Hoàn thiện chính sách thuế đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Tài liệu Hoàn thiện chính sách thuế đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: ... Ebook Hoàn thiện chính sách thuế đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

doc128 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1227 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện chính sách thuế đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Qua hơn 18 năm kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã hình thành và không ngừng phát triển mạnh mẽ, có mặt trên khắp các tỉnh thành trong cả nước, hoạt động trong hầu hết các ngành kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (từ đây về sau gọi tắt là doanh nghiệp FDI) được coi là nhân tố quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế, nâng cao tính cạnh tranh cho thị trường trong nước, làm nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển đất nước, tạo điều kiện cho Việt nam hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay, cùng với việc mở cửa, đẩy mạnh môi trường đầu tư, nhà nước đã có những chính sách thuế và ưu đãi nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thông qua quá trình thực hiện đã bộc lộ nhiều ưu điểm, và có tính khả thi cao. Tuy nhiên, trước yêu cầu của tình hình mới như đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập ngày càng sâu rộng, yêu cầu thu hút đầu tư nước ngoài đòi hỏi chính sách thuế cần phải đổi mới và hoàn thiện. Thực tế, chính sách thuế đã bộc lộ nhiều nhược điểm như: vấn đề ưu đãi đầu tư (theo ngành, theo vùng), sự phân biệt doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, sự nhất quán và hiệu quả thực hiện của chính sách thuế, cũng như tính minh bạch của từng chính sách, đặc biệt là một trong những nguyên tắc hội nhập quốc tế là sự bình đẳng, không phân biệt. Vì vậy, hoàn thiện chính sách thuế là đề tài mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, có ý nghĩa thời sự. Với ý nghĩa đó, tác giả tập trung nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện chính sách thuế đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam", góp phần giải quyết những vấn đề về lý luận và thực tiễn nêu trên. Mục đích nghiên cứu - Góp phần làm rõ lý luận về vị trí vai trò của hoạt động FDI trong nền kinh tế thị trường tính cạnh tranh cao và trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời nêu lên sự tác động của chính sách thuế của nước sở tại đối với hoạt động đầu tư này; - Hệ thống hoá và phân tích một số chính sách thuế như chính sách thuế nhập khẩu và các chính sách thuế nội địa, cũng như các hình thức ưu đãi thường được sử dụng trong chính sách thuế đối với hoạt động FDI; - Nêu những tồn tại và nguyên nhân trong hệ thống chính sách thuế nói chung ở nước ta. Kết hợp với các quan điểm hoàn thiện chính sách thuế của nhiều chuyên gia nhằm hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu và các chính sách thuế nội địa khác, từ đó góp phần cho việc đề xuất các định hướng, các quan điểm đưa ra các giải pháp hoàn thiện chính sách thuế phù hợp với quan điểm và mục tiêu về đầu tư nước ngoài trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu Đối tượng chính của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của chính sách thuế và các giải pháp hoàn thiện các chính sách này đối với hoạt động FDI ở Việt Nam phù hợp với quan điểm và mục tiêu về đầu tư nước ngoài trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010. Chính sách thuế là một công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế của một quốc gia, bao trùm nhiều lĩnh vực hoạt động trong đời sống xã hội. Chính sách thuế là chính sách chung đối với tất cả các loại doanh nghiệp, tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu chính sách thuế đối với hoạt động FDI tại Việt nam, đó là: Nêu tác động của thuế đối với doanh nghiệp FDI; hệ thống hoá và phân tích các chính sách thuế hiện hành của nhà nước; phân tích những hạn chế còn tồn tại trong chính sách thuế nói chung, làm sáng tỏ và đánh giá đúng nguyên nhân của những hạn chế đó; nêu quan điểm hoàn thiện chính sách thuế và các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách này đối với hoạt động FDI ở Việt Nam. Phương pháp cơ bản và chủ yếu được vận dụng để nghiên cứu đề tài này là phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời kết hợp với các phương pháp cụ thể khác như: thống kê so sánh, tổng hợp phân tích các dữ liệu thực tế. Ngoài ra còn vận dụng các quan điểm lý luận của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển nền kinh tế trong sự nghiệp đổi mới. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài. - Hệ thống hoá một số vấn đề về các doanh nghiệp FDI và tác động của thuế đối với các doanh nghiệp FDI. - Khẳng định vai trò quan trọng của các doanh nghiệp FDI trong mục tiêu phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. - Phân tích, đánh giá thực trạng các chính sách thuế hiện hành đối với doanh nghiệp FDI trong thời gian qua, làm sáng tỏ và đánh giá những nguyên nhân còn tồn tại trong hệ thống các chính sách đó, nâng cao mức độ ảnh hưởng của của hệ thống chính sách thuế, tạo tiền đề cho các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách thuế đối với hoạt động FDI ở Việt nam. - Một số đề xuất góp ý và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống các chính sách thuế đối với hoạt động FDI ở Việt nam trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày thành 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề về hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài và chính sách thuế đối với hoạt động đó trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; Chương 2: Thực trạng chính sách thuế đối với hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam; Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế đối với hoạt động FDI tại Việt Nam phù hợp với quan điểm, mục tiêu về đầu tư nước ngoài và mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2010. CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA NƯỚC NGOÀI VÀ CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐÓ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM Đầu tư quốc tế là một quá trình kinh doanh trong đó vốn đầu tư được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác với mục đích sinh lời. Trong đầu tư quốc tế thường có hai hay nhiều bên có quyết định khác nhau cùng phối hợp với nhau để triển khai một dự án đầu tư nhằm đem lại lợi ích cho tất cả các bên. Khác với hoạt động thương mại quốc tế có thể chỉ diễn ra theo từng vụ việc, đầu tư quốc tế là một quá trình được kéo dài, có trường hợp 30 năm, 50 năm, hoặc lâu hơn nữa. Vốn đầu tư quốc tế có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như bằng các loại tiền mặt hoặc giấy tờ có giá trị, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, quyền sử dụng đất, các sáng chế phát minh, bí mật công nghệ, nhãn hiệu hàng hoá,… Lợi ích do hoạt động đầu tư mang lại thường là lợi ích kinh tế, đồng thời còn có cả lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá xã hội, lợi ích về bảo vệ môi trường sinh thái,… Vốn đầu tư quốc tế có hai dòng chính: Đầu tư của tư nhân và hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế. - Đầu tư của tư nhân: Được thể hiện dưới 3 hình thức: Đầu tư trực tiếp: Chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hoặc phần lớn vốn vào các dự án nhằm dành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại. Đầu tư gián tiếp: Chủ đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các công ty ở nước sở tại (ở mức nhất định) để thu lợi nhuận, không tham gia điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Tín dụng thương mại: Cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay, phát hành trái phiếu. - Hỗ trợ phát triển chính thức ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại (cho vay dài hạn với một thời gian ân hạn và lãi suất thấp) của Chính phủ, các hệ thống của tổ chức Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế (như Ngân hàng thế giới - WB, Ngân hàng phát triển Châu á - ADB, Qũy tiền tệ quốc tế - IMF,…) dành cho chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ. Các cơ quan và tổ chức hỗ trợ phát triển trên được gọi là đối tác viện trợ nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức của đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đầu tư lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài Khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh với mục đích sinh lời (hoặc công ích). Doanh nghiệp có đặc điểm là một tổ chức kinh tế, có tư cách pháp nhân, mục đích kinh doanh là thu lợi nhuận (hoặc công ích). Tại Việt Nam, các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật doanh nghiệp, Luật ĐTNN tại Việt Nam, Luật hợp tác xã. Trong nền KTTT các loại hình doanh nghiệp rất đa dạng và bao gồm rất nhiều loại, trong đó có doanh nghiệp FDI. Doanh nghiệp FDI là những loại hình doanh nghiệp có vốn của bên nước ngoài và có sự quản lý trực tiếp của bên nước ngoài. Doanh nghiệp này hoạt động theo pháp luật của nước sở tại để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu được lợi ích cho các bên. Trong đó, các đối tác có quốc tịch khác nhau và bên nước ngoài có tỷ lệ góp vốn tối thiểu để trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp. Đặc điểm của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một phạm trù chỉ tất cả các loại hình doanh nghiệp có vốn bên nước ngoài ở nước tiếp nhận đầu tư. Doanh nghiệp FDI bao gồm nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau nhưng chúng đều có các đặc điểm sau: - Doanh nghiệp FDI là những tổ chức kinh doanh quốc tế và là những pháp nhân của nước nhận đầu tư, hoạt động theo luật pháp nước nhận đầu tư, các hiệp định và các điều ước quốc tế. - Các doanh nghiệp FDI không chỉ gắn liền với việc di chuyển vốn mà còn gắn liền với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý, tại thị trường mới cho cả hai bên đầu tư và nhận đầu tư. - Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu hoặc tối đa tùy theo quy định của luật đầu tư của từng nước, ví dụ như Luật đầu tư của Việt Nam quy định “số vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự án”. Hay Luật đầu tư của nước Nam Tư trước đây quy định “phần của bên đối tác nước ngoài đóng góp không dưới 5% tổng số vốn đầu tư”. Trong khi đó ở Hàn Quốc Luật quy định tối đa bên phía nước ngoài góp 40% vốn pháp định. - Quyền điều hành doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn của chủ đầu tư trong vốn pháp định. Nếu góp vốn 100% vốn pháp định thì nhà đầu tư toàn quyền quyết định sự hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Lợi nhuận mà các chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định của doanh nghiệp và được phân chia cho các nhà đầu tư sau khi nộp thuế và chi trả cổ tức. - Các hình thức biểu hiện của doanh nghiệp FDI như sau: Đóng góp vốn để xây dựng xí nghiệp mới; Mua lại toàn bộ hoặc từng phần xí nghiệp đang hoạt động; Mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sát nhập. Trên đây là những đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp FDI mà các doanh nghiệp khác trong nước không có. Nhờ các đặc điểm này mà chúng ta có thể nhận diện được doanh nghiệp FDI dù chúng hoạt động ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Các hình thức đầu tư FDI cơ bản tại Việt Nam Đầu tư trực tiếp nước ngoài nay đã