Hoàn thiện nghiệp vụ Nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn nhà nước

Tài liệu Hoàn thiện nghiệp vụ Nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn nhà nước: LỜI MỞ ĐẦU Cùng với sự phát triển của thế giới, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển dẫn tới sự phân công lao động chuyên môn hoá ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên trình độ và tốc độ phát triển kinh tế cũng như khoa học kỹ thuật phát triển không đồng đều giữa các quốc gia. Các quốc gia kém phát triển muốn tạo được sự cân bằng trong phát triển kinh tế với các nước khác, cần phát triển một công cụ hết sức quan trọng đó là khoa học công nghệ. Đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu,có trình độ phát t... Ebook Hoàn thiện nghiệp vụ Nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn nhà nước

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1638 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện nghiệp vụ Nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riển thấp nên hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị dây chuyền công nghệ, khoa học kỹ thuật để trang bị cho sản xuất là hoạt động quan trọng, có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế nước ta hiện nay. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ giúp chúng ta hiện đại hoá nền sản xuất trong nước, tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến, làm tiền đề cho sự phát triển ngành công nghiệp Việt Nam trong tương lai. Thiết bị toàn bộ là một loại hàng hoá đặc biệt mà hiện nay sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước khác với những mặt hàng khác là cần tuân thủ những quy định riêng của nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ em xin được tìm hiểu đề tài hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn nhà nước. Tính tất yếu phải nghiên cứu vấn đề Hiện nay nhu cầu thiết bị toàn bộ và phụ tùng hàng năm vào khoảng 2,2- 2,5 tỷ USD, chiếm 45% kim ngạch nhập khẩu sản phẩm cơ khí. Dự báo đến năm 2010, nhu cầu thiết bị toàn bộ sẽ là 5 tỷ USD/năm. Trong khi tỷ trọng sản phẩm tham gia vào các công trình thiết bị toàn bộ hoặc tổng thầu thiết bị toàn bộ của ngành Cơ khí ước đạt khoảng 20%, phấn đấu đáp ứng 40% nhu cầu thiết bị toàn bộ trong nước vào năm 2010. Nhu cầu thiết bị toàn bộ cho nhiệm vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là rất lớn tuy nhiên sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu thì nhập khẩu là tất yếu khách quan... Mặt khác giá trị của lô hàng thường rất lớn và chủ yếu là nhập cho các dự án. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước khác với những mặt hàng khác là cần tuân thủ những quy định riêng của nhà nước. Do những thủ tục, quy định và quá trình giám sát của nhà nước còn nhiều hạn chế nên đã có rất nhiều sai phạm trong quá trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ như nhập phải thiết bị cũ đã lạc hậu hay nhập những thiết bị trong nước đã sản xuất được và đảm bảo về chất lượng, mà theo như quy định thì không được phép nhập khẩu… Với đề tài hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn nhà nước, em xin được tìm hiểu tổng quan về nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, Thực trạng, và một vài kiến nghị đối với doanh nghiệp cũng như nhà nước. I. Tổng quan về nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng vốn ngân sách nhà nước 1.1 Các khái niệm Thứ nhất: Khái niệm thiết bị toàn bộ Thiết bị toàn bộ là một tập hợp máy móc thiết bị, vật tư dùng riêng cho 1 dự án có trang bị công nghệ cụ thể có các thông số kinh tế-kỹ thuật được mô tả và quy định trong thiết kế của dự án Nội dung hàng hoá thiết bị toàn bộ bao gồm: Khảo sát kỹ thuật. Luận chứng kinh tế-kỹ thuật hoặc nghiên cứu khả thi công việc thiết kế. Thiết bị, máy móc, vật tư… cho xây dựng dự án. Các công tác xây dựng, lắp ráp, hiệu chỉnh, hướng dẫn vận hành. Các dịch vụ khác có liên quan đến dự án ( chuyển giao công nghệ, đào tạo…). Việc nhập khẩu thông qua một hợp đồng ( theo hình thức trọn gói ) với toàn