Tài liệu Hoàn thiện hoạt động Xuất khẩu ở Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu tạp phẩm (TOCONTAP): MỤC LỤC
BẢNG BIỂU
STT
Tên bảng biểu
Số trang
1
Các bước thự hiện hợp đồng xuất khẩu
20
2
Sơ đồ cơ cấu tổ chức công ty
44
3
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
49
4
Tình hình xuất khẩu của TOCONTAP 2006 -2007 (theo thị trường)
51-52
5
Kim ngạch xuất nhập qua các năm của Cty cổ phần XNK tạp phẩm
53
6
Cơ cấu hàng xuất khẩu chính
54
7
Hình thức xuất khẩu của Công ty TOCONTAP năm 2006-2007
55
8
Tình hình thực hiện kim ngạch từng phòng
56-57
9
Chỉ tiêu kim ngạch xuất nhập khẩu của... Ebook Hoàn thiện hoạt động Xuất khẩu ở Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu tạp phẩm (TOCONTAP)
91 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1706 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện hoạt động Xuất khẩu ở Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu tạp phẩm (TOCONTAP), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TOCOTAP (năm 2006-2010)
66
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TOCONTAP: Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu tạp phẩm
XNK: xuất nhập khẩu
CP: cổ phần
XK: xuất khẩu
L/C: thư tín dụng
IMF: quỹ tiền tệ thế giới
WTO: tổ chức thương mại quốc tế
WB: ngân hàng quốc tế
KH: kế hoạch
CN: chi nhánh
ĐHĐCĐ: đại hội đồng cổ đông
HĐQT: Hội đồng quản trị
CBCNV: cán bộ công nhân viên
CTHĐQT: chủ tịch Hội đồng quản trị
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế khu vực và thế giới là xu hướng tất yếu và là điều kiện bắt buộc cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Trong quá trình hội nhập kinh tế diễn ra sôi động thì hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là hoạt động kinh tế chủ yếu có vai trò quan trọng tạo ra tiền đề cơ sở vật chất, là động lực thúc đẩy nhanh chóng và quyết định thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước là đề ra chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế nước ta đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, đặc biệt là chủ trương đường lối chuyển dịch cơ cấu hướng về xuất khẩu, trong những năm qua, một số doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư, phát triển kinh doanh sản xuất hàng hoá xuất khẩu và đã đạt được một số thành công đáng kể, trong đó có phần đóng góp không nhỏ của công ty CP xuất nhập khẩu tạp phẩm.
Tuy nhiên, tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa các công ty xuất nhập khẩu trong nước và quốc tế đang diễn ra quyết liệt và ngày càng gay gắt. Vì vậy, để kinh doanh xuất khẩu thành công, công ty phải có chiến lược kinh doanh thích hợp để khẳng định chỗ đứng của mình trên thị trường.
Qua nhận thức về mặt lý luận, cùng với thời gian thực tập tại công ty CP xuất nhập khẩu tạp phẩm và với những kiến thức đã tích lũy trong quá trình học tập tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, được sự hướng dẫn tận tình của Giáo sư, tiến si Đào Đức Bình cùng các cô chú trong công ty nên em đã chọn đề tài "Hoàn thiện hoạt động xuất khẩu ở Công ty CP xuất nhập khẩu tạp phẩm (TOCONTAP)" cho luận văn tốt nghiệp của em.
Nội dung chính của luận văn tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về xuất khẩu, sự cần thiết hoàn thiện về xuất khẩu
Chương 2: Phân tích hoạt động xuất khẩu ở Công ty CP xuất nhập khẩu tạp phẩm
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động xuất khẩu của công ty CP xuất nhập khẩu tạp phẩm trong thời gian tới
Mục đích nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu lý luận về hoạt động xuất khẩu, đánh giá hoạt động xuất khẩu hàng hoá tại công ty CP xuất nhập khẩu tạp phẩm... Từ đó đề ra một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các mặt hàng thế mạnh nói riêng và hàng hoá mà công ty đang kinh doanh nói chung.
Đối tượng nghiên cứu: Chủ yếu là hoạt động xuất khẩu hàng hoá của công ty trong thời gian gần đây và các giải pháp để đẩy mạnh hoạt động này.
Phạm vi nghiên cứu: Là các mặt hàng xuất khẩu của công ty trong thời gian qua.
Đây là một đề tài có đối tượng và phạm vi nghiên cứu rộng, với trình độ và kiến thức hạn chế nên đề tài của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp, giúp đỡ, chỉ bảo của các thầy cô giáo và các bạn để hoàn thiện tốt hơn đề tài nghiên cứu này.
Qua đây em cũng xin cảm ơn các cô chú trong công ty và thầy giáo Đào Đức Bình đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập cũng như thực hiện đề tài này.
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẦN VỀ XUẤT KHẨU, SỰ CẦN THIẾT HOÀN THIỆN VỀ XUẤT KHẨU
1.1.Khái niệm và đặc điểm xuất khẩu
1.1.1.Khái niệm về xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá của quốc gia này cho một quốc gia khác trên cơ sở thanh toán bằng tiền tệ. Hàng hoá được vận chuyển qua biên giới quốc gia, tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai quốc gia. Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương đã xuất hiện từ lâu đời và ngày càng phát triển.
Hoạt động XK khác với hoạt động buôn bán trong nước. Trong buôn bán nội địa, hàng hóa chỉ được vận chuyển trong phạm vi một quốc gia, đồng tiền thanh toán thường là đồng nội tệ của quốc gia đó và các bên chủ thể chủ yếu là có chung quốc tịch thì trong hoạt động XK, hàng hoá được vận chuyển qua biên giới quốc gia, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên và các đối tác kinh doanh có quốc tịch khác nhau. Cũng có trường hợp hàng hoá được bán ra khỏi phạm vi một quốc gia cho đối tác là người cùng quốc tịch nhưng hết sức hạn hữu.
Hoạt động xuất khẩu, diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng, tư liệu sản xuất, máy móc, thiết bị và kỹ thuật công nghệ cao cho đến dịch vụ. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm mang lại lợi ích kinh tế cho các chủ thể và quốc gia tham gia.
1.1.2.Đặc điểm
- Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là một hoạt động diễn ra trên phạm vi lớn cả về không gian và thời gian, hoạt động này được thực hiện không chỉ giữa các quốc gia láng giềng mà còn diễn ra giữa các nước tạo ra một thị trường rộng lớn và nhiều tiềm năng khai thác. Kinh doanh xuất nhập khẩu có thể diễn ra nhanh chóng trong vài giờ hoặc có thể kéo dài lâu hơn thậm chí kéo dài hàng năm.
- Kinh doanh xuất khẩu là hoạt động chủ yếu là hoạt động ngoại thương do đó mà nó chịu tác động mạnh mẽ của các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô như chế độ chính sách, luật pháp, kinh tế, văn hoá, đặc biệt là chịu ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu. Ngoài ra các yếu tố thuộc môi trường vi mô như sự cạnh tranh của các đối thủ, tiềm năng tài chính, chiến lược kinh doanh của công ty cũng ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động xuất khẩu. Do chịu sự chi phối của các nhân tố trên mà hoạt động hoạt động kinh doanh xuất khẩu mặc dù lợi nhuận cao nhưng lại có tính rủi ro tương đối lớn.
- Hoạt động xuất khẩu xét về mặt bản chất chính là hợp đồng mua bán quốc tế được ký kết trên cơ sở tự nguyện của các bên, do đó mà nó chịu sự điều chỉnh bởi nhiều hệ thống luật như luật quốc gia, luật quốc tế. Khi hoạt động này diễn ra đồng nghĩa với việc ký kết hoạt đồng mua bán quốc tế, khi đó người bán sẽ chuyển giao chứng từ có liên quan đến hàng hoá và chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá ấy cho người mua, người mua phải có trách nhiệm thanh toán và nhận hàng. Quá trình này diễn ra kèm theo với nó là các thủ tục hải quan và thủ tục hành chính khác. Nhưng đồng tiền thanh toán phải là ngoại tệ đối với một trong hai đối tác, thông thường đó là các ngoại tệ mạnh như USD, JPY, EURO...
- Hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán hàng hoá vượt ra khỏi biên giới quốc gia nên phải sử dụng các phương tiện vận tải chuyên dụng như: Vận tải đường biển, đường sắt, máy bay hoặc đường bộ. Vận chuyển hàng hoá từ nơi người bán đến tận tay người mua thường là phải qua quãng đường dài đó là hàng hoá phải được đóng gói trong bao bì đảm bảo phù hợp với phương tiện vận tải, điều kiện khí hậu, tránh hao mòn, mất mát và hư hỏng.
- Bản chất của xuất khẩu là hợp đồng mua bán quốc tế nên phải thống nhất ngôn ngữ soạn thảo, phải là hình thức văn bản có chũ ký pháp lý, các điều kiện và điều khoản phải rõ ràng, súc tích và phải thống nhất và chỉ rõ luật điều chỉnh.
1.2.Phương thức và các hình thức xuất khẩu
1.2.1.Các phương thức xuất khẩu
1.2.1.1.Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một công ty chó khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài. Các công ty có kinh nghiệm quốc tế thường trực tiếp bán các sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài. Khách hàng của công ty không chỉ đơn thuần là người tiêu dùng. Những ai có nhu cầu mua và tiêu dùng sản phẩm của công ty đều là khách hàng của công ty. Xuất khẩu trực tiếp có hai hình thức chủ yếu sau:
-Đại diện bán hàng: là hình thức bán hàng không mang danh nghĩa của mình mà lấy danh nghĩa của người ủy thác nhằm nhận lương và một phần hoa hồng trên cơ sở giá trị hàng háo bán được. Trên thực tế, đại diện bán hàng hoạt động như nhân viên bán hàng của công ty ở thị trường nước ngoài. Công ty sẽ kí hợp động trực tiếp với khách hàng ở thị trường nước đó.
-Đại lý phân phối: là người mua hàng hóa của công ty để bán theo kieenh tiêu thụ ở khu vực mà công ty phân định. Công ty khống chế phạm vị phân phối, kênh phân phối ở thị trường nước ngoài. Đại lý phân phối chấp nhận toàn bộ rủi ro liên quan đến việc bán hàng hóa ở thị trường đã phân định và thu lợi nhuận qua chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
1.2.1.2.Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hóa và dịch vụ của công ty ra nước ngoài thông qua trung gian. Các trung gian mua bán chủ yếu trong kinh doanh xuất khẩu là: đại lý, công ty quản lý nhập khẩu và công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Các trung gian mua bán này không chiếm hưu hàng hóa của công ty nhưng trợ giúp công ty xuất khẩu hàng hóa sang thị trường nước ngoài.
Đại lý (Agent): là các cá nhân hay tổ chức đại diện cho nhà xuất khẩu thực hiện một hay một số hoạt động nào đó ở thị trường nước ngoài. Đại lsy chỉ thực hiện một hay một số hoạt động nào đó cho công ty ủy thác va fnhaanj thù lao. Đại lý không chiếm hữu và sở hữu hàng hóa. Đại lý là người thiết lập quan hệ hợp đồng giữa công ty và khách hàng ở thị trường nước ngoài.
Công ty quản lý xuất khẩu (Export management company): là các công ty nhận ủy thác và quản lý công tác xuất khẩu hàng hóa. Công ty quản lý xuất khẩu hàng hoạt động trên danh nghĩa của công ty xuất khẩu nên là nhà xuất khẩu gián tiếp. Công ty quản lý xuất khẩu đơn thuần làm các thủ tục xuất khẩu và thu phí dịch vụ xuất khẩu. Bản chất công ty quản lý xuất khẩu là làm các dịch vụ quản lý và thu được khoản tiền thù lao nhất định từ các hoạt động đó.
Công ty kinh doanh xuất khẩu (Export trading company): là công ty hoạt động như nhà phân phối độc lập có chức năng kết nối các khách hàng nước ngoài với các công ty xuất khẩu trong nước để đưa các hàng hóa ra nước ngoài tiêu thụ. Ngoài việc thực hiện các hoạt động liên quan trực tiếp đến xuất khẩu, các công ty còn cung ứng các dịch vụ xuất nhập khẩu và thương mại đối lưu, thiết lập và mở rộng các kênh phân phối, tài trợ cho các dự án thương mại và đầu tư, thậm chí trực tiếp thực hiện sản xuất để bổ trợ một công đoạn nào đó cho sản phẩm, ví dụ như bao gói, in ấn … Bản chất của công ty kinh doanh xuất khẩu là thực hiện các dịch vụ xuất khẩu nhằm kết nối các khách hàng nước ngoài với công ty xuất khẩu. Tuy nhiên, các công ty kinh doanh dịch vụ xuất khẩu này có nhiều vốn, mối quan hệ và cơ sở vật chất tốt nên có thể làm các dịch vụ bổ trợ cho hoạt động xuất khẩu của công ty xuất khẩu. Công ty kinh doanh dịch vụ bổ trợ cho hoạt động xuất khẩu của công ty xuất khẩu. Công ty kinh doanh xuất khẩu có kinh nghiệm, chuyên sâu về thị trường nước ngoài và có các chuyên gia chuyên làm dịch vụ xuất khẩu. Các công ty kinh doanh xuất khẩu có nguồn thu cố định từ các dịch vụ xuất khẩu và tự bỏ chi phí cho hoạt động của mình. Các công ty này có thể cung cấp các chuyên gia xuất khẩu cho các công ty xuất khẩu.
