mở đầu
Có thể coi vốn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp và doanh nghiệp phải làm sao đảm bảo hiệu quả trong huy động vốn, hiệu quả trong sử dụng vốn. Một thực trạng đang được đặt ra đối với chúng ta là hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước đều đang ở tình trạng thiếu vốn, đặc biệt với các doanh nghiệp đang góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như điện xây dựng, thuỷ sản, nông sản,... Ngoài phần vốn ngân sách nhà nước (NSNN) mà có xu hướng ngày càng hạn hẹp, t
52 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1257 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Huy động vốn cho sản xuất - Kinh doanh ở Xí nghiệp xây lắp điện - Công ty Điện lực 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hì các doanh nghiệp phải luôn tìn cách huy động các nguồn vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) của mình. Nhưng huy động vốn không có nghĩa là tìm mọi cách để có vốn mà không tính đến hiệu quả của nó. Mặt khác, việc huy động vốn từ các nguồn cũng không phải là đơn giản mà ngược lại, còn có rất nhiều khó khăn vướng mắc.
Trong thời gian thực tập tại xí nghiệp xây lắp điện - thuộc công ty điện lực I em nhận thấy xí nghiệp hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn về vấn đề huy động vốn. Trước tình hình đó, bằng những kiến thức đã được học tập tại nhà trường và thực trạng tại xí nghiệp em đã lựa chọn đề tài:
"Huy động vốn cho sản xuất - kinh doanh ở xí nghiệp xây lắp điện - công ty điện lực I" cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung khoá luận gồm 3 phần.
Phần I: Các nguồn vốn và việc huy động vốn của doanh nghiệp.
Phần II: Thực trạng huy động vốn ở xí nghiệp xây lắp điện thuộc tổng công ty điện lực I.
Phần III: Một số giải pháp đẩy mạnh công tác huy động vốn của xí nghiệp.
Phần 1: Các nguồn vốn và việc huy động vốn ở doanh nghiệp
1.1. Vốn và các nguồn vốn
1.1.1. Vốn
Từ trước đến nay có rất nhiều quan niệm về vốn. Theo các nhà kinh tế cổ điển thì vốn là một trong các yếu tố đầu vào để sản xuất kinh doanh. Theo quan điểm này, vốn được xem xét dưới góc độ hiện vật là chủ yếu, nó có ưu thế là đơn giản, dễ hiểu và phù hợp với trình độ quản lý ở thời kỳ sơ khai nhưng hạn chế cơ bản là không đề cập tới phần vốn tài chính - nội dung cơ bản nhất đối với doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường.
Theo quan điểm của một số nhà tài chính thì vốn là tổng số tiền do những người có cổ phần trong công ty đóng góp và họ nhận được phần thu nhập chia cho các chứng khoán của công ty. Quan điểm này đã làm rõ được nguồn vốn cơ bản của doanh nghiệp, đồng thời cũng cho các nhà đầu tư thấy được lợi ích để khuyến khích họ tăng cường vốn đầu tư cho doanh nghiệp nhằm mở rộng và phát triển sản xuất. Tuy vậy, quan điểm này có hạn chế là không cho thấy nội dung và trạng thái của vốn cũng như quá trình sử dụng nó trong doanh nghiệp.
Hiểu theo nghĩa rộng, một số quan điểm cho rằng vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí để sản xuất hàng hoá dịch vụ như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các kiến thức về kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp được tích luỹ, sự khéo léo về trình độ quản lý và tác nghiệp của cán bộ điều hành cùng với chất lượng đội ngũ công nhân viên trong doanh nghiệp, các lợi thế về cạnh tranh như vị trí doanh nghiệp, uy tín doanh nghiệp. Lượng hoà vốn theo quan điểm này chính là giá trị doanh nghiệp được định ra để bám theo giả thiết. Quan điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc khai thác đầy đủ hiệu quả của vốn trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên việc xác định vốn theo quan điểm này rất khó khăn phức tạp, nhất là khi trình độ quản lý kinh tế chưa cao và pháp luật chưa hoàn chỉnh như ở nước ta. Trong nền kinh tế thị trường vốn được coi là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo, tức là không tham gia vào một quá trình sản xuất riêng biệt mà trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp từ lúc hình thành đến lúc kết thúc. Thông thường người ta hiểu vốn là tiền thuần tuý, tuy nhiên, cần phân biệt vốn và tiền. Muốn có vốn thì phải có tiền, song có tiền cũng chưa hẳn là có vốn.
Tiền được gọi là vốn chỉ khi thoả mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất, tiền phải được đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định.
Thứ hai, tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định.