bộ nội dung hàng hoá nêu trên, hoặc thực hiện từng phần, tuỳ theo yêu cầu. Thứ hai là Vốn Ngân sách Nhà nước bao gồm các nguồn vốn sau: Vốn phân bổ của ngân sách Nhà nước. Vốn tự bổ sung của các doanh nghiệp Nhà nước. Vốn của các công ty ( thành lập theo Luật Công ty ) có tổng số vốn đóng góp của các doanh nghiệp Nhà nước chiếm trên 50% vốn của công ty. Vốn vay của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các ngân hàng, các công ty nước ngoài cho ngân sách Nhà nước hoặc do ngân hàng của nhà nước bảo lãnh. Vốn viện trợ bằng tiền của Chính phủ các nước,các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức quốc tế đối với các dự án,công trình (bao gồm vốn viện trợ nhân đạo bằng tiên) đưa vào ngân sách Nhà nước quản lý. Thứ ba là: Kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ là toàn bộ quá trình giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán thiết bị và dịch vụ có liên quan đến thiết bị trong quan hệ với bạn hàng nước ngoài. 1.2. Doanh nghiệp được phép kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ Muốn kinh doanh thiết bị toàn bộ, doanh nghiệp phải được Bộ Thương mại cấp giấy phép kinh doanh nhập khẩu phù hợp với điều 5 Nghị định 114/HĐBT ngày 7/4/1992, trong đó ở phần nhập khẩu có ghi nghành hàng thiết bị, máy móc.Và doanh nghiệp cần đáp ứng các yêu cầu sau: - Doanh nghiệp có bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ có đủ năng lực chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, giá cả, pháp lý quốc tế trong kinh doanh nhập khẩu thiết bị - Doanh nghiệp đã kinh doanh nhập khẩu nghành hàng máy móc thiết bị lẻ tối thiểu 5 năm và có mức doanh số nhập khẩu máy móc thiết bị trong một năm không dưới 5 triệu USD. - Doanh nghiệp có vốn lưu động do Nhà nước giao và tự bổ sung bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài tối thiểu tương đương với 500.000 USD tại thời điểm đăng ký kinh doanh nhập khẩu thiết bị. Doanh nghiệp xin kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ làm hồ sơ đăng ký kinh doanh gửi về Bộ Thương mại. Hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm: Đơn xin kinh doanh nhập khẩu thiết bị. Giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Hồ sơ hợp lệ xác nhận vốn lưu động ( bao gồm vốn Nhà nước giao và vốn tự bổ sung). Bảng tổng kết tài sản 5 năm cuối cùng (biểu tổng hợp). Sơ đồ tổ chức bộ máy kinh doanh và cán bộ cần thiết để đảm bảo đủ năng lực kinh doanh thiết bị. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ Bộ Công thương sẽ trả lời b ằng văn bản cho đương sự ý kiến thuận hay không thuận. Chỉ các doanh nghiệp đã được Bộ Thương mại cấp quyền kinh doanh nhập khẩu thiết bị mới được phép kinh doanh nhập khẩu thiết bị. Các doanh nghiệp khác nếu có nhu cầu nhập khẩu thiêt bị thì uỷ thác cho các doanh nghiệp được Bộ thương mại cấp quyền kinh doanh nhập khẩu thiết bị theo thoả thuân phù hợp với các quy định hiện hành. 1.3 Doanh nghiệp được chỉ định nhập khẩu thiết bị toàn bộ Chủ đầu tư là doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu và sử dụng thiết bị toàn bộ (chỉ được nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng yêu cầu kinh tế -kỹ thuật của dự án,công trình đã được duyệt), khi có luận chứng kinh tế kỹ thuật được duyệt phù hợp với quy định tại Nghị định 385/HĐBT ngày 7/11/1990 sẽ gửi yêu cầu đến Bộ Thương mại và đề nghị xem xét chỉ định doanh nghiệp nhận uỷ thác nhập khẩu thiết bị. Trong yêu cầu cần nêu rõ tên thiết bị, đặc điểm kỹ thuật chủ yếu,mục đích sử dụng, trị giá ước tính, nguồn vốn nhập khẩu, thời hạn nhập khẩu và kiến nghị doanh nghiệp uỷ thác nhập khẩu, yêu cầu này phải được cơ quan chủ quản xác nhận (Cơ quan chủ quản là Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trực tiếp quản lý chủ đầu tư). Bộ thương mại xét chỉ định doanh nghiệp nhập khẩu trong số các doanh nghiệp có quyền kinh doanh nhập khẩu thiết bị toàn bộ theo nguyên tắc sau: Nếu doanh nghiệp nhập khẩu được chủ đầu tư kiến nghị nằm trong số các doanh nghiệp được Bộ Thương mại cấp giấy phép kinh doanh ngành hàng máy móc thiết