Đại lý vận tải là các công ty thực hiện các dịch vụ thuê vân chuyển và những hoạt động có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa như khai báo hải quan, áp biểu thuế quan, thực hiện giao nhận chuyên chở và bảo hiểm. Các đại lý vân tải này cũng thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và phát triển nhieuf loại hình dịch vụ giao nhận hàng hóa đến tận tay người nhận. Khi các công ty xuất khẩu thông qua các đại lý vẫn taiir hay các công ty xuất nhập khẩu liên quan tới hàng hóa đó. Bản chất của các đại lý vận tải hoạt động như các công ty kinh doanh dịch vụ giao nhận vận chuyển và dịch vụ xuất nhập khẩu, thậm chí cả dịch vụ bao gói hàng hóa cho phù hợp với phương thức vận chuyển, mua bảo hiểm hàng hóa cho hoạt động của họ.
1.2.2.Các hình thức xuất khẩu
1.2.2.1. Xuất khẩu uỷ thác
Hoạt động xuất khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có nhu cầu xuất khẩu một số loại hàng hoá nhưng không đủ điều kiện để xuất khẩu( gọi là doanh nghiệp uỷ thác xuất khẩu) đã uỷ thác cho một doanh nghiệp khác( gọi là doanh nghiệp xuất khẩu uỷ thác) có chức năng giao dịch ngoại thương tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài để làm thủ tục xuất khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác, hay còn gọi là hoa hồng uỷ thác.
Trong hoạt động XK uỷ thác, doanh nghiệp nhận uỷ thác không phải bỏ vốn, do không phải lo nguồn hàng mà chỉ phải đứng ra thay mặt bên uỷ thác tìm và giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký hợp đồng và làm thủ tục XK hàng hoá cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất.
Cần phân biệt rõ hình thức xuất khẩu uỷ thác và nghiệp vụ uỷ thác xuất khẩu qua quyền sở hữu đối với hàng hoá. Chủ sở hữu thực hiện nghiệp vụ uỷ thác xuất khẩu cho đối tác kinh doanh có hình thức xuất khẩu uỷ thác.
1.2.2.2. Xuất khẩu tự doanh.
Xuất khẩu tự doanh là hoạt động xuất khẩu độc lập và trực tiếp của một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí đảm bảo kinh doanh xuất khẩu có lãi, đúng phương hướng, chính sách, pháp luật của quốc gia cũng như quốc tế.
Trong xuất khẩu tự doanh, doanh nghiệp phải đứng mũi chịu sào trước tất cả mọi việc. Doanh nghiệp phải xem xét một cách kỹ càng từ bước nghiên cứu thị trường, lo tìm kiếm nguồn hàng xuất khẩu đến việc ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng vì doanh nghiệp phải tự bỏ vốn của mình ra, chịu mọi chi phí và rủi ro có thể xảy ra.
1.2.2.3. Xuất khẩu liên doanh.
Đây là hoạt động xuất khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế tự nguyện giữa các doanh nghiệp nhằm phối hợp khả năng để cùng nhau giao dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động XK, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho tất cả các bên, cùng chia lãi hoặc cùng chịu lỗ.
So với hình thức xuất khẩu tự doanh thì trong hình thức này, từng doanh nghiệp được chia sẻ rủi ro, vì mỗi doanh nghiệp liên doanh XK chỉ góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng phân theo số vốn góp.
1.2.2.4. Xuất khẩu đổi hàng
Xuất khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, nó là hình thức xuất khẩu gắn liền với nhập khẩu, thanh toán theo hình thức này không phải dùng tiền mà bằng hàng hoá.
Để có thể thực hiện được hình thức xuất khẩu này thì hàng hoá nhập và hàng hoá xuất phải tương đương nhau về giá trị, bạn hàng bán và mua là một.
1.2.2.5. Gia công quốc tế
Là hoạt động kinh doanh thương mại, trong đó một bên (bên nhận gia công) nhận nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác ( bên đặt gia công) để chế biến thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và được nhận phí gia công. Ngành dệt may Việt Nam sử dụng hình thức này là chủ yếu.
1.2.2.6. Tạm nhập, tái xuất
Là hình thức xuất khẩu trở lại ra nước ngoài những hàng hoá đã được nhập khẩu nhưng chưa qua chế biến ở nước tái xuất.
* Trên đây là khái quát một số hình thức XK nói chung và cũng đang được áp dụng phổ biến ở nước ta hiện nay.
1.3.Những nội dung chủ yếu về hoạt động xuất khẩu
1.3.1. Công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu và lựa chọn mặt hàng.
1.3.1.1.Nghiên cứu thị trường xuất khẩu
- Đây là công việc quan trong đầu tiên cần được tiến hành cẩn thận khi một doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu. Vai trò của công tác nghiên cứu thị trường là giúp các doanh nghiệp nhận thức được quy luật, vận động của thị trường xuất khẩu vì thị trường là không đồng nhất ở mọi nơi, qua đó tìm hiểu triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm mặt hàng nhất định, thông qua nghiên cứu thị trường xuất khẩu giúp doanh nghiệp các thông tin về quy mô, dung lượng thị trường, các ngành hàng mới khả năng cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp, chu kỳ sống của sản phẩm, các biện pháp và hình thức để thâm nhập vào đoạn thị trường mục tiêu đó.
Nghiên cứu thị trường là quá trình tiến hành điều tra thu thập thông tin và số liệu về thị trờng mục tiêu từ đó so sanh sức tiêu thụ tiềm năng, phân tích số liệu để thấy được hiệu quả kinh tế và rút ra kết luận. Kết thúc quá trình này các nhà quản trị phải có kế hoạch lập ra các biện pháp Marketing giúp doanh nghiệp nhanh chóng chiếm thị phần ở đoạn thị trường có hiệu quả ấy.
Khi thu thập thông tin, cần phân biệt đâu là thông tin sơ cấp (Frimary information) và đâu là thông tin thứ cấp (Secondary Information). Dựa vào hai loại thị trường trên, người ta thường sử dụng hai phương pháp nghiên cứu thị trường sau:
+ Nghiên cứu tại hiện trường: là cách thu thập thông tin về thị trường trực tiếp từ khách hàng thông qua các cuộc phỏng vấn, điều tra nhưng chi phí cao và mất thời gian.
+ Nghiên cứu tại bàn: là cách thu thập thông tin thị trường thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các ấn phẩm (Báo, tạp chí, chuyên đề định kỳ, thống kê của các ngành và tổng cục), các tài liệu ở nước ngoài, thông tin từ các cơ quan liên quan, uỷ ban kinh tế trung ương, các tổ chức quốc tế như quỹ tiền tệ thế giới (IMF), tổ chức thương mại quốc tế WTO, ngân hàng quốc tế (WB), các tài liệu thống kê của liên hợp quốc...
Khi nghiên cứu thị trường xuất khẩu thì doanh nghiệp phải tiến hành các công việc sau:
- Nghiên cứu tình hình cung cầu của hàng hoá trên thị trường: Doanh nghiệp phải xác định được tổng cung, tổng cầu dự báo của thế giới, của khu vực hay quốc gia, xác định được quy mô, dung lượng của thị trường thị hiếu tiêu dùng sản phẩm, chu kỳ sống của sản phẩm, vấn đề nguyên vật liệu sản xuất sản phẩm ... Ngoài ra cần phải xác định xem nhân tố nào có ý nghĩa quan trọng quyết định đến triển vọng bán hàng tại thời điểm nghiên cứu và trong tương lai.
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng: Xem xét các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô (kinh tế, chính trị, văn hoá...) các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô (cạnh tranh, giá cả cung cầu, khả năng tài chính ....). Lợi ích thu được từ nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng là giúp cho doanh nghiệp tránh được rủi ro và thua lỗ khi thâm nhập thị trường. Vấn đề giá cả có thể được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn vì nó quyết định đến lợi nhuận của doanh nghiệp. ảnh hưởng đến sức tiêu thụ của sản phẩm, đây là vấn đề chiến lược vì nó là điều kiện để đảm bảo hiệu quả kinh tế trong kinh doanh xuất khẩu.
- Xác định đối tác kinh doanh: Mục tiêu của công việc này để tìm cho doanh nghiệp người cộng tác tin cậy, an toàn và kinh doanh có lãi. Khi đó cần xem xét xem đối tác kinh doanh trong lĩnh vực gì, quan điểm kinh doanh, khả năng tài chính, mức độ uy tín của họ trên thị trường và phạm vi trách nhiệm của họ để công tác. Nên chọn những đối tác trực tiếp, tránh đối tác trung gian.
- Nghiên cứu chính sách ngoại thương của các quốc gia, xem xét chính sách thị trường, chính sách ưu đãi, chính sách mặt hàng... Các chính sách này quyết định đến việc doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng và phương thức thâm nhập thị trường đó.
1.3.1.2.Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu
- Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào chính sách thị trường, chính sách ưu đãi và chính sách mặt hàng của quốc gia nhập khẩu. Nó qui định mặt hàng được phép kinh doanh, được phép nhập khẩu, mặt hàng nào còn hạn ngạch...
- Lựa chọn mặt hàng dựa vào thị hiếu tiêu dùng sản phẩm, quan trọng nhất là yếu tố văn hoá. Ngoài ra còn phải tính đến thương hiệu của sản phẩm, quy cách phẩm chất bao bì... tính thời vụ của sản phẩm, khả năng cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, nhân công, kỹ thuật...
- Xem xét sản phẩm định xuất khẩu đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống trên thị trường. Nếu sản phẩm đang ở giai đoạn thâm nhập và phát triển thì việc xuất khẩu là thuận lợi. Nhưng có những sản phẩm ở giai đoạn thoái trào của chu kỳ sống nhờ vào các biện pháp khuếch trương cải tiến sản phẩm làm cho sản phẩm có thể kéo dài được chu kỳ sống và từ đó có thể đẩy mạnh xuất khẩu.
- Một căn cứ nữa cũng được xét tới là tỷ suất ngoại tệ của hàng hoá. Tỷ suất ngoại tệ của hàng hoá xuất khẩu là tổng số nội tệ chi phí ra để thu được một đơn vị ngoại tệ. Nếu tỷ suất này lớn hơn tỷ giá hối đoái hối đoái hiện tại thì không nên xuất khẩu.
1.3.1.3.Nắm vững thị trường ngoài nước
Đối với những đơn vị kinh doanh đối ngoại, việc nghiên cứu thị trường có một ý nghĩa cực kì quan trọng. Trong việc nghiên cứu đó, nhưng nội dung cần nắm vững về thị trường nước ngoài là những điều kiện chính trị - thương mại chung, luật pháp và chính sách buôn bán, điều kiện về tiền tệ tín dụng, điều kiện vận tải và tình hình giá cước… Ngoài ra còn phải nắm vững những điều liên quan đến mặt hàng kinh doanh như dung lượng thị trường, tập quán, thị hiếu tiêu dùng, các kênh tiêu thụ, sự biến động giá cả…
1.3.1.4.Lựa chọn khách hàng
Để lựa chọn khách hàng không nên căn cứ vào những lời quản cáo, tự giới thiệu mà cần tìm hiểu khách hàng về thái độ chính trị của thương nhân, khả năng tài chính, lĩnh vực kinh doanh và uy tín của họ trong kinh doanh.
1.3.2. Lập phương án kinh doanh và tạo nguồn hàng xuất khẩu
1.3.2.1.Lập phương án kinh doanh: Trên cơ sở những kết quả thu lượm được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường đơn vị kinh doanh lập phương án xuất khẩu. Việc xây dựng phương án xuất khẩu bao gồm các bước sau:
-Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân nhằm rút ra những nét tổng quát về tình hình, phân tích khó khăn và thuận lợi trong xuất khẩu.
-Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức xuất khẩu. Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích những tình hình có liên quan.
-Đề ra mục tiêu cụ thể. Những mục tiêu đề ra trông phương án xuất khẩu bao giờ cũng là nhưng mục tiêu cụ thể như: sẽ bán được bao nhiêu hàng, với giá bao nhiêu, sẽ thâm nhập vào thị trường nào…
-Đề ra biện pháp thực hiện. Những biên pháp này là công cụ để đạt tới mục tiêu đề ra
-Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tể của việc xuất khẩu. Hiệu quả kinh tế của việc xuất khẩu được đánh giá thông qua nhiều chỉ tiêu khác nhau, trong đó chủ yếu là:
+Chỉ tiêu tỉ suất ngoại tệ
+Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn.
+Chỉ tiêu tỉ suất doanh lợi
+Chỉ tiêu điểm hòa vốn.
1.3.2.2.Công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Nguồn hàng là toàn bộ khối lượng và cơ cấu hàng hoá thích hợp với nhu cầu khách hàng có khả năng huy động trong kỳ kế hoạch. Muốn khai thác nguồn hàng thì doanh nghiệp phải nghiên cứu nguồn hàng. Công việc này có ý nghĩa chiến lược đối với uy tín, ổn định tính linh động và chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
Có 2 phương pháp nghiên cứu nguồn hàng là:
- Phương pháp lấy mặt hàng làm đơn vị nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình khả năng và tiêu thụ của từng mặt hàng.
- Phương pháp lấy cơ sở sản xuất làm đơn vị nghiên cứu: Theo dõi nguồn lực sản xuất và cung ứng sản phẩm của từng cơ sở sản xuất.
Sau đó doanh nghiệp tổ chức đàm phán và thực hiện hợp đồng, đánh giá kết quả của công ty tạo nguồn hàng.
1.3.3. Giao dịch đàm phán kinh doanh và ký kết hợp đồng xuất khẩu
1.3.3.1 Giao dịch đàm phán kinh doanh
Đàm phán là hoạt động bên mua và bên bán tiến hành trao đổi, thoả thuận các điều kiện mua bán, quy định quyền và nghĩa vụ đối với nhau để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng.
