Mục lục
* Lời nói đầu
4
Chương 1 : Cơ sở lý luận và phương pháp luận về vồn kinh doanh của
doanh nghiệp
6
1.1 Vốn kinh doanh của doanh nghiệp
6
1.1.1 Khái niệm về vốn
6
1.1.2 Những đặc trưng cơ bản của vốn
7
1.1.3 Kết cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp
10
1.1.3.1 Phân loại vốn dưới góc độ tài sản
10
a.Vốn lưu động
10
b.Vốn cố định
12
1.1.3.2 Phân loại vốn dưới góc độ nguồn hình thành
16
a. Vốn chủ sở hữu
16
b. Công nợ phải trả
16
1.2 Hiệu quả sử dụng vốn
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1166 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cơ Điện Công Trình - Thực trạng & Giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
18
1.2.1 Khái niệm về hiệu quả -hiệu quả sử dụng vốn
18
1.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
19
1.3 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
20
1.3.1 Quan điểm và tiêu thức xác định hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh
20
1.3.2 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
22
1.3.2.1 Các chỉ tiêu tổng hợp
22
1.3.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định
24
1.4 Phương pháp đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả
sử dụng vốn
27
1.4.1 Các phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
27
1.4.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn
28
1.4.2.1 Các nhân tố lượng hoá
28
1.4.2.2 Các nhân tố phi lượng hoá
29
a. Các nhân tố khách quan
29
b. Các nhân tố chủ quan
30
Chương 2: Thực trạng quản lý và sử dụng vốn tại Công ty Cơ Điện Công
Trình
31
2.1 Giới thiệu khái lược về Công ty Cơ Điện Công Trình
31
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty
31
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của Công ty
32
2.1.3 Chức năng và nhiệm vụ của Công ty
35
2.2 Thực trạng quản lý và sử dụng vốn tại Công ty Cơ Điện Công Trình
35
2.2.1 Khái quát về vốn và sử dụng vốn tại Công ty Cơ Điện Công
Trình trong một số năm gần đây.
36
2.2.2 Nguồn vốn và tình hình tài chính của Công ty
46
2.2.2.1 Cơ cấu nguồn vốn của Công ty
46
2.2.2.2 Tình hình tài chính của công ty trong những năm qua
50
2.3 Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Công ty Cơ Điện
Công Trình
52
2.3.1 Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của Công ty
52
2.3.2 Hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty Cơ Điện
Công Trình
56
2.3.3 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty Cơ Điện Công
Trình
59
2.4 Đánh giá khái quát về tình hình sử dụng vốn kinh doanh tại Công
ty Cơ Điện Công Trình trong những năm qua
66
2.4.1 Những kết quả tiêu biểu
66
2.4.2 Những tồn tại và nguyên nhân
68
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại
Công ty Cơ Điện Công Trình
72
3.1 Những giải pháp nhằm tạo cho công ty một nguồn vốn vững chắc
72
3.2 Những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cơ
Điện Công Trình
74
3.2.1 Thực hiện một cơ cấu vốn hợp lý tại Công ty Cơ Điện Công
Trình
74
3.2.2 Những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại
Công ty Cơ Điện Công Trình
74
3.2.3 Những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng lưu động tại
Công ty Cơ Điện Công Trình
76
3.2.4 Trích lập quỹ dự phòng tài chính và dự toán ngân quỹ
78
3.3 Một số kiến nghị về các giải pháp vĩ mô để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc sử dụng vốn của Công ty
79
3.3.1 Thực hiện ưu đãi trong cơ chế chính sách về tài chính
79
Tạo ra một môi trường kinh tế, xã hội ổn định đảm bảo cho
việc đầu tư vốn có hiệu quả
80
Kết luận
81
Tài liệu tham khảo
83
Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, có rất nhiều loại hình kinh doanh hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, các doanh nghiệp luôn lấy mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận, do vậy việc cạnh tranh diễn ra rất phức tạp và quyết liệt “ Thương trường như chiến trường”, không ngoại trừ đối với bất cứ một đơn vị kinh tế nào.
Để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, trong đó quản lý và sử dụng vốn có ý nghĩa quyết định. Thực tiễn kinh doanh chỉ ra rằng, phần lớn các doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh đều có nguyên nhân từ vấn đề hiệu quả sử dụng vốn. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ tạo cơ sở để doanh nghiệp đứng vững trên thương trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo ra công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động. Hiệu quả sử dụng vốn cao hay thấp sẽ quyết định đến sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của vốn và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp, qua thời gian thực tập tìm hiểu thực tế tại Công Ty Cơ Điện Công Trình, tôi đã chọn đề tài “Hiệu quả sử dụng vốn tại Công Ty Cơ Điện Công Trình - Thực trạng và giải pháp phát triển” để thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tình hình kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Cơ Điện Công Trình trong ba năm gần đây. Từ đó đưa ra sự phân tích và những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Với mục đích và phạm vi nghiên cứu trên, tôi đã sử dụng các phương pháp cụ thể là tổng hợp, phân tích, so sánh giữa lý luận và thực tiễn,...
Ngoài lời mở đầu, kết luận, nội dung chính của luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và phương pháp luận về vốn kinh doanh của doanh
nghiệp.
Chương 2: Thực trạng quản lý và sử dụng vốn tại công ty Cơ Điện Công
Trình.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công
ty Cơ Điện Công Trình.
Tôi xin chân thành cám ơn thầy hướng dẫn TS Đinh Quang Ty và các cán bộ phòng Tài Vụ công ty Cơ Điện Công Trình đã giúp đỡ hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Chương 1
Cơ sở lý luận và phương pháp luận về vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn là yếu tố quan trọng hàng đầu, việc đánh giá và sử dụng vốn một cách đúng đắn sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy việc hiểu sâu, chính xác về vốn kinh doanh của doanh nghiệp là rất cần thiết. Trong chương này, chúng tôi xin đề cập đến những vấn đề liên quan đến vốn và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp.
1.1/ Vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Khái niệm về vốn
Trong nền kinh tế thị trường vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới mọi khâu của quá trình hoạt động kinh doanh. Vì vậy để nâng cao hiệu quả đồng vốn trong kinh doanh, ta cần hiểu rõ về vốn và vai trò của nó để làm tiền đề cho việc sử dụng vốn có hiệu quả.
Vậy vốn là gì? Vốn là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra được tích luỹ lại và những của cải tự nhiên ban cho như đất đai, khoáng sản đã được cải tạo hoặc chế biến.v.v. Vốn có thể biểu hiện dưới hình thức hiện vật và dưới hình thức tiền tệ. Vốn là yếu tố đầu vào của sản xuất. Các nhà khoa học đã tìm ra được mối liên hệ giữa tăng GDP với tăng vốn đầu tư, được gọi là hiệu suất sử dụng vốn gia tăng. Đó là tỷ lệ tăng đầu tư chia cho tỷ lệ tăng của GDP.
Vốn là một phạm trù kinh tế trong lĩnh vực tài chính, nó gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Vốn là điều kiện để duy trì sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị phần, mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Những đặc trưng cơ bản của vốn
Vốn được quan niệm là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu và đi vào các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp để tạo ra lợi nhuận. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong một quá trình sản xuất riêng biệt bị chia cắt, mà trong mọi quá trình sản xuất và tái sản xuất liên tục, suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ khi bắt đầu quá trình sản xuất đầu tiên cho tới chu kỳ sản xuất cuối cùng.
Bảy đặc điểm chính sau đây của vốn sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất của vốn:
Thứ nhất: Vốn là đại diện cho một lượng giá trị tài sản, có nghĩa vốn là biểu hiện bằng giá trị của các tài sản hữu hình và vô hình như: nhà xưởng, đất đai, máy móc, thiết bị, chất xám, thông tin,... Một lượng tiền phát hành đã thoát lý giá trị thực của hàng hoá để đưa vào đầu tư, những khoản nợ không có khả năng thanh toán thì không được coi là vốn.
Thứ hai: Vốn luôn vận động để sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Để biến thành vốn thì đồng tiền đó phải được đưa vào hoạt động kinh doanh nhằm kiếm lời. Trong quá trình vận động, đồng vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện, nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị- là tiền. Đồng vốn phải quay về xuất phát với giá trị lớn hơn- đó là nguyên lý đầu tư, sử dụng và bảo toàn vốn. Do vậy khi đồng vốn bị ứ đọng, tài sản cố định không được sử dụng, tài nguyên, sức lao động không được dùng đến và nảy sinh các khoản nợ khó đòi... là đồng vốn “chết”. Mặt khác, tiền có vận động nhưng bị phân tán quay về nơi xuất phát với giá trị thấp hơn thì đồng vốn cũng không được đảm bảo, chu kỳ vận động tiếp theo sẽ bị ảnh hưởng.