bị toàn bộ thì Bộ Thương mại giải quyết như đề nghị của chủ đầu tư. Nếu chủ đầu tư không kiến nghị doanh nghiệp nhập khẩu hoặc kiến nghị chưa phù hợp thì Bộ Thương mại tham khảo ý kiến chủ đầu tư để chỉ định doanh nghiệp nhập khẩu. Trong các trường hợp đặc biệt do tính chất đặc thù của thiết bị và nguồn vốn Bộ Thương mại quyết định việc chỉ định doanh nghiệp nhập khẩu. Các hình thức nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Gồm có 2 hình thức: Đấu thầu mở rộng hay đấu thầu hạn chế. Các công đoạn của đấu thầu gồm: Lập hồ sơ gọi thầu và công bố. Phân phát hoặc bán hồ sơ gọi thầu. Mở thầu. Xét đơn thầu. Tuyên bố trúng thầu. Đàm phán ký kết hợp đồng. Mua sắm trực tiếp thông qua gọi chào hàng cạnh tranh. Lập đơn xin chào hàng . Gọi chào hàng cạnh tranh. So sánh đánh giá chào hàng. Đàm phán kí kết hợp đồng. 1.4 Hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Trong quá trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng vốn ngân sách Nhà nước, ta phải đặc biệt chú ý tới phần hợp đồng vì nó có điểm khác với hợp đồng kinh tế thông thường như: Hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ phải có điều khoản quy định rằng hợp đồng chỉ có hiệu lực khi được cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam phê duyệt, trừ trường hợp nhập khẩu thiết bị lẻ có giá trị đơn vị máy dưới 100.000 USD hay tổng trị giá hợp đồng dưới 500.000 USD, doanh nghiệp nhập khẩu có quyền tự quyết định về các điều khoản của hợp đồng; Hợp đồng nhập khẩu thiết bị phải nói rõ nội dung chuyển giao công nghệ (nếu có) và giá của công nghệ được chuyển giao. Nội dung chuyển giao công nghệ được thể hiện bằng điều khoản về chuyển giao công nghệ trong hợp đồng nhập khẩu thiết bị hoặc hợp đồng chuyển giao công nghệ kèm theo hợp đồng chính. Sau khi ký hợp đồng nhập khẩu thiết bị, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu làm văn bản đề nghị Bộ Thương mại phê duyệt hợp đồng (áp dụng đối với các hợp đồng phải phê duyệt) sau khi đã có ý kiến của cơ quan chủ quản. Hồ sơ cần thiết để xin phê duyệt hợp đồng bao gồm: Hợp đồng (có chữ ký của các bên mua bán) gồm cả tiếng nước ngoài và tiếng Việt (hoặc bản dịch) và các tài liệu có liên quan như Luận chứng kinh tế kỹ thuật, catalogues thiết bị (nếu có), các chào hàng hoặc các đơn thầu chung cuộc, biên bản kết luận về đấu thầu hoạc so sánh chào hàng… Văn bản phê duyệt Luận chứng kinh tế kỹ thuật của công trình phù hợp với quy định hiện hành. Văn bản đề nghị của cơ quan chủ quản. Văn bản của cơ quan có thẩm quyền cho phép sử dụng các nguồn vốn viện trợ, vay nợ của nước ngoài hay nguồn vốn Ngân sách Nhà nước khác cho công trình. Văn bản bảo lãnh của Ngân hàng (nếu hợp đồng nhập khẩu thiết bị quy định cần có bảo lãnh thanh toán của Ngân hàng). Các giấy tờ, văn bản khác mà Bộ Thương mại hoặc Hội đồng thẩm định Nhà nước yêu cầu Hồ sơ được lập thành 4 bộ (nếu thuộc phê duyệt của Bộ Thương mại ) và 8 bộ (nếu thuộc phê duyệt của Hội đồng thẩm định Nhà nước). Hồ sơ phải có 1 bản gốc, các bộ trực tiếp theo có thể là bản sao. Những hợp đồng nhập khẩu thiết bị có điều khoản về chuyển giao công nghệ hoặc chuyển giao công nghệ kèm theo sẽ được Bộ Thương mại và Hội đồng thẩm định Nhà nước xem xét phê duyệt khi đã có ý kiến của Bộ Khoa học công nghệ môi trường về những vấn đề chuyển giao công nghệ. Bộ Thương mại sẽ xem xét và phê duyệt các hợp đồng thiết bị toàn bộ có giá trị vốn đầu tư của dự án dưới 5 triệu USD (trị giá vốn đầu tư của dự án bao gồm cả đầu tư cho xây dựng cơ bản và đầu tư cho máy móc thiết bị nhập khẩu) sau khi đã có ý kiến của cơ quan chủ quản. Nếu vốn đầu tư của dự án trên 5 triệu USD, Bộ Thương mại đưa ra Hội đồng thẩm định Nhà nước xem xét, trong đó: Dự án đến 10 triệu USD, Hội đồng thẩm định Nhà nước tự quyết định phê duyệt; Dự án trên 10 triệu USD, Hội đồng thẩm định Nhà nước trình thủ tướng Chính phủ quyết định. Lệ phí thẩm định hợp đồng doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu thiết bị chịu và tính vào phí chuẩn bị dự án. Mức lệ phí thẩm định là 0,1% trị giá hợp đồng