Đàm phán được chia thành 2 phương thức chính như sau:
- Đàm phán trực tiếp: là hoạt động giao dịch mà người mua và người bán trực tiếp gặp gỡ để qui định các điều kiện trong mua bán, giao dịch hàng hoá, giá cả, điều kiện thanh toán mỗi khi thoả thuận xong một điều kiện nào đó, 2 bên sẽ ghi lại bằng văn bản để làm bằng chứng. Hiện nay phương thức này được sử dụng khá phổ biến đòi hỏi người thực hiện công tác này phải thường xuyên có sự nâng cao kinh nghiệm, trình độ đàm phán, trao đổi kiến thức chuyên môn để tránh bị động trước đối tác giao dịch.
Đàm phán gián tiếp: Là phương thức giao dịch mà người bán và người mua không trực tiếp gặp nhau mà tiến hành trao đổi các yêu cầu, quy định và các quyền và nghĩa vụ của nhau thông qua thư từ, điện tín. Phương thức này bao gồm các hoạt động: Hỏi giá, báo giá, chào hàng, hoàn giá, chấp nhận và xác nhận.
1.3.3.2. Ký kết hợp đồng:
Sau khi kết thúc đàm phán, các bên mua - bán tiến hành ký kết hợp đồng. Do có yếu tố nước ngoài nên hợp đồng xuất nhập khẩu có nguồn luật điều chỉnh phức tạp hơn so với hợp đồng mua bán trong nước. Mặc dù vậy một hợp đồng có hiệu lực thì trước hết nó phải tuân theo luật pháp quốc gia mà chủ thể mang quốc tịch. Các bên có thể lựa chọn công ước quốc tế, pháp luật nước ngoài, các tập quán thương mại quốc tế để điều chỉnh hợp đồng ngoại thương. Việc lựa chọn nguồn luật điều chỉnh do 2 bên tự thoả thuận, các hợp đồng được sử dụng thường căn cứ vào mẫu để xây dựng, đối với những trường hợp phức tạp, nhiều mặt hàng, thì kèm theo hợp đồng phải có các bên phụ kiện, có thể bổ sung, lược bỏ đi những điều kiện không cần thiết cho phù hợp với thực tiễn.
Trong kinh doanh quốc tế, tuỳ thuộc vào hình thức kinh doanh mà có các loại hợp đồng cụ thể: hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá, hợp đồng gia công, hợp đồng uỷ thác xuất khẩu, hợp đồng chuyển giao công nghệ... Các hợp đồng này bên cạnh các điều khoản thông thường còn có các điều khoản riêng biệt cho từng loại.Một hợp đồng mua bán quốc tế thương gồm các điều khoản chủ yếu sau:
-Tên hàng: Đây là điều khoản quan trọng nhất, nó nói lên chính xác đối tượng mua bán, trao đổi. Tên hàng phải được diễn đạt chính xác vì nó liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của cả hai bên cùng như liên quan đến các quy định của Nhà Nước.
-Phẩm chất: Điều khoản này nói lên tính năng, quy cách, kích thước, tác dụng, công suất, hiệu suất … của hàng hóa mua bán.
-Số lượng: Điều khoản này bao gồm các vấn đề về đơn vị tính số lượng (hoặc trọng lược) của hàng hóa, phương pháp quy định số lượng và xác định trọng lượng.
-Bao bì: Trong điều khoản này các bên phải thỏa thuận với nhau những vấn đề về yêu cầu chất lượng của bao bì và giá cả của bao bì.
-Giá cả: Trong điều khoản này cần quy định rõ về đồng tiền tính giá, mức giá, phương pháp tính quy định giá, phương pháp xác định mức giá, cơ sở của giá cả và việc giảm giá.
-Giao hàng: Nội dung cơ bản của điều khoản này là xác định địa điểm và thời hạn giao hàng, xác định phương thức giao hàng và việc thông báo giao hàng.
-Thanh toán: Trong điều khoản này các bên xác đinh những vấn đề về đồng tiền thanh toán, thời hạn trả tiền và phương thức trả tiền.
-Khiếu nại: Điều khoản này quy định các vấn đề về thể thức, thời hạn, cách thức giải quyết khiếu nại cũng như quyền hạn và nghĩa vụ của các bên khi xảy ra những trường hợp như: giao hàng không đúng số lwongj, chất lượng bao bì như đã thỏa thuẩn, giao hàng chậm so với quy định của hợp đồng…
1.3.4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Đây là công việc tiếp theo sau khi các chủ thể đã ký kết hợp đồng. Đây là công việc rất phức tạp, nó đòi hỏi phải tuân thủ pháp luật quốc tế và quốc gia, phải làm rõ nội dung trách nhiệm và trình tự công việc phải làm, không để tình trạng sai sót gây thiệt hại kinh tế. Quá trình thực hiện hoạt động được thể hiện qua sơ đồ sau:
Bảng 1: Các bước thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Xin giấy phép xuất khẩu
Mở và kiểm tra L/C
Kiểm tra hàng hóa
Chuẩn bị hàng hóa
Thuê phương tiện v/tải
Làm thủ tục thanh toán
Làm thủ tục thông quan
Mua bảo hiểm hàng hóa
Giao hàng cho p/tiện vận tải
Khiếu nại, giải quyết khiếu nại
Ta có thể nhóm các bước quy trình trên thành các nhóm bước sau:
1.3.4.1.Nhóm bước chuẩn bị giấy phép, LC và hàng hoá để xuất khẩu
Xin giấp phép xuất khẩu
Đơn vị nhập khẩu phải căn cứ vào các quy định của Nhà nước để xem mặt hàng nào được tự do xuất khẩu, mặt hàng nào phải có giấy phép của Bộ thương mại hoặc Bộ chuyên ngành. Khi đối tượng hợp đòng thuộc phạm vi phải xin giấy phép xuất khẩu đơn vị kinh doanh phải xuất trình hồ sơ xin phép gồm: hợp đồng, phiếu hạn ngạch (nếu hàng thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch), hợp đồng ủy thác xuất khẩu (nếu đó là trường hợp xuất khẩu ủy thác)…
Mở L/C và kiểm tra L/C
Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định việc thanh toán bằng thư tín dụng, đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải đôn đốc người mua ở nước ngoài mở thư tín dụng (L/C) đúng hạn và sau khi nhận được L/C phải kiểm tra L/C và khả năng thuận tiện trong việc thu tiền hàng xuất khẩu bằng L/C đó. Nếu L/C đó không đáp ứng được những yêu cầu này, cần phải buộc người mua sửa đổi lại rồi mới giao hàng.
Chuẩn bị hàng hoá
Chuẩn bị hàng xuất khẩu là chuẩn bị hàng theo đúng tên hàng, số lượng, phù hợp với chất lượng, bao bì, ký mã hiệu và có thể giao hàng đúng thời gian quy định trong hợp đồng đã ký kết. Quá trình tập trung hàng hóa xuất khẩu gồm các nội dung sau:
- Tập trung hàng xuất khẩu.
- Bao gói hàng xuất khẩu.
- Kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu.
Tập trung hàng hoá xuất khẩu.
Tập trung hàng thành lô hàng đủ về số lượng, phù hợp về chất lượng và đúng địa điểm, tối ưu hoá chi phí. Các doanh nghiệp xuất khẩu thường tập trung hàng xuất khẩu từ các nguồn hàng xuất khẩu từ các nguồn hàng là nơi đã và có đủ khả năng cung cấp hàng hoá đủ điều kiện cho xuất khẩu. Việc tập trung hàng hoá xuất khẩu gồm có các bước chính sau:
* Phân loại nguồn hàng xuất khẩu: doanh nghiệp tiến hành phân loại nguồn hàng để tạo ra các nhóm nguồn hàng có đặc trưng tương đối đồng nhất. Từ đó, doanh nghiệp có các chính sách, biện pháp lựa chọn và ưu tiên thích hợp với từng loại nguồn hàng để khai thác tối đa khả năng từ mỗi loại nguồn hàng.
* Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu. Muốn khai thác và phát triển nguồn hàng ổn định và phát triển kinh doanh phải nghiên cứu và tiếp cận nguồn hàng để có phương thức và hệ thống thu mua hàng xuất khẩu được tối ưu. Doanh nghiệp cần nghiên cứu đâu là các nguồn hàng hiện hữu và đâu là các nguồn hàng tiềm năng
* Các hình thức thu gom hàng xuất khẩu.
Mua hàng xuất khẩu
Tự sản xuất để xuất khẩu.
Gia công hoặc bán nguyên liệu thu mua hàng xuất khẩu.
Liên doanh, liên kết tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Xuất khẩu uỷ thác.
* Tổ chức hệ thống tập trung hàng xuất khẩu bao gồm hệ thống các chi nhánh, đại lý, kho bãi, vận tải, thông tin quản lý, kỹ thuật, công nghệ và nguồn lực thích hợp. Doanh nghiệp phải dựa trên đặc điểm mặt hàng, đặc điểm nguồn hàng và hình thức giao dịch để tổ chức hệ thống tập trung hàng có hiệu quả.
Bao gói hàng xuất khẩu
Dựa trên căn cứ vào số lượng hàng hoá, tính chất hàng hoá và chất lượng bao bì mà hợp đồng đã ký kết, doanh nghiệp cần xác định được nhu cầu bao bì để có kế hoạch cung ứng bao bì cho đầy đủ và đúng thời điểm.
Khi đóng gói có thể đóng gói hở và đóng gói kín._.. Khi đóng gói hàng hoá phải đảm bảo đúng kỹ thuật. Kể cả vật liệu dùng để chèn lót và việc chèn lót cũng phải đảm bảo đúng kỹ thuật, để đảm bảo thuận tiện và tối ưu trong bốc xếp hàng hoá.
Kẻ kỹ mã hiệu hàng xuất khẩu
Ký mã hiệu là những kỹ hiệu bằng chữ, bằng số hoặc bằng hình vẽ được ghi trên bao bì bên ngoài nhằm cung cấp thông tin cần thiết cho quá trình giao nhận, bốc xếp, vận chuyển và bảo quản hàng hoá. Nội dung của ký mã hiệu bao gồm thông tin cần thiết về người nhận hàng, thông tin cần thiết cho việc vận chuyển hang hoá, cũng như thông tin về hướng dẫn cách xếp đặt, bốc dỡ, bảo quản hàng hoá.
1.3.4.2.Nhóm bước kiểm tra, mua bảo hiểm hàng hoá và thuê phương tiên vận tải
Kiểm tra hàng hoá
Trước khi giao hàng xuất khẩu cho người mua thi nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra hàng hoá về số lượng, chất lượng, trọng lượng bao bì. Nếu đó là động vật, thực vật thì phải kiểm dịch, nếu là hàng thực phẩm thì phải kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm. Việc kiểm tra thường bao gồm các nội dung: kiểm tra về chất lượng, kiểm tra số lượng , trọng lượng.
Việc kiểm tra tiến hành được thực hiện ở hai cấp:
Kiểm tra ở cơ sở do chính cơ sở sản xuất tiến hành hay do tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm tiến hành. Tuy nhiên, thủ trưởng đơn vị vẫn là người chịu trách nhiệm chính. Việc kiểm dịch động vật, thực vật ở cơ sở do phòng bảo vệ thực vật tiến hành.
Kiểm tra ở các cửa khẩu: có tác dụng thẩm định lại kết quả kiểm tra ở cơ sở.
Người xuất khẩu phải căn cứ vào yêu cầu của hợp đồng và L/C để xác định nội dung và yêu cầu giám định, cơ quan giám định, đơn xin giám định hàng hoá, hợp đồng L/C. Cơ quan giám định căn cứ vào đơn xin giám định và L/C để giám định hàng hoá. Kiểm tra thực tế về số lượng, trọng lượng, bao bì, ký mã hiệu, chất lượng hàng hoá và cấp các chứng thư, đây là chứng từ quan trọng trong thanh toán và giải quyết các tranh chấp sau này.
*Nghĩa vụ thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm tuỳ thuộc vào điều khoản trong hợp đồng, nếu nghĩa vụ thuộc về người xuất khẩu thì họ phải thực hiện nó.
Nghiệp vụ thuê phương tiện vận tải.
Việc thuê phương tiện vận tải chở hàng được dựa vào những căn cứ: là những điều khoản trong hợp đồng, đặc điểm hàng hoá xuất khẩu, điều kiện vận tải.
Nghiệp vụ thuê phương tiện vận tải khá phức tạp đòi hỏi doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng hoá đều phải nắm rất chắc về đặc điểm của từng loại hình phương tiện vận tải có đầy đủ thông tin về đơn vị cung cấp dịch vụ cho thuê phương tiện vận tải, cước phí vận tải trên thị trường cũng như các Công ước và Luật lệ quốc tế và quốc gia về vận tải.
Tuỳ theo các trường hợp cụ thể của từng trường hợp xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp mà có thể áp dụng các hình thức thuê phương tiện vận tải sau:
Vận tải bằng đường biển: đây là hình thức vận tải chủ yếu trong xuất khẩu hàng hoá. Có các phương thức sau:
Phương thức thuê tàu chợ
Phương thức thuê tàu chuyến
Ngoài ra còn có các hình thức vận tải khác như: vận tải bằng đường sắt, bằng đường hàng không, bằng ô tô, bằng container hay vận tải đa phương thức: kết hợp ít nhất hai trong số các hình thức vận tải trên.