Thứ ba, khi đã có đủ về lượng tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. Cách vận động của tiền tệ khác nhau tuỳ vào loại hình kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Trong quá trình vận động nó có thể thay đổi hình thái biểu hiện, nhưng trong bất cứ trường hợp nào, điểm xuất phát ban đầu và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị ban đầu của nó. Như vậy, vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng phải là tiền được vận động với mục đích sinh lời.
1.1.2. Các nguồn vốn
* Căn cứ vào nguồn hình thành:
a. Vốn chủ sở hữu:
Là do chủ doanh nghiệp bỏ ra để đầu tư hoặc vốn cổ phần. Đối với doanh nghiệp Nhà nước, nguồn vốn này bao gồm:
- Vốn ngân sách cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách cấp như chênh lệch giá và các khoản không nộp ngân sách nhưng được Nhà nước để lại cho doanh nghiệp, vốn được viện trợ, biếu tặng.
- Nguồn vốn tự bổ sung hay là vốn được hình thành từ lợi nhuận để lại.
- Nguồn vốn cổ phần do Nhà nước phát hành cổ phiếu.
- Nguồn vốn liên doanh liên kết là vốn do các đơn vị khác tham gia liên doanh liên kết với doanh nghiệp về vốn cố định, lưu động, xây dựng cơ bản để phát triển sản xuất kinh doanh vì lợi ích chung của các bên.
Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn thường xuyên, doanh nghiệp có được tính chủ động đối với nguồn vốn này nên thường dùng nó để mua sắm tài sản cố định.
b. Vốn nợ:
Là khoản tiền ngắn hạn, trung và dài hạn nhận được từ ngân hàng, các tổ chức tài chính, các đơn vị, tổ chức tập thể, cá nhân trong và ngoài nước để bổ sung vào vốn kinh doanh của doanh nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau với hứa hẹn sẽ luôn hoàn trả trong một thời hạn nào đó trong tương lai. Có các loại hình cơ bản sau:
- Phát hành trái phiếu công ty.
Đây là khoản vay từ công chúng. Nguồn vay này đặc điểm là doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về số vốn đã huy động được như một khoản nợ và phải trả lãi vay theo một tỉ lệ nhất định. Doanh nghiệp có thể chọn một trong các hình thức trái phiếu sau:
+ Trái phiếu có bảo đảm: Là trái phiếu được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp. Loại trái phiếu này đem lại cho trái chủ mức độ an toàn khá cao.
+ Trái phiếu không có bảm đảm: Là loại trái phiếu mà không được bảo đảm khả năng thanh toán bằng một tài sản cụ thể nào.
+ Trái phiếu trả lãi theo thu nhập: Là trái phiếu mà tiền lãi chỉ được trả khi doanh nghiệp (người vay) thu được lợi nhuận. Khi lợi nhuận thấp hơn số tiền phải trả thì trái chủ sẽ chỉ nhận được tiền trả bằng khoản thu nhập đó và không được quyền tuyên bố người vay bị phá sản.
+ Trái phiếu có lãi suất cố định: Đây là loại trái phiếu phổ biến nhất ở doanh nghiệp. Lãi suất được ghi trên mặt trái phiếu và không thay đổi suốt kỳ hạn của nó.
+ Trái phiếu có lãi suất thả nổi: Khi thị trường vốn thay đổi liên tục do nền kinh tế không ổn định, các doanh nghiệp có thể phát hành loại trái phiếu này.
- Tín dụng thuê mua:
Là hình thức tài trợ tín dụng thông qua các loại tài sản, máy móc thiết bị. Nội dung chủ yếu là việc người cho thuê sẽ chuyển giao tài sản cho người thuê được sử dụng trong một khoản thời gian nhất định và người cho thuê phải trả cho người chủ sở hữu một khoản tiền thuê tương xứng với quyền sử dụng. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê.
Có hai hình thức chủ yếu của tín dụng thuê mua:
+ Thuê tài sản: Đây là hình thức thuê mua mà người thuê không có ý định mua lại tài sản sau thời gian và chỉ sử dụng tài sản đó trong thời hạn đã định.
+ Thuê tài chính: Thực chất của hình thức này là doanh nghiệp bán cho công ty tín dụng tài sản sau đó lại thuê lại của công ty trên ngay tài sản đó để sử dụng.
Hình thức tín dụng thuê mua tuy không cấp vốn trực tiếp cho doanh nghiệp nhưng đã gián tiếp trợ giúp doanh nghiệp khi không có khả năng lớn về vốn hoặc việc mua tài sản không đem lại hiệu quả mong muốn, nhưng vẫn nhanh chóng đáp ứng được yêu cầu và chớp được các thời cơ của thị trường. Nó rất phù hợp với các quốc gia đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá như nước ta.