nhưng tối đa không quá 5.000 USD cho một hợp đồng. Thời gian phê duyệt là 30 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị phê duyệt của doanh nghiệp xin nhập khẩu máy móc, thiết bị hoặc tờ trình của Hội đồng thẩm định Nhà nước (đối với trường hợp Thủ tướng Chính phủ phê duyệt). Nếu quá thời gian quy định trên, các cơ quan chức năng có thẩm quyền phê duyệt phải chịu trách nhiệm hậu quả (nếu có) về sự chậm trễ gây lên. Hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ có thể ký một lần hoặc ký thành nhiều hợp đồng nhỏ cho từng phần tuỳ theo yêu cầu Sau khi có phê duyệt của các cơ quan chức năng có thẩm quyền đối với hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị, Bộ Thương mại có trách nhiệm cấp giấy phép nhập khẩu cho hợp đồng nhập máy móc, thiết bị theo từng chuyến hàng nhập, phù hợp với các điều kiên của hợp đồng đã được phê duyệt. 1.5 Phân loại và tính thuế nhập khẩu thiết bị toàn bộ. 1.5.1. Nguyên tắc phân loại a, Hàng hoá nhập khẩu là một tập hợp các máy móc thuộc các nhóm, phân nhóm hàng của các Chương 84, 85, 86, 88, 89, 90 của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành được áp dụng nguyên tắc phân loại theo máy chính để tính thuế nhập khẩu. Đối với các trường hợp nhập khẩu lô hàng thiết bị toàn bộ gồm nhiều các tập hợp máy móc khác nhau hoặc nhiều dây chuyền khác nhau, trong đó mỗi tập hợp dây chuyền này có một máy chính thì những trường hợp này cần phân loại lô hàng nhập khẩu thành từng nhóm các máy móc thiết bị tương ứng với từng dây chuyền để tính thuế theo đúng nguyên tắc đã hướng dẫn nêu trên. Trường hợp máy chính có mức thuế nhập khẩu cao hơn mức thuế nhập khẩu của các máy móc thiết bị khác trong tập hợp các máy móc nhập khẩu thì các doanh nghiệp được lựa chọn việc áp dụng cách phân loại theo máy chính hoặc phân loại theo từng máy. Nếu lô hàng thiết bị toàn bộ nhập khẩu ngoài tập hợp các máy móc, thiết bị còn bao gồm cả vật tư, nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu, nhiên liệu, nhà xưởng, ô tô thì chỉ áp dụng nguyên tắc phân loại theo máy chính để tính thuế nhập khẩu cho tập hợp các máy móc thuộc các Chương 84, 85, 86, 88, 89, 90 của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành; không áp dụng nguyên tắc phân loại theo máy chính để tính thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu là các vật tư, nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu, nhiên liệu, nhà xưởng, ô tô (những mặt hàng này thực hiện theo nguyên tắc: phân loại đúng mã số quy định cho mặt hàng đó tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành). b, Tập hợp các máy móc được áp dụng nguyên tắc phân loại theo máy chính gồm ít nhất từ hai máy, thiết bị trở lên thuộc một hoặc nhiều nhóm, phân nhóm hàng của các Chương 84, 85, 86, 88, 89, 90 của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành. Tập hợp các máy móc này có thể là một tổ hợp (ví dụ: tổ hợp các máy móc thiết bị truyền hình gồm thiết bị thu, thiết bị truyền, camera.., tổ hợp sản xuất thuốc lá điếu gồm máy chế biến thuốc lá, máy vê thuốc, kèm thiết bị đóng gói..) hoặc chúng có thể là một dây chuyền (Ví dụ: dây chuyền may quần áo gồm máy may, máy vắt sổ, máy thùa khuyết, máy đính cúc, máy thiết kế mẫu, bàn may, máy cắt, máy phát điện...). Các máy móc khác nhau của tập hợp các máy móc này có tính chất bổ trợ gắn kết với nhau để đồng thời hay gối đầu nhau nhằm thực hiện chức năng riêng của từng máy và của cả hệ thống. c, Tập hợp các máy móc được áp dụng nguyên tắc phân loại theo máy chính nêu tại điểm a và b có thể là: - Được nhập khẩu từ một hoặc nhiều thị trường khác nhau, có xuất xứ từ một hoặc nhiều khu vực hoặc từ nhiều nước khác nhau, nhập về cùng chuyến hoặc không cùng một chuyến nhưng tập hợp các máy móc, thiết bị nhập khẩu tạo thành một tổ hợp hoặc một dây chuyền với một chuỗi các máy móc, thiết bị liên kết với nhau, có tính chất bổ trợ cho nhau để đồng thời hay gối đầu nhau thực hiện các chức năng riêng biệt của từng máy và của cả hệ thống. - Vừa nhập khẩu vừa tự sản xuất hoặc mua trong nước