Lời mở đầu
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh bất cứ một doanh nghiệp nào cũng cần phải có vốn.Vốn được coi là yếu tố quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp hiện nay.
Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trước đây các doanh nghiệp quốc doanh thường chưa mấy quan tâm đến yếu tố này vì các doanh nghiệp lúc đó chỉ quan tâm là làm thế nào để đạt được chỉ tiêu của cấp trên đề ra, Khi doanh nghiệp luôn trông chờ vào sự bao cấp của nhà nước, nó không có động lực để hoạt động m
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hiệu quả quản lý & sử dụng vốn ở Công ty Xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột cách có hiệu quả.
Chuyển sang cơ chế thị trường hiệu quả quản lý và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp là vấn đề sống còn đốt với các doanh nghiệp.Vậy làm thế nào để quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là một trong những nội dung quản lý tài chính quan trọng đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Đây là một quá trình phức tạp mà không phải doanh nghiệp nào cũng thực hiện được.
Nhận thức được sự cần thiết của vấn đề, trong thời gian thực tập tại Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình, tôi đã đi sâu tìm hiểu về việc quản lý và sử dụng vốn của Công ty theo cách nhìn của một nhà quản trị doanh nghiệp với đề tài: “Hiệu quả quản lý và sử dụng vốn ở Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình”
Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung của đề tài bao gồm 3 chương.
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về vốn
Chương 2.Thực trạng quản lý và sử dụng vốn ở Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình.
Chương 3. Một số ý kiến đề xuất nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình.
Với thời gian thực tập điều kiện nghiên cứu và lượng kiến thức tích luỹ được có hạn, nên mặc dù tôi rất cố gắng nhưng chắc chắn cuốn khoá luận này không tránh khỏi những thiếu sót, tôi mong nhận được sự đóng góp phê bình của các thầy cô, các cán bộ trong Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình, cùng các bạn đọc để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận chung về vốn
1.1. Khái niệm về vốn:
Trong nền kinh tế thị trường, để hoạt động và phát triển thì mọi doanh nghiệp đều phải có vốn, vốn có ý nghĩa quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về vốn. Đối với sự phát triển của một Quốc gia thì vốn được coi là một trong bốn nghuồn lực của nền kinh tế: Nhân lực, vốn, kỹ thuật công nghệ và tài nguyên, đối với nền kinh tế Quốc dân vốn là một lượng tiền được nhà nước đầu tư cho các chính sách kinh tế, xã hội, cho tiêu dùng của nhân dân…Vậy “Vốn kinh doanh của một doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp dùng cho kinh doanh bao gồm tài sản hiện vật như nhà cửa, vật kiến trúc, vật tư hàng hoá…tài sản tiền tệ như tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý, kỳ phiếu, tín phiếu…và cả những tài sản vô hình đước quy ra thành tiền như quyền sở hữu công nghiệp, uy tín doanh nghiệp, nhãn hiệu thương mại…”
Vốn trong sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp luôn luôn tồn tại dưới hai hình thức cơ bản đó là hình thái giá trị và hình thái hiện vật.
Về mặt giá trị: Vốn tồn tại dưới hình thái tiền, đây là hình thái ban đầu và cũng là hình thái cuối cùng của vốn.
Về mặt hiện vật: Vốn của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản hữu hình như nhà cửa, kho tàng, vật kiến trúc, nguyên vật liệu, hàng hoá…và tài sản vô hình được quy ra thành tiền như uy tín của doanh nghiệp, nhãn hiệu thương mại, quyền sở hữu công nghiệp…
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của vốn có thể được biểu hiện bằng các sơ đồ sau.
- Đối với doanh nghiệp sản xuất.
TLSX
T - H ...SX…H’ - T’
Sức lao động
ở giai đoạn đầu vốn được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ và thực hiện chức năng mua các yếu tố sản xuất, tiếp theo giai đoạn 2 vốn được biểu hiện dưới hình thức vốn sản xuất giai đoạn 3 vốn tồn tại dưới hình thái hàng hoá và trở lại hình thái tiền tệ ban đầu, sẽ có các khả năng xảy ra đối với T và T’
Trường hợp 1: T > T’ chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn thua lỗ vì tiền thu về nhỏ hơn tiền bỏ ra ban đầu.