- Vốn vay từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
Tín dụng ngân hàng là một trong các nguồn vốn nợ chiếm tỉ lệ đáng kể với đa số các doanh nghiệp, phương thức này xuất hiện khi doanh nghiệp cần vốn (thường là ngắn hạn) mà không có, còn các ngân hàng và các tổ chức tín dụng lại có khả năng cho doanh nghiệp vay vốn.
1.2. Các hình thức và điều kiện huy động vốn
1.2.1. Các hình thức huy động vốn.
a. Vay ngân hàng.
Đây là nguồn vốn vay chủ yếu của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian vừa qua. Và trong tương lai, được đánh giá là có triển vọng nhất đối với Việt Nam. Theo thống kê thì số các doanh nghiệp công nghiệp sử dụng vốn vay ngân hàng chiếm 63,08% (41/65 doanh nghiệp điều tra) và số vốn vay của ngân hàng chiếm tỷ trọng 45,97% tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Qua đó, có thể thấy rằng nguồn vốn vay ngân hàng không những phổ biến nhất mà còn chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, có những nơi nguồn vốn đó chiếm tới 85%, nhiều doanh nghiệp chỉ có nguồn tài trợ bên ngoài duy nhất là vay ngân hàng. Qua đó, thấy tầm quan trọng của nguồn huy động này đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thời gian gần đây xuất hiện một mâu thuẫn lớn, đó là tình trạng các ngân hàng thương mại thừa vốn không cho vay được, còn các doanh nghiệp thì thiếu vốn trầm trọng. Nguyên nhân chủ yếu có thể rút ra là:
- Thứ nhất, theo thể lệ tín dụng, đơn vị vay vốn phải thế chấp tài sản hoặc được sự bảo lãnh của người thứ ba đủ thẩm quyền. Điều này làm cho doanh nghiệp khó có thể vay được vốn của ngân hàng, nhất là vốn trung và dài hạn. Điều tra cho hay, chỉ có 18% số doanh nghiệp được vay vốn với thời hạn 3 năm trở lên, trong khi đó 64% doanh nghiệp trong mẫu điều tra sử dụng tín dụng ngân hàng với thời hạn vay từ 6 đến 9 tháng.
Bảng 1: Các khoản vay ngân hàng theo kỳ hạn (%)
Kỳ hạn vay
DN miền Bắc
DN miền Nam
Toàn bộ năm
Từ 6 tháng trở lên
70
63
64
Từ 9 tháng trở lên
48
31
36
Từ 3 tháng trở lên
33
10
18
Nguồn: MPDF và IFC. Động lực tăng trưởng chưa đủ lớn của Việt Nam.
- Thứ hai, để kiểm soát hoạt động tín dụng và lượng tiền cung ứng. Ngân hàng Nhà nước quy định hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại và trên cơ sở hạn mức tín dụng được duyệt, ngân hàng thương mại phân bổ hạn mức tín dụng cho các tổ chức kinh tế.
- Thứ ba, vấn đề chi phí vốn cho việc huy động nguồn này là cao.
Bảng 2: Lãi suất trần cho vay bằng VND năm 1999
Đơn vị: %
Tháng
1/1/99
1/2/99
1/6/99
1/8/99
4/9/99
22/10/99
Khu vực thành thị
1,25
1,15
1,15
1,05
0,95
0,85
Khu vực nông thôn
1,25
1,25
1,15
1,05
1,05
1,00
NHTMCP nông thôn
1,25
1,25
1,15
1,15
1,15
1,15
Quỹ tín dụng nhân dân
1,50
1,50
1,50
1,50
1,50
1,50
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Báo cáo thường niên 1999
Biểu trên cho thấy lãi suất cho vay dao động trong khoảng 0,85% đến 1,25%/tháng, tức là từ 10,2%/năm đến 15%/năm, tuy mức lãi suất có xu hướng giảm xuống nhưng nhìn chung vẫn cao hơn tỷ suất lợi nhuận (khả năng sinh lời) của nhiều doanh nghiệp.
b. Phát hành trái phiếu
Doanh nghiệp quốc doanh hoặc ngoài quốc doanh được Nhà nước cho phép huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu doanh nghiệp, để có thể có vốn từ dân cư, từ các đại lý bán hàng của chính doanh nghiệp, có thể nói đây là nguồn vốn quan trọng giúp không ít doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, trì trệ và khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Việc huy động vốn bằng hình thức này thực sự chỉ có hiệu quả cao khi lạm phát được kiềm chế ở mức thấp và lãi suất huy động thích hợp với một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả.
c. Huy động bằng tín dụng thuê mua
Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam, ban hành kèm theo Nghị định số 64 - CP ngày 9/10/1995 của Chính phủ quy định rằng "Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn. Thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị và các bất động sản khác. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị và bất động sản theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã được thoả thuận trong hợp đồng thuê.