Thứ ba: Vốn không tách rời chủ sở hữu trong quá trình vận động, mỗi đồng vốn phải gắn với một chủ sở hữu nhất định. Nếu đồng vốn không rõ ràng về chủ sở hữu sẽ có chi phí lãng phí, không hiệu quả. Trong nền kinh tế thị trường, chỉ có xác định rõ chủ sở hữu thì đồng vốn mới được sử dụng hợp lý và có hiệu quả cao. Cần phải phân biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn, đó là hai quyền khác nhau. Tuy nhiên, tuỳ theo hình thức đầu tư mà người có quyền sở hữu và quyền sử dụng là đồng nhất hoặc riêng rẽ. Và dù trong trường hợp nào, người sở hữu vốn vẫn được ưu tiên đảm bảo quyền lợi và được tôn trong quyền sở hữu của mình. Đây là một nguyên tắc để huy động và quản lý vốn.
Thứ tư: Phải xem xét về yếu tố thời gian của đồng vốn, điều này có nghĩa là vốn có giá trị về mặt thời gian. Trong điều kiện cơ chế thị trường, phải xem xét yếu tố thời gian vì ảnh hưởng sự biến động của giá cả, lạm phát nên giá trị của đồng tiền ở mỗi thời kỳ là khác nhau.
Thứ năm: Vốn phải được tập trung tích tụ đến một lượng nhất định mới có thể phát huy được tác dụng. Doanh nghiệp không chỉ khai thác tiềm năng về vốn của mình mà còn phải tìm cách thu hút nguồn vốn từ bên ngoài như phát hành cổ phiếu, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác. Nhờ vậy vốn của doanh nghiệp sẽ tăng lên và được gom thành món lớn.
Thứ sáu: Vốn được quan niệm là một loại hàng hoá đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. Nhưng người có vốn có thể cho vay và những người cần vốn sẽ đi vay, có nghĩa là mua quyền sử dụng vốn của người có quyền sở hữu vốn. Khi đó quyền sở hữu vốn không di chuyển nhượng qua sự vay nợ. Người vay phải trả một tỷ lệ lãi suất hay chính là giá của quyền sử dụng vốn., vốn khi bán đi sẽ không mất quyền sở hữu mà chỉ mất quyền sử dụng trong một thời gian nhất định. Việc mua này diễn ra trên thị trường tài chính, giá mua bán tuân theo quan hệ cung- cầu vốn trên thị trường.
Thứ bảy; Vốn không chỉ được biểu biện bằng tiền của những tài sản hữu hình mà nó còn biểu hiện giá trị của những tài sản vô hình như nhãn hiệu, bản quyền, phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ, vị trí địa lý kinh doanh... Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự tiến bộ của khoa học công nghệ thì những tài sản vô hình ngày càng phong phú và đa dạng, giữ vai trò quan trọng trong việc tạo ra khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Do vậy, tất cả các tài sản này phải được lượng hoá để quy về giá trị. Việc xác định chính xá giá trị của các tài sản nói chung và các tài sản vô hình nói riêng là rất cần thiết khi góp vốn đầu tư liên doanh, khi đánh giá doanh nghiệp, khi xác định giá trị để phát hành cổ phiếu
Những đặc trưng trên cho thấy rằng vốn kinh doanh được sử dụng cho sản xuất kinh doanh tức là mục đích tích luỹ chứ không phải là mục đích tiêu dùng như một số quỹ tiền tệ khác trong doanh nghiệp. Vốn kinh doanh được ứng ra trước khi hoạt động sản xuất kinh doanh được bắt đầu. Và sau một chu kỳ hoạt động vốn kinh doanh phải được thu về để sử dụng cho các chu kỳ hoạt động tiếp theo.
Muốn có vốn thì phải có tiền, nhưng có tiền cũng chưa phải là có vốn, tiền được coi là vốn khi có những điều kiện sau:
Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định, nói cách khác tiền phải đảm bảo bằng một lượng hàng hoá có thực.
Tiền phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định thì mới đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh nào đó dù là nhỏ nhất. Nếu tiền nằm rải rác khắp nơi, không được thu gom thành khoản thì cũng không làm được việc gì.
Khi đã đủ về lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lợi.
Ngoài ra, riêng đối với loại vốn đặc biệt- sức lao động, yếu tố cơ bản quan trọng nhất trong các loại vốn,còn có những đặc điểm riêng:
Là nguồn duy nhất sáng tạo ra giá trị mới
Vừa là chủ thể quản lý vừa là đối tượng quản lý.
Khả năng làm việc tiềm ẩn trong mỗi người phụ thuộc vào tình cảm, môi trường làm việc xung quanh... và chỉ biểu hiện khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Như vậy, ta thấy rằng phạm trù vốn cần phải được nhận thức cho phù hợp và thấu đáo. Đó là cơ sở cho việc hoạch định chính sách và cơ chế, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các doanh nghiệp.
Kết cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, vốn bị tác động chi phối bởi nhiều yếu tố. Tuy nhiên kết cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp luôn là cố định. Giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản chỉ là hai mặt khác nhau của một tài sản. Về mặt lượng tổng giá trị tài sản bao giờ cũng bằng tổng nguồn hình thành tài sản. Một tài sản có thể được hình thành từ một hoặc nhiều nguồn khác nhau và ngược lại, một nguồn có thể tham gia hình thành nên một hay nhiều loại tài sản. Và như vậy ta luôn có phương trình:
Nguồn vốn= Tài sản
Nguồn vốn= Nợ phải trả +Nguồn vốn chủ sở hữu
Như vậy giữa giá trị và nguồn vốn hình thành của tài sản bất kỳ thời điểm nào cũng luôn thể hiện tính cân bằng về mặt hàng.
1.1.3.1 Phân loại vốn dưới góc độ tài sản
Theo cách này, người ta chia vốn kinh doanh của doanh nghiệp hai loại chính: vốn lưu động và vốn cố định dựa trên mặt giá trị và tính chất luân chuyển gia trị của tài sản trong doanh nghiệp.
Vốn lưu động
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, bên cạnh các tư liệu sản xuất, để sản xuát ra của cải vật chất doanh nghiệp cần phải có các đối tượng lao động như nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng. Trong quá trình sản xuất các đối tượng này chuyển từ hình thái vật chất này sang hình thái vật chất khác. Sự vận động của đối tượng lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh được chia ra làm ba giai đoạn chính:
+ Giai đoạn 1: doanh nghiệp dùng tiền để mua nguyên vật liệu, phụ tùng cho quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Giai đoạn 2: nguyên vật liệu ở khâu dự trữ được đưa vào sản xuất. Trong quá trình này tư liệu lao động kết hợp với đối tượng lao động, thông qua sự tác động của con người làm cho con người chuyển sang hình thái vật chất khác: dưới dạng bán thành phẩm hay thành phẩm dở dang. Toàn bộ giai đoạn 1 và giai đoạn 2 được gọi là các tài sản lưu động.
+ Giai đoạn 3: là giai đoạn doanh nghiệp phải tiến hành các công việc như: bao bì, đóng gói, bảo quản, xuất bán sản phẩm và thanh toán. Đối tượng lao động trong giai đoạn này gọi là các tài sản lưu thông.
Tài sản lưu động và tài sản lưu thông vận động không ngừng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên dù ở hình thức nào thì hai loại tài sản này cũng xuất phát từ tiền ứng ra ban đầu của doanh nghiệp. Đó chính là vốn lưu động.
Vốn lưu động của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của những tài sản của doanh nghiệp có thời gian sử dụng, thu hồi, luân chuyển trong vòng một năm hoặc chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.
Nói cách khác, vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của những tài sản của doanh nghiệp với hy vọng chắc chắn được chuyển đổi thành tiền mặt, bán ra hay tiêu dùng trong phạm vi một chu kỳ kinh doanh bình thường hay một năm.
* Vốn lưu động được chia làm các loại sau đây:
- Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất bao gồm: vốn vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, vốn bao bì đóng gói và vốn công cụ lưu động nhỏ.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình sản xuất bao gồm: vốn về sản phẩm đang chế tạo, vốn về bán thành phẩm tự chế, vốn về chi phí chờ phân bổ.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông bao gồm: vốn thành phẩm, vốn thanh toán và vốn tiền mặt.