nhưng phải đáp ứng 3 điều kiện: Thứ nhất, máy chính phải là máy được nhập khẩu; Thứ hai, tập hợp các máy móc, thiết bị vừa nhập khẩu vừa tự sản xuất hoặc mua trong nước tạo thành một tổ hợp hoặc một dây chuyền với một chuỗi các máy móc, thiết bị liên kết với nhau, có tính chất bổ trợ cho nhau để đồng thời hay gối đầu nhau nhằm thực hiện các chức năng riêng biệt của từng máy và của cả hệ thống; Thứ ba, đối tượng sử dụng tập hợp các máy móc vừa nhập khẩu vừa tự sản xuất hoặc mua máy móc do trong nước sản xuất phải tự kê khai và chịu trách nhiệm trước pháp luật về loại máy móc tự sản xuất hoặc mua trong nước, tên đơn vị sản xuất hoặc đơn vị cung cấp máy và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kê khai này. Trường hợp kê khai sai thì ngoài việc bị truy thu thuế nhập khẩu theo đúng mã số của từng máy móc thiết bị quy định của Biểu thuế nhập khẩu tại thời điểm truy thu còn bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định hiện hành của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các văn bản pháp luật có liên quan. 1.5.2. Thủ tục hồ sơ để phân loại và tính thuế nhập khẩu theo máy chính a, Hồ sơ Hàng hoá nhập khẩu là thiết bị toàn bộ được tính thuế nhập khẩu theo máy chính phải có đủ các hồ sơ sau đây: - Luận chứng kinh tế kỹ thuật hoặc Dự án đầu tư thiết bị toàn bộ được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, trong đó ghi rõ tên máy móc thiết bị nhập khẩu, sản xuất hoặc mua trong nước. Doanh nghiệp xuất trình bản chính để cơ quan hải quan đối chiếu khi làm thủ tục nhập khẩu. - Văn bản xác nhận của cơ quan quản lý chuyên ngành về máy chính của lô hàng thiết bị toàn bộ nhập khẩu. Doanh nghiệp nộp bản chính cho cơ quan hải quan khi làm thủ tục. Cơ quan quản lý chuyên ngành là cơ quan quản lý có tính chất chuyên ngành đối với việc sử dụng máy móc, thiết bị nhập khẩu, có thể cấp Bộ hoặc cấp Sở. Cơ quan quản lý chuyên ngành chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc xác nhận của mình. Ví dụ: Doanh nghiệp Cổ phần A thuộc Thành phố Hà Nội có nhập khẩu tập hợp máy móc làm bia, thì cơ quan xác nhận máy chính là Bộ Công nghiệp hoặc Sở Công nghiệp, không phải là Uỷ ban nhân dân các cấp. Công ty liên doanh B đóng tại địa phương Quảng Ninh có nhập một dây chuyền sản xuất gạch thì cơ quan xác nhận máy chính là Bộ Xây dựng, không phải Bộ hoặc Sở kế hoạch tỉnh. Trường hợp có vướng mắc trong việc xác nhận máy chính thì cơ quan quản lý chuyên ngành trao đổi với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành có liên quan để xác định máy chính làm căn cứ tính thuế nhập khẩu các máy móc, thiết bị này. - Hợp đồng nhập khẩu (trực tiếp hoặc uỷ thác), Bảng kê chi tiết lô hàng nhập khẩu (Packing list) và các chứng từ khác (nếu có) ghi rõ tên các loại máy móc thiết bị nhập khẩu (nộp bản chính cho cơ quan hải quan). b, Thực hiện việc tính thuế. Căn cứ vào hồ sơ quy định tại điểm trên và kết quả kiểm tra hàng hoá thực nhập khẩu, hoặc vừa nhập khẩu vừa tự sản xuất hoặc mua trong nước (nếu có) phù hợp quy định tại TT 85/2003/TT- BTC ngày 29/8/2003 thì cơ quan hải quan nơi làm tục nhập khẩu sẽ tính thuế tập hợp các máy móc của thiết bị toàn bộ theo máy chính và mở sổ để theo dõi hàng hoá thực nhập với Danh mục hàng hoá cần nhập khẩu đã được cơ quan phê duyệt Luận chứng kinh tế kỹ thuật hoặc Dự án đầu tư duyệt. Nếu nghi ngờ việc xác nhận của cơ quan có thẩm quyền là không chính xác, thì cơ quan hải quan làm thủ tục nhập khẩu vẫn thực hiện tạm tính thuế theo máy chính đã được xác nhận và phản ảnh ngay cho cơ quan xác nhận biết đồng thời báo cáo Tổng cục Hải quan giải quyết. Trường hợp còn vướng mắc, Tổng cục Hải quan sẽ báo cáo Bộ Tài chính để làm việc với các Bộ, ngành có liên quan giải quyết. Trường hợp xác nhận của cơ quan có thẩm quyền không phù hợp thì hàng hoá nhập khẩu sẽ được tính lại thuế. Nếu số tiền thuế nhập khẩu đã nộp nhiều hơn số thuế phải nộp theo mức thuế tính lại, đơn vị nhập khẩu thiết bị toàn bộ sẽ được hoàn thuế hoặc khấu trừ vào số thuế phải nộp của lô hàng sau. Nếu số tiền thuế đã nộp ít hơn