Tín dụng thuê mua là hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn rất mới ở Việt Nam, vì vậy cần nhanh chóng triển khai hình thức này, cần khẩn trương triển khai cơ chế nghiệp vụ thuê mua, xác lập và mở rộng đối tượng tài sản thuê mua, khách hàng thuê mua, cũng như hoàn thiện hệ thống luật pháp hiện hành.
d. Vốn do ngân sách cấp
Nếu như trước đây gần như toàn bộ vốn sản xuất của doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta được ngân sách cấp (vốn cố định, vốn lưu động) thì hiện nay vốn cấp từ ngân sách Nhà nước đã giảm đi rất nhiều, nhưng ngân sách Nhà nước vẫn cấp toàn bộ vốn cố định và một phần vốn lưu động cho các doanh nghiệp Nhà nước.
Tuy nhiên, phương thức cấp vốn này là thực hiện theo lối bình quân dàn đều cho mọi doanh nghiệp, trong đó nhiều doanh nghiệp không đáng được cấp. Mặt khác, vốn ngân sách có hạn và không phải lúc nào cũng có sẵn nên việc cấp cho doanh nghiệp nào trước doanh nghiệp nào sau và cho đủ là một vấn đề nan giải.
Theo Nghị định 22/HĐBT ngày 24/1/1991 về chế độ thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước (thuế vốn) các doanh nghiệp có sử dụng vốn ngân sách Nhà nước đều phải nộp khoản thu sử dụng vốn với tỷ lệ 3,6% đến 4,8%/năm tuỳ theo ngành nghề kinh doanh bất kể doanh nghiệp đó làm ăn lỗ hay lãi. Chính sách này cũng đã phát huy được tác dụng nhất định, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng vốn tiết kiệm, tăng thêm một khoản thu vào ngân sách Nhà nước, góp phần giải quyết nhu cầu chi tiêu của nền kinh tế. Tuy nhiên, nó cũng không khuyến khích doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả.
e. Vốn do liên doanh liên kết
Có thể thực hiện việc liên doanh, liên kết giữa doanh nghiệp Nhà nước với các doanh nghiệp khác, đó có thể là doanh nghiệp trong nước hoặc doanh nghiệp nước ngoài liên doanh liên kết để thu hút nguồn tài chính trình độ quản lý, công nghệ của những đối tác này. Hiện tại hình thức liên doanh chủ yếu thực hiện với đối tác nước ngoài, do trình độ quản lý yếu kém nên bên Việt Nam thường chịu thiệt thòi nhiều, lượng vốn góp của bên Việt Nam còn thấp từ (30%-35%) mà chủ yếu bằng quyền sử dụng đất và mặt nước. Điều này khiến cho các quyết định của bên Việt Nam thiếu trọng lượng luôn bị chèn ép, việc đánh giá công nghệ khi liên doanh do thiếu thông tin và trình độ còn non kém nên thường đánh giá sai, gây thiệt hại cho bên Việt Nam.
f. Vốn từ lợi nhuận để lại
Vốn tích luỹ từ lợi nhuận để lại chiếm một phần nhỏ vì quy mô của các doanh nghiệp không lớn lắm, lượng tích luỹ không nhiều, hơn nữa hiệu quả kinh doanh lại không ổn định. Thực tế hoạt động của các doanh nghiệp nước ta cho thấy: hầu hết các doanh nghiệp có nguồn vốn tự có rất nhỏ bé, không đủ tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô, đổi mới thiết bị công nghệ sản phẩm. Vì vậy nhiều doanh nghiệp phải dựa chủ yếu vào nguồn vốn từ bên ngoài.
g. Các nguồn khác
- Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp có thể tận dụng phần vốn nhàn rỗi của các khoản phải nộp, phải trả cho Nhà nước nhưng chưa nộp, các khoản chi phí trích trước chưa chi, các khoản phải trả cho các đơn vị nội bộ nhưng chưa trả.
- Ngoài ra các doanh nghiệp còn có tín dụng ưu đãi của Nhà nước.
1.2.2. Các điều kiện huy động vốn
a. Các điều kiện chủ quan
- Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Để có thể huy động được các nguồn vốn dưới bất kỳ hình thức nào, thì thông thường mức sinh lợi của vốn hay hiệu quả sử dụng vốn phải cao hơn chi phí sử dụng vốn, hay ít nhất cũng phải cao hơn lãi suất tín dụng trên thị trường. Trong mọi trường hợp để chủ động huy động nguồn, thì chính doanh nghiệp phải nỗ lực tìm mọi cách nâng cao hiệu quả kinh doanh và lúc đó sẽ nâng cao được sự tín nhiệm của mọi đối tác liên quan đến hiệu quả huy động vốn của doanh nghiệp.