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục không ngừng nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng, mang tính chu kỳ và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh. chính vì vậy việc quản lý tốt vốn lưu động có vai trò rất quan trọng. Một doanh nghiệp được đánhg giá là quản lý vốn lưu động có hiệu quả khi với một khối lượng vốn không lớn, doanh nghiệp biết phân bố hợp lý trên các giai đoạn để luân chuyển để số vốn lưu động đó chuyển biến nhanh từ hình thái này sang hình thái khác, đáp ứng được các nhu cầu phát sinh.
b)Vốn cố định
Trong quá trình sản xuất kinh doạnh, sự vận động của vốn cố định gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là tài sản cố định. Vì vậy việc nghiên cứu về vốn cố định trước hết phải dựa trên cơ sở tìm hiểu về tài sản cố định.
Tài sản cố định là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ những tài sản của doanh nghiệp có thời gian luân chuyển dài (thường là trên một năm hay một chu kỳ kinh doanh). Căn cứ vào hình thái biểu hiện, toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp được chia làm hai loại: Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Tài sản cố định hữu hình là những tài sản cố định có hình thái vật chất, có đủ tiêu chuẩn của tài sản cố định về giá trị và thời gian sử dụng theo một quy định trong chế độ quản lý tài chính hiện hành như nhà cửa, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫn... Tài sản cố đinhj hữu hình có thể do doanh nghiệp tự mua sắm, xây dựng hoặc đi thuê dài hạn.
Tài sản cố định vô hình là những tài sản cố định không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư, chi trả, chi phí nhằm có được các lợi ích hoặc các nguồn có tính chất kinh tế, mà giá trị của chúng xuất phát từ các đặc quyền hoặc quyền của doanh nghiệp như quyền sử dụng đất, chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí chuẩn bị sản xuất, giá trị bằng phát minh sáng chế, chi phí nghiên cứu, phát triển, chi phí lợi thế thương mại...
Tài sản cố định vô hình cũng có thể được hình thành do doanh nghiệp tự đầu tư hoặc thuê dài hạn
Từ việc nghiên cứu hai loại tài sản cố định như trên, ta có thể rút ra một số đặc điểm luân chuyển vốn cố định.
- Vốn cố định được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, điều này là do tài sản cố định được sử dụng lâu dài, trong nhiều chu kỳ sản xuất.
- Vốn cố định được luân chuyển dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, vốn cố định bị tách làm hai phần. Một là phần tương ứng với phần giá trị hao mòn (hữu hình và vô hình) sẽ tham gia vào giá trị sản phẩm và được tích luỹ khi sản phẩm được tiêu thụ,còn bộ phận khác đặc trưng cho giá trị còn lại của tài sản cố định. Các chu lỳ sản xuất cứ kế tiếp nhau tiếp diễn. Phần thứ nhất của vốn cố định ngày càng tăng còn phần thứ hai lại giảm dần. Sự biến thiên này được kết thúc khi tài sản cố định được khâú hao hết. Phần còn lại của tài sản cố định được chuyển hoá sang vốn tiền tệ- quỹ khấu hao đồng thời cũng là lúc kết thúc vòng tuần hoàn của vốn cố định.
Như vậy, vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời hạn.
Bên cạnh đó cần lưu ý rằng một tư liệu lao động chỉ được coi là tài sản cố định khi nó thoả mãn đồng thời hai điều kiện:
Điều kiện 1 là tiêu chuẩn về thời gian: phải có thời gian sử dụng tối thiểu là một năm trở lên.
Điều kiện 2 là tiêu chuẩn về giá trị: phải đạt một mức tối thiểu nào đó về giá trị (thường được điều chỉnh phù hợp với tình hình giá chung của từng thời kỳ)
Khái quát cơ cấu các loại vốn dưới góc độ tài sản
Tổng vốn
Bằng phát minh sáng chế
Chi phí lợi thế thương mại
Chi phí sử dụng đất
Phương tiện vận chuyển
Nhà xưởng
Máy móc
Vốn lưu động
Vốn lưu động lưu thông
Vốn lưu động sản xuất
Vốn lưu động dự trữ
Vốn thanh toán
Vốn bằng tiền
Vốn thành phẩm
Vốn về chi phí chờ phân bổ
Vốn về bán thành phẩm
Vốn nguyên vật liệu
Vốn công cụ lưu động nhỏ
Vô hình
Hữu hình
Vốn cố định
Vốn lưu động lưu thông
1.1.3.2 Phân loại vốn dưới góc độ nguồn hình thành
Căn cứ vào nguồn hình thành, toàn bộ vốn của doanh nghiệp có thể hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn nợ phải trả.
Vốn chủ sở hữu
Là số tiền của các chủ sỏ hữu, các nhà đầu tư đóng góp. Số vốn này không phải là một khoản nợ và doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp đó là nhà nước, tư nhân, công ty cổ phẩn, công ty TNHH mà vốn chủ sở hữu được hình thành khác nhau. Thông thường gồm:
+ Vốn góp: là số vốn do bên góp tham gia thành lập doanh nghiệp tiến hành đóng góp và được sử dụng vào mục đích hoạt động kinh doanh. Số vốn này có thể được bổ xung tăng thêm hoặc rút bớt trong quá trình kinh doanh.
+ Lợi nhuận chưa phân phối: là phần chênh lệnh giữa một bên là toàn bộ doanh thu và các khoản thu nhập bát thường với bên kia là toàn bộ chi phí kinh doanh, chi phí tài chính và bất thường. Số lãi này chưa phân phối cho các lĩnh vực khác được sử dụng cho kinh doanh và coi như vốn chủ sơ hữu.
Vốn chủ sở hữu khác: là vốn chủ sở hữu có nguồn từ lợi nhuận để lại như các quỹ xí nghiệp, các khoản dự trữ theo điều lệ... hoặc các loại vốn khác.
Công nợ phải trả
Là số tiền mà doanh nghiệp đi vay, đi chiếm dụng của các đơn vị khác và do vậy doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả. Công nợ phải trả bao gồm công nợ dài hạn (vay dài hạn, nợ dài hạn), công nợ ngắn hạn và các công nợ khác.
Phân loại vốn dưới góc độ nguồn hình thành
Tổng Vốn
Vốn chủ sở hữu
Công nợ phải trả
Nợ khác
Công nợ dài hạn
Vốn chủ sở hữu khác
Lợi nhuận chưa phân phối
Vốn góp
Công nợ ngắn hạn
Tóm lại, vốn là điểm xuất phát đầu tiên của tất cả các qúa trình sản xuất kinh doanh.Vốn có đặc điểm là không ngừng vận động và vận động một cách đa dạng.
Các Mác đã khái quát sự vận động của vốn (tư bản) trong quá trình sản xuất xã hội nói chung và qúa trình sản xuất kinh doanh nói riêng như sau:
Sức lao động
T - H ... SX... H’- T’
Tư liệu sản xuất
Nhờ sự vận động thông qua sự thay đổi các hình thái biểu hiện của vốn mà các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp được đảm bảo thường xuyên, liên tục.
Hiệu quả sử dụng vốn
Khái niệm về hiệu quả- hiệu quả sử dụng vốn
Trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp phải linh hoạt, thích ứng với cơ chế đó mới có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng khó khăn khắc nghiệt. Và như vậy, vấn đề hiệu quả phải là mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội và là yêu cầu sống còn của mỗi doanh nghiệp.
Hiệu quả được hiểu theo nghĩa chung nhất là một chỉ tiêu phán ánh trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết, tham gia mọi hoạt động theo mục đích nhất định của con người. Về cơ bản hiệu quả được phản ánh trên hai mặt: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong đó hiệu quả kinh tế được quan tâm hơn và có ý nghĩa quyết định.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng lao động xã hội bao gồm lao động sống và lao động vật hoá (các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực), để đạt được kết quả kinh tế cao với các chi phí lao động xã hội (nguồn lực) ít nhất.
Hiệu quả xã hội phản ánh mức độ ảnh hưởng của các kết quả đạt được đến xã hội và môi trường, thực chất là sự tác động tích cực hay tiêu cực của hoạt động con ngưòi, trong đó có hoạt động kinh tế.
Hiệu quả kinh tế gắn liền với hiệu quả xã hội. Khi đạt được hiệu quả kinh tế, là cơ sở phát triển sản xuất và giải quyết các vấn đề xã hội. Mặt khác khi đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn, thì xã hội có cơ sở để phát triển bền vững hơn. Do đó doanh nghiệp nào cũng tìm mọi cách nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng lợi nhuận.
Đứng từ góc độ kinh tếđể xem xét thì hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận, hay nói cách khác chỉ tiêu lợi nhuận nói lên hiệu quả sử dụng vốn trong một góc độ nào đó.