số thuế phải nộp theo mức thuế tính lại, cơ quan hải quan sẽ thực hiện việc truy thu thuế đối với hàng hoá đã làm thủ tục. Việc thực hiện truy thu, truy hoàn hoặc khấu trừ thuế được thực hiện theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Các trường hợp kê khai nhập khẩu tập hợp máy móc, thiết bị toàn bộ để được tính và nộp thuế nhập khẩu theo máy chính nhưng thực tế không sử dụng máy móc thiết bị này thành một tổ hợp hoặc dây chuyền mà sử dụng theo máy riêng lẻ, thì ngoài việc truy thu thuế nhập khẩu theo đúng mức thuế nhập khẩu quy định cho từng máy, đơn vị còn bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định hiện hành của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các văn bản pháp luật liên quan. Bộ Tài chính sẽ phối hợp với các Bộ ngành có liên quan để xử lý cụ thể việc áp dụng nguyên tắc phân loại theo máy chính cho các trường hợp nhập khẩu tập hợp máy móc của thiết bị toàn bộ, ngoài các máy móc, thiết bị thuộc các nhóm hoặc phân nhóm hàng của các chương 84, 85, 86, 88, 89, 90 của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành. (Ví dụ: thiết bị toàn bộ đường ống dẫn khí) II, Thực trạng thực hiện nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng vốn ngân sách Nhà nước 2.1 Thực trạng nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng vốn ngân sách nhà nước a, Giai đoạn trước năm 1990 Trong giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1989, Cả nước đã nhập khẩu hơn 500 công trình thiết bị toàn bộ lớn và nhỏ bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Trong số đó có nhiều công trình trọng điểm, có tầm quan trọng lâu dài đối với đời sống kinh tế xã hội của đất nước như: Công trình cầu Thăng Long, công trình khôi phục và mở rộng cảng Hải Phòng, hệ thống các đường dây và trạm biến thế điện trong cả nước, các công trình nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, Hà Tiên, Công trình nhà máy nhiệt điện Phả lại, Công trình nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, Thác Đà, Trị An, Nhà máy đường La Ngà, Công trình nhà máy giấy Tân Mai, Bãi Bằng… Trong giai đoạn này nhập khẩu thiết bị toàn bộ mang tính chất độc quyền. Chỉ có một doanh nghiệp duy nhất trong cả nước được phép nhập khẩu thiết bị toàn bộ, đó là công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật (Technoimport) mà tiền thân là Cục kiêm tổng công ty nhập khẩu thiết bị toàn bộ và trao đổi kỹ thuật thuộc Bộ Ngoại Thương. Tất cả các công trình thiết bị toàn bộ kể trên đều do Công ty Technoimport nhập khẩu thiết bị toàn bộ Về thị trường nhập khẩu, giống như các mặt hàng khác, thiết bị toàn bộ được nhập khẩu chủ yếu từ thị trường các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Trung Quốc. Việc nhập khẩu có tính chất đơn giản vì hầu như đều mang tính chất giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Việc lựa chọn đối tác không cần cân nhắc quá kỹ vì hầu hết các đối tác nước ngoài cũng đều là doanh nghiệp nhà nước của nước bạn nên rủi ro trong quá trình nhập khẩu dường như là không có. Việc thanh toán cho các hợp đồng cũng hết sức có lợi cho phía Việt Nam, chúng ta thường được cung cấp một khoản tín dụng lớn trong một khoảng thời gian dài với lãi xuất thấp. Việc đàm phán kí kết hợp đồng cũng diễn ra đơn giản vì nó được dựa trên tinh thần hợp tác và giúp đỡ giữa các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Những công trình thiết bị toàn bộ này có ý nghĩa hết sức to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước. a, Giai đoạn sau 1990 Sau sự sụp đổ của một loại các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu, thị trường nhập khẩu truyền thống của ta bị mất đi, cùng với đó là mất đi sự giúp đỡ hết sức quý báu của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Trong giai đoạn đầu những năm 90, ta đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường xuất nhập khẩu nói chung và thị trường nhập khẩu thiết bị toàn bộ nói riêng. Do chưa kịp thích ứng với việc thay đổi thị trường nhập khẩu, thêm vào đó là vẫn giữ thói quen làm việc như