Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An

Lời mở đầu Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đổi mới và phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá đang đặt ra những yêu cầu bức xúc cho sự nghiệp phát triển kinh tế nông thôn nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Đặc biệt với điều kiện và đặc điểm nền kinh tế nước ta với 80% dân cư sống ở nông thôn, có thế mạnh trong phát triển nông nghiệp cho nên phát triển nông nghiệp nông thôn vẫn giữ một vai trò quan trọng trong những năm tới. Thực hiện chính sách đổi mới trong quản lý kinh tế

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định trên mọi lĩnh vực, nổi bật nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp đã đạt được những thành quả to lớn, có những bước tiến vững chắc song vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn vẫn đang là vấn đề nan giải cần được quan tâm đúng mức, nhiều vùng nông thôn ở nước ta còn phát triển thấp kém, lạc hậu trong sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm còn gặp nhiều khó khăn. Để có thể giải quyết được những vấn đề này, đưa nông nghiệp nông thôn Việt Nam có được một thế đứng nhất định trong nền kinh tế quốc dân và có sự phát triển ổn định nhằm góp phần đắc lực cho sự phát triển đất nước, thì vấn đề cần quan tâm trước hết là ngân sách xã (NSX). Bởi vì ở nông thôn NSX chiếm giữ vị trí vai trò rất quan trọng và to lớn. Xuất phát từ xã là một đơn vị hành chính cơ sở ở nông thôn do đó chính quyền xã là đại diện trực tiếp của nhà nước giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước với người dân, thực hiện những nhiệm vụ về chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Mặt khác, NSX có vai trò cung cấp phương tiện vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của chính quyền xã - cấp chính quyền cơ sở, đồng thời là một công cụ để chính quyền cấp xã thực hiện quản lý toàn diện các hoạt động kinh tế – xã hội trên địa bàn xã. Cho nên chính quyền xã muốn thực thi hiệu quả được những nhiệm vụ kinh tế xã hội mà nhà nước giao cho, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế nhà nước, kinh tế địa phương trên các lĩnh vực đặc biệt là nông nghiệp nông thôn tại địa bàn thì cần có một NSX đủ mạnh và phù hợp là một đòi hỏi thiết thực, là một mục tiêu phấn đấu đối với cấp xã. Vì thế hơn bao giờ hết hoàn thiện trong đổi mới công tác quản lý NSX là một nhiệm vụ luôn được quan tâm. Xuất phát từ những vấn đề này, trong thời gian thực tập tại phòng tài chính – kế hoạch huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An, với những kiến thức đã đựơc tiếp thu ở nhà trường cùng với sự giúp đỡ tận tình của các thầy giáo cô giáo đặc biệt là cô giáo Hoàng Thị Thuý Nguyệt cùng với sự giúp đỡ của các cán bộ phòng tài chính – kế hoạch đã hướng dẫn em tập trung tìm hiểu và phân tích tình hình quản lý NSX trên địa bàn huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An với đề tài: “Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An”. Mục đích của đề tài là thông qua nghiên cứu tình hình quản lý NSX trên địa bàn huyện nhằm tìm ra những giải pháp thiết thực góp phần củng cố tăng cường công tác quản lý NSX trên địa bàn huyện Nam Đàn được tốt hơn. Đề tài được trình bày theo nội dung sau: Chương 1: Ngân sách xã và những vấn đề chung về ngân sách xã. Chương 2: Thực trạng công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An trong thời gian qua. Chương 3:Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngân sách xã theo luật ngân sách trên địa bàn huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An trong những năm tới. Với kiến thức của một sinh viên về lý luận và kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót khi nhìn nhận đánh giá các vấn đề. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cán bộ tài chính và các bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn. Chương 1: Ngân sách xã và những vấn đề chung về ngân sách xã. 1.1.Những vấn đề chung về NSX. 1.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của NSX. Trong tiến trình lịch sử, NSNN nói chung và Ngân sách xã nói riêng đã xuất hiện và tồn tại từ lâu. Ngân sách xã ra đời , tồn tại và phát triển dựa trên cơ sở hai tiền đề là “làng xã” và quỹ làng. Trong lịch sử việt Nam, làng xã bắt đầu từ rất sớm. Vào thời triều đại nhà Đường thống trị nước ta ( thế kỷ 7) tổng quản Khâu Hoàn là người đầu tiên đặt định cấp xã. Đất An Nam ngày ấy có 12 châu, 59 huyện dưới huyện là Hương và xã. Đến buổi đầu kỷ nguyên tự chủ ( đầu thế kỷ 10) nhà cải cách Khúc Hạo đã chia cả nước thành các đơn vị hành chính gồm các cấp: Lộ, phủ, châu, giáp, xã. “Giáp” chính là hương ngày trước. Mỗi “giáp” có một quản giáp và một phó chi giáp để trông nom việc chi thuế. Còn mỗi xã thì đặt xã quan gồm một chánh lệnh trưởng và một tá lệnh trưởng. Sang thời Trần thế kỷ (12-14), triều đình ra lệnh phân bổ các chức”Đại tư xã và tiểu tư xã”, cùng với các “ Xã Trưởng”, “Xã giám”chịu trách nhiệm hộ khẩu, đôn đốc binh dịch, thuế khoá. Trong bảng “Hương ước” của làng phú thôn, tổng phú lão, huyện vụ bản, tỉnh Nam Định ngày trước có ghi: “nước có thuế của nước như thuế đinh, điền, môn bài, để chi công việc công ích trong nước. Dân phải đóng thuế ở dân như: Thuế trâu bò, ngựa, nhà cữa để lo việc công cho dân” (trong câu văn cổ này thuật ngữ và khái niệm “dân” chính là trùng với làng xã). Có thể coi đây là một “tuyên ngôn” cho sự ra đời và tồn tại Ngân sách xã trong xã hội và văn minh làng xã ngày xưa, với ly do: Làng xã là một đơn vị có tính tự tồn tại – tự trị – tự quản cao, nên cũng cần có quỹ làng để chi tiêu trong các công việc làng xã.Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Ngân sách xã là hiển nhiên và thành một tất yếu khách quan. Trải qua các hình thái khác nhau trong tiến trình lịch sữ, ta đã thấy được vai trò quan trọng của Ngân sách xã. Và trong những năm (1946-1954); (1955-1975) của cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, Ngân sách xã đã trở thành, phương tiện vật chất có tác dụng to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trong cuộc kháng chiến chống pháp các khoản chi tiêu của Ngân sách xã nhằm đài thọ cho các biện pháp xã hội trong phạm vi xã và đảm bảo kinh phí cho du kích xã. Ngân sách xã cũng đã đóng một vai trò quan trọng trong những năm dài(19955-1975) của cuộc đấu tranh giảiphóng miền nam khỏi ách chiếm đóng của bọn xâm lược Mỹ. Ngày mồng 8 tháng 4 năm 1972 điều lệ Ngân sách xã được ban hành, từ đó Ngân sách xã được quản lý theo luật lệ thông nhất của nhà nước. Ngân sách xã lúc này đã trỡ thành công cụ thực sự để góp phần huy động tài lực, vật lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được bắt đầu trên quy mô toàn quốc, theo kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976-1980). Cuối năm 1983 Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là chính phủ) nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩ Việt Nam đã có quyết định hoàn thiện cơ cấu hệ thống ngân sách và phân cấp Ngân sách, Ngân sách xã lúc này đã là khâu độc lập trong hệ thông thống nhất chung với hệ thống Ngân sách nhà nước gồm bốn cấp: Trung ương- tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) – huyện( quận, thị xã) - xã( phường , thị trấn). Để đáp ứng yêu cầu quản lý NSNN nói chung và Ngân sách xã nói riêng, quốc hội đã ban hành luật NSNN ngày 20-3-1996. Luật NSNN đã khẵng định Ngân sách xã là một trong bốn cấp ngân sách mang tính độc lập, là một bộ phận của Ngân sách nhà nước, nó là phương tiện vật chất để chính quyền cấp xã thực hiện các chức năng, nhiệm vụ do pháp luật qui định. Sự ra đời của luật Ngân sách, Nghị định của Chính Phủ, các thông tư hướng dẫn của Bộ Tài Chính là căn cứ pháp lý đáp ứng cho yêu cầu quản lý NSNN nói chung và NSX nói riêng. Đặc biệt là thông tư số 60/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài Chính hướng dẫn việc quản lý NSX một cách cụ thể,bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu trong công tác quản lý NSX hiện nay. 1.1.2. Khái niệm,nội dung thu chi của NSX. 1.1.2.1. Khái niệm: NSX là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ của chính quyền Nhà nước cấp xã nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước cấp cơ sở trong khuôn khổ đã được phân công, phân cấp quản lý. - NSX là một loại quỹ tiền tệ của cơ quan chính quyền Nhà nước cấp cơ sở. Hoạt động của quỹ này thể hiện trên hai phương diện: Huy động nguồn thu vào quỹ (gọi tắt là thu NSX) và phân phối, sử dụng các khoản vốn quỹ đó (gọi tắt là chi NSX). - Hoạt động thu, chi của NSX luôn gắn chặt với chức năng, nhiệm vụ của chính quyền xã đã được phân công, phân cấp; đồng thời luôn chịu sự kiểm tra giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước ở cấp xã. Chính vì vậy, các chỉ tiêu thu, chi của NSX luôn mang tính pháp lý. - Các quan hệ thu, chi NSX rất đa dạng và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng số thu hoặc số chi theo từng hình thức chỉ có thể được thực thi một khi nó đã được ghi vào dự toán và đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. 1.1.2.2. Nội dung thu chi của NSX. Nguồn thu của NSX do Hội đồng nhân dân (HĐND) cấp tỉnh quyết định phân cấp trong phạm vi nguồn thu ngân sách địa phương được hưởng. Nguồn thu và nhiệm vụ chi của NSX được hình thành trên cơ sở tiềm năng và nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của địa phương kết hợp với các nhiệm vụ về quản lý kinh tế, xã hội mà chính quyền xã được phân công, phân cấp thực hiện. Đó chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phân cấp quản lý về kinh tế, xã hội với sự phân cấp về quản lý tài chính, ngân sách. Và trên một phương diện nhất định, căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi của NSX được phân giao, người ta có thể coi đó là nội dung của NSX. Theo thông tư số 60/2003/TT-BTC của Bộ Tài chính ra ngày 23/06/2003 về việc quy định quản lý NSX và các hoạt động tài chính ở xã, phường, thị trấn thì nguồn thu và nhiệm vụ chi của NSX được quy định như sau: 1.1.2.1.1 Nguồn thu của Ngân sách xã. * Các khoản thu 100%: Các khoản thu NSX hưởng một trăm phần trăm là các khoản thu dành cho xã sữ dụng toàn bộ để chủ động về nguồn tài chính đảm bảo các nhiệm vụ chi thường xuyên, đầu tư phát triển. Căn cứ vào nguồn thu, chế độ phân cấp quản lý kinh tế – xã hội và nguyên tắc đảm bảo tối đa nguồn tại chỗ cân đối cho các khoản thu, chi thường xuyên, khi phân cấp nguồn thu, HĐND cấp tỉnh xem xét dành cho NSX hưởng 100% các khoản thu dưới đây: - Các khoản phí, lệ phí thu vào NSX theo quy định. - Thu từ các hoạt động sự nghiệp của xã, phần nộp vào NSNN theo chế độ quy định. - Thu đấu thầu, thu khoán theo mùa vụ từ quỹ đất công ích và hoa lợi công sản khác theo quy định của pháp luật do xã quản lý. - Các khoản huy động đóng góp của tổ chức, cá nhân gồm: các khoản huy động đóng góp theo pháp luật quy định, các khoản đóng góp theo nguyên tắc tự nguyện để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng do HĐND xã quyết định đưa vào NSX quản lý và các khoản đóng góp tự nguyện khác. - Viện trợ không hoàn lại của các cá nhân và tổ chức ở ngoài nước trực tiếp cho NSX theo chế độ quy định. - Thu kết dư Ngân sách xã năm trước. - Các khoản thu khác của NSX theo quy định của pháp luật. * Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách xã với ngân sách cấp trên: Theo quy định của luật Ngân sách Nhà Nước thì các khoản này gồm: - Thuế chuyển quyền sử dụng đất. - Thuế nhà đất. - Thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh . - Thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình. - Lệ phí trước bạ nhà đất. Các khoản thu trên tỷ lệ NSX được hưởng tối thiểu là 70%. Căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi của xã, thị trấn . HĐND cấp tỉnh có thể quy định tỷ lệ Ngân sách xã, thị trấn được hưởng cao hơn, đến tối đa là 100%. Ngoài các khoản thu phân chia như trên NSX còn được HĐND các cấp tính bổ sung thêm các nguồn thu phân chia sau khi các khoản thuế, phí, lệ phí phân chia theo luật ngân sách nhà nước đã dành 100% cho NSX và các khoản thu NSX được hưởng 100% nhưng vẫn chưa cân đối đựơc nhiệm vụ chi. * Thu bổ sung từ ngân sách cấp trêncho ngân sách xã. Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách xã gồm: -Thu bổ sung để cân đối ngân sách là mức chênh lệch giữa dự toán chi được giao và dự toán thu từ các nguồn thu được phân cấp (gồm các khoản thu 100% và các khoản thu phân chia theo tỷ lệ). Số bổ sung cân đối này được xác định từ đầu thời kỳ ổn định ngân sách và được giao từ 3 đền 5 năm. -Thu bổ sung có mục tiêu là các khoản bổ sung theo từng năm để hỗ trợ xã thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể. 1.1.2.2.2. Nhiệm vụ chi của Ngân sách Xã. Chi của Ngân sách gồm: chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. HĐND cấp tỉnh quyết định phân cấp nhiệm vụ chi cho NSX. Căn cứ vào chế độ phân cấp quản lý Kinh tế – Xã hội của nhà nước, các chính sách chế độ về hoạt động của các cơ quan nhà nước, Đảng cộng sản Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của xã khi phân cấp nhiệm vụ chi cho NSX, HĐND tỉnh xem xét giao cho NSX thực hiện các nhiệm vụ thu chi dưới đây. * Chi thường xuyên: Chi cho hoạt động của các cơ quan nhà nước ở xã: - Tiền lương, tiền công của cán bộ công chức cấp xã. - Sinh hoạt phí đại biểu hội đồng nhân dân. - Các khoản phụ cấp khác theo quy định của nhà nước. - Công tác phí. - Chi về các hoạt động văn phòng như: chi phí điện, nước, văn phòng phẩm, phí bưu điện, điện thoại, hội nghị, chi tiếp tân, khánh tiết… - Chi mua sắm sữa, chữa thường xuyên trụ sở, phương tiện làm việc. - Chi khác theo chế độ quy định. Kinh phí hoạt động của các cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam ở xã. Kinh phí hoạt động của các tổ chức chính trị xã - hội ở xã( Mặt trân tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam). Sau khi trừ các khoản thu theo điều lệ và các khoản thu khác( nếu có). Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho cán bộ xã và các đối tượng khác theo chế độ quy định. Chi cho công tác dân quân tự vệ, trật tự, an toàn xã hội: - Chi huấn luyện dân quân tự vệ, các khoản phụ cấp huy động dân quân tự vệ và các khoản chi khác về dân quân tự vệ thuộc nhiệm vụ chi của NSX theo quy định của pháp lệnh về dân quân tự vệ. - Chi thực hiện đăng ký nghĩa vụ quân sự, công tác nghĩa vụ quân sự khác thuộc nhiệm vụ chi của NSX theo quy định của pháp luật. - Chi tuyên truyền, vận động tổ chức phong trào bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. - Các khoản chi khác theo chế độ quy định. Chi cho công tác xã hội và các hoạt động văn hoá, thông tin , thể duc thể thao do xã quản lý: -Trợ cấp hàng tháng cho cán bộ xã việc theo chế độ quy định ( không kể cả trợ cấp hàng tháng cho cán bộ xã nghĩ việc và trợ cấp thôi việc một lần cho cán bộ xã nghỉ việc từ ngày 01/01/1998 trở về sau do tổ chức bảo hiểm xã hội chi ), chi thăm hỏi các gia đình chính sách, cứu tế xã hội và công tác xã hội khác. Chi cho hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, truyền thanh do xã quản lý. Chi sự nghiệp giáo dục: hỗ trợ các lớp học bổ túc văn hoá, trợ cấp nhà trẻ, lớp mẫu giáo, kể cả trợ cấp cho giáo viên và cô nuôi dạy trẻ do xã quản lý. Chi cho sự nghiệp y tế: Hỗ trợ chi thuờng xuyên và mua sắm các khoản trang thiết bị phục vụ cho khám chữa bệnh của trạm y tế xã. Chi sữa chữa, cải tạo các công trình phúc lợi, các công trình kết cấu hạ tầng do xã quản lý như: Trường học, trạm y tế, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, nhà văn hoá, đài tưởng niệm, cơ sở thể dục thể thao, cầu, đường giao thông, công trình cấp thoát nước công cộng… Hỗ trợ khuyến khích phát triển các sự nghiệp kinh tế như: Khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm theo chế độ quy định. Các khoản chi thường xuyên khác ở xã theo quy định của pháp luật. *Chi đầu tư phát triển: Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn theo phân cấp của tỉnh. Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội của xã từ nguồn huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân cho từng dự án nhất định theo quy định của pháp luật, do HĐND xã quyết định đưa vào NSX quản lý. Các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật. 1.1.3.Vai trò của Ngân sách xã trong hệ thống ngân sách nhà nước và trong việc phát triển kinh tế nông thôn hiện nay. Ngân sách xã là một bộ phận hữu cơ của ngân sách nhà nước. Là phương tiện vật chất để chính quyền cấp xã thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo luật định, là nhân tố đảm bảo cho sự tồn tại và hoạt động bình thường của bộ máy chính quyền cấp xã - một đơn vị hành chính cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt trong hệ thống phân cấp quản lý hành chính nước ta. Do vậy việc hình thành ngân sách cấp xã thuộc ngân sách nhà nước là hoàn toàn cần thiết, để đảm bảo chức năng quản lý nhà nước trong phạm vi và trách nhiệm được phân công. Nhất là đối với nước ta, một nước đi lên từ nông nghiệp, điểm xuất phát thấp, dân cư sống chủ yếu ở các làng xã, thì xã là một cấp hành chính cơ sở trực tiếp quan hệ với dân. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, đất nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế càng có nhiều chuyển biến sâu sắc và chuyển dần sang nền kinh tế thị trường – NSX , công cụ đặc biệt quan trọng để chính quyền xã thực hiện quản lý toàn diện các hoạt động kinh tế xã hội tại địa phương. Xã là một đại diện của nhà nước, là một cấp chính quyền cơ sở của bộ máy quản lý nhà nước, nó trực tiếp giải quyết mỗi quan hệ giữa nhà nước với người dân, từ đó mới biết được chính sách, chế độ của nhà nước được thực thi tới mức độ nào, mọi quan tâm của nhà nước cho đến tâm tư, nguyện vọng của người dân ra sao đều được thể hiện ở đây, và giúp chính quyền giải quyết các mối quan hệ thì công cụ đắc lực nhất chính là Ngân sách xã. Thông qua NSX để giải quyết mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa người dân với nhà nước. Thông qua hoạt động thu ngân sách, không chỉ đạt mục đích là tạo Lập dự toán ngân sách - quỹ tiền tệ ngân sách (NSX) mà còn thể hiện việc kiểm tra, kiểm soát,điều chỉnh các hoạt động kinh doanh, dịch vụ mà các hoạt động khác trên địa bàn nông thôn tuân thủ theo đúng hành lang pháp lý quy định. Việc kiểm tra giám sát đó thông qua cơ cấu nghành nghề kinh doanh, qua mặt hàng kinh doanh, qua sự lưu chuyển hàng hoá… Từ đây có những điều tiết, tác động nhằm kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nông thôn phát triển theo hướng tích cực góp phần ngăn chặn những việc hành vi làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự trên địa bàn xã quản lý. Đồng thời thu Ngân sách xã còn góp phần thực hiện các chính sách xã hội như: đảm bảo công bằng giữa những người có nghĩa vụ với ngân sách…trợ giúp cho những đối tượng khó khăn, bằng chính sách miễn, giảm thu ngân sách. Ngoài ra kỷ luật tài chính (thưởng - phạt) cũng là biện phát bắt buộc để mọi người dân thực hiện tốt nghĩa vụ đối với cộng đồng. Thông qua chi ngân sách, các hoạt động của Đảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị xã hội được duy trì và phát triển không ngừng, ổn định qua đó nâng cao hiệu lực quản lý nhà nứơc ở cơ sở. Với các khoản chi cho sự nghiệp giáo giục, sự nghiệp y tế của Ngân sách xã đã thiết thực làm nâng cao dân trí, sức khoẻ cho mọi người dân và cộng đồng xã hội. Các khoản chi cho xây dựng cơ bản của Ngân sách xã ngày càng làm cho bộ mặt nông thôn đổi mới khang trang, đưa nông nghiệp nông thông ra khỏi lac hậu. Trong thời gian qua cùng với những đổi thay của đất nước, xây dựng nông thôn mới ngày càng khẳng định vai trò của Ngân sách xã. Ngân sách xã không những tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước mà còn hướng cho các doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh tế gia đình ở khu vực nông thôn theo hướng mới để phù hợp với nền kinh tế thị trường và dần theo kịp với tốc độ phát triển về mọi mặt của thế giới và khu vực trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu. Xét trong hệ thống ngân sách nhà nước thì Ngân sách xã là một cấp ngân sách cơ sở và nắm giữ một vị trí rất quan trọng trong hệ thống ngân sách. Xã là một đơn vị hành chính có cơ sở ở nông thôn. Hội đồng nhân dân xã với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước tại địa phương được quyền ban hành các nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn và nghị quyết liên quan đến xã mình. Đồng thời chính quyền xã là đại diện trực tiếp giải quyết mối quan hệ về lợi ích giữa nhà nước với nhân dân trên cơ sở các văn bản hiện hành. Cho nên trên góc độ kinh tế về quy mô, mức độ thực hiện các nhiệm vụ của xã phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn ngân sách. Từ sự phân tích trên đây ta thấy Ngân sách xã chiếm giữ vai trò tích cực đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, xúc tiến quá trình đô thị hoá ,đổi mới bộ mặt nông thôn, đồng thời góp phần đưa nông thôn việt nam phát triển đi lên công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.2. Nội dung quản lý Ngân sách xã: Để xứng đáng với vị trí , vai trò trên của Ngân sách xã thì cần phải quản lý tốt Ngân sách xã. Ngân sách xã cũng là một cấp ngân sách nhà nước nên nội dung quản lý Ngân sách xã cũng gồm ba khâu: Lập dự toán Ngân sách xã, chấp hành dự toán ngân sách và quyết toán ngân sách xã. Để quản lý tốt Ngân sách xã thì cần phải quản lý tốt cả ba khâu của chu trình này. Theo Nghị Định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2003 của Chính Phủ và Thông tư số 60/2003/TT-BTC ngày 23 tháng 6 năm 2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn công tác quản lý NSX và các quỹ tài chính khác của xã thi nội dung ba khâu đó như sau: 1.2.1. Lập dự toán Ngân sách xã: Hàng năm trên cơ sở hướng dẫn của uỷ ban nhân dân cấp trên, uỷ ban nhân dân xã Lập dự toán ngân sách năm sau trình Hội Đồng Nhân Dân xã quyết định. - Căn cứ Lập dự toán Ngân sách xã: Các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội của xã . Chính sách, chế độ thu ngân sách nhà nước, cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi Ngân sách xã và tỷ lệ phân chia nguồn thu do HĐND tỉnh quy định. Chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách do chính phủ, thủ tướng chính phủ, Bộ Tài Chính và HĐND cấp tỉnh quy định. Số kiểm tra về dự toán Ngân sách xã do UBND huyện thông báo. Tình hình thực hiên dự toán Ngân sách xã năm hiện hành và các năm trước đó. - Trình tự Lập dự toán Ngân sách xã: Ban tài chính và ngân sách xã kết hợp với cơ quan thuế hoặc đội thu thuế( nếu có) tính toán các khoản thu ngân sách nhà nước trên địa bàn (trong phạm vi phân cấp do xã quản lý) Các ban, tổ chức thuộc UBND xã căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được giao và chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi Lập dự chi của đơn vị tổ chức này. Ban tài chính và ngân sách xã lập dự toán thu, chi và cân đối ngân sách trình UBND xã, bào cáo chủ tịch hoặc phó chủ tịch HĐND xã để xem xét gửi UBND huyện và phòng tài chính huyện. Thời gian báo cáo dự toán Ngân sách xã do UBND cấp tĩnh quy định. Đối với năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách, phòng tài chính