Lựa chọn phương thức vận tải nào thì đều liên quan đến các chứng từ liên quan đến hợp đồng thuê phương tiện vận tải, đến vận đơn hay các thủ tục hải quan… khi tiến hành thuê các phương tiện vận tải, cũng cần chú ý đến trình tự các công việc phải làm, đến quyền lợi và trách nhiệm của doanh nghiệp và đơn vị cho thuê phương tiện vận tải.
Mua bảo hiểm hàng hoá
Trong kinh doanh thương mại quốc tế hàng hoá thường phải vận chuyển đi xa, trong những điều kiện vận tải phức tạp, do đó hàng dễ bị hư hỏng, mất mát, tổn thất trong quá trình vận chuyển. Chính vì vậy, những người kinh doanh thương mại quốc tế thường mua bảo hiểm cho hàng hoá để giảm bớt các rủi ro có thể xảy ra.
* Căn cứ mua bảo hiểm cho hàng hoá:
Căn cứ vào điều kiện cơ sở giao hàng trong hợp đồng đã ký kết. Nếu rủi ro về hàng hoá thuộc về trách nhiệm của người xuất khẩu thì doanh nghiệp xuất khẩu cần tiến hành mua bảo hiểm cho hàng hóa.
Căn cứ vào hàng hoá vận chuyển: đó là khối lượng, giá trị và đặc điểm của hàng hoá vận chuyển.
Căn cứ vào điều kiện vận chuyển như loại phương tiện vận chuyển, chất lượng của phương tiện, loại bao bì bốc dỡ và hành trình vận chuyển.
* Nghiệp vụ mua bảo hiểm cho hang hoá xuất khẩu.Khi tiến hành mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất khẩu cần theo các bước sau:
+Xác định nhu cầu bảo hiểm
+Xác định loại hình bảo hiểm
+Lựa chọn công ty bảo hiểm.
+Đàm phán ký kết hợp đồng bảo hiểm.
1.3.4.3.Nhóm bước làm thủ tục thông quan và giao hàng cho người vận tải
Thủ tục thông quan
*Khai và nộp tờ khai hải quan
Người khai hải quan phải tiến hành khai và nộp tờ khai hải quan đối với hàng hàng hoá xuất khẩu. Có hai hình thức khai hải quan là người khai hải quan trực tiếp đến các cơ quan hải quan thực hiện khai hải quan hay sử dụng hình thức khai điện tử.Hồ sơ hải quan bao gồm:
+Tờ khai hải quan
+Hoá đơn thương mại
+Hợp đồng mua bán hàng hoá.
+Các chứng từ khác đối với từng loại mặt hàng theo quy định
* Xuất trình hàng hoá: là đưa hàng hóa đến địa điểm quy định để kiểm tra thực tế hàng hoá. Có 3 hình thức.
Miễn kiểm tra thực tế đối với hàng hoá xuất khẩu của chủ hàng có quá trình chấp hành tốt pháp luật hải quan, với các trường hợp mặt hàng xuất khẩu thường xuyên, hàng nông sản, thuỷ hải sản…
Kiểm tra đại diện không quá 10% đối với lô hàng xuất khẩu là nguyên liệu sản xuất, hàng xuất khẩu và hàng gia công xuất khẩu, hàng cùng chủng loại, hàng đóng gói đồng nhất.
Kiểm tra toàn bộ hàng xuất khẩu của chủ hàng đã nhiều lần vi phạm pháp luật hải quan, lô hàng mà có dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan.
*Nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính. Sau khi kiểm tra hồ sơ hải quan và thực tế hàng hóa, hải quan sẽ có quyết định sau:
Thông quan - Cho hàng qua biên giới -
Cho hàng hoá qua biên giới có điệu kiện như phải sửa chữa khắc phục lại, phải nộp thuế xuất khẩu.
Không được phép xuất khẩu.
Giao hàng cho người vận tải
Trong kinh doanh thương mại quốc tế, có nhiều phương thức vận tải. Mỗi phương thức vận tải có quy trình nhận hàng hoá khác nhau.
* Giao hàng với tầu biển
Hàng xuất khẩu chủ yếu được giao bằng đường biển và được tiến hành theo các bước sau:
- Căn cứ vào các chi tiết hàng xuất khẩu, lập bảng kê hàng hoá chuyên chở cho người vận tải để đổi lấy cơ sở xếp hàng.
-Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững kế hoạch giao hàng
-Bốc dỡ lên tầu
-Sau khi giao nhận hàng xong lấy biên lai thuyền phó để xác nhận hàng đã giao nhận xong, trong đó xác nhận: số lượng hàng hoá, tình trạng hàng hoá, cảng đến…
-Trên cơ sở biên lai thuyền phó đổi lấy vận đơn đường biển, điều quan trọng là phải lấy được vận đơn hoàn hảo hay vận đơn sạch.
* Vận tải bằng đường sắt
Giao hàng cho vận tải đường sắt có hai hình thức:
+Giao hàng chiếm đủ một toa xe, người xuất khẩu tiến hành các bước sau:
Đăng ký với cơ quan đường sắt để cung cấp toa xe phù hợp với khối lượng, tính chất hàng hoá.
Khi được cấp toa xe, tổ chức vận chuyển hàng đến địa điểm quy định
Làm thủ tục hải quan, mời cơ quan hải quan kiểm tra hàng hoá, đồng thời lên toa tầu niêm phong kẹp chì.
Giao toa tầu đã được niêm phong kẹp chì cho cơ quan đường sắt để lấy vận đơn đường sắt.
+Giao hàng khi không chiếm đủ một toa xe, người xuất khẩu phải vận chuyển hàng đến nơi tiếp nhận hàng của hãng đường sắt hoặc xếp hàng lên một toa xe do đường sắt chỉ định và nhận vận đơn.
* Giao hàng cho vận tải hàng không
Người xuất khẩu liên hệ với bộ phận giao nhận, vận chuyển hàng hoá đến trạm giao nhận chỉ định, làm thủ tục hải quan giao cho người vận tải hàng không và nhận vận đơn.
* Giao hàng cho vận tải đường bộ.
Phương thức này thường áp dụng cho điều kiện giao hàng tại xưởng (EXW) hoặc giao hàng theo phương thức đa phương tiện, người bán chịu trách nhiệm bốc xếp hàng lên xe do người mua chỉ định đến.
* Giao hàng khi chuyên chở bằng container: có hai hình thức
+Giao hàng đủ container, người xuất khẩu phải tiến hành theo các bước sau:
Căn cứ vào số lượng hàng hoá, đăng ký mượn hoặc thuê container tương thích, sau đó vận chuyển container rỗng về địa điểm đóng hàng.
Làm thủ tục hải quan, mời hải quan kiểm hoá đến xếp hàng vào container, niêm phong kẹp chì.
Giao hàng cho bãi hoặc trạm container để nhận biên lai xếp hàng.
Đổi biên lai xếp hàng lấy vận đơn.
+Giao hàng không đủ container
Khi hàng giao không đủ container, người xuất khẩu vận chuyển hàng đến bãi container do người chuyên chở chỉ định để giao cho người chuyên chở. Việc giao hàng được coi là hoàn thành khi hàng được giao cho người chuyên chở hoặc người đại diện cho người chuyên chở.
1.3.4.4.Nhóm bước làm thủ tục thanh toán, giải quyết khiếu nại tranh chấp (nếu có)
Thủ tục thanh toán
Hiện nay có rất nhiều phương thức thanh toán như tín dụng chứng từ, nhờ thu, giao chứng từ chuyển tiền và chuyển tiền(điện T/T hay thư M/T). Tuy nhiên có hai loại chủ yếu được dùng trong các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đó là phương thức thanh toán thư tín dụng chứng từ và phương thức thanh toán chuyển tiền (điện chuyển tiền).
* Thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ
Trước khi đến thời hạn đã thoả thuận, doanh nghiệp xuất khẩu nhắc nhở, đôn đốc người mua mở tín dụng (L/C) đúng thời hạn.
Khi được thông báo chính thức về việc mở L/C cần kiểm tra kỹ lưỡng L/C trên các nội dung sau: kiểm tra tính chân thực L/C và kiểm tra nội dung của L/C. Cơ sở để kiểm tra là hợp đồng thương mại quốc tế đã ký kết. Trong đó việc kiểm tra nội dung là khâu cực kỳ quan trọng trong việc thực hiện phương thức tín dụng chứng từ. Nội dung của L/C phải phù hợp với nội dung của hợp đồng.
Khi phát hiện thấy nội dung L/C không phù hợp nội dung của hợp đồng hoặc trái với luật lệ, tập quán của các bên hoặc không có khả năng thực hiện, người xuất khẩu phải đề nghị với người nhập khẩu và ngân hàng mở L/C sửa đổi L/C.
Sau khi đã kiểm tra L/C và L/C hoàn toàn phù hợp thì người xuất khẩu tiến hành giao hàng và thành lập bộ chứng từ để thực hiện thủ tục thanh toán. Việc lập bộ chứng từ phải đảm bảo nhanh chóng, chính xác và phù hợp với yêu cầu của L/C cả về nội dung và hình thức. Khi đến thời hạn thanh toán thì ngân hàng của người nhập khẩu sẽ thanh toán cho bên xuất khẩu thông qua ngân hàng của người xuất khẩu.
* Thanh toán bằng phương thức chuyển tiền
Nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng phương thức chuyển tiền thì người xuất khẩu khi giao hàng xong phải nhanh chóng hoàn thành việc lập hồ sơ chứng từ phù hợp với yêu cầu của hợp đồng, đồng thời chuyển đến cho người nhập khẩu. Khi người nhập khẩu chuyển tiền thanh toán đến, ngân hàng sẽ gửi giấy báo cho đơn vị xuất khẩu.
Giải quyết khiếu nại tranh chấp nếu có
* Khiếu nại
Trong trường hợp người nhập khẩu vi phạm các điều khoản quy định trong hợp đồng như: thanh toán chậm, không thanh toán, thanh toán không đúng lịch trình hoặc không chỉ định phương tiện đến nhận hàng hoặc đến chậm, đơn phương huỷ bỏ hợp đồng… khi đó người xuất khẩu sẽ tiến hành khiếu nại nhà nhập khẩu. Để khiếu nại, người khiếu nại cần phải lập hồ sơ khiếu nại bao gồm: đơn khiếu nại, bằng chứng về sự vi phạm và các chứng từ liên quan gửi đến cho trọng tài và các bên liên quan.
Ngoài ra, nhà xuất khẩu có thể khiếu nại nhà chuyên chở hoặc nhà bảo hiểm về vi phạm hợp đồng đã ký kết hoặc có sự tổn thất hàng hoá trong quá trình chuyên chở, hay tổn thất hàng hoá đã mua bảo hiểm.
* Giải quyết khiếu nại
Người mua thường hay khiếu nại người bán về các nội dung:
-Giao hàng không đúng về số lượng, trọng lượng, quy cách, hàng giao không đúng phẩm chất, nguồn gốc như hợp đồng quy định.
-Bao bì, ký mã hiệu sai quy cách không phù hợp với điều kiện vận chuyển, bảo quản làm hàng hoá bị hư hỏng trong quá trình vận chuyển.
-Giao hàng chậm, cách thức giao hàng sai so với thoả thuận giữa hai bên như chuyển tải hàng hoá, giao hàng từng phần.
-Không giao hàng mà không phải do trường hợp bất khả kháng gây ra
-Không giao hoặc giao chậm tài liệu kỹ thuật không thông báo hoặc thông báo chậm việc giao hàng đã giao lên tầu, không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ khác như thuê phương tiện vận tải, mua bảo hiểm hàng hoá… hoặc giao hàng hoá đang bị tranh chấp bởi bên thứ ba.
Tuỳ theo từng trường hợp khiếu nại mà nhà xuất khẩu tiến hành giải quyết khiếu nại cho bên người nhập khẩu một cách thoả đáng. Ví dụ nếu thiếu về số lượng thì gửi thêm bổ sung số lượng thiếu hụt, hay nếu thiếu điều kiện chất lượng thì có thể thoả thuận giảm giá…
1.3.5. Đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu
Trong kinh doanh thương mại quốc tế, đạt được hiệu quả cao là mục tiêu phấn đấu của các doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu là chỉ tiêu tương đối để so sánh kết quả kinh doanh với các khoản chi phí bỏ ra. Để tính kết quả kinh doanh, ta phải tính một số chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh kết quả của quá trình xuất khẩu.
- Tổng giá thành XK: Là tổng chi phí sản xuất hàng hoá XK và các chi phí mua và bán hàng.
- Thu nhập ngoại tệ XK: Là tổng thu nhập ngoại tệ của hàng hoá XK tính theo giá FOB.
- Thu nhập nội tệ hàng hoá XK: Là số ngoại tệ thu được do xuất khẩu tính đổi ra nội tệ theo tỷ giá hiện hành.
1.4.Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
1.4.1.Yếu tố kinh tế
Sức mua, người mua là hai nhân tố quan trọng trong thị trường sự thay đổi các thông số như thu nhập, chi phí sinh hoạt, lãi suất và tiết kiệm của một quốc gia có ảnh hưởng một cách trực tiếp đến thương trường, các nhà quản trị cần hiểu rõ những khuynh hướng chính yếu diễn ra trong những vấn đề này. Một yếu tố cơ bản để phản ánh kích thước thị trường tiềm ngăng đó là vấn đề dân số, cùng với dân số việc nghiên cứu so sánh tốc độ của GNP tăng so với tốc độ dân số để dự đoán khả năng mở rộng thị trường của quốc gia đó. Cùng với vấn đề dân số, các nhà nghiên cứu thị trường cần phải chú ý tới mức phân bố theo lứa tuổi, mật độ và sự phân bố của quốc gia đó cũng như nghiên cứu đặc tính thu nhập.