cũ, chưa dám tin tưởng bắt tay làm việc với các nước tư bản chủ nghía nên hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ gần như bị đình trệ lại. Tuy nhiên sau thời gian thích nghi và tích cực tìm kiếm thị trường, thay đổi nhận thức và cách thức kinh doanh, hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ đang diễn ra hết sức sôi động phục vụ tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Hiện nay chính sách về nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng vốn ngân sách Nhà nước đã thông thoáng hơn rất nhiều, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế đất nước và xu hướng chung của thế giới. Năm 1990, Nhà nước đã có một hướng đi hết sức đúng đắn đó là xoá bỏ tình trạng độc quyền trong kinh doanh thiết bị toàn bộ, cho phép được nhập khẩu trực tiếp mà không phải uỷ thác cho Technoimport như trước đây, và các doanh nghiệp chỉ cần đảm bảo các điều kiện đã nêu ở trên là được phép nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Đến nay đã có rất nhiều công trình thiết bị toàn bộ được hoàn thành như nhà máy xi măng Hoàng Mai (giá trị hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ là 123 triệu USD), nhà máy xi măng Tam Điệp (giá trị thiết bị toàn bộ 110 triệu USD), dự án thuỷ lợi đồng bằng sông Hồng (giá trị thiết bị toàn bộ là 10 triệu USD), nhà máy gạch men Hải Dương ( giá trị thiết bị toàn bộ là 3.550.000 USD)… và nhiều công trình thiết bị toàn bộ khác, không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cho đất nước mà còn có giá trị tích cực về mặt văn hoá, xã hội. Về thị trường nhập khẩu thiết bị toàn bộ: Thị trường nhập khẩu thiết bị toàn bộ đã có sự chuyển biến một cách hợp lý, theo xu hướng đa dạng hoá thị trường nhập khẩu. Sau khi thị trường truyền thống là các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ thì chúng ta đã nhanh chóng chuyển sang một khu vực thị trường mới, đó là khối các nước tư bản chủ nghĩa. Hiện nay các nước này đã đạt tới trình độ phát triển cao về công nghệ, các thị trường cơ bản hiện nay là Nhật, Pháp, Đức, Mỹ, Singapore, Trung Quốc, Đan mạch, Italia, Hàn Quốc, Malaysia, Thuỵ sĩ… Ngoài những công trình thiết bị truyền thống như đã nhập trước đây, thì hiện nay đã xuất hiện những nhu cầu thiết bị toàn bộ mới, đặc biệt là nhu cầu thiết bị toàn bộ để khai thác và chế biến dầu khí. Do có nhiều mặt hàng là mặt hàng mới nên kinh nghiệm nhập khẩu của ta chưa có nhiều, vì vậy trong quá trình nhập khẩu phải hết sức thận trọng. Tránh để tình trạng nhập khẩu phải thiết bị cũ, đã lỗi thời, lạc hậu, sau đó lại phải bổ sung sửa chữa mà hiệu quả hoạt động không cao. Trong hợp đồng thường có điều khoản quy định chất lượng thiết bị toàn bộ là thiết bị mới ( 100% brand new). Tuy nhiên để nhận biết thiết bị toàn bộ đó là thiết bị tiên tiến hay thiết đã bị lỗi thời, thì đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ am hiểu về thị trường khoa học công nghệ. Thế nhưng đội ngũ cán bộ này ở Việt Nam hiện vẫn đang còn rất thiếu và yếu, trình độ khoa học công nghệ chưa cao, kiến thức về thị trường còn nhiều hạn chế. Và do rất nhiều nguyên nhân khác mà hiệu quả của việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước chưa cao. Hiệu quả của công trình thiết bị toàn bộ lại phải sau một thời gian dài đưa vào sử dụng mới đánh giá được nên tình trạng nhập khẩu thiết bị toàn bộ đã lạc hậu về công nghệ vẫn còn diễn ra khá phổ biến. 2.2 Những tồn tại và nguyên nhân a, Những tồn tại Thứ nhất là: Nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ còn yếu kém Thị trường máy móc thiết bị có những đặc điểm khác với thị trường hàng hoá khác : Thiết bị toàn bộ là sản phẩm không thể làm thí nghiệm cũng như không thể làm sẵn để chào bán; cung hàng hoá trong ngắn hạn thay đổi chậm, sức ỳ lớn và mang tính chất độc quyền kinh tế; thủ tục mua hàng, tham khảo bảng giá nhiều nơi, xét duyệt và ký hợp đồng khá phức tạp, thời kỳ mua bán chuyển giao lắp đặt kéo dài; Trị giá hợp đồng và số lượng sản phẩm lớn; hiệu quả kinh tế phải qua một thời gian mới được biểu hiện đầy đủ…Do