trở thành một tất yếu kinh tế trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất, lưu thông và được tăng cường mạnh mẽ. Có thể nói trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại không cần đến FDI, và coi đó là nguồn lực quốc tế cần khai thác để từng bước hội nhập quốc tế. ở Việt Nam, các dự án đầu tư nước ngoài hiện đã chiếm tới 35% giá trị sản lượng công nghiệp và tồn tại dưới các hình thức đầu tư khác nhau, cụ thể như sau: Thứ nhất: căn cứ vào tỷ trọng vốn góp của bên nước ngoài vào vốn pháp định, doanh nghiệp FDI được chia ra làm hai loại cơ bản: Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Có nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh quốc tế, có tư cách pháp nhân, trong đó các nhà ĐTNN góp 100% vốn pháp định, tự quản lý doanh nghiệp và tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. - Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập ở Việt Nam đã được hợp tác với nhau và / hoặc với nhà đầu tư nước ngoài để thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài mới ở Việt Nam. - Hình thức tổ chức hoạt động: Là công ty TNHH pháp nhân Việt Nam - Vấn đề vốn đầu tư, vốn pháp định và quản trị doanh nghiệp được quy định trong Luật đầu tư nước ngoại tại Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này. Hình thức doanh nghiệp liên doanh Theo Luật kinh doanh của Hoa Kỳ thì: “Liên doanh là một quan hệ bạn hàng trong đó hai hoặc nhiều chủ thể cùng đóng góp lao động và tài sản để thực hiện một mục tiêu đặt ra và cùng chia sẻ các khoản lợi nhuận và rủi ro ngang nhau hoặc do các bên thoả thuận”. Theo một quan điểm khác: “Doanh nghiệp liên doanh là một tổ chức kinh doanh hợp nhất hoặc liên kết, được thành lập ở nước sở tại và hoạt động theo luật pháp nước sở tại, trong đó các bên tham gia có quốc tịch khác nhau (OECD). Cũng theo một quan điểm khác: Liên doanh là một tổ chức kinh doanh hợp nhất hoặc liên kết, được thành lập ở nước sở tại và hoạt động theo luật pháp nước sở tại, trong đó các bên tham gia có quốc tịch khác nhau (OECD). Quan điểm này chưa chỉ ra được bản chất kinh doanh của DNLD. - Theo Luật ĐTNN tại Việt Nam, thi DNLD là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh, hoặc hiệp định ký giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài, hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà ĐTNN trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Khái niệm này nhấn mạnh khía cạnh pháp lý của liên doanh và các trường hợp thành lập liên doanh nước ngoài mà chưa chỉ rõ bản chất kinh doanh của các liên doanh. - Các cách thức hình thành doanh nghiệp liên doanh: o Doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp hoặc cá nhân nước ngoài (có thể nhiều bên). o Doanh nghiệp Việt Nam đã được thành lập ở Việt Nam với: Nhà đầu tư nước ngoài; Cơ sở khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học hoặc đáp ứng các điều kiện do Chính phủ quy định; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài; Doanh nghiệp liên doanh; Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập trên cơ sở một Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam với chính phủ các nước khác. - Hình thức tổ chức hoạt động của doanh nghiệp liên doanh: o Công ty TNHH pháp nhân Việt Nam o Công ty Cổ phần pháp nhân Việt Nam - Vấn đề góp vốn liên doanh và quản trị doanh nghiệp được quy định cụ thể trong Luật đầu tư nước ngoại tại Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này. Hình thức Hợp đồng Hợp tác kinh doanh (BCC) - Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký giữa ký giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. - Nghĩa vụ nộp thuế của các bên hợp doanh o Bên hợp doanh nước ngoài thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo Luật đầu tư nước ngoài; Bên hợp doanh Việt Nam thực thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của Pháp luật áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước. o Thuế TNDN và các nghĩa vụ tài chính khác của các Bên hợp doanh (gồm cả tiền thuê đất, thuế tài nguyên…) có thể được tính gộp vào phần sản phẩm được chia cho Bên hợp doanh Việt Nam và Bên hợp doanh Việt Nam có trách nhiệm nộp cho Nhà nước. - Vấn đề điều hành hoạt động, hợp tác kinh doanh, thành lập văn phòng ban điều hành được quy định cụ thể trong Luật đầu tư nước ngoại tại Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này. Hoạt động sản xuất kinh doanh của DNLD và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài bị tác động rất lớn bởi các yếu tố của môi trường kinh doanh ở nước nhận đầu tư, như trình độ nền kinh tế nơi doanh nghiệp đang hoạt động, mức độ cạnh tranh trong ngành hàng (lĩnh vực) mà doanh nghiệp đang tiến hành các hoạt động kinh doanh, thị trường lao động, các yếu tố văn hoá trong kinh doanh. Thứ hai: căn cứ vào loại hìnhh pháp lý của doanh nghiệp FDI: Có thể chia các doanh nghiệp này thành 3 loại chính: Công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn FDI: Là một loại hình công ty đối vốn, gồm các thành viên liên kết với nhau để kinh doanh trên cơ sở bản điều lệ công ty, trong đó các thành viên thoả thuận hình thức góp vốn, phân chia kết quả kinh doanh và quyền quản lý doanh nghiệp giữa các thành viên. Công ty đối vốn là công ty trong đó các thành viên cùng góp vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh và mỗi thành viên chỉ chịu trách nhiệm trong phần vốn góp của mình đối với các khoản nợ của công ty, tức là chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn. Công ty TNHH có vốn FDI có đặc điểm giống với công ty TNHH như các vấn đề về ghóp vốn, chuyển nhượng vốn,… được quy định giống như quy định đối với công ty TNHH nói chung. Hình thức công ty TNHH chỉ thích hợp với gai đoạn đầu trong hoạt động doanh nghiệp và thường được áp dụng ở những nước thiếu vốn và ít kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh. Công ty cổ phần có vốn FDI: Là một loại công ty đối vốn, trong đó các thành viên (cổ đông) có cổ phiếu và chỉ chịu trách nhiệm đến hết giá trị những cổ phần mà mình nắm giữ. Theo Nghị định số 38/2003/NĐ-CP ngày 15/04/2003 của Chính phủ thì công ty cổ phần có vốn FDI là doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là “cổ phần”; trong đó các cổ đông sáng lập nước ngoài nắm giữ ít nhất 30% vốn điều lệ. Công ty cổ phần có vốn FDI có các đặc điểm cơ bản giống công ty cổ phần nói chung: vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cổ phần được trao đổi trên thị trường chứng khoán được gọi là cổ phiếu. Công ty cổ phần được phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu. Số cổ phiếu tối thiểu mà cá thành viên HĐQT phải có không được chuyển nhượng trong suốt thời gian tại chức và trong thời gian 2 năm kể từ ngày thôi giữ chức thành viên HĐQT. Đại hội cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty. Công ty sở hữu hoàn toàn và công ty sở hữu chung: Công ty sở hữu hoàn toàn là công ty có trên 95% vốn thuộc quyền sở hữu của một thành viên nào đó. Còn ngược lại thì được coi là công ty sở hữu chung. Ngoài ra còn có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại các doanh nghiệp FDI như: Căn cứ lĩnh vực đầu tư, các doanh nghiệp FDI chia thành các doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Căn cứ vào tính chất của SXKD, các doanh nghiệp FDI chia thành doanh nghiệp FDI chuyên khai thác; doanh nghiệp FDI chuyên hoạt động chế biến và doanh nghiệp FDI hoạt động phục vụ. Căn cứ vào địa giới hành chính: các doanh nghiệp FDI hoạt động tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương như Hà Nội, TP. Hồ Chính Minh…, các doanh nghiệp FDI ở tỉnh Bình Dương, Thanh Hoá,... Qua phân tích các đặc điểm và bản chất của hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài, ta có thể rút ra những ưu điểm, những nhược điểm của hình thức này như sau: Ưu điểm của hình thức FDI: - Về phía chủ đầu tư: Khai thác những lợi thế của nước chủ nhà về: Tài nguyên, lao động, thị trường,… để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đối với các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia thì việc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp họ thực hiện bành trướng, mở rộng thị phần và tối ưu hoá hạch toán doanh thu, chi phí, lợi nhuận,…thông qua hoạt động chuyển giá. Giảm chi phí kinh doanh khi đặt cơ sở sản xuất, dịch vụ gần vùng nguyên liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ. Tránh được hàng rào bảo vệ mậu dịch ngày càng tinh vi, vì xây dựng được cơ sở kinh doanh nằm “trong lòng” các nước thực thi chính sách bảo vệ mậu dịch. FDI cho phép chủ đầu tư tham gia trực tiếp kiểm soát và điều hành doanh nghiệp mà họ bỏ vốn theo hướng có lợi nhất cho chủ đầu tư. Thông qua FDI, các nhà đầu tư nước ngoài tham dự vào quá trình giám sát và đóng góp việc thực thi các chính sách mở cửa kinh tế theo cam kết thương mại và đầu tư song phương và đa phương của nước chủ nhà. - Về phía nước tiếp nhận đầu tư: Giúp tăng cường khai thác vốn của từng chủ đầu tư nước ngoài. Nhiều nước thiếu vốn trầm trọng nên đối với hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài không quy định mức đóng góp tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí đóng góp vốn càng nhiều thì càng được hưởng những chính sách ưu đãi về thuế của nước chủ nhà. Giúp tiếp thu được công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các chủ đầu tư nước ngoài. Nhờ có vốn đầu tư nước ngoài cho phép nước chủ nhà có điều kiện khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về tài nguyên, vị trí, mặt đất, mặt nước,… Sự canh tranh, ganh đua giữa các nhà đầu tư có vốn trong nước và nước ngoài tạo động lực kích thích sự đổi mới và hoàn thiện trong các nhà doanh nghiệp và đây là nhân tố quan trọng đưa nền kinh tế phát triển với tốc độ cao. Các dự án FDI góp phần giải quyết việc làm, nâng cao mức sống của người lao động. Nhược điểm của hình thứcFDI: Nếu đầu tư vào môi trường bất ổn định về kinh tế và chính trị thì chủ đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn. Nước chủ nhà nếu không có một quy hoạch thu hút vốn FDI, đầu tư cụ thể và khoa học dẫn tới sự đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột quá mức và nạn ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Vì hiện nay ở các nước tư bản phát triển thực hiện sự kiểm soát gay gắt những dự án gây ô nhiễm môi trường, nên xu thế nhiều nhà tư bản nước ngoài đã và đang chuyển giao những công nghệ độc hại sang các nước kém phát triển. Phân biệt doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp khác Giữa hai loại doanh nghiệp này có sự khác nhau ở một số khía cạnh chính sau đây: - Về nguồn vốn: Một loại doanh nghiệp chỉ có vốn trong nước, không có vốn của nước ngoài còn loại doanh nghiệp kia lại có vốn của bên nước ngoài và do bên nước ngoài trực tiếp quản lý doanh nghiệp. - Về cơ sở pháp lý: Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước hoạt động theo khuôn khổ pháp luật trong nước. Còn doanh nghiệp FDI vừa phải tuân thủ luật pháp trong nước vừa phải tuân thủ luật pháp nước chủ nhà và luật pháp quốc tế. - Về quan hệ lợi ích trong doanh nghiệp: Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đại diện cho lợi ích của một quốc gia. Còn doanh nghiệp FDI đại diện cho lợi ích của đa quốc gia. - Chính sách của nhà nước đối với các doanh nghiệp này cũng khác nhau, như: chính sách ưu đãi đầu tư, một số chính sách thuế, chính sách quản lý ngoại hối,… - Các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt nam không thuộc các hình thức đầu tư theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam có Thông tư hướng dẫn riêng thực hiện các vấn đề về nghĩa vụ thuế với nhà nước. - Về mức độ phức tạp trong quan hệ của doanh nghiệp: Do sự khác biệt về trình độ quản lý, nền văn hoá xuất thân của các đối tác trong các doanh nghiệp FDI nên mức độ phức tạp trong quan hệ của các doanh nghiệp này cao hơn rất nhiều so với trong các doanh nghiệp có vốn trong nước. Ngoài những sự khác biệt trên đây, giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước còn có sự khác biệt về các mặt thuận lợi và bất lợi trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh doanh. Các nhà quản lý dù ở cương vị nào cũng cần nhận thức rõ sự khác biệt này để có các giải pháp phù hợp trong quá trình quản lý các loại hình doanh nghiệp khác nhau trong cùng một quốc gia. VAI TRÒ VÀ SỰ ĐÓNG GÓP CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM Đầu tư nước ngoài trên thế giới vấn tiếp tục gia tăng ở mức độ cao hơn mức độ gia tăng thương mại quốc tế (trên 10%) với những thay đổi đáng kể trong cơ cấu chủ đầu tư, cơ cấu lĩnh vực đầu tư cũng như tính đa phương và đa chiều, đa hình thức của hoạt động đầu tư quốc tế. Sự thành công của các nước tiếp nhận đầu tư phản ánh các dòng vốn ồ ạt đổ vào các thị trường đầu tư mới nổi lên trong những năm gần đây, đồng thời cũng thể hiện quá trình chuyển đổi mạnh mẽ sang hệ thống tài chính toàn cầu thông thoáng hơn. Tuy nhiên, các quốc gia trước hết là các nước đang phát triển, cũng cần phải thận trọng hơn trước sự tiếp nhận với quy mô ngày càng lớn các dòng vốn nói trên vì bản thân sự vận động của chúng rất dễ bị tổn thương do sự nhạy cảm của thị trường vốn quốc tế, vì những ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển bền vững cũng như những hậu quả tiêu cực khác có thể xẩy ra trong hoạt động đầu tư quốc tế. FDI là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư quốc gia, mà nguồn vốn trong nước xét tổng thể có ý nghĩa nhất định, FDI không thay thế được các nguồn đầu tư khác nhưng có thế mạnh riêng của nó. Trong những năm trước khi nguồn vốn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn hạn hẹp, nguồn ODA chưa đáng kể thì FDI chiếm vị trí quan trọng góp phần cải tiến dần cơ cấu kinh tế quốc dân. FDI là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Rõ ràng, FDI khác với ODA là không gây ra tình trạng nợ nần cho các thế hệ mai sau, khi bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam chủ đầu tư buộc phải quan tâm làm cho tiền trở thành tư bản. Trong quan hệ kinh doanh với các đối tác nước ngoài, Việt Nam thực hiện nguyên tắc “được cùng ăn, thua cùng chịu” theo tỷ lệ vốn góp. Cho nên vai trò tích cực của FDI được phát huy đến mức nào tuỳ thuộc chủ yếu vào những điều kiện bên trong của đất nước, đòi hỏi những cố gắng chủ quan của chúng ta trong quản lý nhà nước cũng như trong SXKD, không ngừng cải thiện môi trường đầu tư cho FDI, nhằm tăng cường thu hút và sử dụng vốn FDI với hiệu quả cao nhất. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tính đến nay đã có hiệu lực gần 18 năm, kể từ tháng 12 năm 1997 hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có sự đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế và cả xã hội được thể hiện qua các mặt: Doanh nghiệp FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế. Tính đến tháng 3 năm 2004 Chính phủ Việt Nam đã cấp giấy phép cho hơn 5.400 dự án đầu tư nước ngoài, trừ các dự án hết thời hạn hoạt động hoặc bị giải thể, hiện còn 4.376 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký là 4,1 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư này tạo ra một lực mạnh mẽ cho nền kinh tế: Các dự án đầu tư FDI hiện chiếm 35% giá trị sản lượng công nghiệp của Việt Nam, cụ thể: Khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 100% các dự án khai thác dầu thô, sản xuất lắp ráp ôtô, sản xuất máy giặt, tủ lạnh máy điều hoà, thiết bị văn phòng, máy vi tính. Các dự án FDI chiếm tới 60% sản lượng thép cán, 55% sản xuất sợi các lợi phục vụ cho ngành công nghiệp dệt may; 4% sản lượng sản xuất ra da và giầy dép; 76% dụng cụ y tế chính xác; 35% về sản xuất máy móc thiết bị điện; 28% trong tổng sản lượng xi măng; 25% về thực phẩm đồ uống;… Theo Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong Qúy 1 năm 2005 đã đạt hơn 1,56 tỷ USD, gấp hơn 2 lần so với cùng kỳ năm 2004, trong đó tổng vốn đầu tư của các dự án mới đạt hơn 1,2 tỷ USD. Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong 2 tháng đầu năm 2005, khu vực đầu tư FDI ước xuất khẩu được 2,401 tỷ USD (gồm cả dầu thô), tăng 27,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Nếu không tính dầu thô doanh nghiệp FDI xuất khẩu đạt 1,384 tỷ USD trong 2 tháng đầu năm 2004. Trong khi đó, xuất khẩu của kinh tế trong nước ước đạt 1,677 tỷ USD, chỉ tăng 6,9% so với 2 tháng đầu năm 2004. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là kênh vốn quan trọng góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Thời kỳ 1991-1995 vốn FDI chiếm 25% tổng vốn đầu tư xã hội Thời kỳ 1996-2000 tăng 1,8 lần so với giai đoạn trước đó chiếm 24% tổng vốn xã hội. “ Số liệu lấy từ trang Web của bộ khoa học và đầu tư: www.mpi.gov.vn” Ngay khi Chính phủ thực hiện chính sách mở cửa: Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài sở hữu đến 30% vốn cổ phần trong các công ty Việt Nam, cổ phần của các thương hiệu mạnh trên sàn giao dịch được các nhà đầu tư nước ngoài, các qũy đầu tư tài chính kể cả ngân hàng nước ngoài tìm mua gần hết. Các nhà đầu tư nước ngoài rất muốn được nắm giữ cổ phần trong các công ty Việt Nam có thương hiệu nổi tiếng trong nước và nước ngoài, họ hy vọng Chính phủ sẽ nới rộng tỷ lệ sở hữu cổ phần đối với các nhà đầu tư nước ngoài từ 30% lên 49% và thậm chí là 100% ở những kinh doanh không quan trọng. Rõ ràng thị trường đầu tư cổ phần đang là một kênh huy động vốn FDI hiệu quả. Bảng 1.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư (1988-2003) (Tính đến ngày 31/12/2003 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Đơn vị tính: US Dollar. Hình thức đầu tư Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định Vốn đầu tư thực hiện BOT 6 1.370.125.000 411.385.000 912.897.119 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 158 3.873.452.177 3.289.410.174 5.243.381.069 100% vốn nước ngoài 3.007 17.285.639.504 7.710.901.629 8.395.422.590 Liên doanh 1.153 18.265.637.941 7.141.465.000 10.049.488.040 Tổng số 4.324 40.794.854.622 18.553.161.803 24.601.188.818 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bảng 1.2 Tốc độ tăng vốn của các doanh nghiệp có đến 1/7/2002 so với 1/7/1995 Đơn vị: % So với 1995 Bình quân năm So với 2001 Tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp Doanh nghiệp Nhà nước Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Doanh nghiệp FDI 324,2 249,5 982,0 480,8 22,9 19,6 40,5 28,6 14,5 9,0 42,4 14,0 Nguồn: Thời báo kinh tế Việt nam ngày 20/01/2003. Các dự án FDI ngoài góp phần tăng thu ngân sách, góp phần cải thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia. Hàng ngàn dự án đang hoạt động, đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng GDP của Việt Nam. Năm 1993 dự án FDI chiếm 3.3% GDP. Năm 1995 dự án FDI chiếm 6.3% GDP Năm 1999 dự án FDI chiếm 10.1% GDP Năm 2000-2004 dự án FDI chiếm 13% GDP. Giai đoạn 1996-2000 thu từ khu vực FDI chiếm tới 6-7% nguồn thu ngân sách quốc gia. Như vậy các dự án FDI đóng góp đáng kể nguồn thu ngân thu n._.gân sách quốc gia. Bảng 1.3: Đóng góp của các dự án FDI đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam FDI 89-90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 2001 2002 Tỷ trọng trong GDP (%) 1.0 1.5 2.0 3.6 6.1 6.3 7.4 9.1 10 12.2 13.2 13.5 13.8 Tốc độ tăng công nghiệp 45.6 40.4 13.6 12.8 8.8 21.7 23.2 24.4 20 23 12.1 14 Tỷ trọng trong cụng nghiệp 22.4 26.2 26.2 26.2 28.1 26.2 28.9 32 34.4 36 35.4 35 Nguồn: www.oneconomy.com.vn/statistic Ngoài ra với hoạt động xuất khẩu các dự án đầu tư FDI góp phần cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam: Không kể dầu khí thì kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài thời kì 1991-1995 đạt trên 1.2 tỷ USD. Thời kỳ 1996-2000 đạt trên 10.6 tỷ USD. Năm 2001 đạt 3.67 tỷ USD. Năm 2002 đạt 4.5 tỷ USD. Nhiều mặt hàng xuất khẩu quan trọng do các dự án FDI thực hiện như: - Xuất khẩu dầu thô chiếm 100% - Dầy dép 42% - Hàng dệt may 25% - Hàng điện tử máy vi tính và linh kiện 84% Tỷ trọng trị giá hàng xuất khẩu so với doanh thu của các dự án FDI tăng nhanh 30% ở thời kỳ1991-1995 chiếm 48% thời kỳ 1996-2000 và đạt 50% năm 2002, trên 50% năm 2003. Bảng 1.4: Kim ngạch xuất khẩu khu vực FDI FDI 91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 2001 2002 Xuất khẩu 52 112 260 352 336 788 1790 1982 2547 3300 3670 4500 Xuất khẩu so với doanh thu % 34.4 49.1 53.3 34.3 16.3 28.7 46.9 50.7 55.4 53.5 48.1 50.0 Nguồn: www.vneconomy.com.vn/sta Xuất khẩu không kể dầu thô. Các dự án FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ở những năm 1988 - 1995, FDI chủ yếu thực hiện trong các ngành kinh doanh bất động sản, xây dựng khách sạn, khu nghỉ mát, khu chế xuất, văn phòng cho thuê. Sang thời kỳ 1996 - 2003, FDI thực hiện nhiều hơn vào các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ: chiếm 53% vốn đăng ký và 73% vốn thực hiện; các dự án đầu tư vào dịch vụ bưu chính viễn thông, dụng cụ kỹ thuật tăng 1,4 lần ở thời kỳ này (Nguồn: www.mpi.gov.vn). Hiện đầu tư nước ngoài chiếm 35% sản lượng công nghiệp ở Việt Nam với tốc độ tăng trưởng hàng năm trến 20%. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc hình thành các khu chế xuất và khu công nghiệp ở Việt Nam, và góp phần đáng kể trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Các dự án FDI đóng góp quan trọng trong việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của Việt Nam. Về lý thuyết, cùng với dòng vốn FDI vào Việt Nam, các doanh nghiệp FDI sẽ là một nguồn chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý cho người lao động Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam làm việc trong môi trường có sự tương tác với các doanh nghiệp, nhà quản lý nước ngoài. Thông qua tiếp nhận công nghệ chuyển giao từ FDI, quốc gia sở tại có thế nâng cao được năng lực công nghệ địa phương để cải thiện triển vọng tăng trưởng lâu dài của nền kinh tế. Mức độ của ảnh hưởng của chuyển giao công nghệ là yếu tố quyết định lợi ích lâu dài và bền vững của FDI đối với nền kinh tế nước sở tại. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng chuyển giao công nghệ mạnh hay yếu lại phụ thuộc rất nhiều vào môi trường chính sách và năng lực công nghệ địa phương. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy ảnh hưởng chuyển giao công nghệ sẽ được thực hiện hoá nếu nền kinh tế nước sở tại có mức độ phát triển công nghệ trung bình và có những biện pháp ưu đãi thoả đáng đối với các doanh nghiệp FDI tích cực thực hiện chuyển giao công nghệ. Thông qua các dự án FDI, nhiều công nghệ mới, hiện đại đã đưa vào sử dụng tại Việt Nam trong các ngành tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí, ngành bưu chính viễn thông, sản xuất vi mạch điện tử, sản xuất máy tính, hoá chất, sản xuất ô tô, thiết kế các phần mềm tin học. Những dự án này đóng góp đáng kể để tăng khả năng cạnh tranh của công nghệ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Việc sử dụng công nghệ tiến tiến hiện đại ở các dự án FDI cũng tạo ra sự kích thích các doanh nghiệp nội địa phải đầu tư đổi mới cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Các mô hình quản lý và các phương thức kinh doanh hiện đại của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đổi mới tư duy quản lý kinh doanh và công nghệ để tăng khả năng cạnh tranh. FDI góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế thị trường ở Việt Nam đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập nhanh với nền kinh tế thế giới. Tác động quan trọng nhất của FDI là góp phần làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội của nước ta, như tăng năng suất lao động xã hội - một yếu tố mang tính quyết định trong cạnh tranh của các doanh nghiệp; cân bằng cán cân thanh toán quốc tế; hình thành các định chế tiền tệ, tín dụng dần đáp ứng các chuẩn mực, thông lệ quốc tế, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động phát triển quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các nước khác. Ngoài ra các doanh nghiệp FDI ở nước ta có đặc điểm khác các nước khác là đối tác tham gia DNLD: đối tác phía Việt Nam tham gia DNLD tuyệt đại bộ phận là các doanh nghiệp Nhà nước (chiếm tới 92% tổng dự án liên doanh), trong khi ở các nước thì đối tác trong nước tham gia vào các doanh nghiệp FDI lại tuyệt đại bộ phận là các doanh nghiệp tư nhân. Trong những năm đầu mới thu hút FDI, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ít được các nhà đầu tư lựa chọn. Trong những năm gần đây, khi hình thức DNLD gặp nhiều khó khăn trong vận hành, các nhà đầu tư bắt đầu ưa chuộng hình thức 100% vốn nước ngoài hơn. Hiện nay hình thức 100% vốn nước ngoài tuy đã tăng vọt về số lượng so với trước đây (3007 dự án/4160 dự án, xem số liệu bảng 1.1), nhưng hầu hết là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ và là các chi nhánh của công ty đa quốc gia. Đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài những thành tựu các doanh nghiệp FDI đã mang lại, trong thực tế vẫn còn một số hạn chế như: nhận thức quan điểm về ĐTNN còn chưa nhất quán, hình thức đầu tư chưa được mở rộng, môi trường đầu tư thiếu tính ổn định, công tác qui hoạch còn chậm, công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI còn yếu kém, buông lỏng, nguyên nhân rất lớn là công tác cán bộ là yếu tố quyết định nhưng đang là khâu yếu nhất. Cho đến hết năm 2003, đã có 74 quốc gia và lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam trong đó có trên 80 công ty xuyên quốc gia nằm trong 500 công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới, chính dự án này có tác động không nhỏ tới thay đổi cơ chế chính sách quản lý kinh tế Việt Nam theo hướng hội nhập quốc tế, chúng tác động đến xoá bỏ sự bao vây, cấm vận quốc tế đối với Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam gia nhập ASEAN, ký kết trên 100 hiệp định song phương và đa phương trong đó có Hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Ngoài ra, trên 50% trị giá sản phẩm của các dự án đầu tư nước ngoài được xuất khẩu ra thị trường thế giới góp phần nâng cao thị phần sản phẩm và uy tín của Việt Nam trên thị trường quốc tế. FDI góp phần giải quyết công ăn việc làm đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao mức sống cho người lao động. Số lao động làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng, một số lượng đáng kể các nhà quản lý kinh doanh và người lao động được đào tạo trong và ngoài nước góp phần làm cho chất lượng lao động tăng lên, đây là nhân tố quan trọng góp phần làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh. Các dự án FDI thông qua lương mang lai thu nhập cho người lao động, góp phần cải thiện đời sống. Theo thống kê của bộ kế hoạch và đầu tư năm 2003: lương bình quân của công nhân Việt Nam trong các dự án đầu tư nước ngoài là 76-80 USD/tháng; của kỹ sư 220-250 USD/ tháng, của cán bộ quản lý khoảng từ 490-510 USD/tháng. Tổng thu nhập của người lao động của các dự án FDI hàng năm trên 500 triệu USD, đây cũng là các nhân tố làm tăng sức mua cho thị trường và xã hội. Doanh nghiệp FDI và những lợi ích thu được đã góp phần đáng kể vào việc đổi mới và cải thiện các chính sách và môi trường kinh doanh tại Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế. HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VỚI TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Sự tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Hiện nay vấn đề lớn nhất của Việt Nam là dù nhận thức được đúng đắn về những tác động tích cực và tiêu cực của hội nhập kinh tế, nhưng khả năng hoạch định và thực hiện các chính sách cụ thể trong điều kiện cụ thể vẫn là một hạn chế lớn cản trở quá trình hội nhập. Ở vị trí trung tâm của khu vực phát triển năng động Đông á, mặc dù sự thận trọng trong nhiều trường hợp đã hạn chế khả năng tận dụng cơ hội của Việt Nam nhưng Việt Nam vẫn còn rất nhiều cơ hội. Có thể nói thành công của công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong thời gian qua là nhờ sự năng động của khu vực tư nhân trong và ngoài nước, cùng với những chính sách hỗ trợ phù hợp và viện trợ đáng kể từ bên ngoài. Khả năng có thể đạt được những kết quả tích cực như vậy trong thời gian tới phụ thuộc vào việc đổi mới hệ thống thể chế chính sách. Trong điều kiện này, sự đóng góp về mặt tri thức từ bên ngoài lại càng quan trọng hơn đối với quá trình hội nhập của Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, khi phân công lao động trở thành phổ biến, và những lợi ích to lớn mà tự do hoá thương mại và hội nhập quốc tế mang lại đem lại đang là sức ép đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế đối với Chính phủ các nước đang phát triển. Sức ép này được hình thành từ cả hai phía - phía các công ty đa quốc gia và từ phía chính phủ các nước đang phát triển. Một sức ép đáng kể khác xuất phát từ phía các doanh nghiệp định hướng xuất khẩu cũng như người tiêu dùng của các nước đang phát triển. Phân công lao động quốc tế (thông qua FDI) theo hướng phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả nhất đang tạo ra một sự phụ thuộc lẫn nhau cao nhất trong lịch sử giữa các quốc gia. Các doanh nghiệp trong mỗi quốc gia trở thành một bộ phận (một mắt xích) trong hệ thống sản xuất toàn cầu của các tập đoàn lớn. Các linh kiện, chi tiết cho một sản phẩm hoàn thành cuối cùng có thể được sản xuất tại nhiều điểm khác nhau trên thế giới. Do vậy có thể xẩy ra sự phụ thuộc dây chuyền mà sự phụ thuộc này làm cho các quyết định kinh tế của các nước luôn mang yếu tố quốc tế. Hội nhập kinh tế là một xu hướng tất yếu không thể đảo ngược, thị trường trong nước là một phần gắn bó không thể tách rời của thị trường thế giới. Quá trình toàn cầu hoá đem lại không ít thách thức và rủi ro như xáo trộn kinh tế xã hội, nguy cơ gia tăng bất bình đẳng trong xã hội. Qúa trình toàn cầu hoá thậm chí đã làm thay đổi cả những lý thuyết về lợi thế cạnh tranh nhằm thu hút vốn đầu tư. Hội nhập kinh tế chỉ có thể phát huy hết những lợi ích của nó nếu như hệ thống các thể chế và môi trường kinh doanh được cải thiện sâu sắc, năng lực và tinh thần kinh doanh của các doanh nghiệp được nâng cao. Hội nhập kinh tế tác động thuận lợi đến đầu tư FDI Quy mô thị trường thuận lợi lớn hơn nhờ đó mà tăng sức hút của các nguồn vốn FDI: Ví dụ trước đây khi đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu là nhắm đến thị trường Việt Nam, thì nay Việt Nam đang ở giai đoạn cuối thực hiện các chương trình hội nhập khu vực ASEAN, thuế nhập khẩu khi thực hiện thương mại giữa các nước khu vực giảm mà các nhà đầu tư khu vực đang hoạt động tại Việt Nam có thể dễ dàng đưa hàng hoá vào ASEAN. Môi trường đầu tư được cải thiện theo hướng bình đẳng, thủ tục đơn giản, công khai và mang những chuẩn mực quốc tế. Hệ thống pháp lý đầy đủ và hoàn chỉnh hơn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư hoạt động. Cạnh tranh quyết kiệt hơn là nhân tố tạo ra động lực cải tiến và hoàn thiện: Cạnh tranh giữa các nước nhằm thu hút vốn đầu tư FDI, buộc Chính phủ phải quan tâm mạnh mẽ và thường xuyên hoàn thiện môi trường đầu tư. Cạnh tranh giữa các nhà đầu tư có vốn nước ngoài với nhau và với các nhà đầu tư nội địa kích thích sự ganh đua trong hoàn thịên sản phẩm, giảm giá thành... tạo ra hàng hoá tốt hơn đáp ứng yêu cầu của xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, là nhân tố quan trộng nâng cao hiệu quả hoạt động FDI: Tạo ra các nhà quản lý doanh nghiệp có tầm nhìn rộng hơn, bao quát hơn đáp ứng yêu cầu thị trường được mở rộng, mang tính cạnh tranh cao. Tạo ra các nhà chuyên gia giỏi đáp ứng yêu cầu kinh doanh sản phẩm và mang chuẩn mực quốc tế. Kích thích đội ngũ công nhân nâng cao tay nghề để duy trì chỗ làm việc của mình trong môi trường cạnh tranh cao. Ngoài ra toàn cầu hoá trong thị trừờng hàng hoá và dịch vụ rẻ hơn, chất lượng cao hơn đáp ứng yêu cầu của người lao động tốt hơn, nhờ vậy mức sống được nâng cao, thể lực, trí tuệ, văn hoá của người lao động có điều kiện phát triển tốt hơn. Và như vây nguồn nhân lực thoả mãn tốt hơn yêu cầu của hoạt động đầu tư FDI. Hội nhập kinh tế quốc tế hỗ trợ các nhà đầu tư FDI bảo vệ quyền lợi kinh tế của mình tốt hơn, nhờ đó tạo sự yên tâm trong hoạt động đầu tư ở nước ngoài: Có môi trường pháp lý mang những chuẩn mực quốc tế để hoạt động. Thương hiệu và quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp được bảo hộ (đây là điểm mà nhà đầu tư có vốn nước ngoài đặc biệt quan tâm khi đầu tư vào các nước có nền kinh tế chuyển đổi). Bảo vệ quyền lợi của mình thuận lợi hơn khi có tranh chấp. Hội nhập kinh tế tác động không thuận lợi của quá trình hội nhập đối với hoạt động FDI Thị trường đầu tư thuận lợi, rộng mở và nước nào có môi trường cạnh tranh kém hơn sẽ khó khăn hơn trong thu hút vốn đầu tư FDI. Thật vậy, khi chưa thực hiện mở cửa nền kinh tế, thì các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một thị trường, dù thị trường ấy tính cạnh tranh chưa cao, nhưng đầu tư như là một cách thức vượt hàng rào mậu dịch cao. Thì nay với sự hội nhập khu vực và quốc tế hàng rào ấy không còn nữa thì các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chỉ quan tâm đầu tư vào những thị trường hấp dẫn mang tính cạnh tranh cao nhất, sau đó bằng con đường thương mại đưa hàng hoá vào các nước khác có môi trường cạnh tranh kém hơn. Liên kết kinh tế khu vực có thể dẫn tới sự phá vỡ quy hoạch và chiến lược thu hút vốn FDI của một quốc gia, nếu như quy hoạch và chiến lược ấy đã được xây dựng mà chưa tính đến sự thay đổi về quy mô; về quy hoạch ... do tiến trình hội nhập mang lại. Một số nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động sẽ gặp khó khăn, nếu như mục tiêu đầu tư trước khi mở cửa kinh tế là lợi dụng chính sách bảo hộ mậu dịch lớn của các nước tiếp nhận đầu tư để tồn tại và phát triển. Ví dụ các doanh nghiệp FDI sản xuất đường ăn, sắt thép, xi măng...... trước đây hoạt động thuận lợi do chính sách bảo hộ mậu dịch của Nhà Nước Việt Nam, nay cùng với tiến trình hội nhập: thuế nhập khẩu giảm, giấy phép nhập khẩu dần bị loại bỏ thì với chi phí sản xuất cao như hiện nay rất khó cạnh tranh với hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN khác. Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ mang lại cơ hội và thách thức cao cho các quốc gia tham gia vào quá trình này. Để nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư thì Chính phủ cần chủ động đề xuất các giải pháp để tận dụng phát triển cơ hội và hạn chế các thách thức nguy cơ do hội nhập mang lại. Một số luận cứ khoa học xây dựng chính sách thuế trong tiến trình hội nhập. Tác động ảnh hưởng của chính sách bảo hộ bằng thuế quan. Thuế quan là một công cụ của chính thương mại quốc tế, là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu hay nhập khẩu của mỗi quốc gia. Như vậy thuế quan bao gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu. Theo quan điểm của Adam Smith thương mại quốc tế được dựa trên lợi thế tuyệt đối của từng nước, tức là mỗi quốc gia nên tập trung vào nguồn lực của mình để sản xuất loại hàng hoá mà nước mình có chi phí sản xuất thấp nhất, sau đó trao đổi hàng hoá của mình với các nước khác những hàng hoá mà mình không có lợi thế tuyệt đối. Điều đó không những tiết kiệm chi phí sản xuất trong nước mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từng nước. Và David Recardo đã bổ sung lý thuyết của Adam Smith, ông cho rằng trong trao đổi thương mại giữa một nước có lợi thế tuyệt đối và một nước khác không có lợi thế tuyệt đối vẫn có thể được tiến hành một cách hiệu qủa nhờ trên “lợi thế só sánh” của mỗi nước. Các nước tham gia thương mại trong điều kiện đó vẫn có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất khi mỗi nước đều tập trung nguồn lực vào sản xuất các ngành hàng mà họ có chi phí tương đối thấp. Ngày nay, một số nhà kinh tế hiện đại đã đưa ra những lập luận mà lập luận của họ nhằm bác bỏ lý thuyết lợi thế so sánh. Tiêu biểu là hai nhà kinh tế học Raul Prebisch và Hans Singer, họ cho rằng: Nếu nền kinh tế thế giới chuyên môn hoá lợi thế so sánh thì về lâu dài lợi ích kinh tế của các nước đang phát triển sẽ giảm dần và có thể sẽ bằng không. Quan điểm hiện đại này đã được chứng minh bằng thực tế rằng các nước đang phát triển đang tập trung nguồn lực của mình để phát triển ngành công nghiệp trong nước với sự trợ giúp của công cụ thuế quan. Đây là lý thuyết cho sự ra đời của chiến lược công nghiệp hoá thay thế hàng nhập khẩu. Đối với những ngành công nghiệp có tiềm năng nhưng chưa có đủ điều kiện phát triển trước tiên sẽ được lựa chọn để áp dụng chế độ thuế quan bảo hộ cao trong một thời gian dài, khi ngành công nghiệp này đã khẳng định được năng lực cạnh tranh thì Chính phủ sẽ tiến hành cắt bỏ hàng rào thuế quan bảo hộ. Như đã trình bầy ở trên thuế quan bao gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu: Thuế nhập khẩu là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá nhập khẩu, theo đó người mua trong nước phải trả cho những hàng hoá nhập khẩu một khoản lứon hơn mức mà người xuất khẩu ngoại quốc nhận được. Chính nội dung kinh tế thực tế này sẽ gây nên tác động của thuế nhập khẩu đối với hoạt động trao đổi thương mại quốc tế. Bên cạnh thuế nhập khẩu còn có thuế xuất khẩu. Thuế xuất khẩu là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu. Thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu đều tác động tới giá cả hàng hoá có liên quan. Nhưng thuế xuất khẩu khác thuế nhập khẩu ở hai điểm: Một là, thuế xuất khẩu áp dụng cho hàng xuất khẩu chứ không phải hàng nhập khẩu. Hai là, thuế xuất khẩu làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế vượt giá cả trong nước (chứ không phải ngược lại) hay nói một cách khác, nó làm hạ thấp tương đối mức giá cả trong nước của hàng hoá có thể xuất khẩu xuống so với mức giá cả quốc tế (điều này phù hợp với thực tiền thương mại của các nước nhỏ). ở nhiều nước phát triển, người ta không sử dụng thuế xuất khẩu cho nên khi nói tới mức thuế quan tức là đồng nhất nó với thuế nhập khẩu. Tuy nhiên ở các nước đang phát triển, người ta vẫn sử dụng khá phổ biến thuế xuất khẩu, đặc biệt là để đánh vào các sản phẩm truyền thống nhằm tăng thêm lưọi ích cho quốc gia. Ví dụ, nước Zambia đã đánh thuế xuất khẩu đồng của mình theo nhiều mức thuế khác nhau, hoặc Brazin đánh thuế xuất khẩu mặt hàng Café. Vào những năm 1974 và 1979 các nước Tổ chức OPEC tăng mạnh giá dầu mỏ xuất khẩu mà thực chất là đánh thuế xuất khẩu dầu mỏ (mặc dù nó không được gọi như vậy) và đây chính là công cụ chủ yếu trong chính sách thương mại của OPEC. Nhìn chung nhiều nước kém phát triển đánh thuế các mặt hàng khoáng sản và nông sản, các mặt hàng truyền thống của họ đưa vào xuất khẩu. - Thuế quan có thể được tính với nhiều hình thức khác nhau. Ch ẳng hạn với thuế quan nhập khẩu có thể được tính như sau: Thuế tính theo đơn vị vật chất của hàng hoá nhập khẩu. Đây là hình thức đơn giản nhất, dễ tính toán vì nó không phụ thuộc vào giá cả của hành hoá thường có biến động: Nếu Po là giá nhập khẩu Ts là thuế tính theo đơn vị hàng hoá P1 là giá cả hàng hoá sau khi nhập khẩu Thì: P1 = Po + Ts Thuế quan tính theo giá trị hàng hoá là mức thuế tính theo tỷ lệ phần trăm (%) của mức giá hàng hoá trả cho nhà xuất khẩu ngoại quốc, thì: P1 = Po (1 + t) Trong đó: t là tỷ lệ % thuế đánh vào gía trị hàng hoá nhập khẩu. Thuế quan hoà hợp là thuế vừa tính theo một tỷ lệ % so với gía trị hàng hoá vừa cộng với mức thuế tính theo đơn vị vật chất của hàng hoá. Có trường hợp thuế quan tính theo tỷ lệ phần trăm của mức giá hàng hoá được bán ở thị trường trong nước (tức là giá P1), chứ không phải tính theo giá P0. Có thể dùng phép tính số học để chuyển hoá giữa hai hình thức thuế quan nói trên. Thuế quan là một công cụ cân đối nhất của chính sách thương mại quốc tế và là một phương tiện truyền thống để làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Không những thế thuế quan còn có vai trò quan trọng trong việc bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ mới được hình thành chưa có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Vào cuối thế kỷ 19, Mỹ và Đức đều dùng thuế nhập khẩu đánh vào các hàng hoá công nghiệp nước ngoài để bảo hộ các ngành công nghiệp mới của họ. Rất nhiều quốc gia như Nhật Bản và Tây Âu cũng dùng thuế nhập khẩu để bảo hộ ngành nông nghiệp chịu những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, trong khi cần giữ vững sự an toàn cho thị trường lương thực và thực phẩm nội địa. Như vậy thuế quan nhập khẩu tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Chính vì vậy thuế quan nhập khẩu được áp dụng phổ biến ở mọi nước tuy rằng mức thuế là khác nhau. Tuy nhiên kết quả kinh tế của thuế nhập khẩu là nó làm cho giá trị hàng hoá trong nước cao vượt hơn mức giá nhập khẩu và chính người tiêu dùng trong nước phải trang trải cho gánh nặng thuế quan này. Điều đó đưa đến tình trạng giảm mức cầu của người tiêu dùng đối với hàng nhập khẩu và làm cho hạn chế mức nhập khẩu. Đây chính là một khía cạnh trong mục tiên của chính sách thương mại nhưng đối khi việc thực hiện mục tiêu này lại đi qua mức cần thiết, đưa đến những hạn chế cho quá trình trao đổi thương mại quốc tế. Bởi vậy việc quy định thuế nhập khẩu luôn là một đề tài được quan tâm từ nhiều phương diện. Thuế quan nhập khẩu cũng làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nhưng nó làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế cao hơn mức giá trong nước. Tuy nhiên tác động của thuế quan nhập khẩu nhiều khi lại trực tiếp đưa đến bất lợi cho khả năng xuất khẩu. Do quy mô xuất khẩu của một nước, thường là nhỏ đối với dung lượng của thị trường thế giới cho nên thuế xuất khẩu sẽ làm hạ thấp tương đối mức giá cả trong nước của hàng hoá có thể xuất khẩu xuống xo với mức giá cả quốc tế. Điều đó sẽ làm cho số lượng trong nước của mặt hàng xuất khẩu sẽ giảm đi và sản xuất trong nước sẽ thay đổi bất lợi cho những mặt hàng này. Trong một số trường hợp việc đánh thuế xuất khẩu không làm cho khối lượng xuất khẩu giảm đi nhiều và vẫn có lợi nhiều cho nước xuất khẩu, nếu như họ có thể tác động đáng kể đến mức giá quốc tế (thí dụ có sự độc quyền, như việc sản xuất sâm của Triều Tiên). Một mức thuế xuất cao và duy trì quá lâu có thể làm lợi cho các đối thủ cạnh tranh (trường hợp xuất khẩu ca cao của Ghana) chính vì vậy mà các nước công nghiệp phát triển hiện nay hầu như không áp dụng thế xuất khẩu. Như vậy cả thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu đều sẽ làm giảm “lượng cầu quá mức” trong nước đối với mặt hàng có thể xuất khẩu, đồng thời chúng sẽ tác động đên các điều kiện thương mại khác cũng như phân phối các loại lợi ích, điều này đòi hỏi phải phân tích kỹ hơn qua các mô hình. Ngày nay, mức thuế quan bình quân ngày càng thấp, tuy răng mức thuế quan mặt hàng nông phẩm ở một số nước vẫn cao. Xu hướng hiện nay là các quốc gia chuyển dần từ hình thức thuế quan sang hình thức phi thuế quan mang tính mềm dẻo và tế nhị hơn để bảo hộ sản xuất trong nước. Đối với một ngành và một nước nhỏ khi đánh thuế xuất khẩu sẽ không làm ảnh hưởng đến giá cả thế giới, sự phân tích cân bằng cục bộ của thuế quan nhập khẩu chỉ ra rằng: Thông thường thuế quan nhập khẩu dẫn đến giá nội địa của hàng nhập khẩu cao lên, làm cho mức tiêu dùng nội địa giảm đi, sản xuất trong nước có điều kiện tăng lên do khối lượng hàng nhập khẩu bị giảm bớt. Chính phủ là người nhận nguồn thu về thuế Có sự phân phối lại thu nhập từ người tiêu dùng sản phẩm nội địa (vì phải mua hàng với mức giá cao hơn),sang người sản xuất trong nước (vì nhận đước một mức giá cao hơn), đồng thời cũng có sự phân phối lại từ các nhân tố dư thừa của một quốc gia sang các nhân tố khan hiếm của quốc gia đó. Thuế quan nhập khẩu dẫn đến sự kém hiệu quả vì gây ra những tổn thất hay còn gọi là chi phí bảo hộ. Trên giác độ quan hệ giữa các quốc gia, khi một quốc gia đánh thuế sẽ làm cho các bạn hàng ở vào vị trí bất lợi vì tỷ lệ mậu dich của họ bị giảm đi. Kết quả là, đến lượt mình các quốc gia bạn hàng sẽ đánh thuế trừng phạt quốc gia kia, sau đó quốc gia này lại tiếp tục trả ( khác) đũa. Quá trình này cứ tiếp tục và cuối cùng các quốc gia mất đi lợi ích từ thương mại. Ngay cả trường hợp một quốc gia bị đánh thuế theo mức tối ưu để làm cực đại lợi ích của họ thì quốc gia đó vẫn bị thiệt hại, vì lợi ích từ thương mại lớn hơn lợi ích thu được nhờ thuế quan. Qua những phân tích trên, có thể rút ra những kết luận như sau: Thuế quan không đem lại lợi ích cho thế giới nói chung, nó làm cho nước đánh thuế phải chịu chi phí sản xuất và chi phí tiêu dùng cao hơn mặc dù nước này vẫn có thể có lợi trên cơ sở mức thiệt hại của phàn còn lại của thế giới. Việc đánh thuế cải thiện được điều kiện trao đổi của một nước nếu nước này đủ khả năng ảnh hưởng đến giá cả quốc tế. Nếu không, nước đó rơi vào tình trạng trao đổi ít đi và bị thua thiệt. Thuế quan thường bảo hộ các ngành công nghiệp sử dụng nhiều yếu tố khan hiếm, do vậy nước thu hút các nhân tố sản xuất ấy vào ngành này. Thuế quan làm tăng thu nhập thực tế của những nhân tố khan hiếm của một nước và làm giảm thu nhập thực tế của những nhân tố tương đối dư thừa. Thuế quan làm tăng thu nhập của đất nước và làm giảm thu nhập của nước ngoài bằng việc dịch chuyển cầu từ hàng hoá ngoại quốc sang hàng nội địa. Thuế quan làm thay đổi cán cân thương mại của một nước. Thuế xuất khẩu và hạn mức (Quota) đều có thể đem lại kết quả như nhập khảu. Việc bảo hộ bằng thuế quan đối với các ngành công nghiệp tiềm năng trong nước thực tế lại mang lại những ảnh hưởng tiêu cực cho nền kinh tế, đó là khả năng cạnh tranh.của các ngành này thấp, chất lượng sản phẩm không cao và làm ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước. Như vậy, hệ thống thuế quan bảo hộ không đúng hướng đã/ sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất của nền kinh tế. Đó cũng là cơ sở để ra đời chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu. Lý