- Mức rủi ro trong hoạt động của doanh nghiệp. Ta hiểu, rủi ro ở đây là rủi ro kinh doanh và rủi ro kinh doanh có thể từ hai phía:
Thứ nhất, do đặc điểm tính chất của ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, đó là rủi ro doanh nghiệp gặp phải khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong cả hai trường hợp, thì doanh nghiệp phải tìm cách hạn chế bớt mức độ rủi ro này.
- Uy tín và quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức tài chính. Một doanh nghiệp bất kỳ, khi có những người lãnh đạo có tài, năng động, thích ứng nhanh với thị trường luôn biến động thì doanh nghiệp có thể dễ dàng tìm được những nguồn vốn phù hợp.
- Tính khả thi của dự án, phương án kinh doanh:
Một trong những khó khăn lớn nhất khi huy động vốn là thiếu các dự án phương án kinh doanh có tính khả thi. Trong điều kiện hiện nay tiềm lực nhàn rỗi ở Việt Nam vẫn được đánh giá là chưa khai thác hết, nhưng nhiều nhà đầu tư không dám cho doanh nghiệp vay vốn hoặc ngần ngại khi góp vốn vào doanh nghiệp vì không tin vào tính khả thi của các phương án kinh doanh được đưa ra. Chính vì vậy, xây dựng những phương án kinh doanh có đủ căn cứ, sức thuyết phục về tương lai khả quan khi sử dụng vốn là yêu cầu bức thiết hiện nay.
b. Các điều kiện khách quan.
- Sự phát triển của thị trường tài chính và các tổ chức tài chính: thị trường tài chính là nơi diễn ra các giao dịch mua, bán các loại tài sản tài chính hay các công cụ vốn hay vốn. Thị trường tài chính ở Việt Nam được coi là chưa phát triển do chưa hình thành một cách đồng bộ và quy mô hoạt động nhỏ bé, nguồn huy động thông qua thị trường tài chính chưa nhiều, các doanh nghiệp thường huy động thông qua các tổ chức tài chính là chủ yếu.
- Tổ chức tài chính
Hệ thống ngân hàng ở nước ta đã được cải cách đáng kể. Trong thời gian vừa qua, số lượng và tỷ trọng của các ngân hàng không phải là quốc doanh trong số các ngân hàng thương mại đã tăng lên đáng kể, trong khi các ngân hàng thương mại quốc doanh hầu như không thay đổi về số lượng.
- Các chính sách của Nhà nước:
Các doanh nghiệp Nhà nước thường gặp nhiều khó khăn hơn trong việc huy động vốn so với doanh nghiệp thương mại, dịch vụ. Vì những đặc thù trong hoạt động sản xuất kinh doanh như: chu kỳ sản xuất dài hơn, rủi ro hơn, nhu cầu vốn lớn hơn,... Chính vì vậy, yếu tố Nhà nước rất quan trọng mà buộc doanh nghiệp phải nắm rõ vì các cơ chế chính sách, thể hiện ý chí của Nhà nước. Ngoài các chính sách ưu tiên khuyến khích hay hạn chế khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Trong tình hình hiện nay, bên cạnh sự nỗ lực của doanh nghiệp và cải tổ của hệ thống ngân hàng rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước nhằm tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả hơn nữa các hình thức huy động vốn.
1.3. Yêu cầu với việc huy động vốn
Để việc huy động vốn tạo hiệu quả cao, cần đáp ứng một số yêu cầu sau:
- Thứ nhất, huy động vốn phải đảm bảo tính kịp thời.
Thông thường khi có yêu cầu về vốn bổ sung, doanh nghiệp tìm nguồn vốn để giải quyết nhu cầu đó, tuy nhiên, nếu việc cung ứng vốn không đúng thời điểm thời cơ đầu tư thì nguồn vốn đó sẽ mất ý nghĩa, hoặc làm giảm khả năng thu lợi ích từ các hoạt động đầu tư kinh doanh.
Vì vậy cải tiến các thủ tục hành chính phức tạp trong các quy trình giao dịch về vốn là một mong muốn của các doanh nghiệp.
- Thứ hai, cần lựa chọn nguồn vốn đảm bảo hiệu quả nhất trong những điều kiện nhất định, trong điều kiện thị trường tài chính càng phát triển thì doanh nghiệp càng có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn khác nhau để phục vụ cho sản xuất kinh doanh, do đó cần lựa chọn nguồn vốn thích hợp nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong việc huy động vốn.
- Thứ ba, việc huy động vốn cần đảm bảo đáp ứng nhu cầu về số lượng và thời gian. Một ý đồ đầu tư, kinh doanh sẽ không thể thực hiện được nếu không có đủ một lượng vốn nhất định theo nhu cầu tính toán do đó khi huy động vốn phải đảm bảo đủ về số lượng và tính tương thích về thời gian.