Để định hình các yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ, công ty kinh doanh quốc tế phải tiến hành nghiên cứu cơ cấu công nghiệp của một nền kinh tế với những đặc điểm khác nhau. Những quốc gia mà nền kinh tế chỉ đủ sinh tồn thì ít tạo ra thời cơ cho hoạt động xuất khẩu của công ty, còn những quốc gia thường xuyên xuất khẩu nguyên liệu thô, có nền kinh tế đang công nghiệp hóa hay nền kinh tế công nghiệp sẽ tạo ra những cơ hội và thời cơ cho hoạt động kinh doanh của các công ty kinh doanh quốc tế.
Việt Nam ta là một đất nước đang phát triển, kinh tế mới chỉ đủ để sinh tồn và một phần nhro đầu tư vào các cơ sở hạ tầng trọng yếu, chưa đủ vốn để xây dựng những cơ sở sản xuất hiện đại để xuất khẩu những mặt hàng có tầm cỡ thế giới. Hiện nay, chúng ta mới chỉ liên doanh với một số công ty nước ngoài sản xuất những mặt hàng như giầy dép, may mặc. Chính vì vậy, chúng ta phải lựa chọn những hướng đầu tư để liên doanh hoặc xây dựng những nhà máy sản xuất, chế biến thật cần thiết cho nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay để đẩy mạnh kinh tế phát triển.
1.4.2.Môi trường văn hóa xã hội
Mỗi người lớn lên trong một xã hội đặc thù nào đó, môi trường đó hình thành các niềm tin cơ bản, các giá trị và những tiêu chuẩn của họ, đó cũng là nơi xác định các mối quan hệ của họ với người khác. Vì vậy, những đặc tính văn hóa có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định tiếp thị.
Dân chúng trong bất cứ xã hội nào cũng đều lưu dữ những giá trị văn hóa truyền thống cốt lõi, chúng mang tính bất dịch khá cao. Chẳng hạn như người Mỹ, họ luôn tin tưởng vào sự làm việc, hôn nhân, công tác từ thiện và sự trung thực, những niềm tin khuôn định ấy tạo ra cho cách xử thế cũng như những thái độ hàng ngày một cách đặc thù hơn, chúng diễn ra trong đời sống hàng ngày, được truyền từ đời này qua đời khác và được kiện toàn thêm qua các định chế quan trọng của xã hội, nhà thờ, chính quyền, trường học.
Cùng với những giá trị cốt lõi, xã hội nào cũng chứa đựng những tiểu văn hóa và sự chuyển biến trong các giá trị văn hóa thứ cấp. Mỗi xã hội đều chứa đựng những tiểu văn hóa, chúng được này sinh từ khung cảnh và kinh nghiệm sống chùng của từng nhớm người. Chẳng hạn như những người theo tôn giáo, những người theo phật giáo, những ngôn ngữ khác nhau trông cùng một quốc gia sẽ dẫn tới những bản sắc văn hóa của từng dân tộc và những phong tục tập quán khác nhau, tất cả đều tiêu biểu cho những nét văn hóa riêng biệt. Mặc dù các giá trị văn hóa cốt lõi là khá bền vững nhưng những biến đổi văn hóa vẫn xảy ra và khác nhau ở mỗi nước. Trong thực tế các nhà quản trị rất khó có khả năng nhận thức chính xác mà chỉ có thể tiên đoán những chuyển biến để lựa chọn những tiểu văn hóa làm thị trường trọng điểm của mình.
Việt Nam có một nền văn hóa hết sức phong phú, với 54 dân tộc khác nhau. Điều này sẽ tạo ra cho chúng ta những thị trường hàng hóa phong phú đặc trưng cho từng vùng nhất định. Tuy nhiên, chính sự khác nhau về phong tục tập quán nên hàng hóa sản xuất ra muốn tiêu thụ được lại jphuj tuộc rất nhiều vào điều này.
1.4.3.Môi trường chính trị, pháp luật
Các quyết định kinh doanh chịu sự tác động mạnh mẽ của những tiến triển trong môi trường chính trị và pháp luật. Môi trường này được tạo ra từ các luật lệ, cơ quan chính quyền và các nhóm áp lực đã gây ảnh hưởng và ràng buộc tới mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội. Các nhà quản lý tiếp thị cần phải xem xét những xu hướng chính yếu và những vân đề ản chưa đó để đưa ra những quyết định có hiệu quả. Khi môi trường xấu đi thì những điều luật mới của Chính phủ có thể thúc đẩy, ngăn cản hoạt động xã hội hoặc tạo ra môi trường cạnh tranh trong hoạt động xuất nhập khẩu. Những biện pháp của chính phủ nhằm kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu như: sự đòi hởi bắt buộc về giấy phép kinh doanh nhập khẩu, hình thức cực đoan hơn có thể là cấm nhập khẩu hoặc xuất khẩu một số sản phẩm, câm buôn bán với một số quốc gia, các hàng rao thuế quan, quota nhằm định rõ số lượng hàng hóa nhập khẩu vào quốc gia mình, thực chất là bảo hộ nền sản xuất trong nước. Hơn nữa, sự điều tiết về tỉ giá hối đoái có thể hạn chế số lượng ngoại tệ mà nhà nhập khẩu phải trả cho hàng hóa nhập khẩu và đối với hàng háo bán ra nước ngoài của nhà xuất khẩu.
Các nhà kinh doanh phải hiểu biết thấu đáo các đạo luật quan trọng để bảo vệ sự cạnh tranh, người tiêu thụ và những lợi ích rộng lớn của xã hội. Vì những điều luật mới, với sự cưỡng chế có thể tạo thành áp lực hạn chế sự tự do của nhà kinh doanh. Vì vậy, họ cần phải thông báo rõ ràng hàng hóa của mình với các bộ phận pháp lí và đưa ra bàn bạc thống nhất trong công ty để tập hợp thành các quyết định quản lý chung.
Việt Nam đang ở trong thời kì đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta đang dồn sức xây dựng đất nước vì vậy đường lối, chính sách của chugns ta cũng không khỏi có chỗ chưa hoàn chỉnh. Cơ chế thị trường của nước ta cũng mới được hình thành và chịu sự kiểm soát của nhà nước, do đó cũng có nhiều đạo luật khác hơn so với cơ chế thị trường thuần túy của các nước tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy mà việc xuất nhập khẩu hàng hóa bên ngoài không hoàn toàn là tự do trao đổi, mua bán. Đó chính là đặc trưng của nước ta, do vậy khi hàng hóa của chúng ta xuất ra nước ngoài cũng như khi ta nhập hàng háo của nước ngoài vào thì cần phải có những hiểu biết thấu đáo về luật pháp để tranh những trở ngại đang tiếc.
1.4.4.Môi trường cạnh tranh
Thị trường đầu tư nước ngoài hiếm khi là một không gian thuần khiết cho hoạt động thương mại. Các nhà sản xuất và nhập khẩu nội địa thường góp phần hình thành một hệ thống tổ chức mà doanh nghiệp khó thích nghi hơn. Tuy nhiên, dù sớm hay muộn thị trường cũng bị chia sẻ bởi các công ty kinh doanh quốc tế. Điều chủ yếu của một công ty xâm nhập thị trường nước ngoài thực là tìm kiếm hoạt động kinh doanh và duy trì một vị thế thích hợp trên thị trường. Từ nguồn gốc và động lực đó các nhà hoạch định khi thu thập thông tin phải xác định được: ai có thể là đối thủ cạnh tranh, cơ cấu cạnh tranh. Trên cơ sở năm bắt và tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh, các nhà quản trị phải phân loại đối thủ cạnh tranh, phải nghiên cứu các nhân tố tác động tới cạnh tranh. Doanh nghiệp có thể có một vị thế vững chắc hay không trên thị trường nước ngoài tùy thuộc vào những ứng biến và khả năng tiên đoán, xử lí thông tin cảu doanh nghiệp.
Do kinh nghiệm kinh doanh của các doanh nghiệp nước ta còn ít, trên thị trường quốc tế hầu như chỉ có doanh nghiệp vừa và nhỏ nên sức cạnh tranh của các hàng hóa sản xuất ra là thấp, khó có thể cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài. Mặt khác, vấn đề thông tin cho các doanh nghiệp trong kinh doanh cũng chưa được cung cấp đầy đủ và không kịp thời đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu. Khi chugns ta năm bắt được những thông tin về thị trường thì có lẽ thông tin đó đã không còn giá trị nữa. Như vậy, yếu tố cạnh tranh là vô cùng quan trọng đối với người làm công tác xuất nhập khẩu hàng hóa. Điều đó khong chỉ phụ thuộc vào sự nhanh nhạy, vào sự hiểu biêt của doanh nghiệp mà còn cần sự hỗ trợ từ phía chính phủ. Nhà nước thông qua nghiên cứu thị trường nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế của các viện, các cơ quan quản lý để định hướng các sản phẩm và thị trường xuất nhập khẩu chủ lực phù hợp với nguồn lực trong giai đoạn phát triển và bối cảnh quốc tế, đồng thời xây dựng hệ thống chính sách, biện pháp phục vụ việc phát triển sản phẩm chủ lực và mở rộng thị trường nước ngoài. Đến lượt mình các nhà kinh doanh hiện đại hóa sự lựa chọn sản phẩm và thị trường. Sự ganh đua, cạnh tranh, tìm tòi, sáng tạo để phát triển sản phẩm và thâm nhập thị trường, đưa lại lợi nhuận cho công ty và nâng cao năng lực xuất khẩu cho đất nước.
Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia là ưu thế giữa các quốc gia về lao động, vốn và sự thiên phú về tài nguyên, đất đai. Phải sử dụng lợi thế này để tạo ra những sản phẩm có chi phí thấp. Một nước đông dân, ít vốn, lao động rẻ thì trước hết phải định hướng sản xuất các sản phẩm sử dụng nhiều lao động. Vì vậy, khai thác tài nguyên và phát triển những mặt hàng sử dụng nhiều lao động để xuất khẩu là sự lựa chọn của hầu hết các nước Đông Á trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa. Tuy nhiên, lợi tế cạnh tranh của bất kỳ nước nào cũng có tính chất tương đối, luôn luôn trong quá trình biến động và phát triển vì vậy cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng cũng phải thay đổi. Tính quy luật của sự thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu là chuyển dần từ sản phẩm sử dụng nhiều lao động rẻ, không cần tay nghề cao như sản phẩm dệt may, da giầy… sang các sản phẩm xuất khẩu sử dụng nhiều lao động có tay nghề cao như hóa chất, điện từ, sắt thép, ô tô… Cuối cùng là chuyển sáng các sản phẩm cần nhiều vốn và công nghệ cao như cwo khí chính xác, tự động hóa, thiết bị viễn thông, tin học, hàng điện từ nghe nhìn cao cấp…
1.4.5. Nội lực doanh nghiệp.
Trình độ tổng hợp và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu tác động có tính chất quyết định đến kết quả và hiệu quả xuất khẩu. Từ yếu tố nội lực này, doanh nghiệp có điều kiện để nhận thức, vận dụng các quy luật và yếu tố khách quan, chủ động tổ chức kinh doanh và xuất khẩu có hiệu quả.
Một trong những yếu tố quan trong của doanh nghiệp xuất khẩu đó là nguồn hàng (đầu vào của doanh nghiệp xuất khẩu) - mối quan tâm kế tiếp sau khi đã tìm kiếm được thị trường tiêu thụ( đầu ra), bởi vì có thị trường mà không có hay thiếu nguyên liệu để sản xuất và từ đó để có hàng hoá thì cũng không thể kinh doanh được. Thậm chí nguồn đầu vào mà không ổn định về giá cả, số lượng, chất lượng...thì cũng ảnh hưởng lớn đến việc đảm bảo kinh doanh và lợi nhuận cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Nguồn vốn có ý nghĩa lớn đối với mọi doanh nghiệp xuất khẩu. Trong những năm qua Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm xây dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn, ổn định để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp ngày càng có điều kiện thuận lợi để liên doanh liên kết, mở rộng sản xuất. Hệ thống ngân hàng đã có nhiều thay đổi tích cực tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn kinh doanh.
1.5.Sự cần thiết phải hoàn thiện hoạt động xuất khẩu
1.5.1.Môi trường vĩ mô
Hoàn thiện hoạt động xuất khẩu là rất cần thiết vì nó mở rộng khả năng tiêu dùng của nước nhập khẩu và khai thác được lợi thế so sánh của nước XK. Thương mại quốc tế cho phép đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng với chất lượng và số lượng cao hơn so với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước. Vì vậy, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng. Tuy nhiên, xét một cách cụ thể thì nguyên nhân cơ bản và sâu xa của việc trao đổi mua bán đó là xuất phát từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên nên một nước có thể chuyên môn sản xuất một số mặt hàng có lợi thế hơn và XK để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác với mục đích lợi nhuận. Nhưng sự khác nhau về điều kiện sản xuất chỉ là một trong những lý do để thúc đẩy các nước mở rộng quan hệ trao đổi buôn bán với nhau. Quan trọng hơn cả là hai bên cùng có lợi do có sự khác nhau về sở thích và mối tương quan cung- cầu đối với hàng hoá, dịch vụ. Vì vậy, nước ta mặc dù với xuất phát điểm thấp và chi phí sản xuất hầu như lớn hơn tất cả các mặt hàng của các cường quốc kinh tế, nhưng vẫn có thể duy trì quan hệ thương mại với các nước đó. Trong những năm qua, vấn đề phát triển ngoại thương nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng luôn là mục tiêu chiến lược để phát triển kinh tế được Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và đặt lên hàng đầu.