Vậy hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực của doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất. Thể hiện qua công thức:
Kết quả đầu ra
Hiệu quả kinh doanh
Chi phí đầu vào
Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời và lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để đạt được lợi nhuận tối đa, doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao các hoạt động quản lý và sử dụng vốn của mình. Hoạt động này là một bộ phận quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hậu quả và kết quả sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp cần quan tâm đúng mức đến hiệu quả sử dụng vốn bằng cách thường xuyên đánh giá mình về phương diện sử dụng, qua đó thấy được chất lượng quản lý hoạt động kinh doanh, khả năng khai thác các tiềm năng sẵn có, biết được mình đang ở giai đoạn nào trong quá trình phát triển, đang ở vị trí nào trong quá trình cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Một doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh cao là cơ sở chắc chắn bảo đảm cho doanh nghiệp một mức tăng trưởng và phát triển tốt, có khả năng mở rộng và chiếm lĩnh doanh nghiệp trên thương trường. Ngược lại, một doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, không thích nghi được với sự biến động của môi trường kinh doanh thì nó sẽ mất dần thị trường và rồi sớm hay muộn cũng sẽ bị phá sản.
Như vậy, việc thường xuyên phân tích, đánh giá nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là rất cần thiết đối với các doanh nghiệp vì qua đó sẽ bảo đảm rằng mọi tồn tại trong hoạt động kinh doanh sẽ được tháo gỡ, sửa chữa ngay trong các kỳ tiếp sau. Mỗi hoạt động kinh doanh sẽ đi đúng hướng và đạt được kết quả mong muốn. Từ đó, đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển, tăng uy tín cũng như nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn một cách chính xác, chúng ta cần xem xét những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong phần sau.
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Quan điểm và tiêu thức xác định hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
Khi còn ở chế độ quan liêu bao cấp kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp kinh doanh theo chỉ tiêu pháp định của nhà nước có địa chỉ cung cấp vật tư và có địa chỉ tiêu thụ sản phẩm được định sẵn. Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì phải thực sự năng động và sáng tạo trong sản xuất kinh doanh với việc giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản như: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào, đều phải xuất phát từ nhu cầu thị trường và khả năng về vốn của doanh nghiệp. Mục đích kinh tế cuối cùng của doanh nghiệp là phải đạt được hiệu quả kinh doanh nhất định. Đứng về phía doanh nghiệp thì hiệu quả kinh doanh chủ yếu là nói đến hiệu quả kinh tế- giá trị thặng dư.
Chúng ta đang quan tâm tới hiệu quả sử dụng vốn, vậy có thể đồng nhất hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả sản xuất kinh doanh làm một được không? Một số quan điểm đã cho rằng vốn bao trùm tất cả và coi hiệu quả sử dụng vốn với hiệu quả kinh doanh là một. Nhưng trên thực tế điều này hoàn toàn không chính xác. Bởi vì, cơ chế thị trường coi vốn là một trong các nhân tố tạo ra giá trị thặng dư và hiệu quả sử dụng vốn cũng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
+ Thứ nhất: đứng trên góc độ là một nhà đầu tư thì hiệu quả sử dụng vốn là tỷ suất sinh lời trên một đồng vốn bỏ ra và tỷ số tăng giá trị cổ phiếu mà họ nắm giữ, đồng thời người ta còn quan tâm đến giá trị hiện tại của đồng vốn bỏ ra đầu tư.
+ Thứ hai: dựa trên lợi nhuận kinh tế, một số quan điểm đưa ra tiêu chuẩn hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp được xác định trên cơ sở lợi nhuận thu được.
Đây chính là quan điểm xác định hiệu quả sử dụng vốn mang tính toàn diện nhưng nó chỉ mang ý nghĩa về mặt nghiên cứu và quản lý, còn về mặt hạnh toán cụ thể nó không phản ánh được các chi phí. Tuy vậy, chúng ta có thể chia các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn thành hai nhóm:
• Nhóm chỉ tiêu tổng hợp : phản ánh về mặt vật chất, việc sử dụng vốn của doanh nghiệp. Người ta so sánh chỉ tiêu trên về kết quả với chỉ tiêu về chi phí để thấy được hiệu quả sử dụng đồng vốn hay chi phí sử dụng vốn để tạo ra các chỉ tiêu như: hiệu suất sử dụng vốn, hệ số hoàn vốn, doanh lợi vốn...
• Nhóm chỉ tiêu phân tích: phản ánh từng mặt, từng tính chất của bản thân việc sử dụng vốn. Nhóm chỉ tiêu này cho thấy kết cấu, tính chất của việc sử dụng vốn gồm các chỉ tiêu về sử dụng tài sản cố định- sử dụng tài sản lưu động và các chi phí cơ hội...
Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu một vài chỉ tiêu cụ thể thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
Các chỉ tiêu tổng hợp
Để xây dựng một chỉ tiêu tổng hợp người ra so sánh một đại lượng biểu thị kết quả với một đại lượng biểu thị chi phí. Thông thường, chỉ tiêu tổng hợp cho ngươi phân tích biết hai khía cạnh: để đạt được một đơn vị kết quả cần bao nhiêu đơn vị chi phí đầu vào hoặc một đơn vị chi phí đầu ra tạo ra được bao nhiêu đơn vị kết quả. Ba đại lượng biểu thị kết qủa thường được sử dụng là doanh thu, thu nhập và lợi nhuận ròng. Các đại lượng biểu thị chi phí có thể là tổng vốn kinh doanh, vốn chủ sở hữu... tuỳ theo góc độ xem xét của người phân tích. Có thể đưa ra một số chỉ tiêu cơ bản như:
Doanh thu thực hiện trong kỳ
Khả năng sản xuất kinh doanh
Vốn kinh doanh bình quân
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh doanh được sử dụng tạo ra mấy đồng doanh thu. So sánh giữa các đơn vị hoạt động trong một lĩnh vực hoặc giữa các kỳ với nhau, chỉ tiêu này sẽ cho thấy xu thế của việc sử dụng vốn.
Tổng số tài sản lưu động
Tỷ suất thanh toán hiện hành
Tổng số nợ ngắn hạn
Tỷ suất này cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn (phải thanh toán trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh) của doanh nghiệp là cao hay thấp. Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là bình thường.
• Tốc độ chu chuyển tổng tài sản: phản ánh bình quân trong kỳ sản xuất kinh doanh tài sản đã chu chuyển mấy vòng.
Doanh thu
Tốc độ chu chuyển tổng tài sản
Vốn sản xuất
• Hệ số quay vòng tồn kho: hệ số này được xác định bằng tỷ lệ giữa giá vốn của hàng bán với mức hàng hoá dự trữ bình quân trong kỳ của doanh nghiệp.
Trị giá vốn hàng bán
Số vòn._.g quay tồn kho =
Mức dự trữ hàng hoá bình quân
Hệ số quay vòng hàng tồn kho mà cao làm cho doanh nghiệp củng cố lòng tin vào khả năng thanh toán. Nếu hệ số này thấp gợi lên tình hình doanh nghiệp có thể ứ đọng từ hàng hoá vì không cần dùng hoặc dự trữ quá nhiều sản phẩm, tiêu thụ chậm làm giảm tốc độ luân chuyển vốn kinh doanh.
Cụ thể hơn ta xem xét nhóm các chỉ tiêu phân tích kết cấu, tính chất của việc sử dụng vốn, bao gồm các chỉ tiêu dưới đây
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định
Tài sản cố định đóng vai trò quan trọng trong tổng số vốn của doanh nghiệp. Do vậy, việc phân tích của chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng tàI sản cố định là rất cần thiết.
+ Sức sản xuất của tài sản cố định: phản ánh một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định đem lại mấy đồng doanh thu thuần (giá trị sản lượng)
Tổng doanh thu thuần
Sức sản xuất của tài sản cố định =
Nguyên giá bình quân TSCĐ
+ Sức sinh lợi của tài sản cố định: cho biết một đồng nguyên giá bình quân tài sản cố định đem lại mấy đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp. Chỉ tiêu này càng lớn thì tài sản cố định của doanh nghiệp được sử dụng mang lại hiệu quả càng cao.
Lợi nhuận thuần (lãi gộp)
Sức sinh lợi của tài sản cố định =
Nguyên giá bình quân tài sản cố định
+ Vòng quay của tài sản cố định: phản ánh một đồng vốn cố định đem lại mấy đồng doanh thu thuần hay là quay được bao nhiêu vòng trong chu kỳ sản xuất.
Doanh thu thuần
Vòng quay vốn cố định =
Vốn cố định
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Tài sản lưu động là tài sản ngắn hạn và thường xuyên lưu chuyển trong quá trình kinh doanh. Đảm bảo lượng vốn lưu động phù hợp với quy mô, yêu cầu của sản xuất kinh doanh và sử dụng chúng một cách hiệu quả là mục tiêu của các nhà quản lý doanh nghiệp.