- Thứ tư, việc huy động vốn phải đảm bảo tối thiểu hoá chi phí giao dịch. Một nguồn vốn với lãi suất thấp đôi khi có thể trở nên quá đắt, do chi phí liên quan đến giao dịch về vốn quá cao.
- Cuối cùng, doanh nghiệp phải đảm bảo khả năng thu hồi vốn của các hoạt động đầu tư để hoàn thành trả vốn vay.
Trên đây là một số vấn đề chung nhất của công tác huy động vốn, để làm rõ thêm những nội dung này, ta đi vào phân tích thực trạng công tác huy động vốn ở Xí nghiệp Xây lắp điện.
Phần 2: Thực trạng huy động vốn ở Xí nghiệp Xây lắp điện thuộc Tổng công ty Điện lực I
2.1. Khái quát chung về Xí nghiệp Xây lắp điện I.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển xí nghiệp.
Xí nghiệp Xây lắp điện trực thuộc Công ty điện lực I được thành lập ngày 23/10/1992 theo Quyết định số 523 NL/TCCB - LĐ của Bộ Năng lượng trên cơ sở sát nhập hai xí nghiệp: Xí nghiệp Xây lắp điện và Xí nghiệp Lắp điện hạ thế thuộc Sở điện lực Hà Nội.
Nhìn chung Xí nghiệp Xây lắp điện là một doanh nghiệp có quy mô nhỏ với số vốn kinh doanh ban đầu là 2.119 triệu đồng.
Trong đó:
- Vốn lưu động: 1.519 triệu đồng;
- Vốn cố định: 600 triệu đồng.
Theo nguồn vốn:
- Vốn ngân sách: 2.047 triệu đồng.
- Vốn tự bổ sung: 72 triệu đồng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân Xí nghiệp Xây lắp điện ngày càng mở rộng về quy mô cũng như cơ cấu hoạt động có hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước góp phần làm giảm tổn thất điện năng đem ánh sáng đến mọi miền tổ quốc đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa.
* Nhiệm vụ kinh doanh
Là đơn vị phụ trợ thuộc Công ty điện lực I, Xí nghiệp Xây lắp điện đăng ký ngành nghề kinh doanh sau:
- Xây dựng, cải tạo, sửa chữa công trình đường dây và trạm điện;
- Xây dựng, sửa chữa công trình công nghiệp và dân dụng theo chứng chỉ hành nghề xây dựng số 53 BXD/CSXD ngày 14/4/1999 của Bộ Xây dựng và Quyết định số 2163 EVN/ĐLI - 3 ngày 3/5/1999 của Công ty Điện lực I, xí nghiệp có nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể như sau:
- Đào đắp đất đá, san lấp mặt bằng tạo bãi;
- Xây lắp các kết cấu công trình, thi công móng công trình;
- Sửa chữa lắp đặt đường dây và trạm 110 Kv;
- Gia công, lắp đặt các kết cấu kim loại hòm tủ, bảng điện, cấu kiện bê tông đúc sẵn cho đường dây và trạm điện đến 35 Kw;
- Xây dựng đường dây và trạm điện đến 110 Kv và một số hạng mục (gói thầu) đường dây có điện áp đến 220 Kv;
- Xây dựng các công trình dân dụng và phần bao che các công trình công nghiệp nhóm C;
- Phạm vi hoạt động trên toàn quốc.
2.1.2. Các nguồn lực
Kết quả về công tác lao động được thể hiện trong bảng.
Bảng 2.1: Cơ cấu lao động của xí nghiệp
Đơn vị: người
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
1. Tổng số CBCNV
339
363
384
2. Số công nhân sản xuất
254
254
300
3. Số lao động hợp đồng ngắn hạn
133
123
135
4. Phụ nữ
31
44
54
5. Đảng viên
38
41
50
6. Tuổi đời dưới 30
129
139
142
31 - 45
162
171
184
46 - 55
40
43
50
trên 56
8
10
9
7. Trình độ chuyên môn
- Đại học
49
60
70
- Trung cấp
31
43
52
Nói chung nhìn vào bảng kê về lao động của doanh nghiệp ta thấy rằng, xí nghiệp đang có lực lượng lao động ngày càng hùng hậu, lớn mạnh, về cả số lượng và chất lượng tỉ trọng công nhân sản xuất trực tiếp tăng dần từ 75% năm 1999 lên 76% năm 2000 và 80% năm 2001.
Số đảng viên cũng tăng dần chứng tỏ công tác tư tưởng chính trị trong xí nghiệp được quan tâm. Việc bồi huấn về chính trị trong xí nghiệp thể hiện rất rõ, số lượng lao động dưới 30 và từ 31 đến 45 tuổi đều chiếm đa số.