1.5.1.1.Xuất khẩu thúc đẩy phát triển kinh tế, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết đối với nước ta. Với một nền kinh tế phát triển chậm, cơ sở vật chất, kỹ thuật lạc hậu, không đồng bộ như nước ta thì việc đẩy mạnh xuất khẩu tạo công ăn việc làm, tăng thu ngoại tệ, thúc đẩy phát triển kinh tế là một chiến lược lâu dài. Để thực hiện được chiến lược lâu dài đó chúng ta phải nhận thức rõ được ý nghĩa của việc xuất khẩu hàng hoá:
- Thông qua việc xuất khẩu những mặt hàng có thế mạnh chúng ta có thể phát huy được lợi thế so sánh, sử dụng hợp lý các nguồn lực, trao đổi các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến.
- Thông qua hoạt động xuất khẩu, tính cạnh tranh được nâng cao nên chất lượng hàng hoá không ngừng được tăng lên, tạo điều kiện nâng cao năng lực sản xuất xã hội và nội lực kinh tế của đất nước.
Mặt khác hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt các ngành sản xuất phát triển, đồng thời cũng thúc đẩy các ngành dịch vụ hỗ trợ hoạt động xuất khẩu như ngành bảo hiểm, ngân hàng, hàng hải, viễn thông quốc tế … Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi mở rộng khả năng cung cấp đầu tư trở lại cho sản xuất, tạo tiền đề kinh tế kỹ thuật đồng thời nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều đó chứng tỏ xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn, đưa kỹ thuật công nghệ nước ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước.
1.5.1.2. Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn, nguồn ngoại tệ lớn góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân thanh toán.
Bất cứ quốc gia nào trên thế giới, để phục vụ cho phát triển kinh tế văn hoá, xã hội của mình đều có nhu cầu nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Để thực hiện được yêu cầu nhập khẩu, cần có ngoại tệ thanh toán và nguồn ngoại tệ đó chỉ có thể có được thông qua hoạt động xuất khẩu. Đặc biệt ở các nước đang phát triển, dự trữ ngoại tệ rất eo hẹp, hoạt động xuất khẩu càng trở nên quan trọng; trong những giai đoạn nhất định còn phải chấp nhận nhập siêu.
Xuất khẩu tạo ngoại tệ để nhập khẩu các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày, nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần.
Việt Nam là một nước đang phát triển, nhu cầu nhập khẩu là rất lớn, cho nên rất cần đẩy mạnh xuất khẩu để có nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu và để cải thiện cán cân thanh toán, khắc phục từng bước nhập siêu( mặc dù hiện nay, việc nhập siêu là tất yếu). Đẩy mạnh XK sẽ tạo thế vững chắc cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
1.5.1.3.Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống cho người lao động.
Việt Nam là một nước có dân số đông, số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số hơn 80 triệu người. Hàng năm, số người trong độ tuổi lao động được bổ sung khoảng 1,5-2 triệu người. Hơn nữa, số dân làm việc trong ngành nông nghiệp của nước ta là trên 70% nên còn phải tính đến số người thất nghiệp theo mùa vụ. Thực tế cho thấy vấn đề thất nghiệp là một vấn đề nan giải mà Việt Nam cũng như nhiều nước khác cần phải giải quyết.
Thông qua xuất khẩu, quy mô của các ngành sản xuất hàng xuất khẩu sẽ được mở rộng, có thêm nhiều ngành nghề mới từ đó thu hút nhiều lao động.
Xuất khẩu phát triển là tiền đề cho các quan hệ kinh tế đối ngoại khác như du lịch, xuất khẩu sức lao động, tạo điều kiện đưa lực lượng lao động tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Đây là nhân tố quan trọng giải quyết tình trạng thất nghiệp.
1.5.1.4 Hoạt động xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Với đường lối kinh tế “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp”, Đảng ta đã chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, trong đó chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, đẩy mạnh các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu là lĩnh vực có vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế đối ngoại, có quan hệ mật thiết với các lĩnh vực như thu hút đầu tư, tín dụng quốc tế, hợp tác và triển khai công nghệ mới. Thực tiễn trong thời gian qua đã chứng tỏ sự phát triển của xuất khẩu đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ các quan hệ tín dụng- vay nợ quốc tế, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế và những ngành có liên quan …Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
Đối với nền kinh tế thế giới do những điều kiện khác nhau nên mỗi quốc gia đều có thế mạnh về một lĩnh vực nào đó. Để có thể khai thác được lợi thế, giảm thiểu bất lợi, tạo ra sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi hàng hoá với nhau, bán những sản phẩm mà mình sản xuất thuận lợi và m._.n, tài liệu cho đối tác, khách hàng vừa có thể kênh phân phối, kiểm soát tình hình thị trường tại nơi showroom mở.
Hoặc có thể dùng hình thức gửi hàng mẫu tới tận tay khách hàng để họ nhận biết cụ thể về các đặc tính công dụng của sản phẩm thông qua đường bưu điện. Công ty nên tiếp tục mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài, ứng với mỗi thị trường nên đặt một văn phòng đại diện để có cơ hội tìm kiếm thêm khách hàng, tăng cường hoạt động tuyên truyền về Công ty với bạn hàng. Cùng với việc mở các văn phòng đại diện là phát triển một mạng lưới phân phối rộng khắp và hợp lý. Đây là nhân tố thúc đẩy tiêu thụ. Công ty có thể xây dựng các kênh phân phối bằng nhiều hướng hoặc qua các đối tác nước ngoài, hoặc các văn phòng đại diện của Công ty.
Trong những năm tiếp theo, để tạo bạn hàng lâu dài và ổn định tạo thế vững chắc cho hoạt động xuất khẩu, Công ty có thể triển khai theo một số hướng sau:
-Mở rộng thị trường SNG đặc biệt là Nga, ngoài hình thức trả nợ, tạo thời cơ để nắm chắc thị trường cơ bản và lâu dài này.
-Củng cố và phát triển thị trường EEC, cố gắng mở rộng thị trường sang Đức và các nước Châu Âu khác. Đối với thị trường Hà Lan cần giữ vững và phát triển.
-Đối với thị trường Châu Mỹ , ngoài mục tiêu nắm chắc thị trường Canada, cần phát hiện tìm kiếm nhu cầu tại thị trường Mỹ . Tìm cách thâm nhập sâu hơn nữa vào thị trường Nam Mỹ trong đó có các nước Brazil, Achentina, Chile, Urugoay. Khu vực Trung Mỹ và Caribe cần làm tốt với thị trường Cu-Ba để tạo thế thuận lợi cho việc đột phá vào thị trường này.
-Hợp tác với các thị trường trong khu vực trong đó có thị trường Đông Nam Á và đặc biệt là Trung Quốc. Tranh thủ các khoản viện trợ và cho vay hàng hóa của các nước phát triển để đi vào thâm nhập thị trường Châu Phi. Đột phá vào thị trường Li Băng để tạo bàn đạp cho các thị trường ở tiểu lục địa này.
Một vấn đề quan trọng nữa là nhất thiết phải đăng ký nhãn hiệu bản quyền với những sản phẩm do Công ty sản xuất khi xuất khẩu tránh tình trạng bị ăn cắp bản quyền nhãn hiệu làm giảm uy tín của Công ty.
Việc Việt Nam mở cửa thị trường, tham gia hội nhập kinh tế khu vực và chuẩn bị gia nhập tổ chức WTO tạo ra cơ hội tiếp tục, thu thông thông tin từ các tổ chức quốc tế, thương nhân nước ngoài đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Đây chính là cơ hội để Công ty quảng bá tên tuổi của mình và giới thiệu sản phẩm của mình cho các bạn hàng quốc tế thông qua các kỳ hội chợ, triển lãm quốc tế được tổ chức tại Việt Nam và ở nước ngoài.
3.2.4.Nâng cao chất lượng và hiệu quả làm việc của đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất khẩu
Con người là yếu tố trung tâm của mọi hoạt động, quản lý con người một cách khoa học mới đạt hiệu quả kinh doanh cao. Thực tế cho thấy quản trị nhân lực tốt là con đường dẫn đến thành công của doanh nghiệp. Vì vậy công ty cần chú trọng đến việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu.
Hiện nay đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty TOCOTAP khá đồng đều về tuổi tác cũng như trình độ nghiệp vụ. Công ty đã sắp xếp cho cán bộ nhân viên trẻ tuổi xen kẽ bên cạnh các cán bộ đã có nhiều kinh nghiệm công tác khá lâu trong Công ty để lớp cán bộ trẻ có điều kiện học hỏi, nâng cao khả năng hiểu biết thực tế. Công ty cũng khuyến khích các cán bộ trong cơ quan đi học thêm nghiệp vụ ngoại thương.Nhiệm vụ quan trọng của Công ty là lên kế hoạch đào tạo cán bộ làm công tác kinh doanh xuất nhập khẩu. Công ty nên chọn lựa cán bộ trẻ, năng động và có năng lực từ các phòng chuyên trách hay phòng tổng hợp. Sau khi chọn ra người có khả năng thích hợp sẽ cho đi học lớp chuyên nghiệp vụ ngoại thương. Nên có chính sách khuyến khích học, hoàn thành tốt việc học mà vẫn được hưởng lương, tạo điều kiện để họ có thể áp dụng ngay những điều đã học vào thực tế.
Công ty phải tạo sự đoàn kết, nhất trí trong cán bộ công nhân viên làm họ toàn tâm toàn lực cho công việc chung bằng các biện pháp khuyến khích hoạt động theo nhóm đan xen hoạt động độc lập đem về cho Công ty nhiều hợp đồng, có chế độ thưởng thích hợp cho những hợp đồng lớn và ai có ý kiến đóng góp hiệu quả. Giao thoa các mục đích chung vào các mục tiêu cá nhân để nâng cao ý thức cho mỗi cán bộ trong công ty, giúp họ hoạt động hưng phấn, hiệu quả hơn trong Công việc.
Không chỉ có vậy, công ty cần có một chiến lược lâu dài để phát triển nguồn nhân lực:
-Thường xuyên đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Vấn đề đào tạo phải được tiến hành trên hai góc độ: thứ nhất trên góc độ nghiệp vụ ở phòng kinh doanh xuất nhập khẩu là quá trình đào tạo phi chính qui, cán bộ có kinh nghiệm thực tế hướng dẫn, giúp đỡ cán bộ trẻ; thứ hai trên góc độ công ty là cử các cán bộ đi tham gia các lớp tập huấn ngắn hạn về nghiệp cụ do các trường đại học thuộc khối kinh tế tổ chức, đồng thời khuyến khích và tạo điều kiên cho nhân viên tự nâng cao kĩ năng trình độ.
-Thực hiện chế độ đãi ngộ nhân sự, khuyến khích bằng vật chất thông qua chế độ lương thưởng, trợ cấp, cơ hội thăng tiến… Bên cạnh đó là sự khuyến khích về tinh thần như tổ chức các kì nghỉ, tham quan du lịch… tạo mối quan hệ gần gủi giữa lãnh đạo với nhân viên và giữa các nhân viên.
-Xây dựng một cơ cấu nhân sự hợp lí, khoa học, phát huy được tinh năng động sáng tạo của mỗi cá nhân cũng như khia thác có hiệu quả năng lực mỗi cá nhân thông qua việc bố trí đúng người đúng việc.
-Tạo điều kiện tốt nhất để mọi thành việc có thể phát huy hết khả năng của mình, tạo điều kiện để nhân viên được đề đạt nguyện vọng, ý kiến của mình với lãnh đạo, khuyến khích nhân viên đóng góp những ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty.
3.2.5. Hoàn thiện công tác quản lý tài chính của công ty
Công ty CP xuất nhập khẩu tạp phẩm có qui mô lớn, lại phân bố trên địa bàn rộng nên tổ chức công tác kế toán tài chính theo mô hình tập trung như hiện nay là chưa phù hợp. Hình thức tổ chức bộ máy kế toán tập trung này có ưu điểm là giúp ban lãnh đạo Công ty nắm được kịp thời tòan bộ thông tin về hoạt động của toàn Công ty. Sự chỉ đạo công tác tài chính kế toán được thống nhất , chặt chẽ, tổng hợp số liệu và thông tin kịp thời , tạo điều kiện trong phân công lao động , trong nâng cao trình độ, chuyên môn hoá lao động, trong trang bị ứng dụng phương tiện kỹ thuật... Tuy nhiên hình thức này lại có nhược điểm lớn nhất là tạo ra khoảng cách về không gian và thời gian giữa nơi xảy ra thông tin và nơi thu thập, xử lý và tổng hợp thông tin nên tác động ngược trở lại gây khó khăn cho công tác quản lý. Thông tin thường bị chậm so với thời điểm lập báo cáo tài chính do không có số liệu đầy đủ từ các chi nhánh chuyển lên.
Vì vậy, Công ty nên nghiên cứu để các chi nhánh và xí nghiệp TOCAN hạch toán độc lập. Bằng cách này một mặt sẽ giảm bớt khối lượng công việc quản lý trực tiếp cho các lãnh đạo cấp trên, mặt khác sẽ tránh được sự ỷ lại , phát huy được sự chủ động, năng động, tự hạch toán , tự chịu trách nhiện của các đơn vị.