Trường hợp 2: T = T’ đây là trường hợp doanh nghiệp kinh doanh ở dạng hoà vốn, tiền thu về bằng tiền bỏ ra trường hợp này doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động nếu đem lại thu nhập cho công nhân viên và sẽ tăng trưởng trong tương lai.
Trường hợp 3: T’ > T đây là trường hợp doanh nghiệp làm ăn có lãi và tạo ra lợi nhuận, tiền thu về lớn hơn tiền bỏ ra.
- Đối với doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ: T - T’ cũng có các trường hợp xảy ra như đối với doanh nghiệp sản xuất.
- Đối với doanh nghiệp thương mại: T – H - T’ và cùng xảy ra các trường hợp như trên nhưng ở hình thức này là doanh nghiệp bỏ tiền ra để mua hàng hoá tiếp theo hàng hoá được bán ra và trở về hình thái tiền tệ ban đầu.
Với những lý lẽ như vậy vỗn đã được hiểu là giá trị của toàn bộ tài sản mà doanh nghiệp đang dùng vào sản xuất kinh doanh.
Theo bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp thì vốn chính là số tổng cộng tài sản theo phương trình cơ bản của kế toán : TàI SảN = NGUồN VốN tức là chúng ta đã hiểu rằng vốn chính là giá trị của tài sản, vì vậy nói đến hiệu quả quản lý và sử dụng vốn cũng chính là hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh.
1.2. Cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp dùng trong sản xuất kinh doanh.Tuy nhiên trong từng doanh nghiệp khác nhau thì cơ cấu vốn của doanh nghiệp khác nhau đối với kinh doanh tiền tệ thì doanh nghiệp bỏ ra một lượng tiền đem cho vay và sẽ thu về một lượng tiền lớn hơn lượng tiên ban đầu, doanh nghiệp thương mại thì bỏ tiền ra để mua sắm, dự trữ hàng hoá trong khi đó doanh nghiệp sản xuất thì bỏ tiền đầu tư vào mua sắm trang thiết bị, nguyên vật liệu…rồi tiến hành sản xuất và bán sản phẩm do mình sản xuất.
- Cơ cấu vốn xét theo nguồn hình thành.
Xét theo nguồn hình thành thì vốn của doanh nghiệp được chia thành hai loại là vốn chủ sở hữu và vốn vay nợ.
+ Vốn chủ sở hữu là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư, các ngân hàng…coi đây là khoản đặt cọc cho lượng vốn mà họ cho doanh nghiệp vay, vì khi kinh doanh thua lỗ, doanh nghiệp phải sử dụng vốn chủ sở hữu để trang trải cho các khoản nợ. Vốn chủ sở hữu thường được sử dụng để tài trợ cho các dự án dài hạn như xây dựng nhà cửa, mua sắm trang thiết bị…Vốn chủ sở hữu bao gồm hai bộ phận: Vốn điều lệ và vốn tự bổ sung.
Vốn điều lệ là mức vốn đăng ký của doanh nghiệp với cơ quan quản lý doanh nghiệp.
Vốn tự bổ sung là số vốn tăng thêm do bổ sung từ lợi nhuận. Do Nhà nước bổ sung (nếu là doanh nghiệp Nhà nước), hoặc do sự đóng góp của các thành viên (đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn).
+ Vốn vay nợ.
Vốn vay nợ là khoản vốn mà doanh nghiệp vay từ các tổ chức ngân hàng, tổ chức tín dụng, các cá nhân, vay trên thị trường chứng khoán…
- Cơ cấu vốn xét theo thời gian huy động và sử dụng vốn.
Căn cứ theo thời gian huy động và sử dụng vốn có thể chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành hai loại: Nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời.
+ Nguồn vốn thường xuyên là nguồn vốn có tính chất ổn định và dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng, bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn. Nguồn này được dùng để đầu tư vào các loại tài sản cố định, và một phần tài sản lưu động cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn tạm thời là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn, thường dưới một năm mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác..