những đặc điểm riêng biệt của mặt hàng này nên công tác nghiên cứu thị trường chiếm một vị trí rất quan trọng trong hoạt động nhập khẩu. Trên cơ sở nhu cầu thiết bị toàn bộ cần nhập khẩu, doanh nghiệp nhập khẩu sẽ tiến hành thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước. Trước tiên doanh nghiệp sẽ tiến hành tìm hiểu mức giá cả cùng loại ở thị trường trong nước (hoặc mức giá trần nêu trong quyết định đầu tư, đông thời thu thập thông tin về mã số thuế, thuế suất và phụ thu của mặt hàng đó. Sau đó doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu ở thị trường nước ngoài. Trên thế giới, thị trường buôn bán thiết bị toàn bộ rất rộng lớn, đa dạng và phức tạp, vì thế ngay cả khi đã nhận biết được loại thiết bị toàn bộ cần nhập thì vẫn phải nghiên cứu thị trường. Để đi tới quyết định nên nhập khẩu của hãng nào thì doanh nghiệp phải nghiên cứu về tình hình sản xuất, giá cả và chất lượng máy móc thiết bị cũng như uy tín và khả năng tài chính của hãng, nắm rõ các điều kiện về tập quán thương mại, quan hệ thương mại của nước đó với Việt Nam. Tuy nhiên việc nghiên cứu thị trường vẫn còn bị xem nhẹ, công tác tổ chức nghiên cứu thị trường còn tiến hành chưa tốt. Chính vì vậy trong những năm 1998, 2000 chúng ta đã mắc phải những sai lầm lớn trong hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho các nhà máy mía đường, gây thiệt hại nghiêm trọng đối với kinh tế và xã hội. Tình trạng nhập khẩu phải thiết bị cũ, lạc hậu, đã lỗi thời diễn ra khá phổ biến, ví dụ như thiết bị toàn bộ của nhà máy đường Việt Trì là thiết bị cũ thanh lý do Trung Quốc chế tạo từ năm 1958. Gía cả là một điều khoản trong hợp đồng được các doanh nghiệp Việt Nam hết sức quan tâm chú ý. Để cạnh tranh, giá cả mà các đối tác nước ngoài đưa ra thường rất khác nhau, đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có trình độ cao để phân tích xem với giá đó thì máy móc có đầy đủ, đồng bộ không, có đáp ứng được các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật hay không. Khi xem xét về đơn giá cần chú ý rằng các nhà sản xuất thường hạ giá thiết bị chính, chi tiết chính để cạnh tranh trong khi đó lại nâng giá các chi tiết lên để bù lại khiến tổng giá thành của thiết bị vẫn không thay đổi. Do công tác nghiên cứu tìm hiểu về giá không tốt, chúng ta thường phải nhập với giá khá cao. Cũng do không tìm hiểu kỹ về thị trường giá cả nên cùng dây truyền thiết bị của Trung Quốc, cùng công suất 1.000 tấn mía /ngày) nhưng giá nhập chênh nhau hàng chục tỷ đồng: Nhà máy đường Sơn La nhập với giá 65 tỷ , nhà máy đường ở tỉnh Kon Tum nhập với giá 70 tỷ. nhà máy đường Bình Thuận nhập với giá 75,2 tỷ, nhà máy đường Trị An nhập với giá 76 tỷ đồng. Không chỉ yếu kém trong công tác nghiên cứu thị trường mà tình trạng yếu kém và sai phạm còn xảy ra ở tất cả các khâu trong nội dung của thiết bị toàn bộ. Công tác nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật sơ bộ, thiết kế kỹ thuật cơ bản, thiết kế kỹ thuật chi tiết còn tiến hành chưa tốt. Trong giai đoạn cung cấp thiết bị và chạy thử, đưa vào sản xuất có rất nhiều vấn đề nảy sinh như máy móc còn giao chậm và giao không đồng bộ, chưa học hỏi và tranh thủ được kinh nghiệm của các chuyên gia. Thứ hai là: Xin giấy phép nhập khẩu khó, mất nhiều thời gian Giấy phép nhập khẩu của các công trình máy móc thiết bị khác nhau là do các bộ chuyên nghành khác nhau quản lý, ví dụ như khi nhập khẩu máy móc thiết bị sản xuất nhôm tấm thì phải xin giấy phép nhập khẩu của Bộ Công nghiệp nay là Bộ Công Thương, nhập khẩu thiết bị sản xuất thức ăn chăn nuôi thì phải xin giấy phép của Bộ Nông nghiệp, nhập khẩu máy cán thép thì phải xin giấy phép nhập khẩu của Bộ Xây dựng… Mỗi công trình thiết bị toàn bộ để được nhập khẩu hầu như phải xin rất nhiều giấy phép, đó là chưa kể đến việc có những công trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ mà có đến hai, ba Bộ chuyên nghành quản lý, chồng chéo trong thủ tục hành chính. Việc xin giấy phép nhập._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10023.doc
Tài liệu liên quan