Bên cạnh việc trẻ hóa, thì trình độ chuyên môn của người lao động cũng được nâng cao bằng cách tăng cường đội ngũ cán bộ có trình độ đại học, còn kế đó là trung cấp, tuyển dụng mới và cho đi học. Xí nghiệp có những chế độ chính sách ưu đãi đối với những người đi học, do vậy làm cho họ yên tâm trong học tập và còn hoàn thành công tác được giao.
2.1.3. Tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh
Do đặc tính của công tác xây lắp các công trình điện Xí nghiệp thành lập các đội xây lắp điện. Có 12 đội xây lắp (gọi tắt là đội điện 1, đội điện 2,... đội điện 12). Mỗi đội có từ 15 đến 30 người, bao gồm một đội trưởng phụ trách chung, một kỹ thuật viên và một nhân viên kinh tế. Các đội điện tổ chức thi công công trình theo hợp đồng kinh tế do xí nghiệp ký kết và theo thiết kế được duyệt các công trình có quy mô lớn phải huy động nhiều đội cùng tham gia thi công như: công trình đường dây 35 Kv Sầm Nưa - Lào (năm 1997), công trình cải tạo đường dây trung áp và các TBA thành phố Hà Nội thuộc dự án "Cải tạo lưới điện ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định" (năm 1999).
a. Đặc điểm tổ chức quản lý
Đặc điểm loại hình sản xuất của xí nghiệp là xây lắp các công trình điện có quy mô nhỏ phổ biến ở mức (100 triệu đến 600 triệu đồng), phân tán hầu hết các tỉnh phía Bắc từ Nghệ Tĩnh trở ra. Để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn hoá cũng như đảm bảo thực hiện tốt phương án sản xuất kinh doanh xí nghiệp thực hiện mô hình tổ chức quản lý như sau:
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức quản lý của Xí nghiệp Xây lắp điện
Phòng Hành chính
Phòng Kế hoạch
Phòng Tổ chức
Phòng Kỹ thuật
Phòng Tài chính kế toán
Phòng Vật tư
Phó Giám đốc
Giám đốc
12 Đội xây lắp điện
3 Đơn vịphụ trợ
Ban Giám đốc gồm một giám đốc và một Phó giám đốc. Giám đốc là người đứng đầu trong xí nghiệp, vừa là đại diện cho Nhà nước, vừa đại diện cho cán bộ công nhân viên của xí nghiệp. Phó giám đốc kỹ thuật: phối hợp với kế toán trưởng giúp việc giám đốc trong công tác quản lý đồng thời phụ trách khâu kỹ thuật của các công trình.
b. Đặc điểm về tình hình tài chính - kinh doanh của xí nghiệp.
Để có thể hiểu rõ hơn về Xí nghiệp Xây lắp điện, chúng ta sẽ xem xét tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh trong 3 năm 1999 - 2000 - 2001.
Bảng 2.2: Báo cáo tài chính trong 3 năm
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
1. Tổng tài sản
87.915
94.114
69.292
- Tài sản lưu động
85.514
91.734
65.761
- Tài sản cố định
2.401
2.380
3.531
2. Tổng nguồn vốn
87.915
94.114
69.292
- Nợ phải trả
84.140
90.452
63.622
- Nguồn vốn chủ sở hữu
3.775
3.662
5.670
3. Tổng doanh thu
55.548
32.005
25.749
4. Doanh thu thuần
51.574
30.798
24.461
5. Giá vốn hàng bán
50.663
30.163
22.319
6. Lãi gộp
911
635
1.485
7. Lãi thuần
744
445
1.081
8. Phải nộp ngân sách
3.535
401
2.188
9. Thu nhập bình quân
0,78
0,801
Theo như bảng 1 ta thấy trong 3 năm vừa qua, mặc dù có sự biến động, nhưng một cách tổng quát thì tình hình kinh doanh của xí nghiệp là khá tốt, lãi sau thuế luôn là một số dương, chỉ có năm 2000, công tác xây dựng cơ bản chịu sự tác động trực tiếp về việc áp dụng luật thuế VAT, nhất là các công trình trúng thầu năm 1999 nhưng chuyển tiếp sang năm 2000, phần thuế VAT đầu ra của sản phẩm xây lắp Nhà nước đã thu nhưng chưa được chủ đầu tư thanh toán bù cho đơn vị thi công về phần giá trị này dẫn đến lợi nhuận của xí nghiệp được trích từ những công trình trúng thầu đó bị cắt giảm và thua thiệt.
Là xí nghiệp xây lắp, tuy nhiên, xí nghiệp còn có thêm xưởng cơ khí và đội xây dựng, do vậy, hoạt động của xí nghiệp sẽ gần công tác thi công xây lắp điện đóng vai trò chủ đạo, và hoạt động xây dựng của đội xây dựng và hoạt động gia công chế tạo của phân xưởng cơ khí.