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, vốn của các doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, một nguồn đều có những ưu nhược điểm nhất định. Để tổ chức và lựa chọn hình thức huy động vốn thích hợp có hiệu quả thì cần có sự phân loại vốn. Có nhiều cách phân loại vốn dựa trên những tiêu thức khác nhau, sau đây chỉ nêu một số phương pháp phân loại chủ yếu.
1.3. Phân loại vốn
1.3.1. Phân loại vốn xét theo đặc điểm của tài sản
Theo cách phân loại này thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành vốn cố định và vốn lưu động .
*Vốn lưu động và đặc điểm của vốn lưu động. Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền toàn bộ giá trị của các loại tài sản lưu động (TSLĐ) của doanh nghiệp. TSLĐ là loại tài sản mà thời gian thu hồi, luân chuyển thường trong vòng 1 năm hoặc không quá 1 chu kỳ kinh doanh.TSLĐ tồn tại ở nhiều khâu của quá trình sản xuất kinh doanh và biến động rất nhanh, vì vậy việc quản lý và sử dụng TSLĐ như thế nào sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất, TSLĐ của doanh nghiệp luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm. Vì vậy giá trị của nó được dịch chuyển một lần vào giá trị của sản phẩm tiêu thụ. Đặc điểm này đã quyết định đến sự luân chuyển của vốn lưu động đó là:
Bắt đầu tuần hoàn, vốn lưu động được đầu tư để mua sắm nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất. Khi quá trình sản xuất được hoàn thành lúc đó vốn lưu động dã tạo thành sản phẩm. Kết thúc vòng tuần hoàn khi sản phẩm được tiêu thụ thì lúc đó vốn lưu động trở về hình thái tiền tệ ban đầu.
Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị 1 lần và hoàn thành 1 vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ sản xuất. Sự tuần hoàn nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào việc xác định nhu cầu thường xuyên, tối thiểu về vốn lưu động.
Để quản lý và sử dụng vốn lưu động có hiệu quả thì cần phân loại vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau.
Phân loại vốn lưu động theo vai trò từng loại vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh theo cách phân loại này vốn lưu động có thể phân thành 3 loại:
Vốn dự trữ: biểu hiện bằng tiền toàn bộ giá trị của các loại tài sản dự trữ trong doanh nghiệp.Tài sản dự trữ là các loại tài sản chưa được đưa vào quá trình sản suất hoặc lưu thông, như giá trị còn lại của tài sản lưu động nguyên vật liệu tồn kho, tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng…
Vốn sản xuất: Là biểu hiện bằng tiền toàn bộ giá trị của các loại tài sản sản xuất trong doanh nghiệp.Tài sản sản xuất là các loại tài sản đang trực tiếp tham gia vào quá trình sản uất như sản phẩm dở dang đang nằm trên dây chuyền sản xuất, các loại chi phí tiền lương, chi phí quản lý.
Vốn lưu thông: Là biểu hiện bằng tiền toàn bộ giá trị của các loại tài sản lưu thông của doanh nghiệp.Tài sản lưu thông là các loại tài sản đang tồn tại trên lĩnh vực lưu thông như hàng hoá hơn gửi bán, chi phí bán hàng, các khoản phải thu, các khoản tạm ứng.
Theo cách phân loại này cho thấy vai trò và sự phân bố của vốn lưu động trong từng khâu của quá trình kinh doanh. Từ đó có biện pháp điều chỉnh cơ cấu vốn lưu động sao cho có hiệu quả sử dụng cao nhất.
Phân loại vốn lưu động theo hình thái biểu hiện theo cách phân loại này vốn lưu động có thể chia thành 2 loại:
+ Vốn vật tư hàng hoá: Là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện bằng hiện vật cụ thể như nguyên vật liệu, bán thành phẩm.
+ Vốn bằng tiền: Bao gồm các khoản vốn tiền tệ như tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng, các khoản vốn trong thanh toán.