+ Sức sản xuất của vốn lưu động
Hệ số này cho biết một đồng vốn lưu động bỏ ra đem lại mấy đồng doanh thu. Nếu doanh nghiệp đạt được trên một đồng doanh thu thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động là tốt, ngược lại là hiệu quả sử dụng vốn lưu động không tốt.
Tổng doanh thu thuần
Sức sản xuất của vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân
+ Hệ số sinh lợi của vốn lưu động
Lợi nhuận thuần (lãi gộp)
Hệ số sinh lợi của vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân
Đây là chỉ tiêu chất lượng phản ánh rõ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn sử dụng trong thời kỳ sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao. Hệ số này thấp tức là lợi nhuận thu được trên một đồng vốn ít thì coi như doanh nghiệp sử dụng đồng vốn kém hiệu quả hoặc hiệu quả thấp.
+ Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động phản ánh tổng quát trình độ trong mọi mặt kinh doanh của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp tăng nhanh vòng quay của vốn mà vẫn đảm bảo mức lưu chuyển hàng hoá như cũ thì chỉ cần một mức vốn lưu động thấp hơn hoặc với một mức vốn lưu động như cũ nhưng lại đảm bảo được mức lưu chuyển lớn hơn.
Trong một thời kỳ nhất định, vốn lưu động quay càng được nhiều vòng thì hiệu quả kinh doanh càng cao. Tốc độ chu chuyển vốn lưu động được thể hiện ở hai chỉ tiêu: số vòng quay của vốn lưu động và số ngày luân chuyển vốn lưu động.
- Số vòng quay của vốn lưu động phản ánh vốn lưu động của doanh nghiệp trong một thời kỳ kinh doanh quay được bao nhiêu vòng. Nó được tính như sau:
Doanh thu thuần
Số vòng chu chuyển vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Việc tăng số vòng chu chuyển vốn lưu động có ý nghĩa lớn đối với vốn lưu độngtrong các doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp giảm được lượng vốn lưu dộng cần thiết trong kinh doanh, giảm được lượng vốn vay.
- Số ngày luân chuyển vốn lưu động: phản ánh độ dài vòng quay của vốn lưu động, tức là số ngày cần thiết của một vòng quay vốn lưu động.
Số ngày chu chuyển Số ngày quy ước trong kỳ phân tích
vốn lưu động
Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ
Ngoài ra, còn có chỉ tiêu hệ số đảm nhiệm vốn lưu động. Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn tiết kiệm càng nhiều. Chỉ tiêu này cho ta biết để có một đồng vốn luân chuyển thì cần mấy đồng vốn lưu động. Nó được tính như sau:
Vốn lưu động bình quân
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động =
Tổng doanh thu thuần
+Tỷ suất thanh toán của vốn lưu động
Tổng số vốn bằng tiền
Tỷ suất thanh toán của vốn lưu động =
Tổng số tài sản lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng chuyển đổi thành tiền của tài sản lưu động. Nếu chỉ tiêu này lớn hơn 0,5 hoặc nhỏ hơn 0,1 đều không tốt, vì sẽ gây ứ động vốn hoặc thiếu tiền để thanh toán.
1.4 Phương pháp đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn
1.4.1 Các phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
1.4.1.1 Phương pháp đánh giá thời hạn thu lời vốn từ lợi nhuận khấu hao
Phương pháp này được đánh giá dựa trên các chỉ tiêu: hệ số hoàn vốn hay thời gian thu hồi vốn
Tổng vốn đầu tư
Thời gian hoàn vốn =
Lợi nhuận ròng + khấu hao
Lợi nhuận ròng + khấu hao
Hệ số hoàn vốn =
Tổng vốn đầu tư
Các chỉ tiêu này được xác định trong điều kiện có liên hệ với yếu tố thời gian của đồng tiền và giả thiết rằng lãi ròng, và khấu hao hàng năm không tiêu dùng mà để bù đắp nguồn vốn bỏ ra đầu tư.
1.4.1.2 Phương pháp đánh giá dựa trên sự bảo toàn và phát triển vốn
Bảo toàn vốn được hiểu là quá trình giữ nguyên được giá trị thực tế của vốn hay giữ nguyên được khả năng chuyển đổi được toàn bộ tiền vốn của doanh nghiệp với các loaị tiền khác tại những thời điểm nhất định.
Phát triển vốn là qúa trình trích lập một phần lợi nhuận, nhà nước cấp phát thêm hoặc là do chủ doanh nghiệp bổ sung vốn vào vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy, quá trình sử dụng vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi các nhà doanh nghiệp không những phải đảm bảo cho các loại tài sản không bị mất mát hư hỏng trước thời hạn, mà còn phải thường xuyên duy trì được giá trị đồng vốn của mình qua việc nâng cao hiệu lực sản xuất kinh doanh của tài sản cố định, tài sản cố định duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Đây còn là cơ sở để doanh nghiệp mở rộng và đổi mới công nghệ sản xuất kinh doanh.
1.4.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Tuy nhiên có thể chia chúng thành hai nhóm chính mà chúng tôi sẽ phân tích dưới đây.
1.4.2.1 Các nhân tố lượng hoá:
Bao gồm nguyên giá bình quân tài sản cố định, doanh thu thuần, hao mòn vô hình, rủi ro, vốn lưu động bình quân trong kỳ.
- Nguyên giá bình quân tài sản cố định: là nhân tố có quan hệ ngược chiều với hiệu suất sử dụng tài sản cố định (trong điều kiện các nhân tố khác không đổi). Khi nguyên giá bình quân tài sản cố định tăng thì hiệu suất sử dụng tài sản cố định giảm và ngược lại.
- Doanh thu thuần: trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, doanh thu thuần sẽ tỷ lệ thuận với sức sản xuất của tài sản cố định (sức sinh lợi của tài sản cố định). Nếu doanh thu thuần trong kỳ tăng lên sẽ làm cho thời gian của một vòng luân chuyển vốn lưu động giảm, tốc độ luân chuyển vốn lưu động tăng và ngược lại.
- Hao mòn vô hình: đây là một nguyên nhân đáng kể tạo nên sự chênh lệch giữa giá trị thực tế và giá trị ghi trên sổ sách. Nhất là trong điều kiện hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của các tiến bộ khoa học kỹ thuật khiến cho tài sản cố định thường xuyên đối mặt với nguy cơ bị hao mòn vô hình nhanh chóng.
- Rủi ro: trong qúa trình sản xuất kinh doanh,doanh nghiệp có thể gặp phải những rủi ro gây thiệt hại, hư hỏng làm giảm khả năng sản xuất tài sản cố định. Đây có thể là khủng hoảng kinh tế, thiên tai, chiến tranh,...
- Vốn lưu động trong kỳ: là nhân tố có quan hệ tỷ lệ nghịch với tốc độ luân chuyển của vốn lưu động. Khi vốn lưu động bình quân tham gia luân chuyển trong kỳ tăng, thời gian của vòng luân chuyển dài thì tốc độ luân chuyển chậm và ngược lại. Đây là một vấn đề quan trọng gắn liền với hiệu quả sử dụng vốn. Nếu chu kỳ của vòng luân chuyển nhỏ, vòng vốn quay nhanh, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh, nhằm tái tạo mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu thời gian của vòng luân chuyển dài sẽ là gánh nặng gây ứ động vốn, tăng lãi trả các khoản vay nợ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiêp.
-Lạm phát: nền kinh tế có lạm phát sẽ làm cho sức mua của đồng tiền bị giảm sút. Nếu doanh nghiệp không có những biện pháp quản lý kịp thời thì vốn lưu động sẽ mất dần theo sự trượt giá của tiền tệ.
1.4.2.4 Các nhân tố phi lượng hoá
Là những nhân tố mang tính định tính và mức độ tác động của chúng đối với hiệu quả sử dụng vốn là không thể tính toán được. Bao gồm:
Các nhân tố khách quan
- Chính sách kinh tế của nhà nước: Để thực hiện chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế của mình, nhà nước đưa ra các chính sách kinh tế để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phù hợp với từng thời kỳ, giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Các chính sách kinh tế của nhà nước có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp với vai trò tạo ra hành lang an toàn để các doanh nghiệp hoạt động và đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các ngành kinh tế trong cả nước. Nhà nước có thể khuyến khích, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của một số ngành sản xuất kinh doanh nào đó bằng những công cụ kinh tế của mình. Điều này có ảnh hưởng sâu sắc tới kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Nhu cầu thị trường, giá cả hàng hoá và dịch vụ: Trong một thị trường cạnh tranh hoàn hảo bằng nhu cầu thị trường và giá cả hàng hoá dịch vụ là những biến số rất khó xác định. Sự thay đổi của chúng cũng ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn hay lợi nhuận thu được của doanh nghiệp.
