa thải công nhân là không phù hợp với lợi ích của công ty nuớc ngoài. Chính sách lãi suất của ngân hàng và chính sách ưu đãi đối với một số khu vực(khu chế xuất ,khu công nghiệp...) cũng có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư ở một số nước
9. Chính sách thuế và những ưu đãi.
Chính sách thuế và những ưu đãi thường được áp dụng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Giảm thuế nhập khẩu công nghệ, nguyên vật liệu, thuế xuất; tăng thuế nhập thành phẩm; Miễn giảm thuế thu nhập đối với các vùng có điều kiện khó khăn, ngành khuyến khích đầu tư.
10. ổn định chính trị xã hội ở nưốc nhận đầu tư và trong khu vực.
Đây là yếu tố không thể xem thường mỗi khi bỏ vốn đầu tư vì rủi ro chính trị có thể gây thiệt hại lớn cho nhà đầu tư nước ngoài.Ví dụ về các nước đang phát triển Mỹ la tinh cho thấy, mặc dù nguồn lực tư nhiên của các nước này khá rồi rào nhưng do luôn có những bất ổn định trong đời sống chính trị- hội nên dòng FDI đổ vào các nước này không ổn định. Ngay cả các nước thuộc khu vực năng động Đông Nam á như Philipin, cho dù nguồn tài nguyên và nguồn nhân lực không nghèo, nhưng do xã hội không ổn định,thường xuyên có những xung đột, mâu thuẫn về ý tưởng giai cấp trong xã hội đã dẫn đến kết quả là nguồn FDI trung bình hàng năm không cao như với một số nước đang phát triển khác trong khu vực
11. Chính sách kinh tế vĩ mô.
Chính sách kinh tế vĩ mô ổn định sẽ góp phần thuận lợi cho hoạt động của cả các nhà đầu tư nước ngoài lẫn bản xứ
Không có những biện pháp tích cực chống lạm phát có thể làm cho các nhà đầu tư không thích bỏ vốn vào nước này. Nếu giá cả tăng nhanh hay tăng ngoài dự kiến khó có thể dự đoán được các kết quả hoạt động kinh doanh. Mức độ ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện quan trọng để thu hút vốn nước ngoài. Tính ổn định ở đây được xét đến theo nghĩa làm sao đó nó thoả mãn được 2 nhu cầu:
Thứ nhất: ổn định vững chắc nhưng không phải là và không thể là sự ổn định bất động ( tức là sự ổn định hàm chứa trong nó khả năng trì trệ kéo dài và dẫn tới khủng hoảng). Một sự ổn định được coi là vững chắc nhưng bất động chỉ có thể là sự ổn định ngắn hạn. Xét trong dài hạn, loại ổn định này tiền chứa trong nó khả năng gây bất ổn định. Bởi vì vắng sự ổn định về nguyên tắc, không thể đồng nhất với sự trì trệ. Bản chất của sự ổn định kinh tế gắn liền với năng lực tăng trưởng.
Thứ hai: ổn định trong tăng trưởng, tức là kiểm soát nhịp độ tăng trưởng sao cho quá trình tăng trưởng, đặc biệt là các nỗ lực tăng trưởng nhanh, lâu bền , không gây ra trạng thái quá nóng của đầu tư. Theo nghĩa xác định, tăng trưởng tức là phá vỡ thế ổn định cũ. Nhưng nếu quá trình tăng trưởng được kiểm soát sao cho có thể chủ động tái lập được thế cân bằng mới thì quá trình đó cũng đồng thời là việc taọ ra cơ sở cho sự ổn định vững chắc và lâu bền.
12. Cơ sở hạ tầng phát triển.
Nếu các yếu tố trên đều thuận lợi nhưng một khâu nào đó của cơ sở hạ tầng( giao thông liên lạc, điện, nước) bị thiếu hay yếu kém cũng ảnh hưởng đến sự hấp dẫn của các nhà đầu tư.
Tăng trưởng cao của FDI thường đi đôi với các kế hoạch triển vọng về phát triển cơ sở hạ tầng của các nước chủ nhà.