Bên cạnh đó, các phòng kinh doanh còn chưa chú ý tới tính hợp pháp của chứng từ. Do đó phòng kế toán cần quản lý chặt chẽ hơn, có phương án hướng dẫn các phòng nghiệp vụ lập chứng từ sao cho hợp lệ và hợp lý, tổ chức ghi chép và lưu hồ sơ có khoa học hơn để tạo điều kiện thuận lợi cho kiểm toán nội bộ và công tác thanh tra kiểm tra của Nhà nước.
Là một công ty có qui mô lớn, việc quản lý tài chính gặp rất nhiều khó khăn. Để bộ máy quản lý tài chính hoạt động có hiệu quả. Công ty nên chú trọng hơn nữa tới công tác kiểm toán nội bộ cũng như thường xuyên quan tâm tới công tác kiểm toán nội bộ, công tác phân tích hoạt động kinh doanh để có được những thông tin chính xác kịp thời , phục vụ cho yêu cầu quản lý doanh nghiệp.
Trong khối kinh doanh vẫn còn bất hợp lý về thu nhập , nguyên nhân chủ yếu là do các phòng nghiệp vụ chưa nhận thấy yếu kém thực sự của mình, không lường trước hiệu quả kinh doanh cuối cùng mà vẫn tạm ứng lương cao.
Ngoài ra để ngăn chặn nguy cơ bị chiếm dụng vốn, phòng tài chính kế toán phải thường xuyên kiểm tra, kiểm soát các phương án kinh doanh đã được giám đốc duyệt, đối chiếu chứng từ giúp các đơn vị hoạch toán chính xác. Bên cạnh đó phải xây dựng quy chế, giám sát việc sử dụng vốn, bảo lãnh vay vốn ngân hàng và nắm chắc chu trình chu chuyển vốn. Công ty qui định, việc vay trả dứt khoát phải được thể hiện bằng khế ước, trong khế ước phải ghi rõ lãi suất trách nhiệm hoàn trả vốn của người vay. Kế ước là một văn bản quan trọng mang tính pháp lý không mang tính hình thức. Vì vậy khi đã ký vay vốn thì mọi trách nhiệm phải được thực hiện đúng khế ước đã ký. ( Công ty tính lãi suất 0,8%/tháng). Ngoài ra công ty còn có những qui định chặt chẽ hơn nữa để bảo toàn vốn vay và gắn trách nhiệm cho từng cá nhân cụ thể như:
Mỗi thương vụ kinh doanh theo phương thức nào là do phòng nghiệp vụ quyết định. Những phương án nào có công nợ dứt khoát phải có ý kiến của phòng tài chính kế toán ( trưởng phòng hoặc phó phòng) trước khi đưa lên giám đốc duyệt. Mức ký quỹ cho từng hợp đồng phải bằng qui định của Ngân hàng trong từng thời kỳ. Đặc biệt đối với hàng uỷ thác thì không được dưới mức qui định của Ngân hàng.
Phương án phải đúng với thực tế, tính toán đầy đủ mọi yếu tố và phương pháp tiến hành. Khi phương án đã được duyệt phòng nghiệp vụ có trách nhiệm thực thi đúng phương án đã xây dựng nếu việc không thực hiện đúng những qui định trong phương án và những đóng góp của phòng quản lý vào phương án, để xảy ra tổn thất thì cán bộ mặt hàng và trưởng phòng nghiệp vụ phải tự giải quyết và khắc phục hậu quả.
Những phương án đã ghi tự doanh, phòng nghiệp vụ phải thực sự quản lý hàng hóa, tự thuê kho. Thu tiền đến đâu giao hàng đến đấy, hợp đồng thuê kho phải ghi rõ trách nhiệm bảo quản hàng hoá của người thuê kho. Thủ tục xuất kho phải có chữ ký của bên xuất hàng. Phải xuất hoá đơn tài chính cho người nhận hàng.
Những thương vụ đã được ghi khoán gọn số lãi phải nộp có nghĩa là phòng nghiệp vụ được tự chủ xử lý đầu vào và đầu tư ra tự nộp thuế, tự vay vốn hoàn trả đúng khế ước và nộp lãi theo kế hoạch đã được duyệt.
Cán bộ kế toán theo dõi mặt hàng và trưởng phòng kế toán có trách nhiệm thu hồi vốn, lãi theo đúng khế ước qui định, báo cáo kịp thời và có biện pháp xử lý những trường hợp ứ đọng vốn, quá hạn. Nếu do quản lý lỏng lẻo, không nhắc nợ dẫn đến vốn bị chiếm dụng, vốn không thu hồi được hoặc không kiểm tra phát hiện kịp thời, báo cáo sai sự thật, để các đơn vị thực hiện sai chính sách chế độ quản lý tài chính của Nhà nước, qui định của Công ty làm thất thoát tiền vốn, thất thu khoản nộp, tính sai các khoản lương, chi phí, chi vượt phương án dẫn đến tổn thất hoặc thua lỗ thì trưởng phòng kế toán và những cán bộ có liên quan phải chịu trách nhiệm trước giám đốc và liên đới chịu trách nhiệm với phòng nghiệp vụ.
Những phương án được duyệt sau khi có cơ chế khoán nếu phương án, hợp đồng của phòng nào xảy ra nợ quá hạn, Công ty sẽ đình chỉ không tiếp tục cho phòng đó vay vốn để thực hiện kinh doanh những lô hàng sau cho đến khi giải quyết xong nợ quá hạn.
Hàng tự doanh hay uỷ thác thì cán bộ nghiệp vụ mặt hàng có trách nhiệm thu đủ tiền thuế của khách, thực hiện hợp đồng đúng đủ, kịp thời theo qui định của Nhà nước, nếu khoán trắng cho khách hàng tự nộp, xảy ra gian lận thuế, không nộp bị phạt nộp chậm thì cán bộ mặt hàng phải đền bù. Công ty không chi tiền cho các loại tiền phạt (phạt thuế, phạt lưu kho...) phòng tài chính kế toán có chức năng thường xuyên đối chiếu số tồn kho sổ sách và tồn kho thực tế.
Hàng tháng, các bộ phận kinh doanh được tạm ứng một khoản tiền chi phí cần thiết cho kinh doanh theo bản dự tính cho phí như công tác phí, phí giao dịch, chi phí văn phòng phẩm,... và các chi phí khác nếu cần. Cuối tháng, đem chứng từ về phòng kế toán để quyết toán tài chính của tháng trước. Công ty thu đủ lợi nhuận vốn, lãi vay vốn, chi phí quản lý, tạm ứng... Số còn lại đơn vị chỉ được thanh toán khi có chứng từ hợp lệ.
3.2.6. Đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu.
Để mở rộng thêm các mối quan hệ kinh tế và có các cơ hội trong kinh doanh xuất khẩu, ngoài việc sử dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp là chủ yếu Công ty nên xem xét thêm các hình thức xuất khẩu sau:
Phương thức thương mại điện tử: Đây là phương thức hiện đại và mới mẻ do ứng dụng công nghệ thông tin vào kinh doanh. Phương thức này hiện nay được các Công ty nước ngoài sử dụng phổ biến. Thương mại điện tử cho phép các doanh nghiệp sử dụng nó trong lĩnh vực xuất khẩu các thông tin cập nhật được chính xác, nhanh và rất hiệu quả. Thương mại điện tử mở ra rất nhiều cơ hội kinh doanh và các quan hệ kinh tế có lợi ích to lớn, do đó Công ty nên dần dần sử dụng phương thức này như phương thức truyền thống trong hoạt động kinh doanh của mình.
Ngoài ra Công ty có thể sử dụng phương thức buôn bán đối lưu và phương thức gửi bán. Nhưng ở phương thức buôn bán đối lưu, cần xem xét vấn đề đầu ra cho sản phẩm nhập về tránh tình trạng nhập những hàng hoá đặc chủng khó tiêu thụ.
3.2.7. Đa dạng hoá các mặt hàng, ngành hàng, đầu tư cho các sản phẩm tinh chế.
- Đa dạng hoá mặt hàng là việc mà doanh nghiệp sẽ tiến hành xuất khẩu nhiều chủng loại hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Mục đích của việc đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu là để Công ty có thể tìm kiếm được cơ hội kinh doanh mặt hàng mới và giảm bớt rủi ro chung cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Việc đa dạng hoá này phải xuất phát từ nhu cầu thị trường truyền thống. Hiện nay Công ty đang mở rộng mặt hàng xuất khẩu sang các loại mặt hàng như là gạo, thuỷ sản, đá quí. Bước đầu tuy có khó khăn nhưng cũng đem lại một phần doanh thu cho Công ty.
- Bên cạnh việc đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu thì phải có đầu tư theo chiều sâu các sản phẩm tinh chế. Hiện nay, do chưa có điều kiện để xây dựng cơ sở sản xuất, chế biến hoặc gia công hàng cho nước ngoài trên dây chuyền thiết bị hiện đại nên hàng hoá xuất khẩu của Công ty thường là các mặt hàng thô, chưa chế biến, khi xuất khẩu ra thị trường nước ngoài được chế biến lại và đưa ra tiêu thụ với nhãn mác khác nên không được người tiêu dùng thực sự biết đến. Vì những lý do đó mà việc nghiên cứu đầu tư để sản xuất ra các sản phẩm thâm nhập vào các thị trường khó tính như Mỹ, EU có nhu cầu nhập khẩu sản phẩm có tính hàm lượng công nghệ cao, được tinh chế là việc làm cần thiết mà Công ty phải tiến hành trong thời gian tới.
3.2.8. Nâng cao hiệu qủa công tác thu mua, tạo nguồn hàng.
Đối với các doanh nghiệp thương mại, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu công tác tổ chức nguồn hàng tốt có ý nghĩa quan trọng. Việc có được nguồn hàng tốt với chất lượng cao, giá rẻ, điều kiện giao hàng nhanh để cho phép ty thực hiện được hợp đồng xuất khẩu thuận tiện, đảm bảo uy tín đối với khách hàng. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu có tiếng không chỉ có nhiều vốn mà phải có hệ thống chân hàng mạnh, hệ thống thu mua rộng khắp, hoạt động thường xuyên theo sát thị trường.
Trong thời gian tới Công ty nên tìm ra các phương thức tạo nguồn mới đem lại hiệu quả cao. Cụ thể.
- Thứ nhất là phải tạo được mối quan hệ tốt với địa phương sản xuất hàng xuất khẩu, từ việc đóng gói phân loại và vận chuyển về kho bảo quản. Phương thức này tạo ra thuận lợi cho Công ty là khối lượng thu mua nhiều và đồng đều về chất lượng, phù hợp với điều kiện của hợp đồng xuất khẩu. Đưa ra các biện pháp khuyến khích vật chất đối với hoạt động thu mua có hiệu quả, như qui định tỷ lệ hoa hồng khi cán bộ thu mua được số lượng lớn, chất lượng đảm bảo. Bên cạnh đó phải xử lý nghiêm khắc đối với những trường hợp gian lận, tráo hàng làm giảm uy tín của Công ty.
- Thứ hai là Công ty có thể thực hiện thu mua từ các nguồn trung gian. Các đầu mối trung gian sẽ thu mua các sản phẩm từ các cơ sở sản xuất sau đó phân loại và cung cấp cho các Công ty XNK. Tuy nhiên khi sử dụng giải pháp này, Công ty phải chia sẻ lợi nhuận 1 phần cao các đầu mối trung gian, nguồn hàng không thường xuyên. Nhưng ưu điểm của nó là cán bộ thu mua chỉ cần hiểu sơ qua về mặt hàng đó.
Ngoài 2 phương thức trên thì Công ty có thể sử dụng hình thức liên doanh liên kết với các cơ sở sản xuất chế biến. Phương thức này đảm bảo cho Công ty chủ động cả về khối lượng, chất lượng bao bì, mẫu mã, giá cả và hình thức thanh toán. Tuy nhiên hình thức này Công ty cũng phải chi sử một phần lợi nhuận cho bên kia thực hiện liên doanh liên kết.
- Công tác kiểm định chất lượng hàng hoá phải được đảm nhiệm bởi đội ngũ kiểm tra, kiểm nghiệm chất lượng có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao. Song song với đội ngũ cán bộ kiểm tra chất lượng hàng hoá Công ty phải hỗ trợ máy móc trang thiết bị hiện đại trợ giúp cán bộ thu mua.
3.2.9. Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn.
Trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu, yêu cầu về vốn rất lớn và luôn là vấn đề khó khăn đối với các Công ty XK nói chung. Hiện nay Công ty không thể đảm bảo vốn cho ccá hoạt động xuất khẩu của mình do việc phải khai thác các nguồn hàng có tốc độ quay lớn, Công ty phải huy động từ các nguồn trong nước và quốc tế. Công ty có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, mỗi nguồn có 1 ưu thế khác nhau vì vậy đòi hỏi ban lãnh đạo phải có sự điều chỉnh cơ cấu các nguồn vay một cách hợp lý và phù hợp, không để xảy ra tình trạng lãng phí và tập trung rủi ro vào một vài đối tác nhất định. Việc huy động vốn trong nước thì Công ty có thể huy động thông qua một số nguồn sau:
- Công ty có thể huy động từ nguồn lợi nhuận được bổ sung vào cơ cấu vốn tự có hàng năm của mình. Đây là nguồn vốn cơ bản và lâu dài của Công ty. Tuy vậy, là một doanh nghiệp kinh doanh thương mại dịch vụ tổng hợp nên nguồn vốn của Công ty bị phân tán ở nhiều lĩnh vực, do đó hoạt động xuất khẩu thường bị thiếu vốn.