Sự thay đổi của giá cả có thể do sự biến động đột ngột của nhu cầu hoặc số lượng hàng hoá cung ứng. Giá cả thay đổi làm tăng lên hoặc giảm đi mức lãi mà doanh nghiệp thu được trên một đơn vị hàng hoá tiêu thụ.
b) Các nhân tố chủ quan
- Trình độ quản lý vốn kinh doanh của những người điều hành doanh nghiệp: khi tiến hành kinh doanh, vốn kinh doanh được chia thành nhiều bộ phận tham gia vào các quá trình khác nhau. Nhiệm vụ của những người điều hành là quản lý, giám sát từng bộ phận vốn trong các quá trình vận động để chúng có thể mang lại hiệu quả cao nhất. Nếu vốn càng được quản lý chặt chẽ và hợp lý bao nhiêu thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao bấy nhiêu. Như vậy, trình độ quản lý vốn cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn.
- Trình độ tổ chức nhân sự trong doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến điều hành mọi hoạt động trong doanh nghiệp. Nếu bố trí đúng người, đúng việc thì mọi hoạt động sẽ diễn ra một cách nhịp nhàng, ăn khớp với nhau và khi đó mọi hiệu quả đạt được sẽ cao và hiệu quả sử dụng các yếu tố dần đạt đực đến mức tối ưu.
- Trình độ tỏ chức qúa trình lưu chuyển hành hoá: Để đưa hàng hoá từ sản xuất tới người tiêu dùng, doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng chi phí nào đó. Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng cách giảm chi phí, nâng số vòng quay của vốn thì phải tổ chức quá trình lưu chuyển hàng hoá.
Chương 2
Thực trạng quản lý và sử dụng vốn tại công ty Cơ Điện Công Trình
ở mọi doanh nghiệp nói chung và tại Công ty Cơ Điện Công Trình nói riêng, việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả có ảnh hưởng quyết định tới sự tồn tại và phát triển của công ty. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đang là vấn đề bức xúc đối với mỗi doanh nghiệp. Do vậy, trong chương này chúng tôi sẽ tập trung phân tích về thực trạng quản lý và sử dụng vốn tại công ty Cơ Điện Công Trình Hà Nội.
2.1 Giới thiệu khái quát về công ty Cơ Điện Công Trình - Hà Nội
Nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường mà Đảng ta đã xây dựng từ Đại hội VI đến nay đã bắt đầu khởi sắc. Trong nền kinh tế thị trường đang đi vào quỹ đạo hoạt động của nó, Công ty Cơ Điện Công Trình Hà Nội đã nhanh chóng hoà mình vào dòng chảy chung, góp phần làm thay đổi cảnh quan đô thị và từng bước nâng cao chất lượng đời sống của người dân.
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của công ty Cơ Điện Công Trình
Công ty Cơ Điện Công Trình là một doanh nghiệp nhà nước chịu sự quản lý trực tiếp của Sở Giao Thông Công Chính thành phố Hà Nội. Trụ sở chính tại số 4- phố Trần Hưng Đạo- Quận Hoàn Kiếm- Hà Nội.
Tên giao dịch quốc tế là MESC- Mechanic, Electric. Automobile product im-port Company.
Công ty được hình thành trên cơ sở là một xưởng cơ khí thành lập từ trước năm 1954 dưới tên gọi xưởng Cơ Khí Công Trình thuộc sở Lục Lộ (năm 1954, Sở Lục Lộ được đổi tên thành Cục quản lý Công Cộng).
Từ năm 1954, sau khi tiếp quản thủ đô, đơn vị là một xưởng ô tô của Hà Nội, có khoảng 60 công nhân. Hoạt động chủ yếu là sửa chữa xe chuyên dùng, sản xuất xẻng hót rác, đóng xe thu gom rác... cho công ty vệ sinh đô thị.
Đến năm 1967, đơn vị đổi tên thành Xưởng cơ khí công trình thuộc Cục quản lý Công cộng, hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu là sửa chữa đại tu ô tô cho ngành, sản xuất các loại xe thu gom rác, sản xuất dụng cụ vui chơi cho các vườn hoa, đúc các phụ kiện cấp nước,...
Năm 1977, xưởng cơ khí công trình chuyển lên thành Xí nghiệp Cơ Điện Công Trình. Trong các năm 1984- 1987, xí nghiệp đã sản xuất không ít các loại xe chuyên dùng cho ngành như: xe chở xi măng với Zin 130, xe phun tưới rửa đường Zin 130, xe hút chất thể lỏng (xe hút phân) IFA, xe chở xăng dầu, xe chở rác Zin +IFA,...
Đến ngày 1/5/1991, Xí nghiệp Cơ Điện Công Trình lại được đổi tên thành công ty Cơ Điện Công Trình. Công ty được bổ sung thêm nhiệm vụ: đại tu, trùng tu và sửa chữa xe ô tô các loại, kinh doanh nhập khẩu ô tô và phụ tùng ô tô các loại, xây dựng các công trình vừa và nhỏ.
Công ty Cơ Điện Công Trình là một đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng. Hiện công ty có hơn 100 cán bộ công nhân viên.
Trong cơ chế thị trường, công ty đã chuyển đổi và có thêm những chức năng mới nhằm đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh. Công ty đã không ngừng nâng cao năng lực của mình về con người và trang thiết bị để sẵn sàng thực hiện các công trình, những dự án đòi hỏi chất lượng cao và kết cấu phức tạp. Nhờ có đội ngũ lao động tốt, thiết bị máy móc hiện đại và hệ thống quản lý phù hợp mà sản lượng của công ty ngày càng tăng trưởng
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của Công ty Cơ Điện Công Trình
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty Cơ Điện Công Trình (trang sau)
Xí nghiệp
Xây lắp
Xí nghiệp gạch
Block
Ban vui chơi
Sao chổi
Ban dự án
đầu tư
công viên
Yên Sở
Ban dự
án xử lý rác thành phần vệ sinh
Phòng
Kỹ Thuật
Phòng
TổChức
Hành Chính
Phòng
Tài Vụ
Phó Giám Đốc
Kinh Doanh và Tài Chính
Phó Giám Đốc
Phụ Trách Xây Dựng Cơ Bản
Giám đốc
Cơ cấu tổ chức của Công ty Cơ Điện Công Trình
Công ty Cơ Điện Công Trình tổ chức bộ máy quản lý theo mô hình liên kết phụ thuộc và có quan hệ trực tiếp.
- Giám đốc công ty: giữ vai trò chủ đạo có nhiệm vụ điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và chịu trách nhiệm trước công ty và trước pháp luật.
- Phó giám đốc kinh doanh và tài chính: phụ trách việc lập các kết hoạch kinh doanh và tình hình tài chính của công ty.
- Phó giám đốc phụ trách xây dựng cơ bản
- Phòng tài vụ: có chức năng tổ chức quản lý, thực hiện công tác hạch toán k ế toán, tài chính, thống kê theo quy định của nhà nước. Thực hiện kiểm tra, kiểm soát mọi hoạt động tài chính của công ty theo pháp luật. Xây dựng tổ chức thực hiện kế hoạch tài chính thống nhất, quản lý tập trung các nguồn vốn, tổ chức và hỗ trợ các đơn vị trong công tác thanh quyết toán và thu hồi vốn, tổ chức về nghiệp vụ hệ thống kế toán thống kê, điều lệ tổ chức kế toán nhà nước và các quy định của ngành.
- Phòng tổ chức hành chính: có chức năng tổ chức quản lý và thực hiện công tác hành chính quản trị trong công ty- phục vụ và tạo điều kiện thuận lợi cho các phòng ban, đơn vị, các tổ chức đoàn thể và cán bộ công nhân viên thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
- Phòng kỹ thuật quản lý công tác kỹ thuật công trình sản phẩm vật liệu xây dựng, quản lỹ xe máy thiết bị thi công an toàn lao động của công ty.
- Ban quản lý dự án thực hiện các dự án xây dựng nhà máy xử lý rác thành phân vi sinh, xây dựng công viên Yên Sở và các dự án khác do công ty Cơ Điện Công Trình được các cấp có thẩm quyền giao quản lý, bằng các nguồn vốn ngân sách cấp và các nguồn vốn khác.
- Ban vui chơi Sao chổi, xí nghiệp gạch Block và xí nghiệp xây lắp chịu sự điều hành trực tiếp của các phòng ban trên.
2.1.3 Chức năng và nhiệm vụ của Công ty Cơ Điện Công Trình
Công ty Cơ Điện Công Trình có những hoạt động chủ yếu sau đây:
- Sản xuất các sản phẩm cơ khí, thiết bị chuyên ngành phục vụ ngành giao thông công trình và xuất nhập khẩu theo quy định của nhà nước.