Việt Nam là nước có cơ sở hạ tầng kém phát triển. Do vị thế địa lý và chiến tranh tàn phá. Hệ thống đường sắt lạc hậu khá xa so với thế giới giao thông đường thủy gặp nhiều khó khăn. Vận tải biển và hàng không chưa phát triển. Chúng ta đang từng bước cải tạo, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng tạo tiền đề cho việc thu hút và sử dụng FDI hiệu quả.
v .Kinh nghiệm quốc tế.
1. Trung Quốc.
Về chính sách chung, Trung Quốc huy động vốn FDI thông qua các hình thức như hợp đồng sản xuất, liên doanh, 100% vốn đầu tư nước ngoài vào các khu vực đặc biệt.
Chính sách cơ bản để thu hút FDI của Trung Quốc là chính sách thuế. Trung Quốc ban hành nhiều loại thuế riêng cho các hình thức đầu tư: hợp tác, liên doanh, 100% vốn nước ngoài và cho 14 thành phố ven biển. Liên doanh đóng thuế lợi tức 30% và 10% thêm cho địa phương.
Tại 14 thành phố ven biển, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được giảm thuế lợi tức 15% so với các khu vực khác. Các liên doanh đầu tư 10 năm trở lên được miễn thuế lợi tức 2 năm kể từ khi có lãi và giảm 50% thuế cho 3 năm tiếp theo. Nếu liên doanh đầu tư vào vùng khó khăn sẽ được giảm tiếp 15% -30% trong vòng 10năm. Nếu liên doanh có sản phẩm xuất khẩu trên 70% được giảm 50% thuế hàng năm. Nếu doanh nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến được giảm tiếp 50% trong ba năm so với các doanh nghiệp cùng loại nhưng không có công nghệ cao. Nếu đầu tư vào 14 thành phố ven biển trên 10 năm thì miễn thuế 2 năm, giảm thuế 3 năm tiếp theo.
Về thuế xuất nhập khẩu, Trung Quốc thực hiện miễn thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng như: Máy móc, thiết bị, bộ phận rời, vật liệu được đưa vào góp vốn liên doanh hoặc các máy móc, thiết bị, vật liệu cho các bên nước ngoài đưa vào khai thác dầu khí; đưa vào phát triển năng lượng, đường sắt, đường bộ; đưa vào các khu chế xuất và 14 thành phố ven biển, các vật liệu, bộ phận rời nhập để sản xuất hàng xuất khẩu. Trung Quốc cũng miễn thuế xuất khẩu cho các mặt hàng xuất khẩu được sản xuất ở các khu chế xuất và 14 thành phố ven biển.
Về thủ tục hành chính, Trung Quốc phân cấp mạnh cho các địa phương về thẩm định dự án và cấp giấy phép đầu tư. Sau khi có giấy phép đầu tư, các thủ tục liên quan được triển khai mau lẹ. Các vấn đề giải phóng mặt bằng, điện, nước, giao thông, môi trường được giải quyết dứt điểm. Thực hiện chính sách “một cửa” để tạo điều kiện thu hút FDI thuận lợi...
2. Malaysia.
Trong chiến lược thu hút FDI Malaysia rất coi trọng vai trò của các công ty xuyên quốc gia, gắn lợi ích của các công ty này với lợi ích của Malaysia. Hiện nay có khoảng 1000 công ty xuyên quốc gia của trên 50 nước đang hoạt động ở Malaysia. Bên cạnh đó, chính phủ còn thực hiện chế độ ưu đãi cho một số ngành có quy mô nhỏ, tự cấp cho đồn điền, ưu đãi cho các công ty áp dụng cơ cấu sở hữu của tư bản cổ phần hoặc áp dụng công nghệ kỹ thuật cao.
Gần đây nhằm thu hút FDI Malaysia đã chủ trương miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị cho các khu chế xuất và các dự án hướng vào xuất khẩu. Đối với các dự án khác có thể được áp dụng nếu sản phẩm chưa sản xuất được ở trong nước.