huyện làm việc với UBND xã về việc cân đối thu chi Ngân sách xã thời kỳ ổn định mới theo khả năng bố trí cân cân đối chung của ngân sách địa phương. Đối với những năm tiếp theo của thời kỳ ổn định phòng tài chính huyện chỉ tổ chức làm việc với UBND xã khi UBND xã có yêu cầu. - Quyết định dự toán Ngân sách xã: Sau khi nhận được quyết định giao nhiệm vụ thu, chi do UBND huyện quyết định UBND xã hoàn chỉnh dự toán Ngân sách xã và phương án bổ sung Ngân sách xã trình HĐND xã quết định sau khi dự toán xã được HĐND xã quyết định UBND xã báo cáo với UBND huyện, phòng tài chính huyện đồng thời công khai Ngân sách xã cho nhân dân biết theo chế độ công khai tài chính về Ngân sách xã. Điều chỉnh Ngân sách xã hàng năm( nếu có) trong các trường hợp có yêu cầu của UBND cấp trên để đảm bảo phù hợp với định hướng chung hoặc có sự biến động lớn về nguồn thu và nhiệm vụ chi. 1.2.2.Chấp hành dự toán Ngân sách xã Hàng năm xã phải tổ chức chấp hành dự toán ngân sách theo đúng điều khoản về luật ngân sách và nghị định của chính phủ, các thông tư hướng dẫn chấp hành dự toán ngân sách của Bộ Tài chính. Căn cứ dự toán Ngân sách xã và phương án phân bổ Ngân sách xã cả năm đã được HĐND xã quyết định, UBND xã phân bổ chi tiết dự toán chi Ngân sách xã theo mục lục NSNN (kèm theo biểu mẫu) gửi KBNN nơi giao dich để làm căn cứ thanh toán và kiểm soát chi. Căn cứ vào dự toán và khả năng thu, nhu cầu chi của từng quý, UBND xã Lập dự toán thu, chi quý (có chia ra tháng gửi KBNN nơi giao dịch. Đối vời những xã có các nguốn thu chủ yếu theo mùa vụ, UBND xã đề nghị cơ quan tài chính cấp trên thực hiện tiến độ cấp số bổ sung cân đối trong dự toán được giao (nếu có) cho phù hợp để điều hành chi theo tiến độ công việc. Chủ tịch UBND xã (hoặc người được uỷ quyền) là chủ tài khoản thu chi Ngân sách xã. Xã có quỹ tiền mặt tại xã để thanh toán các khoản có gía trị nhỏ. Định mức tồn quỹ tiền mặt tại xã do KBNN huyện quy định cho từng loại xã. Riêng những xã ở xa KBNN, điều kiện đi lại khó khăn, chưa thể thực hiện việc nộp trực tiếp các khoản thu của Ngân sách xã vào KBNN, định mức tồn quỹ tiền mặt được quy định ở mức phù hợp. Ban tài chính và ngân sách xã có nhiệm vụ phối hợp với cơ quan thuế đảm bảo thu đúng, thu đủ và kịp thời. Nghiêm cấm thu không biên lai, thu để ngoài sổ sách. Khi thu phải giao biên lai lại cho đối tượng nộp cho cơ quan thuế, phòng tài chính huyện có nhiệm vụ cung cấp biên lai đầy đủ, kịp thời cho ban tài chính xã để thực hiện thu nộp ngân sách nhà nước. Việc hoàn trả khoản thu Ngân sách xã, KBNN xác nhận rõ số tiền đã thu vào Ngân sách xã hoặc cơ quan thu xác nhận (đối tượng nộp ngân sách qua cơ quan thu) để ban tài chính làm căn cứ hoàn trả. Đối với các khoản thu Ngân sách xã được hưởng 100%, KBNN chuyển một liên chứng từ cho ban tài chính xã. Đối với các khoản thu phân chia với ngân sách cấp trên, KBNN Lập dự toán ngân sách bảng kê các khoản thu ngân sách có phân chia cho xã gửi ban tài chính xã. Đối với số thu bổ sung ngân sách huyện cho Ngân sách xã, phòng tài chính huyện căn cứ vào dự toán số bổ sung đã giao cho từng xã, dự toán thu, chi từng quý của các xã và khả năng cân đối của ngân sách huyện, thông báo số bổ sung hàng quý cho xã chủ động điều hành ngân sách. Phòng tài chính huyện cấp số bổ sung cho xã theo định kỳ hàng tháng. Khi thực hiện nhiệm vụ chi, ban tài chính và ngân sách xã phải thẩm tra nhu cầu sử dụng kinh phí của các tổ chức, đơn vị. Bố trí nguồn theo dự toán năm và dự toán quý để đáp ứng nhu cầu chi. Kiểm tra giám sát việc thực hiện việc chi ngân sách, sử dụng tài sản của các tổ chức, đơn vị sử dụng ngân sách, phát hiện và báo cáo, đề xuất kịp thời chủ tịch UBND xã những trường hợp vi phạm chế độ, tiêu chuẩn, định mức để có biện pháp giải quyết việc chấp hành dự toán chi ngân sách phải đảm bảo nguyên tắc: Đã ghi trong dự toán, đúng chề độ, tiêu chuẩn, định mức quy định được chủ tịch UBND xã (hoặc người được uỷ quyền) chuẩn chi. Cấp phát Ngân sách xã chỉ dùng hình thức lệnh chi tiền. Trường hợp thanh toán bằng tiền mặt phải kèm theo giấy đề nghị rút tiền mặt. KBNN kiểm tra nếu đủ điều kiện thì tiến hành thanh toán. Trong trường hợp thật cần thiết như tạm ứng, công tác phí, ứng tiền trước cho khách hàng, cho nhà thầu theo hợp đồng, chuẩn bị hội nghị, tiếp khách,……được tạm ứng để chi. Trong trường hợp này, trên lệnh chi tiền chỉ ghi tổng số tiền tạm ứng, kèm theo giấy đề nghị rút tiền mặt. Nếu như các khoản thanh toán Ngân sách xã qua KBNN cho đối tượng có mở tài khoản giao dịch tại KBNN hoặc ngân hàng thì phải thực hiện bằng hình thức chuyển khoản. Khi đó phải sử dụng lệnh chi tiền bằng chuyển khoản. Các khoản chi từ nguồn thu được giữ tại xã, Ban Tài chính và ngân sách xã phối hợp với KBNN định kỳ làm thủ tục hạch toán thu, chi vào Ngân sách xã. Đối với chi thưòng xuyên, ưu tiên chi trả tiền lương và các khoản phụ cấp cho cán bộ xã, nghiêm cấm việc nợ lương. Các khoản chi cấp bách phải căn cứ dự toán năm, tính cấp bách của công việc, khả năng của Ngân sách xã tại thời điểm chi. Đối với chi đầu tư phát triển: việc quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Ngân sách xã phải thực hiện theo quy định của nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và phân cấp của tỉnh. Bộ Tài Chính sẽ quy định việc cấp phát thanh toán và quuyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Ngân sách xã. Đối với các dự án đầu tư băng nguồn đóng góp theo nguyên tắc tự nguyện ngoài các quy định chung cần phải mở sổ theo dõi và phản ánh kịp thời mọi khoản đóng góp bằng tiền, ngày công lao động, hiện vật của nhân dân. Quá trình thi công, nghiệm thu và thanh toán phải có ban giám sát do nhân dân cử ra. Kết quả đầu tư và quyết toán phải thông báo rộng rãi cho nhân biết. 1.2.3. Quyết toán Ngân sách xã: Ban Tài chính và ngân sách xã lập báo cáo quyết toán thu, chi Ngân sách xã hàng năm trình UBND xã xem xét để trình HĐND xã phê chuẩn, đồng thời gữi phòng Tài Chính huyện để tổng hợp trình UBND Huyện. Thời gian gửi báo cáo quyết toán năm cho phòng Tài Chính Huyện do UBND Tỉnh qui định. Quyết toán Ngân sách xã không được lớn hơn quyết toán chi Ngân sách xã. Toàn bộ kết dư Ngân sách năm trước (nếu có), được chuyển vào thu Ngân sách năm sau. Sau khi HĐND xã phê chuẩn báo cáo quyết toán được lập thành 5 bản, gửi cho HĐND xã, UBND xã, phòng Tài Chính Huyện, KBNN nơi xã giao dịch, lưu ban Tài Chính xã và thông báo công khai nơi công cộng cho nhân dân xã biết. Phòng Tài Chính có trách nhiệm kiểm tra báo cáo quyết toán thu , chi Ngân sách xã, trường hợp có sai sót phải báo cáo với UBND Huyện yêu cầu HĐND xã điều chỉnh. Trên đây là toàn bộ nội dung quản lý Ngân sách xã đã được trình bày. Ta thấy quản lý Ngân sách xã là một quá trình đầy những khó khăn và phức tạp. Do vậy hoàn thiện công tác quản lý Ngân sách xã là một yêu cầu cấp thiết hiện nay và mai sau nhằm làm lành mạnh hoá các hoạt động tài chính ở xã, nâng cao hiệu quả sử dụng ngồn vốn NSX. 1.2.4. Công khai Ngân sách xã: 1.2.4.1. Sự cần thiết của công khai minh bạch trong quản lý NSNN ở nước ta trong điều kiện hiện nay. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân nên việc công khai, minh bạch các hoạt động tài chính của nhà nước là một yêu cầu thiết thực, nhăm tăng sự giám sát của nhân dân, gây dựng lòng tin trong quần chúng nhân dân và tiến tới công bằng xã hội. Vì hoạt động thu, chi tài chính của nhà nước liên quan đến lợi ích của nhân dân cũng như nghĩa vụ của họ trong quá trình tạo lập và sữ dụng quỹ tiền tệ của nhà nước. Công khai ở đây là cho nhân dân được biết việc nhà nước đã thu những khoản thu đó có hợp lý không? có công bằng không? quá trình phân phối và sử dụng nguồn vốn của NSNN có đảm bảo được các nhiệm vụ và chức năng mà nhà nước đảm nhận hay không? hiệu quả của công tác này như thế nào? quy trình quản lý các khoản thu, chi có thực hiện tốt hay không? kết quả của các khoản chi có tuân thủ yêu cầu về tiết kiệm và hiệu quả hay không? lợi ích các khoản chi có đem lại sự cải thiện về đời sống vật chất, tinh thần cho đa số người dân hay không? Vì thế công khai minh bạch trong quản lý ngân sách đã trở thành yêu cầu đòi hỏi phải tuân thủ đối với mọi cấp ngấn sách, đặc biệt với ngân sách cấp xã một cấp ngân sách trược tiếp giải quyết quan hệ giữa nhà nước và người dân. Công khai chính là biện pháp nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công ._.chức nhà nước, tập thể người lao động và nhân dân trong việc quyền kiểm tra, giám sát quá trình quản lý và sữ dụng vốn, tài sản nhà nước; huy động và sữ dụng các khoản đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp luật; phát hiện và ngăn ngưa kip thời các hành vi vi pham chế độ quản lý tài chính; đảm bảo sữ dụng hiệu quả ngân sách nhà nước, thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Do vậy công khai, minh bạch trong quá trính quản lý và sữ dụng quỹ tiền tệ của nhà nước là yêu cầu cần thiết trong giai đoạn hiện nay và mai sau. 1.2.4.2 Nội dung công khai ngân sách xã: Theo quyết định 192/2004/QĐ-TTG ngày 16/11/2004 của Thủ Tưởng Chính Phủ và Thông tư số 03/2005/TT-BTC ngày 6/1/2005 của Bộ Tài Chính qui định về việc công khai Ngân sách xã thì: - Nội dung công khai Ngân sách xã gồm: Cân đối dự toán, quyết toán Ngân sách xã đã được HĐND cấp xã qui định, phê chuẩn. Dự toán, quyết toán thu chi Ngân sách xã đã được HĐND cấp xã quyết định, phê duyệt. Dự toán, quyết toán chi đầu tư XDCB đã được HĐND cấp xã quyết định , phê chuẩn. Dự toán, quyết toán chi cho các chương trình mục tiêu quốc gia và một số chương trình mục tiêu, nhiệm vụ khác do cấp xã thực hiện đã được HĐND quyết định, phê chuẩn. Tỷ lệ phần trăm(%) phân chia các khoản thu giửa Ngân sách cấp tỉnh, cấp huyện và Ngân sách cấp xã đã được HĐND cấp tỉnh quyết định, UBND cấp tỉnh giao. Chi tiết kế hoạch và kết qủa các hoạt động tài chính khác của cấp xã. -Hình thức công khai: Việc công khai các nội dung trên được thực hiện bằng các hình thức sau: niêm yết công khai tại trụ sở UBND cấp xã ít nhất trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày niêm yết ; thông báo bằng văn bản cho đảng uỷ, các tổ chức chính trị – xã hội ở cấp xã và trưởng các thôn, làng, ấp, bản, buôn, sóc ở xã và tổ dân phố ở phường, thị trấn; thông báo trên hệ thống truyền thanh cấp xã. -Thời gian công khai: Châm nhất sau 60 ngày, kể từ ngày Hội đồng nhân dân cấp xã ban hành Nghị quyết về quyết định dự toán, phê chuẩn quyết toán Ngân sách và các hoạt động tài chính khác. 1.3.Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác Quản Lý Ngân sách xã. - Xuất phát từ thực trạng công tác quản lý Ngân sách xã ở nước ta hiện nay. Công tác quản lý Ngân sách xã ở nước ta hiện nay tuy đã đạt được những thành quả như: Về thu Ngân sách xã: Dưới sự chỉ đạo của Đảng và nhà nước, toàn nước ta nhìn chung thu Ngân sách tăng và có xu hướng ngày càng tăng. ở các địa phương xã đã chủ động khai thác các nguồn thu tiềm năng, phát huy tích cực việc tăng thu và nuôi dưỡng nguồn thu bằng nhiều hình thức khác nhau. Về chi Ngân sách xã: Nhìn chung việc bố trí chi Ngân sách xã là tương đối hợp lý, đáp ứng nhu cầu chi một cách tốt nhất . Về chấp hành chính sách chế độ : Nhìn chung các xã đã thực hiện tốt các chế độ chính sách được ban hành. Đặc biệt là chế độ chính sách đối với người , gia đình có công với cách mạng … Bên cạnh đó công tác quản lý Ngân sách xã trên cả nước vẫn còn nhiều tồn tại đáng kể. Về công tác thu Ngân sách xã vẫn chưa khai thác triệt để các nguồn thu, cơ cấu thu chưa hợp lí, chưa quan tâm đặc biệt tới việc nuôi dưỡng nguồn thu, nhiều xã trên cả nước đã đặt ra các khoản thu, mức thu chưa hợp lí . Gây nhiều tranh cãi , bất đồng trong quần chúng nhân dân. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chi, quản lí chi vẫn còn buông lỏng, cơ cấu chi vẫn còn nhiều bất hợp lí chưa đáp ứng được nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Công tác lập, chấp hành và quyết toán Ngân sách chưa thực sự hoàn thiện. Từ thực trạng đó ta thấy hoàn thiện công tác quản lí Ngân sách xã là yêu cầu bức thiết, là việc cần làm ngay và làm triệt để. - Xuất phát từ nền Tài chính quốc gia của nứơc ta đã và đang dựoc đổi mới toàn diện trong sự chuyển đổi sâu sắc về cơ chế quản lý kinh tế xã hội . Đất nứoc ta đang trong thời kì đổi mới đi lên CNH - HĐH đất nước, nền kinh tế đang đi theo nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trương có sự quản lý của nhà nước. Việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế xã hội là tất yếu để phù hợp với cơ chế thị trường, phù hợp với đường lối phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước. Công tác quản lý NSX trong điều kiện hiện nay cũng cần phải được củng cố và tăng cường, góp phần làm lành mạnh nền Tài chính quốc gia và tăng cường nội lực, đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH đất nứớc , làm cho công qũy được quản lý chặt chẽ, thống nhất, phát huy tối đa quyền làm chủ của người dân. Hoàn thiện công tác quản lí Ngân sách xã không những tăng cường quản lý Ngân sách xã mà còn là vấn đề phát huy được vai trò của chính quyền cấp xã , trong việc chủ động khai thác tiềm năng và thế mạnh của địa phương, đảm bảo công bằng, thực hiện tốt các chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước. Để phù hợp với sự vận hành theo cơ chế mới - cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa nền kinh tế và hội nhập cùng các nước trong khu vực, trên toàn thế giới thì cơ chế quản lý Ngân sách xã đòi hỏi phải sớm đổi mới, hoàn thiện và tăng cường công tác quản lý Ngân sách xã . Trước những đổi mới cơ chế quản lý kinh tế xã hội và đứng trước thực trạng quản lý Ngân sách xã như trên, cần phải có các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý Ngân sách xã góp phần hoàn thiện công tác quản lý Ngân sách xã, đảm bảo Ngân sách xã đủ mạnh đáp ứng được các yêu cầu, thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của chính quyền cấp xã, tiến tới làm lành mạnh hoá nền Tài chính quốc gia, phát huy hết nội lực, thực hiện đúng chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước. Chương 2: thực trạng công tác quản lý Ngân sách xã trên địa bàn huyện nam đàn, tỉnh nghệ an trong trong thời gian qua. 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. 2.1.1 Đặc diểm tự nhiên kinh tế xã hội của huyện Nam Đàn. Nam Đàn là một huyện nằm phía tây nam tỉnh Nghệ An, với dân số 148.575 người năm 2004. Dân số huyện phân bố chủ yếu ở nông thôn, dân số ở thành thị chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Nhân dân trong huyện chủ yếu sống bằng nghề nông. Toàn huyện có 23 xã và một thị trấn. Nam Đàn vẫn là huyện nghèo, thu chưa đủ bù đắp chi còn phải nhờ sự trợ giúp của ngân sách cấp trên, đời sống nhân dân còn thấp , nền kinh tế phát triển không đồng đều, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của huyện. Nông nghiệp có vai trò vô cùng to lớn trong nền kinh tế của huyện, nó đảm nhiệm phần tự túc lương thực cho toàn bộ nhân dân trên địa bàn huyện. Cây lương thực của huyện chủ yếu gồm lúa, ngô, lạc, sắn. Diện tích trồng cây lương thực trong những năm gần đây ngày một tăng. Cây lúa vẫn là cây lương thực chính của huyện, diện tích trồng lúa của toàn huyện gần như không thay đổi mấy, nhưng sản lượng thóc những năm gần đây lại tăng. Năng suất lúa của huyện năm 2003 là 55,5 tạ/ha; năm 2004 là 56,5 tạ/ha. Về chăn nuôi: Huyện đang tiếp tục phát triển chăn nuôi. Các giống vật nuôi chính của huyện là trâu, bò, lợn và gia cầm. Năm 2004 số lượng đàn trâu bò là 43200 con, đàn gia cầm là 985000 con. Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện tỷ trọng các ngành này con thấp nhưng có chiều hướng tăng trong những năm tới. Công nghiệp chủ yếu là công nghiệp xây dựng, khai thác cát sạn phục vụ cho xây dựng, sản xuất gạch các loại. Công nghiệp chế biến phát triển chậm, đa phần là chế biến gỗ, thức ăn gia súc,….. với qui mô nhỏ lẻ. Tiểu thủ công nghiệp chủ yếu là sản xuất dày dép da, đan, lát………. Về kinh tế- xã hội: Huyện đã quan tâm chú trọng nhiều tới giáo dục ở địa phương từ bậc tiểu học, trung học cơ sở cho đến phổ thông trung học. Hàng năm huyện dành một phần lớn ngân sách của mình cho việc sửa chửa, nâng cấp và xây dựng mới các trường lớp tạo cơ sở cho con em trong huyện. Trong thời gian tới huyện đang phấn đấu hơn nữa mặt bằng giáo dục chung đảm bảo 100% các xã trên địa bàn huyện có trường, lớp đạt tiêu chuẩn qui định. Nâng cao chất lượng giáo dục trên địa bàn huyện. Bên cạnh việc chú trọng giáo dục, huyện cũng đã quan tâm cũng cố nghành y tế triển khai các nội dung chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân trong huyện ngày một tốt hơn. Phấn đâu tới năm 2010 một trăm phần trăm số xã có bác sỹ về phục vụ tận xã. Phong trào xây dựng làng văn hoá, xóm văn hoá vẫn đang được triển khai mạnh mẽ. Tiếp tục nâng cấp cải tạo hệ thống điện phục vụ tốt hơn cho sinh hoạt và sản xuất của người dân trong huyện. Những đặc điểm trên cho thấy, cần phải đẩy mạnh công tác tài chính- Ngân sách để tăng thu ngân sách góp phần phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống cho nhân dân trong huyện. 2.1.2.Khái quát tổ chức bộ máy của phòng tài chính huyện Nam Đàn: Phòng tài chính- kế hoạch là cơ quan chuyên môn của UBND huyện, tham gia giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính, giá cả, kế hoạch đầu tư, đăng kí kinh doanh. Phòng tài chính - kế hoạch chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ của sở tài chính tỉnh, sở kế hoạch và đầu tư với nhệm vụ tham mưu cho UBND huyện ban hành các văn bản hướng dẫn và tổ chức thực hiện nhiệm vụ tài chính ngân sách, giá cả trên địa bàn huyện theo luật ngân sách. Hướng dẫn các đơn vị dự toán thuộc huyện xã, xây dựng dự toán ngân sách hàng năm theo hướng dẫn của tổ chức tài chính trình UBND huyện xem xét để trình hội đồng nhân dân huyện quyết định, tổ chức, kiểm tra, giám sát, quản lý và quyết toán ngân sách cấp xã. Tổ chức kiểm tra quản lý các cơ quan, đơn vị thụ hưởng ngân sách nhà nước. Cấp huyện, phối hợp với các cơ quan chức năng quản lý công tác thu chi theo quy định. Chủ trì phối hợp với các phòng ban chức năng xây dựng quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế-xã hội hàng năm của huyện, kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn huyện. Tham mưu cho UBND huyện giao chỉ tiêu kế hoạch hàng năm cho các xã và đơn vị thụ hưởng ngân sách, phối hợp với các cơ quan sản xuất kinh doanh cùng xây dựng và thực hiện công tác đăng ký kinh doanh theo nghị định 02/NĐ-CP, Nghị định 51/NĐ-CP của chính phủ. Phòng tài chính kế hoạch huyện là phòng quản lý nghiệp vụ đối với ban tài chính các xã giúp uỷ ban nhân dân huyện quản lý thu ,chi Ngân sách xã theo luật ngân sách nhà nước từ khâu lập , chấp hành và quyết toán Ngân sách xã. Phân tích tình hình thực hiện ngân sách, đề xuất những ý kiến, biện pháp tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách cấp xã có thẩm quyền quyết định. Phòng tài chính huyệm có nhiệm vụ tổ chức, triển khai hướng dẫn các xã thực hiện chế độ chính sách của Đảng và nhà nước quy định về công tác quản lý tài chính, NSX. Thường xuyên chỉ đạo và kiểm tra về công tác nghiệp vụ để đảm bảo cho công tác chi thường xuyên, kịp thời đúng và đủ. Chi đầu tư xây dựng các công trình, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội theo phân cấp cho xã có hiệu quả. Tổ chức đánh giá thực trạng quản lý có Ngân sách xã trong từng thời gian, nghiên cứu đề xuất các giải pháp thích hợp nhằm thực hiện tốt ngân sách nhà nước và chế độ tài chính kế toán tại xã. Phòng tài chính phải báo cáo tình hình quản lý ngân sách huyện xã theo định kỳ lên uỷ ban huyện và sở tài chính. đồng thời phải có giải thích rõ ràng về những khó khăn và thuận lợitrong quá trình thực hiện. Đưa ra các gíải pháp khắc phục khó khăn và khai thác tốt tiềm năng và thế mạnh trên địa bàn huyện. 2.2 Thực trạng công tác quản lý Ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn trong thời gian qua. Năm 1997 là năm đầu tiên luật ngân sách nhà nước có hiệu lực thi hành trên toàn quốc. Cho đến nay luật ngân sách nhà nước đã được sửa đổi và bổ sung nhiều lần cho phù hợp với tình hình thực tế, yêu cầu của quản lý nhà nước và năm 2004 là năm áp dụng luật ngân sách nhà nước sửa đổi. Do địa bàn cách trở, có nhiều xã xa trung tâm nên lực lượng cán bộ xã chưa đủ mạnh, trình độ chuyên môn nghiệp vụ tài chính của đội ngũ cán bộ xã chưa bắt kịp nhịp độ triển khai Ngân sách xã, chưa nắm bắt được sự thay đổi giữa luật ngân sách nhà nước cũ với luật ngân sách nhà nước mới (sửa đổi và bổ sung) cũng nhựư phát triển của khoa học công nghệ. Qua thực tế thực hiện phân cấp quản lý Ngân sách xã theo luật ngân sách nhà nước, công tác quản lý NSX trên địa bàn huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan. Hầu hết các xã trong huyện đều nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa, nội dung của quản lý Ngân sách xã theo luật ngân sách nhà nước. Các xã đã bước đầu cải tổ sắp xếp lại ban tài chính xã, xác định rõ chức danh kế toàn Ngân sách xã trong bộ máy cán bộ xã. Chính quyền ở xã dần dần đã thay đổi cách nghĩ, cách làm, từ chỗ thụ động, trông chờ vào ngân sách cấp trên nay đã chủ động bàn biện pháp khai thác nguồn thu, nuôi dưỡng nguồn thu, phát huy tối đa thế mạnh của từng xã để tăng thu, chú trọng quản lý giám sát chặt chẽ các khoản thu, sửa đổi cơ cấu chi nhằm hướng tới ngày càng phù hợp hơn với nhiệm vụ quản lý nhà nước ở cấp chính quyền cơ sở được giao. Quản lý thu, chi đều dựa trên cơ sở nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội …được giao. Dưới đây là toàn bộ thực trạng công tác quản lý Ngân sách xã của huyện Nam Đàn trong ba khâu: lập, chấp hành và quyết toán Ngân sách xã trong thời gian qua. 2.2.1. Lập dự toán Ngân sách xã. Để việc chấp hành và quyết toán NSX được thực hiện theo đúng quy định của luật ngân sách nhà nước, và các văn bản, thông tư hướng dẫn của Bộ tài chính thì trước hết phải tôn trọng khâu “lập dự toán Ngân sách xã”. Lập dự toán Ngân sách xã là tiền đề cực kỳ quan trọng để thực hiện tiếp hai khâu sau. Nhận thức được điều này các xã trên địa bàn huyện đã tiến hành tuân thủ qui trình lập dự toán theo quy định của luật ngân sách nhà nước. Lập dự toán ngân sách gồm hai phần đó là: Dự toán thu ngân sách được phân cấp cho xã quản lý và dự toán chi ngân sách, trong đó có dự toán chi chi tiết cho chi thướng xuyên và chi đầu tư phát triển. Trên cơ sở hướng dẫn của thông tư số 60/2003/TT-BTC ngày 23 tháng 6 năm 2003 của Bộ tài chính về việc hưỡng dẫn quản lý Ngân sách xã và các hoạt động tài chính khác của xã, phường, thị trấn. Phòng tài chính huyện cùng uỷ ban nhân dân huyện đã hướng dẫn 24 xã, thị trấn của huyện Lập dự toán Ngân sách xã hàng năm, đồng thời hướng dẫn các xã thực hiện mở tài khoản thu- chi ngân sách và các khoản thu chi của xã tại uỷ ban nhân dân huyện Nam Đàn. Trước đây việc Lập dự toán ngân sách chỉ mang tính hình thức chứ không làm căn cứ điều hành. Nhưng sau khi thực hiện luật ngân sách nhà nước, nhận thức được việc quản lý Ngân sách xã phải được tổ chức quản lý từ khâu Lập dự toán, chấp hành và quyết toán Ngân sách xã. Công tác Lập dự toán ngân sách háng năm dần đi vào nề nếp. Ban đầu , việc Lập dự toán Ngân sách xã chi tiết đầy đủ theo mục lục ngân sách