Theo các cách phân loại trên thì doanh nghiệp có thể xác định được kết cấu của vốn lưu động của mình theo những tiêu thức khác nhau.Vậy các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động khác nhau việc phân tích vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về số VLĐ mà doanh nghiệp mình quản lý và sử dụng VLĐ có hiệu quả hơn.
*Vốn cố định: Là bộ phận vốn nằm trong giá trị còn lại của tài sản cố định.Tài sản cố định là loại tài sản mà thời gian thu hồi luân chuyển thường lớn hơn một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Do tài sản cố định có chu kỳ vận động dài, do đó sau nhiều năm mới có thể thu hồi đủ số vốn ban đầu đã đầu tư cho tài sản cố định.Trong thời gian dài như vậy đồng vốn luôn luôn bị đe doạ bởi những rủi ro, bởi những nguyên nhân khách quan và chủ quan làm thất thoát vốn.
Trong nền kinh tế thị trường việc mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định của doanh nghiệp thì đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm hay lắp đặt các tài sản hữu hình và vô hình được goi là vốn cố định của doanh nghiệp.
Quy mô của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định, nó có ảnh hưởng lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể khái quát một số nét đặc trưng về sự vận động của vốn cố định như sau:
-Vốn được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ của quá trình kinh doanh.
-Vốn cố định được luân chuyển dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất kinh doanh.
-Khi tham gia vào sản xuất kinh doanh, một phần vốn cố định được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm dưới nhiều hình thức, chi phí khấu hao tương ứng với sự hao mòn của tài sản cố định.
Do đặc điểm của vốn cố định là luân chuyển dần nên sau nhiều chu kỳ sản xuất thì vốn cố định mới hoàn thành 1 vòng luân chuyển.
Những đặc điểm của vốn cố định trên đây cho thấy việc quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các tài sản cố định.
Phân loại vốn cố định của doanh nghiệp.
Muốn quản lý và sử dụng vốn cố định thì doanh nghiệp cần tiến hành phân loại tài sản cố định. Phân loại tài sản cố định là việc phân chia toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Sau đây là một số cách phân loại thông thường.
- Phân loại tài sản cố định theo hình thái biểu hiện.
Theo phương pháp này tài sản cố định của doanh nghiệp được chia thành tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
+ Tài sản cố định hữu hình là những tư liệu lao động chủ yếu được biểu hiện bằng các hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiên vận tải, vật kiến trúc…những loại tài sản cố định này có thể là những đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hay một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể, nhưng nó thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như bằng phát minh sáng chế, nhãn hiệu thương mại…
Cách phân loại trên giúp cho doannh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư vào tài sản cố định hữu hình hay vô hình để có những quyết định đầu tư có hiệu quả cao nhất.
- Phân loại tài sản cố định theo mục đích sử dụng.
Theo tiêu thức này toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp được chia thành 3 loại.
+ Tài sản cố định dùng cho mục đích kinh doanh là những tài sản cố định dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ của doanh nghiệp.
+ Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp an ninh quốc phòng. Đó là những tài sản cố định do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp các tài sản cố định sử dụng cho hoạt động đảm bảo an ninh của doanh nghiệp.
+ Các tài sản cố định bảo quản hộ, giữ hộ, cất giữ hộ nhà nước. Đó là những tài sản cố định doanh nghiệp bảo quản hộ, giữ hộ cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu tài sản cố định của mình theo mục đích sử dụng của nó.Từ đó có biện pháp quản lý tài sản cố định theo mục đích sử dụng sao cho có hiệu quả nhất .
- Phân loại tài sản cố định theo công dụng kinh tế.
Căn cứ vào công dụng kinh tế của tài sản cố định, tài sản cố định của doanh nghiệp có thể chia thành các loại sau:
+ Nhà cửa vật kiến trúc: Là những tài sản cố định của doanh nghiệp được hình thành sau quá trình thi công xây dựng.
+ Máy móc thiết bị: Là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dụng cụ trong hoạt động sản suất kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc thiết bị, thiết bị công tác, thiết bị chuyên dụng, những máy móc đơn lẻ.