Bảng 2.3: Báo cáo thực hiện thi công xây lắp điện
Đơn vị: triệu đồng
Đội điện
2000
2001
Đội I
1.847
250
Đội II
2.080
1.959
Đội III
2.758
1.302
Đội IV
2.040
4.523
Đội V
3.871
3.694
Đội VI
5.315
490
Đội VII
1.184
1.991
Đội VIII
4.585
4.819
Đội IX
263
2.222
Đội X
2.394
4.692
Đội XI
1.002
1.831
Đội XII
2.936
2.536
Năm 2000, xí nghiệp được giao tổng doanh thu xây lắp về điện là 37.500 triệu đồng. Xí nghiệp đã thực hiện đạt 32.220 triệu đồng đạt 85,92%. Mức này đã tăng hơn năm 1999, nhưng vẫn không đạt được như kế hoạch đã đề ra. Điều này cũng có nhiều nguyên nhân, như yếu tố cạnh tranh trong XDCB về uy tín chất lượng, về yêu cầu tiến độ và quan hệ hiểu biết giữa A và B để giữ vững và phát triển địa bàn sản xuất vẫn là một tồn tại và thách thức với xí nghiệp, hoặc là vấn đề về bộ máy quản lý, chỉ huy sản xuất từ phòng ban và các đội sản xuất còn có những hạn chế, yếu kém chưa đạt ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Nhưng có lẽ quan trọng hơn cả, đó là việc tồn đọng vốn xây lắp chưa được thanh toán từ 1994 trở lại đây, mặc dù xí nghiệp cũng luôn đôn đốc công tác quyết toán của các A, và đề nghị công ty trực tiếp tháo gỡ cho xí nghiệp nhưng tình hình vẫn chuyển biến chậm, và chưa giải quyết triệt để, nên dẫn tới thiếu hụt, căng thẳng về huy động vốn để tổ chức thi công, nhận thầu và đấu thầu. Như vậy, dù đã cố gắng, dù đã áp dụng một số biện pháp, nhưng hiệu quả hoạt động của xí nghiệp vẫn chưa đạt được như mong đợi, vấn đề đặt ra là xí nghiệp cần xem lại công tác huy động vốn.
Huy động vốn ở đây không chỉ về mặt lượng, mà còn là vấn đề hiệu quả của nó, thể hiện trong việc lựa chọn nguồn tài trợ một cách hợp lý sau khi đã phân tích được thực trạng công tác huy động vốn hiện nay thông qua việc nghiên cứu cụ thể tình trạng tài chính của xí nghiệp, trước tiên ta nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn.
Bảng 2.3: Hiệu quả sử dụng vốn
Đơn vị: triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
1
Tổng doanh thu
55.548
32.005
25.749
Mức tăng
-23.543
-6.256
Tỉ lệ (%)
-42,38
-19,55
2
Lợi nhuận trước thuế
911
635
1.485
Mức tăng
-276
850
Tỉ lệ (%)
-30,03
133,86
3
Tổng vốn
87.915
94.114
69.292
Mức tăng
6.199
-24.822
Tỉ lệ (%)
7,05
-26,37
4
Hệ số đảm nhiệm vốn
0,632
0,34
0,372
Mức tăng
0,292
0,032
Tỉ lệ (%)
-46,2
9,41
5
Lợi nhuận trên vốn
0,0104
0,0062
0,0214
Mức tăng
-0,0036
0,0146
Tỉ lệ (%)
-34,62
214,71
Có thể nói, năm 2000 là một năm mà xí nghiệp hoạt động không hiệu quả, doanh thu giảm gần 45% so với 1999, đồng thời lợi nhuận trước thuế cũng giảm đi 30,03% trong khi đó tổng nguồn vốn lại tăng lên 7,05%, chính vì vậy làm cho hệ số đảm nhiệm vốn giảm từ 0,632 xuống còn 0,34 hay nói cách khác là 1 đồng vốn chỉ tạo ra không được nửa đồng doanh thu. Mặt khác lợi nhuận giảm, trong khi tổng vốn tăng làm cho tỉ lệ lợi nhuận trên vốn cũng giảm đi 35% tương ứng với giá trị từ 0,0104 xuống 0,0068.
Thực tế tỉ lệ 0,0103 đã là thấp nhưng tỉ lệ 0,0068 là điều không thể chấp nhận được, nó quá thấp và hầu như không có nghĩa trước một số lượng vốn khổng lồ như vậy. Từ sự bất hợp lý trong hiệu quả sử dụng vốn ta đi nghiên cứu khái quát tình hình tài chính của xí nghiệp qua bảng cân đối kế toán sơ lược của xí nghiệp, ta có nhận định chung như sau:
Tình hình._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0154.doc