thuyết tác động của giảm thuế nhập khẩu Thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu, một yếu tố cấu thành vào giá cả của hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, mà dẫn đến người mua trong nước phải chi trả cho khoản thuế nhập khẩu đó. Trong trường hợp cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ làm giá cả hàng hoá nhập khẩu giảm đi kéo theo việc tăng cung hàng nhập khẩu, và đồng thời tác động gián tiếp đến sức cạnh tranh của các hàng hoá, dịch vụ cùng loại trong nước. Trong nhiều trường hợp mức cung của sản phẩm sản xuất trong nước giảm đi. Đây là tác động của ảnh hưởng mang tính trực tiếp làm giảm sản lượng sản xuất trong nước. Sự tác động ảnh hưởng có tính lan truyền của việc cắt giảm thuế quan sẽ ảnh hưởng đến các lĩnh vực như sau: - Làm tăng tiêu dùng các sản phẩm khác cho người tiêu dùng tiết kiệm được một khoản từ thuế. - Làm thay đổi cơ cấu sản xuất, nguồn lực của xã hội dịch chuyển từ những ngành sản xuất kém hiệu quả sang những ngành sản xuất hiệu quả hơn. - Thuế nhập khẩu giảm làm tăng lượng hàng nhập khẩu, cầu về ngoại tệ tăng. Hoạt động ngoại thương mở rộng tạo ra nền kinh tế mở. Tác động này được hiểu trên phạm vi rộng, không chỉ hoạt động ngoại thương phát triển khi nước nhập khẩu cắt giảm thuế nhập khẩu mà còn được mở rộng khi xuất khẩu dành cho hành vi giảm thuế của các nước thành viên kia. - Thuế quan tái phân phối thu nhập từ người sản xuất trong nước sang người tiêu dùng. Một mặt thu nhập của người sản xuất trong nước gọi là giảm sút thặng dư sản xuất và thu nhập đó được chuyển sang cho người tiêu dùng làm tăng thặng dư tiêu dùng. Tác động này của thuế quan đã ảnh hưởng đến quá trình phân phối lại thu nhập của xã hội, từ đó ảnh hưởng đến cơ cấu sản xuất và tiêu dùng xã hội. - Ảnh hưởng đến Ngân sách nhà nước: Việc giảm thuế nhập khẩu làm cho Ngân sách nhà nước mất một khoản thu. Tuy nhiên sự tác động trực tiếp này không chỉ dừng lại ở đó mà cón diễn ra nhiều ảnh hưởng gián tiếp và các ảnh hưởng động. Các các doanh nghiệp FDI có thể được phân loại thành 2 khu vực: Khu vực thay thế nhập khẩu và khu vực định hướng xuất khẩu. Thực tế tại Việt Nam cho thấy trong khi các doanh nghiệp FDI định hướng xuất khẩu đều tập trung vào những ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh, tạo ra nhiều công ăn việc làm thì những doanh nghiệp FDI thay thế nhập khẩu chủ yếu tập trung vào những khu vực mà Việt Nam sẽ có lợi hơn nếu nhập khẩu từ nước ngoài. Sự tồn tại của những hàng rào bảo hộ có thể coi là một yếu tố quyết định sự tập trung của nhiều doanh nghiệp FDI thay thế nhập khẩu vào một số ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam. Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập và tự do hóa thương mại, đang có nhiều bằng chứng cho thấy sự lúng túng, thiếu đồng bộ trong việc xử lý giữa yêu cầu tự do hóa và lợi ích của các doanh nghiệp trong những ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu. Dù phát triển các công ty trong nước hay thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp phụ trội thì cũng vẫn phải bảo hộ ở một mức độ nhất định. Những chính sách như thế sẽ làm giá phụ tùng và sản phẩm trung gian tăng. Thị trường trong nước càng nhỏ thì chi phí này càng cao. Trong hầu hết các trường hợp, giá cả sản xuất các phụ tùng, sản phẩm trung gian trong nước dưới các hàng rào bảo hộ cao hơn nhiều so với chi phí nhập khẩu từ nước ngoài. Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào khu vực thay thế nhập khẩu hỗ trợ các công ty nước ngoài nhưng mang lại gánh nặng cho người tiêu dùng và cho doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp. Vì thế không nên kéo dài việc hỗ trợ khu vực thay thế nhập khẩu một cách liên tục hoặc không có giới hạn. Chỉ có thể thay nhập khẩu thành công khi kết nối một cách có hiệu quả lịch trình tự do hoá với đào tại nguồn nhân lực, hoàn thiện cơ sở h._.thuận lợi. Định hướng thiết kế chính sách thuế TNCN theo hướng: Mở rộng phạm vi đối tợng chịu thuế và thu nhập chịu thuế kết hợp đồng thời với việc quy định các khoản miễn giảm, khấu trừ một cách hợp lý, đảm bảo các yêu cầu động viên nguồn thu cho NSNN và tính công bằng của chính sách thuế; Xây dựng một cấu trúc bậc thuế và thuế suất phù hợp với cấu trúc phân bố thu nhập và mức thu nhập của các tầng lớp dân cư, đảm bảo yêu cầu động viên nguồn thu cho NSNN và tính hiệu quả của chính sách thuế, phù hợp với khả năng nộp thuế của đối tợng nộp thuế và đảm bảo không ảnh hởng lớn đến các hoạt động sản xuất – xã hội; Đa dạng hoá và nâng cao hiệu qủa các phương pháp kê khai, thu nộp thuế với những biện pháp khuyến khích hợp lý và các giải pháp phù hợp nhằm tăng cường tính khả thi của chính sách thuế, góp phần nâng cao hiệu quả và thúc đẩy hiện đại hoá công tác quản lý thu thuế. Một số đề xuất những nội dung cơ bản của chính sách thuế TNCN: Về đối tượng nộp thuế Để đảm bảo đáp ứng yêu cầu công bằng của chính sách thuế trong điều kiện KT – XH Việt Nam hiện nay, đối tượng nộp thuế TNCN cần được quy định là các cá nhân, trong đó có tính đến tình trạng hôn nhân và gia đình. Điều này phù hợp với thông lệ quốc tế và kinh nghiệm của các nước đang phát triển. Đồng thời, cần quy định các đối tượng hộ gia đình và cá nhân tự kinh doanh cũng là đối tượng nộp thuế TNCN để đảm bảo tính công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế, tính thống nhất trong hệ thống chính sách thuế, công tác quản lý thu thuế và phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong đó, cần có các quy định hợp lý về cơ chế để đảm bảo phát huy vai trò điều tiết của thuế trên thực tế, góp phần khuyến khích các đối tượng này phát triển sản xuất kinh doanh, làm giàu hợp pháp. Về thu nhập chịu thuế Để đảm bảo phạm vi ảnh hưởng bao quát và yêu cầu công bằng, bình đẳng của chính sách thuế TNCN, cần quy định mọi khoản thu nhập đều là thu nhập chịu thuế. Trong đó, tiêu thức phân loại thu nhập cần dựa trên cơ sở tính chất kinh tế, đặc điểm và nguồn thu nhập. Trong thời gian trước mắt, có thể phân chia theo các loại thu nhập sau: Thu nhập lao động : bao gồm tiền lương, tiền công, tiền thưởng, các khoản thù lao; Khoản thù lao và thu nhập khác nhận đựơc từ cung cấp các dịch vụ lao động; Thu nhập kinh doanh: bao gồm khoản thu nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng hàng hoá, địch vụ; Thu nhập từ vốn đầu tư: bao gồm các khoản thu nhập từ tiền lãi (tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi ngân hàng, trái phiếu, kỳ phiếu), cổ tức, lãi vốn… phát sinh do hoạt động đầu tư với mọi hình thức và mọi loại tài sản, trừ bất động sản; Thu nhập từ bất động sản: bao gồm tiền cho thuê nhà, đất, lợi nhuận chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền cho thuê đất và các khoản thu nhập khác về bất động sản; Các loại thu nhập khác: bao gồm các khoản thu nhập quà tặng, quà biếu, phần thưởng, xổ số, các loại giải thưởng và các loại thu nhập khác; Việc chuyển thu nhập kinh doanh, thu nhập từ vốn đầu tư và thu nhập từ bất động sản vào đối tượng chịu thuế TNCN có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra môi trường pháp lý thống nhất về thuế, tạo sự công bằng, bình đẳng và đảm bảo tính bao quát của chính sách thuế TNCN. Về lâu dài, việc phân loại thu nhập có thể chi tiết tuỳ theo mục đích đánh thuế và các chính sách phát triển KT - XH, như phân loại thu nhập đầu tư thành thu nhập từ tiền lãi, thu nhập từ cổ tức và thu nhập từ lãi vốn; các loại thu nhập khác có thể phân chia thành thu nhập từ bảo hiểm, hưu trí, phúc lợi xã hội, thu nhập từ quà tăng, quà biếu, thu nhập từ xổ số, các loại giải thưởng và thu nhập khác. Về phương thức đánh thuế Trong điều kiện nớc ta hiện nay, việc áp dụng kết hợp giữa phương thức đánh thuế toàn bộ thu nhập phương thức đánh thuế từng loại thu nhập là cần thiết nhưng cần được xem xét thận trọng với các phương án áp dụng cho giai đoạn trước mắt và trong tương lai trung và dài hạn, đảm bào phù hợp với điều kiện KT - XH và trình độ công tác quản lý thu thuế trong từng thời kỳ. Trong các loại thu nhập nói trên, trước mắt nên lựa chọn các loại thu nhập từ vốn đầu tư và bất động sản để áp dụng phương thức đánh thuế từng loại thu nhập vì đây là những loại thu nhập mang tính đặc thù, ảnh hưởng lớn đến quan hệ tiết kiệm - tiêu dùng - đầu tư trong xã hội, sự lựa chọn đầu tư của các tầng lớp dân cư và sự phát triển của các tài chính và bất động sản, cũng như công tác quản lý hành chính thuế. Tuy nhiên, về lâu dài, để đảm bảo tính công bằng của chính sách thuế, nên nghiên cứu áp dụng thống nhất phơng thức đánh thuế toàn bộ thu nhập để đảm bảo tính công bằng và hiệu quả của chính sách thuế. Trong trường hợp đó, vẫn có thể áp dụng song song những biện pháp khuyến khích tiết kiệm và đầu tư, chẳng hạn thông qua hoàn thuế hoặc quy định thuế suất ưu đãi. Về cơ sở tính thuế và các khoản khấu trừ Cơ sở tính thuế được xác định bằng cách trừ các khoản miễn giảm và khấu trừ từ tổng số thu nhập chịu thuế. Theo các khái niệm phân loại thu nhập phục vụ mục đích đánh thuế, tổng số thu nhập chịu thuế, thu nhập không chịu thuế và các khoản thu nhập khác, chẳng hạn như các khoản chi tiêu dùng hàng hoá tự sản xuất, tạo nên khái niệm rộng nhất về thu nhập của Haig -Simon (được hiểu là thu nhập kinh tế, bao gồm tiêu dùng cá nhân cộng với mức biến động của giá trị tài sản thực trong một giai đoạn nhất định, thường là 1 năm), như đựơc thể hiện trong bảng 2.3. Trên thực tế áp dụng chính sách thuế TNCN ở các nước, cơ sở tính thuế xác định trên cơ sở lấy tổng số thu nhập chịu thuế mà đối tượng nộp thuế nhận đợc trong một thời kỳ nhất định sau khi đã trừ đi các khoản khấu trừ, miễn giảm theo quy định. Thu nhập ở đây được xác định là thu nhập ròng sau khi đã trừ đi các chi phí cần thiết có liên quan. Chẳng hạn đối với thu nhập kinh doanh thu nhập ròng là toàn bộ doanh thu sau khi đã trừ đi các khoản chi phí hợp lý, hợp kệ theo quy định. Để đảm bảo tính công bằng của chính sách thuế TNCN, cần quy định một hệ thống các khoản khấu trừ một cách hợp ký, phù hợp với điều kiện KT - XH mức thu nhập và các mức sống của các tầng lớp dân cư. Có một số phương pháp thiết kế các khoản khấu trừ để nhằm bảo đảm các mục tiêu công bằng, hiệu quả, đơn giản và khả thi của thuế TNCN. tuy nhiên, phương pháp chủ yếu được áp dụng là quy định các khoản khấu trừ theo loại thu nhập và các khoản khấu trừ cơ bản. Quy định các khoản khấu trừ theo loại thu nhập là cần thiết trong điều kiện Việt Nam hiện nay vì điều này dễ thực hiện, góp phần giảm gánh nặng hành chính thuế đối với những khoản thu nhập không đáng kể và đồng thời cũng nhằm mục tiêu thực hiện các chính sách xã hội. Các khoản khấu trừ cơ bản cần thiết bao gồm khấu trừ định mức để đảm bảp duy trì cuộc sống, sinh hoạt của cá nhân nộp thuế, khấu trừ gia cảnh (khấu trừ định mức đối với vợ/ chồng, con và người phụ thuộc) và khấu trừ đối với các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế. Việc quy định các khoản khấu trừ cơ bản đã trở thành một thực tế phổ biến đối với các chính sách thuế TNCN ở các nứơc trên thế giới hiện nay. Về xác định phương thức khấu trừ và mức khấu trừ cụ thể, có thể áp dụng hai loại khấu trừ chủ yếu là khấu trừ tiêu chuẩn. Khấu trừ tiêu chuẩn được áp dụng với tất cả các đối tượng nộp thuế có đủ tiêu chuẩn theo quy định và thường được quy định theo một mức tiền hoặc tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số thu nhập; do đó, thông thường không có