nhà nước, áp dụng chế độ kế toán ngân sách mới, quản lý Ngân sách xã qua kho bạc nhà nước đối với các xã vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, không khỏi lúng túng khi xây dựng dự toán thu, chi cho Ngân sách xã. Nhưng cho đến nay đã trai qua 4 năm thực hiện luật ngân sách nhà nước công tác Lập dự toán Ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn về cơ bản đã chấp hành tốt, cùng với sự hướng dẫn và chỉ đạo cơ quan tài chính cấp trên và sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ cán bộ trong ban tài chính xã và ngân sách xã, đặc biẹt là kế toán Ngân sách xã, các xã trong huyện đã tiến hành Lập dự toán ngân sách một cách khoa học, hợp lý hơn và tuân thủ theo biểu mẫu quy định. Dự toán chi Ngân sách xã đã được tính toán phân bổ theo mục lục ngân sách, tạo cơ sở cho công tác kiểm soát thu chi Ngân sách xã của Kho Bạc. Hàng năm căn cứ vào quyết định của chính phủ, thông tư hướng dẫn của Bộ tài chính và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của nhà nước, địa phương, uỷ ban nhân dân tỉnh hướng dẫn chính quyền xã Lập dự toán Ngân sách xã. Ban tài chính và ngân sách xã có trách nhiệm Lập dự toán Ngân sách xã theo mục lục ngân sách và biểu mẫu do Bộ tài chính quy định để UBX xét trình HĐND xã thảo luận và quyết định. Dự toán thu gồm: Các chương, loại, khoản, nhóm, tiểu nhóm, mục và tiểu mục theo quy định của mục lục ngân sách nhà nước và luật ngân sách nhà nước. Dự toán các khoản thu của Ngân sách xã được xã xây dựng trên cơ sở các chi tiêu sản xuất kinh doanh của đia phương theo đúng các luật thuế và chế độ hiện hành, có tính đến yếu tố trượt giá và dự toán thu thường được lập dự toán ngân sách lớn hơn dự toán chi (hoặc bằng chứ không nhỏ hơn) và lớn hơn hoặc bằng tốc độ tăng thu hàng năm. Số tăng hay giảm thu so với năm trước phải được giải thích rõ ràng. Hướng phấn đấu của các xã hiện nay là cố gắng tự cân đối thu và chi ngân sách trên địa bàn, đặc biệt hạn chế trường hợp có số giao thu bổ sung rồi mà vẫn còn thiếu hụt do thu thường xuyên (gồm các khoản thu 100% Ngân sách xã hưởng và khoản thu phân chia theo % với ngân sách cấp trên) nhỏ hơn chi thường xuyên, phải cắt giảm số chi thường xuyên tương ứng với số thiếu hút đó (với các khoản chi chưa thực sự cần thiết) hoặc tăng dự toán thu thường xuyên (với các khoản mà nguồn huy động vẫn còn có khả năng tăng thu). Các xã đều cố gắng tự cân đối thu chi Ngân sách xã mình và hạn chế việc xin bổ sung từ ngân sách cấp trên, chỉ thực hiện khi thực sự cần thiết và tuỳ theo mục đích nhất định đối với các xã còn nghèo, khó khăn, gặp rủi ro không lường trước được như: Thiên tai, dịch bệnh… Đối với khoản thu do đóng góp tự nguyện của nhân dân để đầu tư và lo việc chung cho chính quyền xã là khoản không mang tính thường xuyên nên được các xã ghi ghi chú trong dự toán, không tổng hợp vào số thu trong ngân sách. Do địa bàn quản lý rộng, thêm vào đó có một số cán bộ kế toán Ngân sách xã ở vài xã trên địa bàn huyện mới chỉ được bồi dưỡng kiến thức sơ qua, tập huấn ngắn ngày. Một số cán bộ kế toán Ngân sách xã vào làm việc dựa trên cơ sở quen người, biết việc chứ chưa nắm rõ nghiệp vụ kế toán Ngân sách xã, chưa nắm bắt được kịp thời các chính sách, chế độ kế toán mới áp dụng đối với xã. Nên việc nhận thức coi thường, nhiều khi còn làm cho đầy đủ thủ tục. Theo thông lệ chế độ kiểm tra giám sát thu chi Ngân sách xã qua kho bạc nhà nước vẫn còn mới mẻ đối với một số cán bộ kế toán Ngân sách xã trên địa bàn. Trong một số công việc, như mở tài khoản, thanh toán chuyển khoản...Do vậy việc Lập dự toán ngân sách và gữi dự toán ngân sách ở một số xã đó còn chậm so với thời gian quy định. Bên cạnh đó vấn đề tôn trọng nguyên tắc minh bạch và công khai tài chính theo quyết định 192/2004/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ và thông tư 03/2005/TT-BTC ngày 6/1/2005 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành quyết định 192 vẫn chưa được thực hiện triệt để. Mặc dù uỷ ban nhân dân huyện, xã thông báo bằng văn bản cho Đảng uỷ, các tổ chức chính trị - xã hội ở xã và trưởng các thôn, thông bảo trên các phương tiện truyền thông đến cơ sở song xã thực hiện không đầy đủ, chỉ làm cho qua chuyện với các con số trong dự toán và các khoản thu chi, tỷ lệ phân bổ các khoản thu…mà chỉ đọc qua loa qua hội nghị, qua đài truyền thanh xã một vài lần là xong chuyện. Tóm lại, còn một số xã trong huyện chưa chú trọng công tác lập dự toán ngân sách dự toán Ngân sách xã mà chỉ làm theo hình thức lấy lệ, vẫn đề công khai tài chính ở một số xã chưa được thực hiên triệt để, chỉ làm để lấy hình thức. Nhưng phần lớn các xã đều nhận thức được việc quản lý Ngân sách xã phải được tổ chức quản lý từ khâu Lập dự toán, chấp hành và quyết toán Ngân sách xã trở đi. Bởi vì thông qua việc Lập dự toán ngân sách dự toán Ngân sách xã, xã mới thực hiện tốt được hai khâu còn lại và hơn nữa xã mới có thể thực hiên thu đúng, thu đủ, chi đúng chế độ chính sách, nhiệm vụ được giao đã có trong dự toán, đồng thời góp phần giảm bớt việc chi sai chế độ hiện hành làm lãng phí tiền của ngân sách. Bên cạnh đó nhiều xã đã tuân thủ đúng quy chế công khai tài chính theo văn bản pháp luật hiện hành, gây được lòng tin trong nhân dân, tránh được tình trạng sử dụng tiền của ngân sách sai mục đích, thu sai đối tượng chế độ, định mức theo quy định của nhà nước. 2.2.2 Chấp hành dự toán Ngân sách xã. Hàng năm, xã phải tổ chức chấp hành dự toán Ngân sách xã theo đúng quy định của điều khoản về luật NSNN và các thông tư hướng dẫn chấp hành dự toán Ngân sách xã. Có thể nói chấp hành dự toán Ngân sách xã thực chất là việc tổ chức thực hiện theo đúng dự toán ngân sách mà xã đã xây dựng. Trong đó để tổ chức thu và thực hiện chi Ngân sách xã ở khâu chấp hành dự toán là công việc vô cùng quan trọng phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu, nguyên tắc trong thu, chi ngân sách là thực sự cần thiết cho công tác quản lý Ngân sách xã. Cần phải sử dụng đồng bộ và thống nhất các biện pháp nhằm động viên khai thác tối đa các nguồn thu trên địa bàn và phân phối nguồn thu đó làm sao cho có hiệu quả và hợp lý. Điều này đòi hỏi xã phải có những biện pháp tổ chức thật cụ thể, linh hoạt, tự lực tự cường, khai thác tiềm năng và thế mạnh của địa phương, phát huy tối đa nội lực và tranh thủ sự hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức để khắc phục và tăng nguồn thu cho Ngân sách xã. Bước đầu thực hiện Luật NSNN (có sửa đổi bổ sung) và thực hiện phân cấp quản lý Ngân sách xã theo Luật, công tác chấp hành dự toán Ngân sách xã trên địa bàn huyện đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Việc làm đầu tiên và thực sự cần thiết trong khâu chấp hành dự toán Ngân sách xã là Ban Tài chính xã và ngân sách xã tiến hành lập dự toán Ngân sách xã quý, có chia ra chi tiết cho các tháng để thực hiện và quản lý, sau đó trình UBND xã duyệt. Đây cũng là cơ sở để ngân sách cấp trên và KBNN kiểm soát quá trình thu chi ngân sách của các xã. Với đặc thù, xã vừa là đơn vị dự toán ngân sách vừa là đơn vị thụ hưởng ngân sách (tự quyết định, tự chuẩn chi), có nhiều khoản thu nhỏ lẻ ít tiền, chi tiêu nhiều việc đột xuất, tạp vụ, tiếp khách, hội nghị....Có những xã xa trung tâm, KBNN Huyện, đường xá đi lại xa xôi cách trở nên có những khoản tiền bị ứng đọng trong túi cán bộ thu nhiều ngày và do địa bàn quản lý khá rộng nên KBNN Huyện Nam Đàn chưa thể tổ chức đến từng cụm xã để tạo điều kiện cho những xã này thi hành đúng luật, đúng chế độ. Nhìn chung có thể khái quát quá trình tổ chức thu và tổ chức chi Ngân sách xã trong khâu chấp hành dự toán ngân sách của xã trong khâu chấp hành dự toán ngân sách của xã trên địa bàn huyện Nam Đàn trong 2 năm qua (2003-2004) như sau: 2.2.2.1. Tình hình tổ chức, quản lý thu ngân xã trên địa bàn . Nguồn thu Ngân sách xã của huyện Nam Đàn còn rất hạn hẹp, phần lớn thu từ nông nghiệp, nguồn thu mang tính chất mùa vụ. Để Ngân sách xã đủ mạnh, có khả năng tự cân đối thu, chi ngân sách và đảm bảo phương tiện vật chất để chính quyền xã thực hiện chưc năng, nhiệm vụ của mình theo luật định . Đồng thời tự cân đối để chi đầu tư phát triển góp phần xây dựng nông thôn mới. Đưa nông thôn ngày càng gần với thành thị nâng cao đời sống người dân khu vưc nông thôn. Nam Đàn đã và đang tăng cường củng cố công tác quản lý thu Ngân sách xã trên địa bàn huyện một cách tích cực.(xem bảng 1 và2). Bảng 1: Tình hình thu Ngân sách xã của huyện Nam Đàn. Đơn vị : Triệu đồng Nội Dung Năm Dự toán Thực hiện So sánh DT/TH Số tuyệt đối Số tương đối (%) 2003 29.111 34.033 4.922 116,90 2004 31.279 34.175 2896 109,26 (Nguồn: Phòng Tài Chính- Kế hoạch huyện) Bảng 2: Tình hình thực hiện thu Ngân sách xã của huyện Nam Đàn. Đơn vị tính : Triệu đồng Năm Nội Dung 2003 2004 Thực hiện Tỷ trọng(%) Thực hiện Tỷ trọng(%) Tổng thu 34.033 34.175 Thu 100% 15.556 45,71 16.989 49,71 Thu điều tiết 3.233 9,50 4.416 12,92 Thu bổ sung 15.244 44,79 12.770 37,37 (Nguồn : Phòng Tài chính – Kế hoạch Huyện Nam Đàn) Nhìn chung các xã trên địa bàn Huyện Nam Đàn đã cố gắng tích cực trong công tác tổ chức và quản lý thu Ngân sách xã trên dịa bàn, Kết quả đạt được trong 2 năm qua ( năm 2003, 2004) là tương đối khả quan và đáng mừng ( xem bảng 1 và 2). Cả 2 năm đều thu vượt dự toán Ngân sách xã. Thể hiện : Năm 2003 thu NSX đạt 116,90% so với dự toán ban đầu, như vậy vượt 16,9% so với kế hoạch, về số tuyệt đối là 4922 triệu đồng. Năm 2004 thu Ngân sách xã đạt 109,26% so với con số dự toán đặt ra và tăng 9,26% so với dự toán, về số tuyệt đối là 2.896 triệu đồng. Xét về tổng thể là như thế nhưng về cơ cấu các khoản thu (bảng 2) sang năm 2004 khoản thu 100% để lại tại xã đạt 49,71% trên tổng thu Ngân sách xã, tăng 4% so với năm 2003. Đây là con số tương đối khả quan vì các xã đã nhận thức được tầm quan trọng của khoản thu mang tính định hướng chiến lược lâu dài này. Khoản thu điều tiết với Ngân sách cấp trên năm 2004 tăng 3,42% so với năm 2003 và số tuyệt đối là 1.183 triệu đồng. Khoản thu bổ sung từ Ngân sách cấp trên năm 2004 tuy có giảm so với năm 2003 nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu Ngân sách xã, thể hiện năm 2003 là 44,79% trên tổng thu Ngân sách xã, năm 2004 chiếm 37,37 % trên tổng thu Ngân sách xã. Về số tuyệt đối thì khoản thu bổ sung từ Ngân sách cấp trên năm 2004 là 12.770 triệu đồng, năm 2003 là 15.244 triệu đồng. Như vậy năm 2004 khoản nay đã giảm được 2.474 triệu đồng so với năm 2003. Con số này nói lên rằng Ngân sách các xã trên địa bàn đã ngày càng chú trọng tới các khoản thu khác, không ngồi chờ sự cấp phát của Ngân sách cấp trên, đã chủ động trong thu Ngân sách xã và ngày càng tiến tới tự cân đối thu chi Ngân sách cấp mình. Để đi sâu và tìm hiểu tình hình tổ chức và quản lý thu NSX ở huyện Nam Đàn được rõ hơn ta sẽ đi vào phân tích 1 số nguồn thu chủ yếu sau đây. * Thu 100% của Ngân sách xã: Đây là nguồn thu mang tính định hướng chiến lược lâu dài, ổn định, là nguồn thu cơ bản và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu của Ngân sách xã. Khoản thu này có chiều hướng ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng thu NSX trên địa bàn huyện trong thời gian qua. Chính vì vậy mà Đảng uỷ và UBND các xã đã có nhiều biện pháp quản lý và khai thác có hiệu quả nguồn thu này. Bảng số liệu sau sẽ minh chứng cho những nhận định trên (bảng 3) Năm 2003 chiếm 45,71% trong tổng thu Ngân sách xã. Năm 2004 chiếm 49,71% trong tổng thu Ngân sách xã. So sánh các khoản thu 100% này cho thấy hầu hết các khoản thu tằng như thuế môn bài tăng 72 triệu đồng, phí, lệ phí tăng 92 triệu đồng, thu khác tăng 92 triệu đồng. Song khoản đóng góp của dân