- Nhận thầu xây dựng, lắp đặt công trình hạ tầng quy mô vừa và nhỏ thuộc ngành Giao thông Công Chính thành phố Hà Nội.
- Xây lắp công trình dân dụng, công nghiệp vừa và nhỏ.
- Dịch vụ cho thuê nhà
- Sản xuất và kinh doanh vật tư, thiết bị chuyên ngành giao thông đô thị và xây dựng.
- Xây lắp công trình điện nguồn và trạm, đường dây 220Kv
- Sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng.
- Đóng mới xe chuyên dùng giao thông vận tải theo hồ sơ thiết kế. Tổ chức lắp ráp các thiết bị vui chơi và tổ chức dịch vụ vui chơi.
Hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành, cho đến nay hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng được mở rộng và phát triển, đặc biệt là hoạt động sản xuất trực thuộc ngành.
2.2 Thực trạng quản lý và sử dụng vốn tại Công ty Cơ Điện Công Trình
Trong thời bao cấp trước đây, các doanh nghiệp nhà nước được ngân sách cấp toàn bộ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ thì lại được nhà nước bù lỗ. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà nước chỉ giao một phần vốn, còn lại doanh nghiệp phải tự tạo thêm nguồn cho mình. Chính điều này đã làm cho các doanh nghiệp nhà nước nói chung và Công ty Cơ Điện Công Trình nói riêng phải đặt vấn đề quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả lên hàng đầu.
2.2.1 Khái quát về tình hình vốn và sử dụng vốn tại Công ty Cơ Điện Công Trình trong một số năm gần đây
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, Công ty Cơ Điện Công Trình đã không ngừng lớn mạnh trong những năm gần đây. Xét trên góc độ vốn kinh doanh, công ty chú trọng tới việc xem xét và đáng giá các biến động để trên cơ sở đó sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhất.
Để phân tích được tình hình biến động tài sản của công ty, căn cứ vào bảng cân đối kế toán của Công ty Cơ Điện Công Trình ta có bảng sau:
Bảng 1: Tình hình biến động tài sản tại Công ty Cơ điện Công trình
( đơn vị tính: đồng )
Năm
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
A. TSLĐ và đầu tư ngắn hạn
Vốn bằng tiền
Đầu tư tài chính ngắn hạn
Các khoản phải thu
Hàng tồn kho
TSLĐ khác
B.TSCĐ và đầu tư dài hạn
1 .TSCĐ hữu hình
Nguyên giá
Giá trị hao mòn luỹ kế
2. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn.
3. Chi phí đầu tư XDCB
16.171.351.282
9.035.450.846
100.000.000
2.967.070.115
3.569.735.104
449.095.199
37.274.792.365
16.680.083.054
19.613.286.772
2.933.203.718
20.521.610.000
73.099.313
30,26
16,91
0,19
5,55
6,68
0,93
69,74
31,21
36,7
5,49
38,4
0,01
12.365.148.956
1.401.019.092
365.705.000
3.959.479.388
5.298.432.007
1.340.512.399
39.794.320.279
18.960.476.197
23.686.308.100
4.725.219.903
20.521.610.000
312.243.082
23,71
2,69
0,7
7,59
10,16
2,57
76,29
36,35
45,41
9,06
39,43
0,6
16.516.558.335
2.813.223.967
365.705.000
7.171.938.008
4.308.396.647
1.856.294.733
31.601.929.438
10.019.264.438
13.095.053.827
3.075.789.389
20.521.610.000
1.061.055.000
34,33
5,85
0,76
14,91
8,95
3,86
65,67
20,82
27,21
6,39
42,65
2,21
Tổng cộng tài sản
53.446.143.647
100
52.159.469.235
100
48.17.487.793
100
Nguồn: Bảngbáo cáo kinh doanh các năm 1998, 1999, 2000 của Công ty Cơ diện Công trình
Từ các số liệu ở bảng 1 ta có thể nhận thấy rằng tổng số tài sản của Công ty có xu hướng giảm. Năm 2000giảm so với năm 1999 là -4.041.981.442 đồng (48.117.487.793 - 52.159.469.235), năm 1999 giảm so với năm 1998 là -1.286.674.412 đồng (52.159.469.235 - 53.446.143.647) Và số tương đối giảm đi lần lượt là:
-1.286.674.412
-2,4% 5100%
53.446.143.647
-4.041.981.442
-7,75% 5100% ;
52.159.469.235
Điều đó chứng tỏ rằng quy mô về tài sản của Công ty đã giảm đi liên tục trong ba năm trở lại đây, và giảm mạnh giữa năm 2000 so với năm 1999
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn năm 1999 của Công ty giảm đi so với năm 1998 là -3.806.202.326 (12.365.148.956 - 16.171.351.282) tương ứng với
-3.806.202.326
-23,54% 5100%
16.171.351.282
số giảm đi là . Tuy nhiên sang năm
2000, tài sản lưu động của Công ty lại là 16.516.558.335 đồng, tăng lên so với năm 1999 là 4.151.409.375 đồng (16.516.558.335 - 12.365.148.956), tương
4.151.409.375
33,57% 5100%
12.365.148.956
ứng với tỷ lệ tăng .Như vậy trong năm
1999, tài sản lưu động của Công ty có giảm đi nhưng đến năm 2000 đã lại ổn định và còn cao hơn cả năm 1998.
- Vốn bằng tiến của công ty giảm mạnh từ 9.035.450.864 năm 1998 xuống còn 1.401.019.192 năm 1999. Sự giảm mạnh này là do công ty đã rút tiền để tăng vốn vào các khoản đầu tư, mở rộng quy mô. Năm 2000, vốn bằng tiền đã tăng
so với năm 1999 với một lượng là 1.412.204.875 đồng với tỷ lệ tăng là
1.412.204.875
100,8% 5100%
1.401.019.092
. Tuy nhiên vốn bằng tiền năm 2000 vẫn là
nhỏ hơn so với năm 1998. Điều này đã làm giảm khả năng thanh toán tức thời của công ty. Nhưng tiền mặt bản thân nó là loại tài sản không sinh lợi, do vậy trong quản lý tiền mặt thì việc tối thiểu hoá lượng tiền mặt phải giữ là mục tiêu quan trọng nhất
- Đầu tư tài chính ngắn hạn năm 1999 tăng lên một lượng là
265.705.000 đồng (365.705.000 - 100.000.000) so với năm 1998 và con số này vẫn giữ nguyên trong năm 2000. Như thế quy mô đầu tư ngắn hạn của công ty đã mở dần mở rộng
- Các khoản phải thu của công ty năm 2000 là 7.171.938.008 đồng, chiếm tỷ lệ 14,91%, tổng tài sản năm 2000 đã tăng lên 3.212.485.620 đồng (7.171.938.000 - 3.959.479.388) so với năm 1999 và tăng 4.204.867.893 đồng (7.171.938.008-3.959.471.338) so với năm 1998. Năm 1998, các khoản phải thu chỉ chiếm 5,55% tổng tài sản. Điều này thể hiện rằng Công ty ngày càng gặp khó khăn trong việc thu hồi các khoản phải thu và để đơn vị khác chiếm dụng vốn làm giảm khả năng thanh toán, bằng chi phí vốn vì là đồng vốn “chết” không sinh lời. Trong nền kinh tế thị trường, việc chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các nhà kinh doanh là chuyệnphổ biến. Nó tạo điều kiện tăng doanh thu, tạo cơ hội gia tăng lợi nhuận theo cả chiều rộng và chiều sâu (tăng chiều rộng tức là tăng lợi nhuận tỷ lệ thuận với tăng doanh thu, còn tăng chiều sâu tức là giảm tương đối chi phí cố định chi cho một đơn vị sản phẩm). Nhưng không nên để tình trạng này kéo dài với một khối lượng lớn vì nó sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của công ty.
Hàng tồn kho tăng mạnh năm 1999 so với năm 1998 là 1.119.696.973 đồng
(5.298.432.007-3.569.735.104) với tỷ lệ tăng là
1.719.696.973
48,17% 5100%
3.569.735.104
, việc tăng lên như vậy có thể làm ứ đọng
vốn. Tuy nhiên sang đến năm 2000 hàng tồn kho đã giảm so với năm 1999 là -981.062.360 đồng (4.308.369.647-5.298.432.007) với tỷ lệ giảm là -18,5%. Hàng tồn kho lớn sẽ dẫn đến việc tăng các chi phí lưu bãi, lưu kho. Nhưng nếu dự trữ hàng tồn kho quá ít sẽ làm cho hoạt động của công ty bị ngừng trệ, không cung ứng kịp hàng hoá làm gián đoạn hoạt động kinh doanh, mất uy tín với khách hàng. Do vậy Công ty cần xác định mức tồn kho an toàn để tránh rủi ro và chi phí không cần thiết mà vẫn bảo đảm cho hoạt động kinh doanh diễn ra một cách nhịp nhàng, liên tục.