sự liên hệ trực tiếp với thu nhập / chi phí thực tế. Trái lại, khấu trừ phi tiêu chuẩn (tính theo thu nhập / chi phí thực tế) tuy không được quy định bằng số tiền cụ thể hoặc tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số thu nhập nhưng có thể quy định mức tối đa hoặc tối thiểu. Trong trường hợp nước ta, cần quy định các loại khấu trừ tiêu chuẩn vì hệ thống quản lý thuế còn yếu và thiếu những điều kiện cần thiết để có thể áp dụng chế độ khấu trừ phi tiêu chuẩn. Việc xây dựng các mức khấu trừ cụ thể cần phải được nghiên cứu, xem xét một cách đầy đủ và có hệ thống trên cơ sở số liệu điều tra thu nhập dân cư, đặc biệt là các chỉ tiêu chi tiết về thu nhập, chỉ tiêu của toàn bộ dân số cũng như từng nhóm đối tượng, ngành nghề, địa bàn cụ thể; các ảnh hưởng kinh tế, xã hội của từng phương án mức khấu trừ để có thể đạt được các mục tiêu công bằng, hiệu quả và khả thi của chính sách thuế. Với các khoản khấu trừ nói trên, cơ sở tính thuế được xác định như sau: T = å( Ii - Di) - å BDj Trong đó T là cơ sở tính thuế, Ii là loại thu nhập thứ i; Di là khoản khấu trừ theo khoảng thu nhập thứ i; BDj là khấu trừ cơ bản j. Biểu thức thứ nhất ở bên phải phương trình trên là tổng số thu nhập chịu thuế sau khi đã trừ đi các khoản khấu trừ theo loại thu nhập, biểu thức thứ hai là tổng số các khoản khấu trừ cơ bản. Lấy biểu thức thứ nhất trừ đi biểu thức thứ hai sẽ được cơ sở tính thuế. Trên cơ sở cấu trúc bậc thuế và thuế suất, có thể tính được số thuế phải nộp của các đối tượng nộp thuế. Về thuế suất và biểu thuế a) Cần xem xét loại bỏ khoảng cách giữa người Việt Nam và người nước ngoài trong biểu thuế và thuế. Đây là nội dung hết sức quan trọng để đảm bảo tính công bằng và bình đẳng trong môi trường pháp lý về thuế. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, có thể xem xét áp dụng một trong hai phương án sau: (i) Quy định thống nhất một biểu thuế và thuế suất áp dụng cho cả người Việt Nam và người nước ngoài. Vì mức thu nhập bình quân ở Việt Nam thấp nên trong thời gian trước mắt cần xem xét áp dụng một chế độ khấu trừ đặc biệt đối người nước ngoài nhằm khuyến khích người nước ngoài làm việc và sinh sống tại Việt Nam; (ii) Từng bước thu hẹp khoảng cách giữa biểu thuế và thuế suất áp dụng cho người Việt Nam và người nước ngoài để đi đến áp dụng thống nhất một biểu thếu và thuế suất trong tương lai trung và dài hạn. Trong hai phương án nói trên, nên xem xét áp dụng phương án thứ nhất vì phương án thứ hai sẽ không tạo được sự thống nhất trong chính sách thuế trong một thời gian dài do khoảng cách lớn giữa thu nhập bình quân của người Việt Nam với người nước ngoài sẽ còn tồn tại trong nhiều năm tới. Việt Nam vẫn cần phải quy định một chế độ khấu trừ đặc biệt đối với người nước ngoài để đảm bảo lợi ích tương đối của họ trong trường hợp áp dụng thống nhất một biểu thuế và thuế suất cho cả người Việt Nam và người nước ngoài cho đến khi không còn có sự khác biệt lớn trong tổng mức và cơ cấu thu nhập, chi tiêu giữa người Việt Nam và người nước ngoài làm việc và sinh sống tại Việt Nam. b) Cần xem xét quy định cấu trúc bậc thuế và thuế suất rất quan trọng đối với chính sách thuế TNCN vì điều này có ảnh hưởng lớn đến số thu thuế, tính công bằng, hiệu quả của chính sách thuế, khả năng nộp thuế của đối tượng nộp cũng như gánh nặng công tác quản lý hành chính thuế. Theo lý thuyết và kinh nghiệm thực tế về thuế TNCN hiện đại, nên quy định một số lượng ít các bậc thuế, khoảng cách giữa các bậc thuế rộng với các mức thuế suất luỹ tiến không cao để đảm bảo tính đơn giản và nâng cao hiệu quả của chính sách thuế. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, chỉ nên quy định khoảng 3 - 4 bậc thuế có các mức thuế suất dương mà mức thuế suất luỹ tiến cao nhất dới 40%. Trong điều kiện phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay, cùng với định hướng mở rộng cơ sở tính thuế, một số lượng lớn cá nhân nộp thuế. Do đó, cần xem xét lựa chọn mức thuế suất thấp nhất trong biểu thuế luỹ tiến một cách hợp lý để đảm bảo không ảnh hưởng lớn đến thu nhập đối với các đối tượng này (dự kiến khoảng 5%). Riêng đối với thu nhập từ kinh doanh, có thể xem xét hai phương án quy định thuế suất riêng: (i) Quy định một mức thuế suất thống nhất bằng với mức thuế suất thuế TNDN 9 28%) trong thời gian đầu (khoảng 2 - 5 năm) để đảm bảo phù hợp với khả năng quản lý thu thuế và không gây biến động lớn đối với các đối tượng nộp thuế cũng như số thu thuế; sau đó áp dụng biểu thuế luỹ tiến thống nhất; (ii) áp dụng kinh nghiệm của Trung Quốc, quy định biểu thuế luỹ tiến với các bậc thu nhập chịu thuế phù hợp (cao hơn so với biểu thuế luỹ tiến không quá mức thuế suất thuế TNDN). Tuy nhiên, thực hiện hai phương án này đều không đảm bảo tính công bằng và ổn định của chính sách thuế. Riêng trường hợp thực hiện phương án thứ hai tạo thêm sự phức tạp trong chính sách thuế, gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện. Vì vậy, không nên sử dụng hai phương án trên mà áp dụng thống nhất một biểu thuế luỹ tiến đối với thu nhập từ lao động, thu nhập từ kinh doanh và các thu nhập khác. Đối với các loại thu nhập áp dụng phương pháp đánh thuế theo từng loại thu nhập, bao gồm thu nhập từ đầu tư vốn và thu nhập từ bất động sản, nên quy định các mức thuế suất hợp lý, đảm bảo hài hoà với biểu thuế và thuế suất đối với các loại thu nhập áp dụng phương pháp đánh thuế toàn bộ thu nhập và phù hợp với định hướng ưu tiên đầu tiên, phát triển các thị trường tài chính và bất động sản (đề xuất mức thuế suất áp dụng chung đối với các loại thu nhập này khoảng 10 -20%). c) Cần xem xét vấn đề hài hoá hoá thếu suất giữa chính sách thuế TNCN với các chính sách thuế khác, đặc biệt là thuê TNDN, để đảm bảo tránh những tác động tiêu cực đến việc lựa chọn hình thức kinh doanh và nộp thuế trên cơ sở xác định một tỷ lệ động viên ngân sách một cách hợp lý. Trong trường hợp khoảng cách giữa hai loại thuế suất thuế TNDN và thuế TNCN quá lớn thì sẽ có hiện tượng chuyển đổi giữa thu nhập chịu thuế của hai loại thuế hoặc hình thức kinh doanh là pháp nhân hoặc cá nhân, gây ảnh hưởng tiêu cực đối với sản xuất và phân phối thu nhập. Vấn đề còn lại Cần áp dụng thống nhất tiêu thức "cư trú" trong việc xác định đối tượng đánh thuế; áp dụng thống nhất biểu thuế giữa người Việt Nam và người nước ngoài trên cơ sở xây dựng mức miễn trừ khác nhau để đảm bảo sự động viên công bằng giữa các đối tượng nộp thuế. Nghiên cứu biện pháp quản lý thu nhập vãng lai từ các hoạt động như: viết báo, nghiên cứu, viết đề tài…bằng cách xác lập Tài khoản thu nhập cá nhân để thu thuế thu nhập vãng lai. Theo đó, mọi khoản thu nhập như lương theo biên chế, và các khoản thu nhập có tính chất lương khác…được chuyển qua tài khoản này. Làm như vậy sẽ quản lý được thu nhập của các đối tượng có thu nhập vãng lai, ghóp phần lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp, và đơn giản hoá nghiệp vụ thu thuế cũng như điều này giúp cho việc xác định được tính hợp pháp của tài sản thu nhập đối với một số đối tượng giúp cho việc thanh tra, kiểm tra thu nhập dễ dàng hơn. Cải cách thuế là một quá trình nhưng phải đến lúc phải được tổ chức triển khai một cách nề nếp, căn bản, thấu suốt, đi thẳng vào hướng chính, không thể mãi duy trì lối nhỏ hẹp, kiểu cục bộ với từng công đoạn tách rời, từng khâu riêng rẽ. Các sắc thuế nội địa khác Thuế chống chuyển giá: Ban hành Văn bản dưới luật về Thuế chống chuyển giá: Các quy định rõ về: Các bên liên quan, giao dịch với các bên liên quan, đối tượng chịu thuế, thuế suất, giá tính thuế, hình thức xử lý vi phạm,… Ngay khi cấp giấy phép đầu tư, doanh nghiệp FDI phải khai báo với cơ quan cấp phép về các bên liên quan (nếu có) theo mẫu quy định sẵn. Định kỳ cơ quan thuế hoặc cơ quan cấp giấy phép đầu tư yêu cầu các doanh nghiệp FDI khai báo tất cả các giao dịch với các bên liên quan. Để thống nhất giữa các văn bản quy phạm thì các bên liên quan được hiểu như quy định trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam: Các bên được coi là liên quan nếu một bên có khả năng kiểm soát hoặc có ảnh hưởng đáng kể đối với bên kia trong việc ra quyết định tài chính và hoạt động. Giao dịch giữa các bên liên quan: Là việc chuyển giao các nguồn lực hay các nghĩa vụ giữa các bên liên quan, không xét đến việc có tính giá hay không. Trong đó: ảnh hưởng đáng kể: Là kết quả của việc tham gia vào việc đề ra các chính sách tài chính và hoạt động của một doanh nghiệp, nhưng không kiểm soát các chính sách đó. Ví dụ về ảnh hưởng đáng kể: - Có đại diện trong Hội đồng quản trị; - Tham gia trong quá trình lập chính sách; - Tham gia các giao dịch quan trọng giữa công ty cùng tập đoàn; - Trao đổi nội bộ các nhân viên quản lý hoặc phụ thuộc trong các thông tin kỹ thuật; - Thông qua sở hữu cổ phần theo luật hoặc theo thỏa thuận. Chuyển giá là vấn đề phức tạp, khó quản l‎ý của nhiều quốc gia do: vấn đề về không gian, nước nhận đầu tư khó kiểm soát được hoạt động của các công ty mẹ. Sự khác biệt về chính sách thuế giữa các nước làm nảy sinh sự chuyển giá giữa công ty mẹ và công ty con. KẾT LUẬN Qua hơn 17 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển và đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công tác quản lý đầu tư nước ngoài đã từng bước đi vào nền nếp. Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam qua một số lần sửa đổi, bổ sung đang được các nhà đầu tư đánh giá là tương đối hấp dẫn so với các nước trong khu vực. Đặc biệt là trong 4 năm qua, thực hiện Nghị quyết số 09/2001/NQ-CP ngày 28 tháng 8 năm 2001 của Chính phủ và Chỉ thị số 19/2001/CT-TTg ngày 28 tháng 8 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả đầu tư nước ngoài tại Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005, môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện, hạn chế được đà suy giảm vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta và gần đây có những dấu hiệu hồi phục. Quá trình hội nhập và liên kết kinh tế khu vực đòi hỏi từng quốc gia phải có những điều chỉnh chính sách thuế phù hợp với xu thế chung trên thế giới, giảm bớt lợi ích riêng về thu ngân sách Nhà nước để nhường chỗ cho lợi ích chung là thống nhất chính sách kinh tế khu vực nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh. Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng, công tác xây dựng luật pháp, chính sách, đặc biệt là chính sách thuế đã và đang được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn. Với đề tài nghiên cứu "Hoàn thiện chính sách thuế đối với hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam", trên cơ sở những phân tích trong luận văn, tác giả rút ra những kết luận chủ yếu như sau: Luận văn có những đóng góp và phát triển mới là: Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp của nước ngoài và phân tích làm rõ vị trí, vai trò của hoạt động này đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Phân tích tác động của cạnh tranh và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đến hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt nam. Hệ thống hoá và phân tích các chính sách thuế hiện hành ở nước ta có tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư nước ngoài. Luận văn chỉ ra rằng để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn hơn, quản lý hiệu quả hơn đối với Nhà nước cũng như để FDI đóng góp nhiều hơn nữa cho vấn đề tăng trưởng kinh tế thì công tác xây dựng luật pháp và chính sách đặc biệt các chính sách thuế cần phải được hoàn thiện đồng bộ, đầy đủ theo hướng minh bạch, rõ ràng, nhất quán và bình đẳng, kể cả sự tương thích về kỹ thuật thực hiện. Chính sách ưu đãi đầu tư thông qua thuế cần phải được chọn lọc và có thời hạn phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển ngành và vùng. Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất và kiến nghị một hệ thống các quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện các chính sách thuế đối với hoạt động FDI phù hợp với quan điểm và mục tiêu đầu tư nước ngoài trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010. Các giải pháp hoàn thiện đối với các chính sách thuế như: Thuế xuất khẩu, nhập khẩu; Thuế thu nhập doanh nghiệp; Thuế GTGT; Thuế tiêu thụ đặc biệt; Thuế thu nhập cá nhân; Thuế chống chuyển giá. Đối với mỗi chính sách thuế, tác giả nêu rõ quan điểm hoàn thiện, các đề xuất về định hướng thiết kế chính sách thuế, cũng như các giải pháp cụ thể trong điều kiện đất nước đang hội nhập kinh tế quốc tế. Những nội dung nghiên cứu trong luận văn vừa có tính lý luận, vừa mang tính tổng kết đánh giá thực tiễn nên có tính khả thi và hoàn toàn có khả năng vận dụng vào thực tiễn đất nước ta trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo. Quá trình vận động của FDI, sự kỳ vọng FDI có thể thay thế khu vực nhập khẩu và sự đóng góp của hoạt động này vào quá trình tăng trưởng nền kinh tế cho thấy tính cấp thiết của việc hoàn thiện các chính sách thuế, đặc biệt trong điều kiện đất nước đang hội nhập kinh tế thế giới. Việc nghiên cứu và tìm kiếm các giải pháp hoàn thiện hệ thống các chính sách thuế nước ta nhằm thu hút và quản lý có hiệu quả hơn nữa dòng vốn FDI, thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp FDI là vấn đề còn mới và khá phức tạp. Vì vậy nó cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện để FDI ngày càng có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 01. Bộ Tài Chính (2000), Chiến lược đổi mới chính sách huy động các nguồn vốn nước ngoài phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2001 – 2010, Hà nội. 02. Bộ tài chính (2005), Tờ trình Chính phủ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng, Hà nội. 03. Bộ tài chính (2005), Tờ trình Chính phủ về dự án Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa đổi), Hà nội. 04. “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội thời kỳ 2001-2010”, Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. 05. Cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật bản (JICA) (2004), Chính sách công nghiệp và thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, tập 1 và tập 2, Nxb Thanh Hoá, Thanh hoá. 06. Phan Văn Hiển (2003), “Thực trạng và định hướng huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài ở Việt nam”, Tài liệu bồi dưỡng kỹ năng hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ Tài chính, Hà nội. 07. Hệ thống văn bản pháp luật về thuế giá trị gia tăng (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội. 08. Hệ thống văn bản pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội. 09. Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về thuế tiêu thụ đặc biệt. 10. Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về thuế nhà thầu, về thuế chống chuyển giá. 11. Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về thuế thu nhập cá nhân. 12. Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 13. K.Bubl, R.Kruege, H.Marienburg (2002), Toàn cầu hoá với các nước đang phát triển, Nxb Đại học Quốc gia, Hà nội. 14. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam và văn bản hướng dẫn thi hành (2003), Nxb Tài chính, Hà nội. 15. Tổng cục Thống kê (2002), Niên giám Thống kê 2002, Nxb Thống kê, Hà Nội. 16. Trường Đại học tài chính kế toán (2000), Giáo trình thuế, Nxb Tài chính, Hà nội. 17. Võ Thanh Thu (2004), Kỹ thuật đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nxb Thống kê, Hà nội. 18. Cấn Anh Tuấn (2002), “Thực trạng đầu tư nước ngoài vào các khu chế xuất, khu công nghiệp Việt nam và các giải pháp”, Thị trường tài chính tiền tệ, 11 (113), tr. 9-11. 19. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2003), Hội nhập kinh tế áp lực cạnh tranh trên thị trường và đối sách của một số nước, Nxb Giao thông vận tải, Hà nội. 20. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2003), Chính sách phát triển kinh tế Kinh nghiệm và Bài học của Trung quốc, tập 1, Nxb Giao thông vận tải, Hà nội. 21. Việt nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Thống kê 22. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần IX, Đảng cộng sản Việt nam (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Danh mục các bảng biểu Số hiệu Tên bảng Trang 1.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư (1988-2003) 15 1.2 Tốc độ tăng vốn của các doanh nghiệp có đến 01/07/2002 so với 01/07/1995 16 1.3 Đóng góp của các dự án FDI đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam 16 1.4 Kim ngạch xuất khẩu khu vực FDI 17 2.1 Danh mục thuế suất các mặt hàng chịu thuế TTĐB 51 2.2 Danh mục mặt hàng, dịch vụ chịu thuế và thuế suất thuế TTĐB 52 2.3 Thu NSNN theo GDP bình quân đầu người ở các nước trên thế giới và Việt Nam ( đơn vị %) 54 2.4 Thuế suất một số loại thuế chính của các nước trên thế giới (%) 59 3.1 Mức độ ảnh hưởng của những ưu đãi thuế hiện hành 77 3.2 Những hạn chế của nước có triển vọng phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh về trung hạn 77 3.3 Những hạn chế về thương mại và đầu tư của Việt Nam (theo đánh giá của các công ty Nhật Bản) 81 ký hiệu các chữ viết tắt AFTA : Tiếng Anh: ASEAN Free Trade Area (Khu vực thương mại tự do ASEAN) ASEAN : Tiếng Anh: Association of South-East Asian Nations (Hiệp hội các quốc gia Đông nam Á) BCC Tiếng Anh: Business-Co-opreration-Contract (Hợp đồng – Hợp tác – Kinh doanh) BOT : Tiếng Anh: Built - Operation - Transfer (Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao) BTA : Tiếng Anh: Biolateral Trade Agreements (Hiệp định thương mại) FIAS : Tiếng Anh: Foreign Investment Affairs Section (Bộ phận tư vấn dịch vụ đầu tư nước ngoài) CEPT : Tiếng Anh: Common Effective Preferential Tariff (Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung) CNXH : Chủ nghĩa xã hội DNLD : Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài DNNN : Doanh nghiệp nhà nước ĐTNN : Đầu tư nước ngoài FDI : Tiếng Anh: Foreign Direct Investment (Đầu tư trực tiếp nước ngoài) GDP : Tiếng Anh: Gross Domestic Products (Tổng sản phẩm quốc nội) GTGT : Giá trị gia tăng HĐQT : Hội đồng quản trị KTTT : Kinh tế thị trường KTXH : Kinh tế xã hội MPDF : Tiếng Anh: (Chương trình phát triển kinh tế tư nhân) NICs : Tiếng Anh: New Industrialiazed Countries (Các nước công nghiệp mới) NSNN : Ngân sách nhà nước ODA : Tiếng Anh: Official Development Assistance (Viện trợ phát triển chính thức) SXKD : Sản xuất kinh doanh TNCN : Thu nhập cá nhân TNDN : Thu nhập doanh nghiệp TTĐB : Tiêu thụ đặc biệt XNK : Xuất nhập khẩu WTO : Tiếng Anh: World Trade Organization (Tổ chức thương mại thế giới) MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU DANH MỤC HÌNH VẼ MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA NƯỚC NGOÀI VÀ CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐÓ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 4 1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 4 1.1.1 Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài 5 1.1.2 Các hình thức đầu tư FDI cơ bản tại Việt Nam 6 1.1.3 Phân biệt doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp khác 12 1.2 VAI TRÒ VÀ SỰ ĐÓNG GÓP CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM 13 1.2.1 Doanh nghiệp FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế. 14 1.2.2 Các dự án FDI ngoài góp phần tăng thu ngân sách, góp phần cải thiện cán cân thanh toán và cán cân vãng lai của quốc gia. 16 1.2.3 Các dự án FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 17 1.2.4 Các dự án FDI đóng góp quan trọng trong việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của Việt Nam. 18 1.2.5 FDI góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế thị trường ở Việt Nam đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập nhanh với nền kinh tế thế giới. 19 1.2.6 FDI góp phần giải quyết công ăn việc làm đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao mức sống cho người lao động. 20 1.3 HOẠT ĐỘNG FDI VỚI TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ 21 1.3.1 Sự tác động của quá trình hội nhập kinh tế đối với hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 21 1.3.2 Một số luận cứ khoa học xây dựng chính sách thuế trong tiến trình hội nhập 24 1.4 TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ ĐỐI VỚI DOANG NGHIỆP FDI 31 1.4.1 Chính sách thuế và đầu tư 31 1.4.2 Tác động của thuế đối với doanh nghiệp FDI 33 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 35 2.1 CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI VỀ THUẾ VÀ CÁC HÌNH THỨC ƯU ĐÃI THƯỜNG ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG FDI TẠI VIỆT NAM 35 2.2 CƠ CHẾ QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP FDI ĐANG HOẠT ĐỘNG TẠI VIỆT NAM 36 2.2.1 Công tác xây dựng luật pháp, chính sách 36 2.2.2 Chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 38 2.2.3 Các sắc thuế nội địa 45 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG FDI TẠI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2010 68 3.1 MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2001-2010 VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH ĐỘNG VIÊN THÔNG QUA THUẾ 68 3.2 QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 70 3.2.1 Hoàn thiện chính sách thuế cần phải đi theo đúng đường lối của Đảng và Nhà nước. 70 3.2.2 Hoàn thiện chính sách thuế cần phải đảm bảo nguồn thu Ngân sách nhà nước không bị biến động lớn. 70 3.2.3 Việc hoàn thiện chính sách thuế cần đảm bảo sự bảo hộ đúng đắn hợp lý nền sản xuất trong nước, trong đó có các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam. 71 3.2.4 Hoàn thiện chính thuế cần phải đảm bảo sự phù hợp với thông lệ quốc tế tạo môi trường bình đẳng, tăng khả năng tích lũy vốn cho doanh nghiệp nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đảm bảo tính tổng thể, ổn định và lâu dài. 73 3.3 NHỮNG HẠN CHẾ CỦA HỆ THỐNG THUẾ HIỆN HÀNH Ở NƯỚC TA 74 3.3.1 Còn tồn tại sự không công bằng trong từng sắc thuế 75 3.3.2 Mức độ ảnh hưởng của hệ thống thuế còn thấp 77 3.3.3 Hệ thống chính sách thuế còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và chưa đảm bảo tính tương thích với hệ thống thuế các nước trong khu vực 79 3.3.4 Hệ thống thuế nước ta còn quá phức tạp, chưa thể hiện sự đơn giản, rõ ràng và minh bạch theo các nguyên tắc hội nhập quốc tế 80 3.3.5 Nhiều văn bản pháp quy chưa được đồng bộ 82 3.3.6 Hình thức ưu đãi đầu tư thông qua chính sách thuế không hiệu quả 83 3.3.7 Luật thuế xuất nhập khẩu đã bộc lộ nhiều điểm không phù hợp 85 3.3.8 Những hạn chế khác 86 3.4 HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG FDI TẠI VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI ĐẾN NĂM 2010 87 3.4.1 Hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư thông qua thuế 88 3.4.2 Hoàn thiện thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 89 3.4.3 Hoàn thiện các sắc thuế nội địa 100 KẾT LUẬN 114 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 116 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0188.doc