năm 2004 giảm so với năm 2003 là -544 triệu đồng, lý do của sự giám sút này là năm 2003 là năm các xã tranh thủ sự hỗ trợ của UBND Tỉnh trong việc làm đường cứng nông thôn, nên năm 2003 các xã thu từ dân để thực hiện bê tông hoá giao thông nông thôn, thực hiện chủ trương Nhà nước và Nhân dân cùng làm. Khoản thu từ Thuế môn bài. Khoản thu này những năm qua vẫn chiếm 1 tỷ lệ khá khiêm tốn trong tổng số thu Ngân sách xã. Những năm 2003 khoản thu này là 117 triệu đồng đạt 69,23 % so với kế hoạch đặt ra và năm 2004 là 189 triệu đồng đạt 125,17% so với kế hoạch tăng 61,54% so với năm 2003, đây là con số đáng mừng trong khâu tổ chức thu và quản lý thu, tuy số tuyệt đối năm 2004 tăng 72 triệu đồng so với năm 2003 nhưng nó phản ánh sự cố gắng tích cực trong quản lý thu của các xã. Tuy vậy nó vẫn chưa phản ánh đúng thực trạng nguồn thu so với khả năng có thể khai thác trên địa bàn Huyện. Do tính chất phức tạp của khoản thu này mà công việc quản lý nó rất khó khăn vì các cá nhân, hộ kinh doanh nhỏ thưòng ít khai báo, đăng kí kinh doanh. Theo điều tra sơ bộ trên địa bàn Huyện thì thực tế chỉ mới thu được khoảng 70 đến 75% số hộ kinh doanh nhỏ lẻ. Nếu ta tính bình quân số thu của các hộ kinh doanh như nhau ta thấy thuế môn bài thất thu tương đối lớn. Nếu năm 2003 và năm 2004 số không thu được là 30% thì số thuế thất thu sẽ là : Năm 2003: 30% x 117 = 35,1 triệu đồng Năm 2004 : 30% x 189 = 56,7 triệu đồng Đây là vướng mắc không chỉ trên địa bàn Huyện Nam Đàn mà còn là trên nhiều Huyện khác, thậm chí là trên cả nước. Trong thời gian tới Huyện cần có những biện pháp đẩy mạnh công tác quản lý khoản thu này nhằm, hạn chế thất thu cho Ngân sách xã. Khoản thu từ phí, lệ phí: Xã cung cấp các dịch vụ cho nhân dân mà chi phí để bù đắp cho hoạt động này là từ phí và lệ phí mà xã được hưởng theo nguyên tắc hoàn trả trực tiếp. Quản lý khoản thu này được các xã trên địa bàn triể khai theo đúng sự hướng dẫn của cấp trên( tỉnh, huyện) nhằm quản lý thống nhất các nguồn thu. Thực tế 2 năm qua cho thấy: Năm 2004 thu đạt 114,16% so với năm 2003 và số chênh lệch là95 triệu đồng và chiếm 4,5% trong tổng thu 100% tại xã năm 2004. Có nhiều xã thự hiện công tác thu và quản lý thu phí , lệ phí tốt như: xã Khánh Sơn( dự toán giao năm 2004 là 39 triệu đồng, thực hiện 42 triệu đồng). Xã Nam Giang (dự toán giao năm 2004 là 88 triệu đồng, thự hiện 94 triệu đồng) ………… Bên cạnh đó còn nhiều xã vẫn còn buông lỏng việc quản lý, chưa thực sự tân thu cho Ngân sách xã như: Xã Xuân Lâm( dự toán năm 2004 giao 3 triệu đồng, thực hiện 1,34 triệu đồng). Xã Nam Cát (dự toán năm 2004 giao thu 8 triệu đồng, thực hiện 5,5 triệu đồng). Xã Nam Cường (dự toán năm 2004 giao thu 20 triệu đồng, thực hiện 17,45 triệu đồng). Hiện nay vẫn còn hiện tượng chưa sữ dụng chứng từ của cơ quan thuế khi thu. Sổ sách theo doi chưa đúng với qui định, không được theo dỏi kế toán chặt chẽ dẫn tới thất thu là điều hiển nhiên. Các qui định của nhà nước các xã này thực hiện chưa nghiêp túc. Do vậy trong nhưng năm tiếp theo cần phải thống nhất các khoản thu phí, lệ phí theo qui định của nhà nước, đồng thời phải theo dõi, kiểm tra việc sử dụng chứng từ, vào sổ kế toán một cách chặt chẽ nhằm tăng thu cho Ngân sách xã. Khoản thu đóng góp của dân: Những năm gần đây trên địa bàn huyện các xã đã và đang đẩy mạnh việc huy động các nguồn thu do dân đóng góp để xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, các công trình kết cấu hạ tầng thuộc xã quản lý như: Trạm xá, trường học, làm dường bê tông, xây dựng khu văn hoá xã, nhà văn hoá xóm……….. Đặc biệt năm 2003 có chương trình kiên cố hoá kênh mương, xoá phòng học tạm bợ, bê tông hoá giao thông nông thôn, khoản thu này mang ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Vì thế mà số thu từ khoản thu này là rất lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu Ngân sách xã 100%. Thực hiện phương châm”nhà nước và nhân dân cùng làm”, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Chính quyền, các đoàn thể đã tuyên truyền vận động, thuyết phục mọi người dân trong xã đóng góp vì lợi ích chung của xã, của con em trong xã, đồng thời tranh thủ sự hổ trợ của chính quyền cấp Tỉnh, huyện trong công cuộc đổi mới nông thôn. Do vậy trong 2 năm qua (2003-2004) nguồn thu do dân đóng góp rất lớn và không chỉ đạt mà còn vượt kế hoạch đề ra. Thể hiện: Năm 2003 thu từ nguồn đóng góp của nhân dâ._.hành dự toán NSX: Các xã phải tổ chức thực hiện dự toán đúng quy định của điều khoản về luật ngân sách và nghị định, thông tư của Chính Phủ hướng dẫn chấp hành dự toán NSX. Nghiệp vụ quản lý tài chính NSX đòi hỏi phải chặt chẽ phù hợp và không được trái với các điều luật, các văn bản quy chế về quản lý NSX trong khâu chấp hành dự toán NSX. Quỹ NSNN phải được quản lý tại KBNN, mở tài khoản NSX tại KBNN huyện để hạch toán khớp đúng với thu, chi NSNN. Việc chấp hành dự toán chi NSX phải đảm bảo nguyên tắc: Kinh phí đã được ghi trong dự toán năm và kế hoạch hàng tháng chi tiêu tuỳ thuộc vào số thu của NSX. Nghiệp vụ quản lý chi tiêu, xuất quỹ NSX phải quy định rõ ràng đúng quy định của luật ngân sách. Kế toán và quyết toán NSX: Ban tài chính và ngân sách xã có trách nhiệm thực hiện công tác hạch toán kế toán và quyết toán NSX theo mục lục NSNN áp dụng đối với cấp xã và chế độ kế toán NSX hiện hành (Theo quyết định 130/2003/QĐ-BTC ngày 18/8/2003 của Bộ Tài chính và công văn số 1139KB/KT ngày 11/9/2003 của KBNN TW về việc ban hành chế độ kế toán hiện hành); thực hiện chế độ báo cáo kế toán và quyết toán theo quy định. KBNN huyện nơi giao dịch thực hiện công tác kế toán thu, chi quỹ NSX theo quy định. Thời gian chỉnh lý quyết toán NSX hết ngày 31/1 năm sau. Cần phối hợp với KBNN huyện đối chiếu lại tất cả các khoản thu, chi NSX trong năm đảm bảo hạch toán đầy đủ, chính xác các khoản thu, chi theo mục lục NSNN áp dụng đối với xã, kiểm tra lại số thu được phân chia giữa các cấp ngân sách theo tỷ lệ quy định. Những khoản chi trong trường hợp cần thiết phải chi nhưng chưa chi được do nguồn thu tập trung chậm thì được phép chi hết ngày 15/1 năm sau. Ban tài chính và ngân sách xã phải tiến hành lập báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách hàng năm trình UBND xã xem xét để trình HĐND xã phê duyệt, đồng thời gửi phòng tài chính huyện để tổng hợp, gửi báo cáo quyết toán năm cho phòng tài chính chậm nhất ngày 15/2 năm sau. Quyết toán chi NSX không được lớn hơn quyết toán thu NSX. Kết dư NSX là số chênh lệch lớn hơn giữa số thực thu và số thực chi NSX. Phòng tài chính huyện có trách nhiệm kiểm tra báo cáo quyết toán chi NSX, nếu có sai sót phải báo cáo cho UBND huyện yêu cầu HĐND xã điều chỉnh lại. 3.2.2.2. Tăng cường cải tạo, nuôi dưỡng nguồn thu và cơ chế quản lý nguồn thu NSX. Muốn nguồn lực tài chính đủ mạnh để thực hiện các chức năng nhiệm vụ cho bộ máy chính quyền ở xã đòi hỏi phải tăng cường cải tạo, nuôi dưỡng nguồn thu NSX. Cần phải triệt để khai thác các nguồn thu và quản lý chặt chẽ nguồn thu cho NSX. Để phát triển nguồn thu cho NSX ngoài việc phải tận dụng khai thác những tiềm năng hiện có, xã cần phải có biện pháp nuôi dưỡng và tạo nguồn thu bằng cách xây dựng chợ, bến bãi…Dành một phần vốn ngân sách cho đầu tư khoa học kỹ thuật trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở xã… Trong phần thực trạng công tác tổ chức quản lý thu, chi ngân sách trên địa bàn trong thời gian qua cho thấy thực tế số thu NSX trên địa bàn huyện Nam Đàn chưa phản ánh hết nguồn thu vào NSNN, cụ thể: Với khoản thu môn bài hộ nhỏ: Với số liệu phân tích cho thấy tình trạng thất thu thuế còn quá lớn. Do nhân dân cố tình trốn thuế, còn tình trạng dây dưa kéo dài thời gian nộp, cố tình làm sai giảm số thu thuế đã nộp. Nhà nước cần có biện pháp giao cho chính quyền xã thành lập một đội tuyên truyền vận động để các đối tượng nộp thuế hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của người nộp thuế, hạn chế bớt sự thất thu thuế hàng năm làm giảm đáng kể nguồn thu của NSX. Đồng thời phải nghiêm minh xử lý các đối tượng vi phạm, trốn lậu thuế. Về thu hoa lợi công sản: Trên địa bàn làm chưa được tốt, cần đẩy mạnh hơn nữa quản lý nguồn thu này cho NSX. Đặc biệt trên địa bàn huyện co nhiều xã co mặt nước ao hồ, đồi trống….. rất phù hợp cho việc phát triển kinh tế theo VAC nên Có thể thực hiện hình thức khoán thu hoặc đấu thầu những diện tích và đồi núi này dể cho nhân dân thực hiện lam kinh tế ngay tại quê hương, nhưng thời gian đấu thầu tối đa quy định không quá 20 năm. Vừa đảm bảo cho người dân có thể cải thiện được cuộc sống lại vừa có thể tăng thu cho ngân sách xã. Những diện tích đất công ích, hàng cây lâu năm, những đầm, hồ, ao…nằm ở địa phận xã nào thì giao cho xã ấy quản lý để tiện chăm sóc, bảo quản và trực tiếp đấu thầu. Mức đấu thầu chọn gói, người thầu khoán chỉ nộp một khoản tiền thầu duy nhất theo cốt đất cao hay trũng, vị trí địa lý, đất đẹp hay xấu có định mức khác nhau. Về phí và lệ phí: Khoản thu nay thường là rất khó quản lý vì nó vừa nhỏ lại nhiều nên chăng lấp ra một đội bộ phận chuyên quản lý khoản thu này bàng hình thức đấu thầu theo số thu nhất định và định kỳ nộp cho ngân sách xã .Đặc biệt với các khoản thu lệ phí chợ ,thu phí thu trông giữ xe đạp ,máy …nên thành lập một đội quản lý và giao khoán số thu hợp lí .Với phí cầu, đường, bến bãi, đò phà khoán số thu cho cá nhân và có sự kiểm tra của chính quyền cơ sở. Hoặc có thế quan lý khoản thu này theo hình thức bán biên lai thu phí và quản lý theo số biên lai và số cuống vé. Các khoản thu khác: Như thu thanh lý khấu hao máy móc thiết bị, thu sự nghiệp giáo dục, y tế,văn hoá, bán tài sản, đền bù đất, dịch vụ du lịch, tài sản bị tịch thu …cần được quản lý cụ thể nộp vào ngân sách sau khi đã trừ chi phí .Đối với khoản đóng góp của nhân dân phải được HĐND xã phê duyệt và quản lí công khai, đầu tư thích đáng mang lại hiệu quả cao . Đối với khoản thu điều tiết: Cần phải tăng thêm các khoản thu điều tiết cho NSX từ các loại thuế để đảm bảo các khoản chi thường xuyên cho bộ máy cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân hoạt động bình thường và có hiệu quả . Đối với thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế nhà đất, do luôn có biến động thay đổi diện tích nên việc điều tra và theo dõi diện tích để đưa vào sổ quản bộ quản lý thu thuế là công tác quan trọng của chính quyền xã và đội thuế. Cần phải luôn phối hợp chặt chẽ cùng cán bộ xã, nắm chắc từng diện tích, từng hạng đất. Công tác triển khai thu cũng là vấn đề cực kì quan trọng đối với Nam Đàn, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp nên thu chủ yếu tập trung vào mùa vụ sau mỗi vụ thu hoạch .Vì thế từ khi chuẩn bị bước vào thời điểm thu, xã phải nắm chắc diện tích chịu thuế theo sổ bộ thuế từng xã, phân công cán bộ xã, cán bộ thuế quản lý từng địa bàn. Căn cứ theo thông báo số phải nộp của từng hộ để tổ chức triển khai thực hiện thu nộp thuế trực tiếp cho đôi thuế xã .Việc chấm sổ bộ theo dõi thu nôp thuế phải chặt chẽ, có thông tin giữa đội thuế xã và xã về các hộ cố tình dây dưa việc nộp thuế để có biện pháp xử lý . Đối với thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế tài nguyên, thuế giá trị gia tăng cần được trú trọng khai thác, tận thu để góp phần ngày càng tăng thu cho ngân sách xã từ những khoản thu này .Tóm lại, đảng ủy HĐND, UBND xã phải coi công tác quản lý thu thuế, phí, lệ phí không chỉ riêng nghành thuế mà là của chung toàn xã hội. Sự kết hợp giữa cơ quan thu và chính quyền là cơ sở hết sức quan trọng nhằm hoàn thiện nhiệm vụ thu, chi NSX. 3.2.2.3. Thực hiện đổi mới tăng cường quản lý chi NSX. Trước hết cần có cơ cấu chi ngân sách