Malaysia áp dụng chính sách đào tạo lao động theo yêu cầu của chủ đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động. Gần đây nước này còn quy định, các nhà chuyên môn, chuyên gia quản lý và kỹ thuật đã đóng thuế thu nhập thì không phải trả thuế sử dụng nhân công nước ngoài.
Mọi thủ tục tạo nên sự phiền hà về đầu tư nước ngoài dần dần được bãi bỏ và thay thế vào đó là cơ chế, thủ tục nhanh, gọn, thông thoáng và hiệu quả. Nhờ vậy dòng FDI vào Malaysia ngày càng tăng lên trong những năm gần đây và một vài năm tới.
3. Thái Lan.
Chính phủ Thái Lan khuyến khích các nhà đầu tư hợp tác với các cơ quan nhà nước khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường, các dự án sử dụng nhiều lao động, xuất khẩu sản phẩm, sử dụng nguyên liệu thô của Thái Lan, thay thế hàng nhập khẩuđược Nhà nước ưu tiên.
Tỷ lệ góp vốn liên doanh không thành điều kiện bắt buộc. Tuy nhiên, các dự án cho phép Thái Lan góp vốn trên 50% thì được uỷ ban đầu tư cấp chứng chỉ bảo lãnh.
Về thuế lợi tức, đánh thuế 30% vào các công ty và đối tác có đăng ký tại thị trường chứng khoán của Thái Lan và đánh thuế 35% vào các công ty và các đối tác khác. Tuỳ từng dự án mà có thể được miễn giảm thuế lợi tức 3 - 8 năm kể từ khi có lãi.
Về thuế nhập khẩu, các doanh nghiệp được miễn giảm 50% thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị nhập khẩu vào mà Thái Lan chưa sản xuất được. Được miễn thuế nhập khẩu đối với các nguyên liêu, linh kiện đưa vào để sản xuất và lắp ráp hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp được xét giảm đến 90% thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập khẩu vào nếu các thứ này ở Thái Lan chưa sản xuất được.
Về chính sách xuất khẩu, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu vật tư, phụ tùng, các chi tiết tạm nhập tái xuất, được miễn hoặc giảm thuế lợi tức 5%. Các doanh nghiệp trong khu chế xuất được miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư. Gần đây, Thái Lan đã thoả thuận miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị máy móc cho các dự án đặc biệt và hướng vào xuất khẩu trong tất cả các vùng và các dự án trong vùng số ba, nếu không sản xuất tại địa phương.
Về quản lý ngoại hối, nhà đầu tư được chuyển ra nước ngoài các thu nhập, lợi nhuận nhưng có thể hạn chế trong trường hợp để cân đối thu- chi. Trong trường hợp hạn chế này thì cũng được chuyển ít nhất là 15%/năm so với tổng vốn đem vào Thái Lan.
Việc sở hữu đất đai được qui định riêng cho từng loại công ty. Mỗi công ty được sở hữu đất đai cho luật qui định. Công nhân lành nghề, kỹ thuật viên và gia đình họ được phép vào Thái Lan làm việc. Uỷ ban đầu tư chịu trách nhiệm xem xét. Thái Lan cũng đã nhiều lần cải tiến thủ tục cấp giấy phép; thủ tục triển khai dự án theo hướng khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài.
Phần hai
Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ năm 1989 đến nay
Hiện nay, xu thế toàn cầu hoá, khu vực nền kinh tế đang diễn ra khắp trên toàn thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo phát triển chung đó. Ngày nay có nhiều các công ty, tổ chức quốc tế đầu tư vào Việt Nam và hiện nay nguồn vốn này đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh thế. Sau đây là bức tranh tổng thể về FDI
I.Thực trạng
1.Về số dự án và số vốn đầu tư:
Trong hơn 10 năm, từ 1989-1999 đã có 3087 dự án với tổng số vốn đăng ký là: 40.055 triệu USD. Trong đó tổng số vốn thực hiện là: 15.700 triệu USD, đạt tỉ lệ 39,2% so với tổng vốn đăng ký. Đây là một tỉ lệ khá cao( đồng thời cũng khá cao so với các nước trong khu vực; T._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0216.doc