Mức tồn kho =
an toàn
Nhu cầu dự trữ hàng tồn kho trong ngày
5 Số ngày tồn kho
an toàn dự kiến
- Tài sản lưu động khác của công ty chiến tỷ trọng nhỏ: 0,93% trong tổng tài sản năm 1998 và tăng lên 2,57% với 1.340.512.399 đồng. Đến năm 2000, tài sản lưu động khác chiếm 3,86% tổng tài sản với 1.856.294.733 đồng, cao nhất trong 3 năm gần đây.
Như vậy, qua sự phân tích trên ta có thể tìm được nguyên nhân làm tăng vốn lưu động, đồng thời biết được kết cấu vốn lưu động, xác định được tình hình phân bổ và tỷ trọng của mỗi loại vốn chiếm dụng trong các gian đoạn luân chuyển. Mặt khác, thông qua sự thay đổi kết cấu vốn lưu động trong các thời kỳ khác nhau ta có thể thấy được những biến đổi về chất lượng trong công tác quản lý vốn lưu động mà mục tiêu cuối cùng đặt ra là
+ Giữ tiền để đảm bảo nhu cầu sẵn sàng chi trả các khoản nảy sinh trong hoạt động kinh doanh và để hoạt động một cách bình thường
+ Dự phòng khi có cơ hội đột xuất.
+ Có tính chất đầu cơ tức là tìm kiếm cơ hội đầu tư ngắn để sinh lời.
+ Mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
- Tài sản cố định của công ty năm 1999 so với năm 1998 tăng lên là 2.519.527.914 (39.794.820.279- 37.274.792.365), với số tương tăng lên là
. Điều đó tương ứng với việc cơ sở vật chất,
kỹ thuật của Công ty đã được tăng cường, quy mô về năng lực kinh doanh đã được mở rộng, thể hiện xu hướng phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty đang có chiểu hướng tốt. Mặc dù vậy sang năm 2000, tổng giá trị tài sản cố định lại giảm so với năm 1999 là -8.192.391.841 đồng (31.601.929.438-
39.794.320.279), với số tương đối là
việc giảm tỷ trọng vốn cố định cũng có nghĩa là việc đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty giảm.
Bảng 1 cho ta thấy rằng tài sản cố định luôn chiếm tỷ trọng lớn hơn tài sản lưu động. Ta có thể xem bảng dưới đây để thấy rõ hơn.
Bảng 2: Cơ cấu tài sản cố định tại Công ty Cơ điện Công trình
Loại tài sản
Năm
Vốn lưu động
Vốn cố định
Tổng tài sản
Số tiền
%
Số tiền
%
1998
16.171.351.282
30,26
37.274.792.365
69,74
53.446.143.647
1999
12.365.148.956
23,71
39.794.320.279
76,29
52.159.469.235
2000
16.516.558.335
34,33
31.601.929.438
65,67
48.117.487.793
Nguồn: Bảngbáo cáo kinh doanh các năm 1998, 1999, 2000 của Công ty
- Năm 1998, tổng tài sản là 53.446.143.647 đồng trong đó vốn lưu động là 16.171.351.242 đồng chiếm 30,26% vốn cố định chiếm 69,74% với 37.274.792.365 đồng.
- Năm 1999, tổng tài sản là 52.159.469.235, trong đó vốn lưu động chỉ có 23,71% còn lại vốn cố định là 39.794.320.279 đồng chiếm 76,29%
- Năm 2000, tổng tài sản là 48.117.487.793 đồng, trong đó vốn cố định là 31.601.929.438 đồng với 65,67% và vốn lưu động đã tăng lên so với năm trước, chiếm 34,33%
Qua đó có thể thấy được vốn cố định chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng tài sản. Trong ba năm qua thì vốn cố định chiếm tỷ trọng cao nhất vào năm 1999 và lại có xu hướng giảm xuống trong năm 2000. Còn vốn lưu động chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản, thấp nhất vào năm 1999 với 23,71% và có xu hướng tăng lên vào năm 2000 là 34,33%. Tại sao vốn cố định chiếm tỷ trọng cao trong tổng số vốn như vậy? Để lý giải điều này ta phải xuất phát từ đặc điểm của Công ty cơ điện công trình là sản xuất các sản phẩm cơ khí và xây dựng, lắp đặt công trình hạ tầng quy mô vừa và nhỏ. Thực tế cho thấy, nếu không có máy móc, kỹ thuật hiện đại, đảm bảo chất lượng thì công việc sản xuất kinh doanh của Công ty khó có được kết quả cao. Để tạo cho Công ty một uy tín và hiệu quả kinh doanh cao thì đỏi hỏi phải có một lượng vốn lớn để củng cố trang thiết bị đảm bảo cho hoạt động của công ty diễn ra đều đặn và có chất lượng cao. Hoạt động chính của công ty Cơ Điện Công Trình là sản xuất xây dựng cơ bản nên tỷ trọng vốn cố định cao hơn tỷ trọng vốn lưu động trong tổng số vốn kinh doanh của công ty là hoàn toàn hợp lý.
Để hiểu rõ hơn về vốn cố định ta cần đi sâu phân tích, trước hết về tài sản cố định và thông qua đó có thể nhận biết được năng lực sản xuất hiện có, trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật của công ty.
Bảng 3. Tình hình tăng giảm tài sản cố định
(Đơn vị tính: đồng)
1998
1999
2000
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Nhà của vật kiến trúc
6.652.558.150
34,88
7.225.949.562
38,11
2.632.505.903
26,27
Máy móc thiết bị
8.785.714.987
52,67
10.201.778.053
53,81
6.475.671.104
64,63
Phương tiện vận tải, truyền dẫn
776.859.641
4,66
903.054.718
4,76
550.256.864
5,49
Thiết bị dụng cụ quản lý
464.950.276
2,79
629.393.864
3,32
360.830.567
3,6
Tổng cộng
16.680.083.054
100
18.960.476.197
100
10.019.264.438
100
Nguồn : Bảng báo cáo kết quả kinh doanh các năm 1998, 1999, 2000 của Công ty Cơ Điện Công Trình
Qua số liệu bảng 3 ta thấy được sự biến động của tài sản cố định một cách chi tiết hơn.
- Năm 1998, giá trị tài sản cố định là 16.680.083.054 đồng. Trong đó nhà cửa vật kiến trúc là 6.625.558.150 đồng chiếm 39,88%. Máy móc thiết bị là 8.785.714.987 đồng chiếm 52.67%, phương tiện vận tải, truyền dẫn là 776.859.641 chiếm tỷ trọng 4,66% và thiết bị dụng cụ quản lý chỉ chiếm 2,79% trong tổng tái sản cố định. Ta thấy rằng trong năm 1998, máy móc thiết bị chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng tài sản cố định. Điều này là hợp lý vì xuất phát từ đặc điểm công ty là xây dựng cơ bản nên cần đầu tư một khối lượng vốn lớn vào việc trang bị dụng cụ sản xuất. Công ty rất cần có những máy móc thiết bị tốt, hiện đaị nên nó chiếm tỷ trọng cao.
- Năm 1999 tổng tài sản cố định tăng so với năm 1999 và lên tới 18.960.476.197đồng. trong đó nhà cửa vật kiến trúc là 7.225.949.562đồng chiếm38,11%. Máy móc thiết bị chiếm tỷ trọng cao nhất với 53,81%. Phương tiện vận tải truyền dẫn là 903.054.718 chiếm 6,35%. Thiết bị dụng cụ quản lý cũng tăng lên là 629.393.884 với 3,32% tỷ lệ này tăng so với năm 1998 là 0,35%(3,32-2,79) trong tổng tài sản.
- Năm 2000, tổng giá trị tài sản là 10.019.264.438 đồng trong đó nhà cửa vật kiến trúc là 2.632.505.903 đồng chiếm 26,27% tổng tài sản cố định. Máy móc thiết bị là 6.475.671.104 dồng chiếm 64,63% và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản cố định. Máy móc thiết bị là 6.475.671.104đồng chiếm 64,63% và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản cố định. Phương tiện vận tải truyền dẫn chiếm 5,49% với 550.256.864 đồng. Thiết bị dụng cụ quản lý chiếm tỷ trọng thấp nhất là 3,6% với 360.830.567 đồng. Như vậy ta thấy rằng máy móc thiết bị luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản cố định. Đây là một dấu hiệu tốt chứng tỏ công ty đã chú trọng tới việc đầu tư trực tiếp vào công tác sản xuất kinh doanh mặc dù tài sản cố định có xu hướng giảm xu._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0164.doc