một cách thích hợp : Thời gian qua chi cho đầu tư phát triển trên địa bàn Nam Đàn còn chiếm tỷ lệ thấp, các khoản chi tiếp khách, hội nghị, vật dụng văn phòng … còn cao, cần thiết phải có sự cân nhắc giữa các khoản chi này đảm bảo triệt để tiết kiệm, hiệu quả. Đảm bảo chi đúng đối tượng, chi đúng kế hoạch, tiêu chuẩn định mức chi của xã. Hiện nay còn tồn tại khoản chi hỗ trợ cho công tác thu trên địa bàn còn cao, không đúng với phạm vi trách nhiệm của xã cần phải khắc phục ngay tình trạng này . Công việc điều hành chi, trước hết cần dựa vào kế hoạch, dự toán được duyệt và nhiệm vụ chi được giao. Trong chi thường xuyên, hàng quý xã phải lập dự toán cụ thể và đầy đủ hồ sơ, thủ tục theo quy định giữa cơ quan tài chính, cơ quan cấp trên xét duyệt. Căn cứ vào khả năng thu NSX, cơ quan tài chính ra thông báo dự toán cho xã. Đảm bảo chi thường xuyên phải tuân thủ đúng theo quy định của nhà nước, chỉ đựơc phép chi khi khoản đó đã có trong dự toán được duyệt, chi đúng chế độ, định mức được giao, đựơc chủ tài khoản chuẩn chi. Trong chi đầu tư phát triển, quản lý khoản chi này phải đảm bảo đúng các nguyên tắc tài chính, không giàn đều mà có sự lựa chọn, tập trung đầu tư các công trình trọng điểm, không chắp vá đảm bảo chất lượng tuổi thọ công trình và phục vụ ngày một tốt hơn cho nhu cầu sử dụng của nhân dân trên địa bàn xã. Thực hiện bàn bạc dân chủ, thống nhất các khoản chi, thu một cách công khai theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” nhằm tránh tình trạng tiêu cực, giữ đoàn kết nội bộ, tạo niềm tin với nhân dân. Nội dung công khai: Dự toán thu chi NSX: Sau khi dự toán thu chi NSX đựơc cấp trên phê chuẩn UBND xã thực hiện việc công khai chi tiết các khoản thu, chi NSX trong năm của địa phương để cán bộ, Đảng viên và nhân dân biết được kế hoạch thu chi NSX, thông báo đó để thực hiện chức năng giám sát và cùng có trách nhiệm trong việc xây dựng dự toán NSX. Quyết toán thu chi ngân sách năm: Sau ngày 31 tháng 2 hàng năm UBND xã hoàn chỉnh số liệu để báo cáo kết quả thu chi NSX với cấp trên, các thành viên UBND xã, hội nghị ban chấp hành đảng bộ và trình HĐND xã ; báo cáo công khai trước hội nghị đảng bộ và nhân dân trong xã. Tiếp thu ý kiến của nhân dân như: Kinh nghiệm quản lý và khai thác nguồn thu trên địa bàn nguồn thu còn xót, nên tiết kiệm chi nghiệp vụ như thế nào, đầu tư như thế nào là đúng mức và hợp lý. 3.2.2.4.Công tác thanh tra, kiểm tra trong quản lý NSX phải được tiến hành thường xuyên. Luôn coi trọng công tác kiểm tra nội bộ và kiểm tra hành chính đẩy mạnh mọi hoạt đông thu chi NSX, kiểm tra từ thấp đến cao, từ chi tiết đến cụ thể , từ trên xuông dưới … nhằm phát hiện ra những mặt yếu kém trong quản lý NSX, uốn nắn kịp thời và gắn việc xây dựng phát triển NSX với xây dựng Đảng, củng cố chính quyền cơ sở, làm trong sạch đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở. Chủ tài khoản (chủ tịch xã hoặc người được uỷ quyền) phải xem xét cân nhắc thật kĩ các chứng từ, số thu chi và thực tế hoạt động phát sinh trước khi ký các quyết định chuẩn chi hay chuẩn thu để kịp thời phát hiện và ngăn chặn những sai trái trong thu chi như: Chi sai chế độ, chính sách, vượt chỉ tiêu định mức, tránh hiện tượng tham ô lãng phí, triệt để thu và nâng cao hiệu quả chi. Kế toán NSX và thủ quỹ cũng cần kiểm tra lại các chứng từ trước khi nhập quỹ hoặc xuất quỹ để khi phát hiện nếu có sai xót phải báo cáo ngay với chủ tài khoản để kịp thời xử lý. HĐND xã ngoài việc quyết định dự toán và báo cáo quyết toán xã hàng năm còn phải luôn luôn nắm bắt việc quản lý ngân sách đang diễn ra ở xã đó đôn đốc kiểm tra sổ sách kế toán, kiểm tra việc sử dụng quỹ tiền mặt và kiểm tra mọi hoạt động thu chi NSX phát sinh trên địa bàn để có biện pháp điều chỉnh công tác chấp hành NSX. Phòng Tài Chính huyện có nhiệm vụ giúp UBND huyện và Sở Tài Chính (phòng quản lý ngân sách huyện xã) kiểm tra tài liệu báo cáo tiếp nhận từ xã. Phối hợp với cơ quan thuế trong việc quản lý thu NSNN trên địa bàn theo luật định. Phối hợp với kho bạc nhà nước cấp huyện thực hiên cấp phát đầy đủ, kịp thời, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức cho các xã trên điạ bàn . 3.2.3. Giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp. Xã là đơn vị hành chính cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt, đó không chỉ là một đơn vị hành chính về mặt nhà nước mà còn là “ngôi nhà chung” của cộng đồng dân cư. Ngày nay với vai trò, vị trí của cấp xã càng đựơc nâng cao quy mô NSX ngày một lớn dần, để quản lý tốt NSX trong những năm tới chúng ta không thể không quan tâm tới việc xây dựng, tổ chức bộ máy chính quyền xã cũng như tăng cường tổ chức bộ máy quản lý NSX các cấp. Xác định rõ vị trí vai trò NSX vừa là công cụ vừa là phương tiện vật chất để chính quyền xã hoàn thành chức năng và nhiệm vụ được nhà nước và nhân dân giao phó. Đối với cấp tỉnh: Cần có biện pháp để củng cố và tổ chức phòng quản lý ngân sách huyện xã đủ mạnh về chuyên môn, nghiệp vụ, phương tiện, điều kiện làm việc và lực lượng để đủ sức tham mưu cho UBND tỉnh, giúp phòng tài chính các huyện tổ chức quản lý NSX theo luật ngân sách nhà nước và các văn bản chế độ quy định của Trung ương và điạ phương kịp thời, có hiệu quả. Tổng hợp quyết toán NSX của tỉnh chính xác, nhanh kịp thời gửi bộ tài chính. Đối với cấp huyện: Phòng Tài Chính của mỗi huyện cần một tổ chức quản lý NSX, chuyên đảm nhận công việc hướng dẫn, triển khai thực hiện kiểm tra mọi hoạt động thu, chi NSX trên địa bàn huyện theo đúng quy định của luật ngân sách và các văn bản, thông tư hướng dẫn của cấp trên. Định kỳ tổng hợp báo cáo tình hình thu, chi ngân sách của các xã trong toàn huyện. Qua thực tế, đề xuất những biện pháp quản lý NSX với phòng để tham mưu cho UBND huyện chỉ đạo kịp thời, sát với thực tế của địa phương. Đặc biệt đối với huyện Nam Đàn cần phải bố trí thêm nhân sự sao cho phù phù hợp với trình độ và khối lượng công việc. Như số lượng nhân sự như bây giơ (8 cán bộ) thi chưa thể quán xuyến hết cộng việc được giao, phải bố trí làm sao mỗi cán bộ đảm nhận một công việc nhất định và quản lý một số xã nhất định nào đó để họ có trách nhiệm hơn trong công việc, nâng cao hiệu quả công việc. Đối với cấp xã: Ban tài chính và ngân sách có trách nhiêm giúp UBND xã thực hiện quản lý tài chính và NSX theo quy định của nhà nước và sự hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan tài chính cấp trên. Phần lớn cán bộ tài chính của xã đều chưa qua đào tạo chính quy về chuyên môn nghiệp vụ mà chủ yếu là làm công tác kiêm nhiệm. Chủ tài khoản NSX (chủ tịch UBND xã hoặc người được uỷ quyền) nói chung đều chưa qua lớp bồi dưỡng lớp nghiệp vụ kinh tế tài chính. Vì thế trước yêu cầu quản lý hiện nay và trong thời gian tới cần có những biện pháp tăng cường kiện toàn, chuẩn hoá và nâng cao năng lực cho bộ máy quản lý NSX bằng cách tổ chức ngay các lớp bồi dưỡng cán bộ xã bắt buộc các xã nhất thiết phải cử cán bộ xã mình đi học. Đối với cán bộ kế toán NSX phải được bố trí làm việc chuyên môn, ổn định không nên thay đổi nhiều và cần có kế hoạch quy định đào tạo bồi dưỡng nguồn kế cận khi cần thiết phải thay đổi công tác đối với cán bộ NSX; Đồng thời đưa tài liệu về cho các xã đầy đủ, kịp thời để cán bộ xã nắm được tình hình và triển khai ngay. Cần có chế độ đãi ngộ cho nhưng người làm công tác tài chính phù hợp để họ cảm thấy nhân được những gì tương xứng với công lao họ cống hiến, càng không nên thay đổi nhân sự trong ban tài chính khi chưa thực sự càn thiết để họ làm lâu dài thì mới phát huy được những kinh nghiêm trong thực tế của họ. Cần có chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ xã và các cơ quan đơn vị có liên quan trong việc chấp hành cơ chế quản lý NSX theo luật NSNN. 3.2.4. Tăng cường quản lý, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ xã theo kịp sự đổi mới của cơ chế quản lý. Đào tạo, bồi dưỡng và bố trí cán bộ tài chính – kế toán xã là một trong những giải pháp tích cực, góp phần nâng cao năng lực, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ xã để có thể đảm đương được nhiệm vụ của chính quyền xã. Công tác quản lý và phát triển đội ngũ cán bộ xã đi vào nề nếp, chính quy, hiện đại, đảm bảo đúng cơ sở pháp lý và nguyên tắc quản lý cán bộ đảng. Đội ngũ cán bộ xã phải ổn định, chuyên nghiệp, có đủ phẩm chất, năng lực thi hành công vụ, trong sạch, tận tuỵ phục vụ thực sự là cầu nối giữa cộng đồng dân cư trong xã với cơ quan nhà nước cấp trên. Để đạt được mục tiêu trên cần thực hiện các phương án chủ yếu sau: - Đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ xã trên cơ sở sác định rõ hơn các chức năng, nhiệm vụ của bộ máy chính quyền cấp xã trong điều kiện và tình hình nhiệm vụ mới. - Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ xã phải tiến hành đồng bộ cả về xây dựng thể chế, tổ chức, quản lý, chế độ chính sách đãi ngộ. Các loại hình đào tạo có thể lựa chọn gồm: Bồi dưỡng ngắn ngày theo chuyên đề: Loại hình này thường được tiến hành trong khoảng thời gian từ 12 đến 14 ngày với ba nội dung lớn: - Chức trách, nhiệm vụ và cách thức thực hiện một số nhiệm vụ lớn thuộc chu trình NSX. - Phương pháp hạch toán kế toán thu, chi NSX. - Giải đáp thắc mắc cho học viên nên ra và giúp họ sử lý tình huống trong thực tế đã gặp. Loại hình này có điểm ưu việt là: thời gian tập trung ngắn, các nội dung đưa ra vừa sức với trình độ của các xã, như huyện Nam Đàn. Loại hình này có độ hữu dụng cao. Tuy nhiên chỉ coi đây là giải pháp trước mắt mang tính nhất thời để kịp thời đáp ứng yêu cầu quản lý NSX. Đào tạo theo hình thức tại chức ở bậc trung cấp: Loại hình này thường được tiến hành trong 3 năm và chia ra làm nhiều đợt tập trung học trong năm. Mỗi đợt không quá 20 ngày, cán bộ tài chính, kế toán xã vẫn có thể vừa đi học vừa đi làm. Nội dung đào tạo của loại hình này được tiến hành dựa trên nội dung của hệ đào tạo trung cấp tập trung. Nhờ vậy mà người tham gia chương trình đào tạo này có được một hệ thống kiến thức đầy đủ hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý hiện nay ở cấp xã. Có thể coi đây là giải pháp hữu hiệu, nên chọn trong chiến lược đào tạo trung hạn nguồn nhân lực cho NSX nước ta hiện nay. Tuy nhiên muốn thực hiện được cần phải có một cơ chế sử dụng lao động do chính phủ quy định một cách chắc chắn. Hình thức này đang được áp dụng tại trường trung học kinh tế tỉnh Nghệ An tính đến năm 2010, toàn huyện Nam Đàn cố gắng phấn đấu đạt 100% cán bộ xã có trình độ từ trung cấp kế toán trở lên. Đào tạo theo hình thức tại chức bậc đại học: Hình thức đào tạo này trong khoảng thời gian 5 năm với nội dung chương trình của hệ đại học tại chức tài chính – kế toán chuyên ngành tài chính nhà nước. Loại hình đào tạo này mang tính chất cơ bản phục vụ cho mục tiêu chiến lược trung hạn. Thực hiện được việc này chắc chắn chất lượng cán bộ quản lý tài chính NSX đáp ứng được yêu cầu quản lý NSX hiện nay và trong những năm tới. Làm được vấn đề này quan trọng phải có chính sách sử dụng người đào tạo này như các công chức, viên chức nhà nứơc làm việc tại chính quyền cơ sở, để có thể được hưởng theo bằng cấp thì hiệu quả của công tác đào tạo mới mang lại giá trị đích thực. 3.3. Một số ý kiến nhằm góp phần hoàn thiện công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn trong những năm tới. Từ thực trạng trong công tác quản lý NSX trên địa bàn huyện thời gian qua để công tác quản lý NSX có hiệu quả hơn em xin mạnh dạn nêu lên một số ý kiến của riêng bản thân mình như sau: Về tổ chức bộ máy: Theo quy định hiện nay tại xã có một trưởng ban tài chính, một kế toán trưởng theo chức danh chuyên môn. Trưởng ban tài chính