Nguồn vốn được bổ sung từ lợi nhuận hàng năm của Công ty không thể theo kịp được với tốc độ phát triển của hoạt động xuất khẩu nên hoạt động xuất khẩu phải sử dụng các hình thức huy động khác.
- Công ty có thể sử dụng hình thức vay ngân hàng. Ngân hàng là nơi tin cậy cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn qua các hình thức vay ngắn hạn, dài hạn, tín dụng xuất khẩu để phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Hiện nay, giữa Công ty và các ngân hàng như ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, ngân hàng ngoại thương đã có những thoả thuận chung về hạn mức cho vay với từng lĩnh vực cho vay xuất khẩu. Ngược lại Công ty luôn đảm bảo được chữ tín với ngân hàng, vay đúng mục đích, trả đúng hạn, giải quyết được vấn đề vốn khi mở rộng qui mô xuất khẩu.
Vấn đề huy động vốn của nước ngoài, Công ty có thể huy động - vay từ các nhà nhập khẩu là khách hàng của Công ty, song vấn đề đặt ra là Công ty phải đảm bảo uy tín với khách hàng. Việc vay từ các nhà nhập khẩu là trường hợp ứng với một số hợp đồng xuất khẩu, Công ty yêu cầu khách hàng trả tiền trước một phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng. Nếu hợp đồng xuất khẩu đó mà có giá trị lớn vượt ngoài khả năng vốn của Công ty thì có thể sử dụng biện pháp yêu cầu tín dụng.
Để nâng cao việc sử dụng nguồn vốn Công ty có thể tiến hành liên doanh liên kết với nước ngoài để tạo thêm nguồn vốn từ bên ngoài vào Công ty. Trong giai đoạn hội nhập kinh tế hiện nay, liên doanh liên kết kinh tế đang là hình thức hợp tác chủ yếu. Việc liên doanh liên kết phải đảm bảo được lợi ích trước mắt và lâu dài của Công ty. Trong liên doanh liên kết phải qui định rõ thời gian hợp tác liên doanh, tỷ lệ góp vốn, phạm vi hoạt động …trên cơ sở nghiên cứu kỹ chiến lược kinh doanh của mình cũng như là tiếp thu kinh nghiệm của những mô hình liên kết đã thành công.
Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, Công ty có thể sử dụng các biện pháp sau:
- Việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu phải được tiến hành nhanh chóng, thanh toán đúng hạn, không để xảy ra hiện tượng chiếm dụng vốn.
- Thiết lập các mối quan hệ với hệ thống tổ chức tín dụng, tận dụng các điều kiện vay với lãi suất ưu đãi.
- Trong cơ cấu nguồn vốn thực hiện việc phân bổ có hiệu quả hợp lý, có thể theo nguyên tắc cơ cấu vốn lưu động và vốn cố định là 8 : 2, ưu tiên sử dụng vốn lưu động vào việc thực hiện các hợp đồng xuất khẩu có tốc độ triển khai nhanh, vòng quay vốn lớn.
- Sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên trong Công ty dưới hình thức vay ngắn hạn.
3.2.10. Chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế toàn cầu, nó đem lại rất nhiều cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp vì hàng hoá được lưu thông tự do gặp ít trở ngại. Tuy nhiên do tác động của qui luật cạnh tranh thị trường, hội nhập kinh tế sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp xuất khẩu. Chính vì vậy để tồn tại và phát triển trong điều kiện nước ta hội nhập AFTA và chuẩn bị tham gia vào WTO, Công ty cũng phải nghiên cứu tác động của quá trình này đến hoạt động kinh doanh của Công ty đặc biệt là hoạt động xuất khẩu. Ban giám đốc cần xem xét thời cơ và thách thức, những cơ hội và khó khăn do hội nhập kinh tế mang lại trên cơ sở đó hoạch định chiến lược kinh doanh sao cho phù hợp với điều kiện mới, phát huy được sức mạnh nội lực, tận dụng có hiệu quả nguồn vốn, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, vậ lực để đạt được kết quả nhất khi hội nhập kinh tế diễn ra. Bên cạnh đó, Công ty cần nghiên cứu kỹ các biện hiệp định thương mại của Nhà nước đã được ký kết để phân tích những thuận lợi và khó khăn khi tiến hành mở rộng thị trường quốc tế.
3.3.Một số kiến nghị đối với nhà nước và cơ quan hữu quan
3.3.1.Xây dựng chính sách ngoại thương toàn diện và nhất quán hơn
-Hoàn thiện hệ thống luật pháp quốc gia (trước hết là các luật liên quan đến hoạt động ngoại thương) theo hướng đầy đủ đồng bộ và nhất quán nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu; rà soát lại các văn bản pháp luật để điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hoặc chưa rõ làm sao để phạm vi điều chỉnh luật của Việt Nam phù hợp với cá quy định của WTO, các nguyên tắc cơ bản trong thương mại quốc tế.
-Tiếp tục cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại theo hướng xóa bỏ các thủ tục phiền hà, ổn định môi trường pháp lý để tạo tâm lý tin tưởng cho các doanh nghiệp.
3.3.2.Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu.
-Chính phủ cần tiếp tục phát huy tính chủ động tích cực trong định hướng, giám sát và hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Nhà nước cần sớm xây dựng các chiến lược, kế hoạch và phương án kinh doanh doanh với từng nội dung cụ thể theo từng thời gian, từng nước, từng nhóm nước. Bộ chủ quản cần phối hợp với các bộ ngành liên quan, Ủy ban nhân dân tỉnh thành phố để tháo gỡ những khó khăn ách tắc trong hoạt động xuất nhập khẩu nhằm góp phần tạo ra môi trường thật sự thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoạt động có hiệu quả.
-Hoàn thiện chức năng quản lí của Nhà nước đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu theo hương đơn giản hóa các thủ tục hành chính và sử dụng rộng rãi các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích và quản lí tốt hoạt động xuất nhập khẩu. Muốn vậy phải giảm dần số lượng mặt hàng theo danh mục quản lí chuyên ngành và phải thông báo rõ hàng nào thuộc ngành nào, bộ nào quản lí. Tăng đối tượng và số tiền thương theo quỹ xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu.
-Kiện toàn bộ máy tổ chức quản lí hoạt động xuất nhập khẩu của Nhà nước từ trung ương đến địa phương theo hướng tinh giảm đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu, quy định rõ quyền lợi và trách nhiệm hco từng cán bộ quản lí, có hình thức thưởng phạt thích đang để xóa bỏ nhưng tiêu cực trong xuất nhập khẩu. Khẩn trương thành lập và đưa vào hoạt động Cục xúc tiến thương mại và các trung tâm xúc tiến thương mại.
-Điều chỉnh cơ chế quản lý xuất nhâp khẩu thông qua việc áp dụng đa dạng các công cụ và biện pháp trong ngoại thương theo hướng ngày càng nới lỏng, mềm dẻo và tạo điều kiện kinh doanh xuất nhập khẩu phát triển. Song song với việc đa dạng hóa thị trường, sản phẩm và đối tác, cần phải đa dạng hóa các công cụ điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế
Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý vĩ mô của nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu, phối hợp có hiệu quả hoạt động quản lý của nhà nước với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các loại hình doanh nghiệp. Nhà nước cần thực hiện tốt việc quản lý gián tiếp, quản lý bằng các công cụ khuyến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, xử lí hài hóa các mối quan hệ và các mâu thuẫn phát sinh theo hướng tạo điều kiện cho kinh doanh xuất nhập khẩu phát triển. Các cơ quan quản lý kinh tế Nhà nước cần làm tốt chức năng quản lý giám sát doanh nghiệp, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực trong kinh doanh.
3.3.3. Trợ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu.
- Vấn đề về vốn:
Vốn trong kinh doanh đối với các doanh nghiệp rất quan trọng, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội kinh doanh, nhiều hợp đồng xuất khẩu không thực hiện được do khả năng tài chính của doanh nghiệp hạn hẹp. Trong tình trạng ấy thì các ngân hàng thương mại lại tồn tại hiện tượng tồn đọng vốn. Việc các doanh nghiệp kinh doanh vay vốn là điều đương nhiên, không thể tránh khỏi. Tuy nhiên việc tiếp cận và vay được vốn được do đòi hỏi khắt khe của thủ tục vay vốn tài sản thế chấp, thời hạn thanh toán…Vậy nên trong thời gian tới Nhà nước cần đưa ra các biện pháp cải cách hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là thủ tục vay vốn cần phải hợp lý dựa trên khả năng hiện có của các doanh nghiệp.
- Vấn đề về thị trường.
Nhà nước phải có các chính sách kinh tế đối ngoại để mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế, tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương cung cấp thông tin về môi trường kinh doanh tại các quốc gia đã có quan hệ thương mại cho các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận, xâm nhập thị trường mới. Việc nước ta tham gia khối liên kết ASEAN đã tạo điều kiện cho các hoạt động xuất khẩu phát triển thuận lợi. Cùng với việc nước ta xin gia nhập tổ chức WTO lại càng làm tăng cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp nước nhà. Nhưng để cho sự hợp tác quốc tế thành công thì Nhà nước phải có sự cải cách về cơ chế thương mại luật pháp về tổ chức cán bộ phù hợp với thông lệ quốc tế.
3.3.4.Quỹ bảo hiểm xuất khẩu.
Trong kinh doanh xuất khẩu, nhiều khi doanh nghiệp bị đối tác chiếm dụng vốn gây nhiều rủi ro, dễ mất vốn. Thêm vào đó là do cung cầu về hàng hoá không ổn định lên xuống thất thường, ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái làm cho hiệu quả hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp không cao. Do đó, Nhà nước nên thành lập quĩ bảo hiểm XK để thúc hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tránh bị rủi ro và bảo toàn được vốn.
Trên đây là một số kiến nghị tổng hợp từ hoạt động thực tiễn tại Công ty cũng là những khó khăn vướng mắc từ phía chính sách của Nhà nước cần xem xét, điều chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đảm bảo cho sự phát triển kinh tế chung của xã hội.
KẾT LUẬN
Sự mở rộng quan hệ quốc tế nói chung và phát triển ngành ngoại thương nói riêng là tất yếu khách quan trong việc thực hiện đường lối chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta. Từ kinh nghiệm của các nước và của bản thân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định những định hướng lớn trong chính sách ngoại thương của nước ta là phải tiếp tục khắc phục tình trạng kinh tế tự cấp, tự túc, khép kín, chia cắt. Các đơn vị cơ sở, các ngành, các địa phương cho đến toàn bộ nền kinh tế phải phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá đáp ứng tốt nhất nhu cầu của sản xuất và đời sống, hướng mạnh về xuất khẩu thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả.
Tóm lại trên cơ sở chính sách của nhà nước ta như trên thì hoạt động xuất khẩu ngày càng được nhà nước quan tâm chú trọng và đầu tư phát triển. Nó đem lại cho nhà nước và các tổ chức kinh tế, sản xuất kinh doanh những khoản lợi nhuận lớn. Nó góp phần thúc đẩy và tăng cường quan hệ tốt đẹp giữa nước ta và nước ngoài nói chung và nâng cao uy tín của các doanh nghiệp trong nước nói riêng
Mặc dù là một công ty xuất nhập khẩu nhưng hoạt động chủ yếu của công ty vẫn chỉ là nhập khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng năm chiếm một tỉ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, xuất khẩu manh mún và không ổn định. Đó là do công ty chưa có những biện pháp nào đáng kể để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, mặt khác công ty còn bị ảnh hưởng bở cơ chế bao cấp trước đây. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và sự cạnh tranh gay từ các doanh nghiệp nước ngoài hiện nay, để có thể phát huy thế mạnh của mình là một trong những doanh nghiệp Nhà nước đầu tiên hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương với gần 50 năm kinh nghiệm hoạt động xuất nhập khẩu thì công ty cần ngày càng hoàn thiện hoàn thiện hoạt động xuất khẩu nhằm ngày càng nâng cao kim ngạch xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty.
Đây là một đề tài lớn, trình độ kiến thức bị hạn chế, các giải pháp đưa ra không nhằm tham vọng giải quyết được những vấn đề tồn tại của Công ty mà chỉ là những ý kiến chủ quan mang tính chất tham khảo và mong muốn nhỏ là góp phần giúp hoạt động xuất khẩu của Công ty ngày một hoàn thiện hơn. Vì những nguyên nhân trên, trong thời hạn ngắn của bài viết này sẽ không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự đánh giá, bổ sung, góp ý của các thầy cô giáo, các cô chú cán bộ trong Công ty và các bạn để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng cho phép em được bày tỏ sự biết ơn chân thành tới tập thể các thầy cô giáo trong khoa kinh doanh và kinh tế quốc tế, đặc biệt là giáo sư tiến sĩ Đào Đức Bình trưởng khoa kinh doanh và kinh tế quốc tế của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, tập thể các cô, các chú, đang công tác tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu tạp phẩm đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập và hoàn thành luận văn này.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Báo cáo tổng kết năm của công ty giai đoạn 2004-2006
2.Báo cáo xuất nhập khẩu của công ty giai đoạn 2004-2006
3.Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty
4.Giáo trình kinh doanh quốc tế GS.TS. Đỗ Đức Bình
5.Giáo trình "Đàm phán và ký kết hợp đồng kinh doanh quốc tế" của GS -TS Tô Xuân Dân - 1998.
6.Tạp chí kinh tế phát triển
7.Tạp chí kinh tế kế hoạch
8.Thời báo kinh tế thế giới
9.Website của công ty Tocontap@fpt.vn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10411.doc