xã thường đa số không được qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ tài chính kế toán và thay đổi theo nhiệm kỳ của HĐND, do đó mà công việc chủ yếu đều do kế toán thực hiện, khối lượng công việc ở xã không phải là nhỏ mà lại chỉ có một kế toán phụ trách là hoàn toàn chưa hợp lý. Cần tổ chức bộ máy kế toán xã như sau: một kế toán trưởng và một kế toán viên, trưởng ban tài chính do chủ tịch hoặc phó chủ tịch kiêm nhiệm. Ngoài ra, cần quán triệt đến cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp, ngành tài chính nhất là cấp xã thật sự quan tâm đến công tác quản lý NSX theo luật NSNN.Có sự chỉ đạo thống nhất của cấp uỷ đảng và bộ máy chính quyền tăng cường tập huấn nghiệp vụ. Thường xuyên kiểm tra tránh tình trạng xem nhẹ, khoán trắng cho xã, cho cơ quan tài chính với tư tưởng ngân sách cấp nào cấp ấy đi mà lo nguồn thu, nhiệm vụ chi, xác định mức bổ sung là xong. Sớm có kế hoạch, biện pháp để củng cố, chuẩn hoá, nâng cao năng lực, quy định trách nhiệm, quyền hạn và quyền lợi của các thành viên trong ban tài chính xã, nhất là chế độ đào tạo, sử dụng học sinh các trường đại học, cao đẳng, trung học tài chính về công tác tại xã. Về phân cấp nguồn thu: Theo quy định của luật NSNN thì NSX có thể được phân cấp từ 9 đến 12 khoản thu phân chia nhưng có những khoản thu do xã đảm nhận thu lại không cho xã hưởng. Đề nghị trung ương khi quy định về phân chia nguồn thu nên gắn với công tác quản lý thu. Để đảm bảo các khoản chi thường xuyên cho bộ máy cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân của xã hoạt động bình thường và có hiệu quả cần tăng thêm các khoản điều tiết cho NSX từ các loại thuế. UBND tỉnh chỉ nên quyết định tỷ lệ điều tiết cho từng xã trên cơ sở đề xuất của UBND huyện, như vậy không vi phạm luật ngân sách và dành quyền tự chủ tài chính cho các huyện. Nếu giao cho UBND tỉnh quyết định tỷ lệ điều tiết cho các xã sẽ không sát thực tế dễ xảy ra tình trạng bất bình đẳng giữa các xã trong huyện. Về kiểm soát chi ngân sách: Để thuận tiện trong công tác quản lý và chi ngân sách đề nghị bộ tài chính ban hành định mức chi tiêu cụ thể cho xã như: phương tiện làm việc, định mức chi về hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, phát thanh do xã tổ chức nhằm tránh tình trạng các cán bộ tài chính lợi dụng vao những việc này để rút ruột nhà nước. Về mục lục NSNN: Trên cơ sở hệ thống mục lục ngân sách chung đề nghị bộ tài chính có văn bản cụ thể hoá mục lục ngân sách cho cấp xã để thống nhất việc hạch toán, kế toán thu, chi NSX. Hiện nay mục lục ngân sách còn quá nhiều gây khó khăn trong hạch toán kế toán NSX. Cấp xã vừa là một cấp ngân sách vừa là một đơn vị hạch toán kế toán đặc biệt (cùng một đơn vị nhưng thu, chi ngân sách lại hạch toán ở nhiều chương loại khác nhau). Trên đây là một số ý kiến của bản thân em trong quá trình thực tập tại Phòng Tài Chính – Kế Hoạch huyện Nam Đàn và nghiên cứu thực hiện đề tài “Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An trong những năm tới”. Kết luận Ngân sách xã là một bộ phận cấu thành của ngân sách nhà nước. Thực hiện quản lý NSX theo luật ngân sách nhà nước là một công việc khó khăn và phức tạp, ở đó các hoạt động thu, chi tài chính diễn ra được quản lý chặt chẽ và công khai…vì vậy cần có sự nhận thức đúng mức, đối với các cấp uỷ đảng chính quyền các cấp, ngành tài chính mà trước tiên là ở cấp xã. Sau hơn một năm thực hiện luật ngân sách nhà nước (có sửa đổi, bổ xung), mặc dù gặp nhiều khó khăn, nông sản nông dân làm ra tiêu thụ chậm giá thấp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển chậm. Song trong thời gian qua do thực hiện quản lý NSX theo luật ngân sách nhà nước nên đã có những tác động tích cực góp phần tiếp tục ổn định và phát triển kinh tế xã hội ở cơ sở. Tuy nhiên công tác quản lý NSX theo luật ngân sách nhà nước hơn một năm qua cũng còn không ít những tồn tại vướng mắc, đặc biệt là những thiếu sót trong nhận thức, trong chỉ đạo, điều hành và trong công tác hoàn thiện cơ chế, chính sách trước đòi hỏi của thực tiễn, cần phải nhanh chóng đề ra các giải pháp khắc phục nhằm phát huy hơn nữa vị trí, vai trò của NSX đối với chính quyền cơ sở. Thông qua đề tài: “Hoàn thiện công tác quản lý ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An trong những năm tới”, em muốn nêu lên những kết quả bước đầu và những tồn tại, nguyên nhân trong quản lý NSX, đồng thời trình bày những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác quản lý NSX. Kính mong các thầy giáo, cô giáo và bạn đọc đóng góp những ý kiến phê bình cụ thể, thiết thực để bản luân văn được hoàn thiện, với mong muốn sẽ giúp được phần nào công tác quản lý NSX theo luật ngân sách nhà nước của huyện Nam Đàn, Tỉnh Nghệ An trong những năm tới đạt kết quả tốt hơn. Tài liệu tham khảo. Luật ngân sách nhà nước năm 2002. Các văn bản hướng dẫn thi hành luật ngân sách nhà nước năm 2002. Các tạp chí Tài Chính. Các tạp chí Nghiên cứu kinh tế. Giáo trình Quản Lý Tài chính Nhà Nước – Học Viện Tài Chính. Quyết định 192/2004/QĐ-TTg của Thủ Tướng chính phủ và thông tư số 03/2005/TT-BTC của Bộ Tài chính. Thông tư số 60/2003/TT-BTC của Bộ Tài Chính. Các văn bản, số liệu của phòng tài chính huyện Nam Đàn. Một số tài liệu khác. Mục lục: Lời nói đầu…………………………………………………………. Chương 1: NSX và những vấn đề về NSX………………………… Những vấn đề chung về NSX……………………………… Quá trình hình thành và phát triển của NSX. 1.1.2. Khái niệm,nội dung thu chi của NSX. 1.1.2.1. Khái niệm: 1.1.2.2. Nội dung thu chi của NSX. 1.1.2.2.1 Nguồn thu của Ngân Sách Xã. 1.1.2.2.2 Nhiệm vụ chi của Ngân sách Xã. 1.1.3.Vai trò của Ngân sách xã trong hệ thống ngân sách nhà nước và trong việc phát triển kinh tế nông thôn hiện nay 1.2. Nội dung quản lý Ngân sách xã: 1.2.1. Lập dự toán Ngân sách xã: 1.2.2.Chấp hành dự toán Ngân sách xã. Quyết toán Ngân sách xã: 1.2.4. Công khai Ngân sách xã: 1.2.4.1. Sự cần thiết của công khai minh bạch trong quản lý NSNN ở nước ta trong điều kiện hiện nay. 1.2.4.2 Nội dung công khai ngân sách xã: 1.3. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác Quản Lý Ngân sách xã. Chương 2: thực trạng công tác quản lý Ngân sách xã trên địa bàn huyện nam đàn, tỉnh nghệ an trong trong thời gian qua. 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. 2.1.1 Đặc diểm tự nhiên kinh tế xã hội của huyện Nam Đàn. 2.1.2.Khái quát tổ chức bộ máy của phòng tài chính huyện Nam Đàn: 2.2 Thực trạng công tác quản lý Ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn trong thời gian qua. 2.2.1. Lập dự toán Ngân sách xã. 2.2.2 Chấp hành dự toán Ngân sách xã. 2.2.2.1. Tình hình tổ chức, quản lý thu ngân xã trên địa bàn. 2.2.2.2. Tình hình tổ chức và quản lý chi Ngân sách xã. 2.2.3 Khâu quyết toán Ngân sách xã. 2.3 Thực hiện công khai tài chính Ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn. 2.4 Những nhận xét chung về công tác quản lý Ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An 2.4.1 Những kết quả và nguyên nhân. 2.4.1.1.Về kết quả . 2.4.1.2. Nguyên nhân đạt được kết quả trên . 2.4.2. Những tồn tại và nguyên nhân. 2.4.2.1.Những tồn tại. 2.4.2.2. Nguyên nhân dẫn tới tồn tại trên. Chương 3:Các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý NSX theo quy định của pháp luật trên địa bàn huyện nam đàn, tỉnh nghệ an trong những năm tới. 3.1.Mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội tới của huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An trong những năm (giai đoạn 2005-2010). 3.2. Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý NSX theo luật ngân sách trên địa bàn huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. 3.2.1. Khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn. 3.2.2. Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ. 3.2.2.1. Tăng cường quản lý NSX theo đúng nội dung quản lý NSX. 3.2.2.2. Tăng cường cải tạo, nuôi dưỡng nguồn thu và cơ chế quản lý nguồn thu NSX. 3.2.2.3.Thực hiện đổi mới tăng cường quản lý chi NSX. 3.2.2.4.Công tác thanh tra, kiểm tra trong quản lý NSX phải được tiến hành thường xuyên. 3.2.3. Giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp. 3.2.4. Tăng cường quản lý, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ xã theo kịp sự đổi mới của cơ chế quản lý. 3.3. Một số kiến nghị. Kết luận Bảng 3: Tình hình thực hiện các khoản thu 100%. Đơn vị: triệu đồng STT Năm Nội dung 2003 2004 Chênh lệch số thực hiện 2004/2003 Dự toán Thực hiện TH/DT (%) Dự toán Thực hiện TH/DT (%) Số tiền % 1 Thuế môn bài 169 117 69,23 151 189 125,17 72 161,54 2 Phí, lệ phí 654 671 10,59 676 766 113,31 95 114,16 3 Thu sự nghiệp 1226 854 69,66 1300 853 65,62 -1 99,88 4 Quỹ đất và hoa lợi công ích 2098 2334 111,25 2110 2255 106,87 -79 96,62 5 Thu đóng góp của dân 7788 8289 106,43 7750 7745 99,94 -544 93,44 6 Thu kết d ngân sách 2121 2398 113,06 2850 4196 147,23 1798 174,98 7 Thu khác 839 893 106,44 813 985 121,16 92 110,30 8 Tổng cộng 14895 15556 104,44 15650 16989 108,56 1433 109,21 (Nguồn: Phòng Tài chính-kế hoạch). Bảng 4: Tình hình thực hiện các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm với Ngân sách cấp trên. Đơn vị tính: Triệu đồng STT Năm Nội dung 2003 2004 Chênh lệch số thực hiện 2004/2003 Dự toán Thực hiện TH/DT (%) Dự toán Thực hiện TH/DT (%) Số tiền % 1 Thuế sử dụng đất nông nghiệp 62 100 161,29 75 150 200 50 150 2 Thuế chuyển quyền sử dụng đất 7 8 114,29 70 80 14,29 72 1000 3 Thuế nhà đất 27 30 111,11 190 198 104,21 168 660 4 Tiền cấp quyền sử dụng đất 1206 2730 226,37 2575 3603 131,92 873 131,98 5 Thuế GTGT - TNDN 253 365 144,27 280 385 137,5 20 105,48 6 Tổng cộng 1555 3233 207,91 3190 4416 138,43 1183 136,59 (Nguồn: Phòng Tài Chính – Kế Hoạch huyện Nam Đàn). Bảng 5: Tình hình thực hiện khoản thu bổ sung từ Ngân sách cấp trên Đơn vị tính : triệu đồng Năm Nội dung 2003 2004 Chênh lệch số thực hiện 2004/2003 DT TH TH/DT DT TH TH/DT ST % Bổ sung cân đối 7000 7.613 108,76 7.450 7627 102,38 14 100.18 Bổsung có mục tiêu 4332 7.631 176,15 5.150 5.114 99,31 -2.517 67,02 Tổng số 11.332 15.244 135,52 12.600 12.770 101,35 -2.474 83,77 (Nguồn phòng tài chính - kế hoạch huyện Nam Đàn) Bảng 6: Tình hình chi Ngân sách xã của Huyện Nam Đàn. Đơn vị tính : Triệu đồng. Năm ` Nội dung 2003 2004 Chênh lệch số TH 2004/2003 DT TH TH/DT (%) DT TH TH/DT (%) ST % Tổng chi Ngân sách xã 27.435 28.442 103,67 28.550 29.880 104,66 1438 105,1 Chi thường xuyên 13.895 14.491 104,29 14.550 14.784 102,02 -9709 102,02 Chi đầu tư phát triển 13.540 13.951 103,04 14.000 15.096 108,20 1145 108,21 (Nguồn phòng tài chính kế hoạch huyện Nam Đàn) Bảng 8: Tình hình thực hiện chi thờng xuyên Ngân sách xã trên địa bàn huyện Nam Đàn. Đơn vị: triệu đồng STT Năm Nội dung 2003 2004 Chênh lệch số thực hiện 2004/2003 Dự toán Thực hiện DT/TH (%) Dự toán Thực hiện DT/TH (%) Số tiền % 1 Tổng chi thờng xuyên 13895 14491 104,29 14550 14784 101,61 293 102,02 2 Chi công tác quốc phòng an ninh 772 809 104,79 585 614 104,96 -195 75,9 3 Chi sự nghiệp giáo dục 926 1025 110,69 1020 1162 113,92 137 113,37 4 Chi sự nghiệp văn hoá truyền thanh 405 417 102,96 1315 278 91,11 -130 68,82 5 Chi sự nghiệp y tế 425 463 108,94 375 388 103,47 -75 83,8 6 Chi sự nghiệp thể dục thể thao 104 128 123,08 110 101 91,82 -27 78,91 7  Chi thuong xuyên sự nghiệp kinh tế. 936 859 91,77 575 664 115,48 -195 77,3 8 Chi sự nghiệp xã hội 1899 1993 104,95 1915 2125 110,97 132 106,2 9 Chi quản lý Nhà nớc, Đảng Đoàn thể 7646 8271 108,17 9150 9175 100,27 904 110,93 10 Chi khác 782 526 67,26 505 268 53,07 -258 50,95 (Nguồn: Phòng tài chính - kế hoạch huyện Nam Đàn) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0149.doc
Tài liệu liên quan