+ Phương tiên vận tải, thiết bị truyền dẫn: Là các loại phương tiện vật tải như phương tiện đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống điện, hệ thống thông tin, đường dẫn nước khí đốt…
+ Thiết bị dụng cụ quản lý: Là những thiết bị dụng cụ dụng trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính, dụng cụ đo lường kiểm tra chất lượng.
+ Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm: Là các vườn cây lâu năm như vườn chè, cà phê, cao su, cây ăn quả…và súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm như đàn bò, đàn ngựa…
+ Các loại tài sản cố định khác: Là toàn bộ các loại tài sản cố định khác chưa liệt kê vào các loại trên như tác phẩm nghệ thuật, tranh ảnh…
Cách phân loại này cho thấy công dụng cụ thể của từng loại tài sản cố định trong doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc quản lý sử dụng tài sản cố định và tính toán khấu hao tài sản cố định chính xác.
- Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng.
Căn cứ vào tình hình sử dụng tài sản cố định người ta chia tài sản cố định thành:
+Tài sản cố định đang sử dụng là những tài sản cố định của doanh nghiệp đang sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động phúc lợi sự nghiệp hay an ninh quốc phòng của doanh nghiệp.
+ Tài sản cố định chưa cần dùng là những tài sản cố định cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp song hiện taị chưa cần dùng, đang được dự trữ để sau này sử dụng.
+ Tài sản cố định không cần dụng chờ thành lý là những tài sản cố định không cần thiết hay không phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần được thành lý, nhượng bán để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra ban đầu .
Cách phân loại này cho thấy mức độ sử dụng có hiệu quả các tài sản cố định của doanh nghiệp như thế nào, từ đó có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng chúng.
1.3.2. Phân loại vốn xét theo mức độ tham gia của vốn vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Có thể chia vốn kinh doanh của doanh nghiệp thành 2 bộ phận: Vốn luân chuyển và vốn ngoài luân chuyển.
- Vốn luân chuyển là vốn tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh.
- Vốn ngoài luân chuyển là số vốn không tham gia vào trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh. Như khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ, các loại tài sản cố định không cần dùng, chờ thanh lý…
Cách phân loại này cho biết doanh nghiệp có biện pháp xử lý kịp thời đối với bộ phận vốn ngoài luân chuyển.
1.3.3. Phân loại vốn xét theo sự biến động về số lượng vốn sau một kỳ kinh doanh.
Người ta chia tổng số vốn của doanh nghiệp làm 2 loại: Vốn ban đầu và vốn tăng giảm thêm .
Vốn ban đầu là số vốn lưu động và vốn cố định có vào ngày đầu kỳ sản xuất kinh doanh. Cơ cấu vốn này đã được xác định lúc đầu kỳ và nó là điều kiện để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Số vốn tăng giảm thêm là chênh lệch giữa số vốn lưu động và vốn cố định cuối kỳ với số vốn lưu động và vốn cố định đầu kỳ.
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp việc kiểm soát sự tăng trưởng của vốn và sự biến động về cơ cấu vốn…
1.4.Tầm quan trọng của vốn đối với doanh nghiệp.
Mọi doanh nghiệp muốn tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp đó trước hết phải có vốn.Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn được vận động liên tục và có những đặc điểm rất khác nhau. Sau các chu kỳ sản xuất thì đòi hỏi trước hết đó là số vốn bỏ ra không được để hao hụt, mất mát mà nó phải sinh sôi, nảy nở. Đồng vốn bỏ ra phải có khả năng sinh lời cao, đó là vấn đề thiết yếu nhất, là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý doanh nghiệp. Hay nói một cách khác hiệu quả hoạt động sản xuất doanh nghiệp là kết quả tổng thể của hàng loạt các biện pháp tổ chức, kinh tế, kỹ thuật và tài chính.Việc tổ chức đảm bảo, đầy đủ, kịp thời về vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau.
- Các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ở bất kỳ một quy mô nào đều có lượng vốn nhất định.
- Việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển với tốc độ cao, nhu cầu vốn đầu tư cho các sản xuất kinh doanh ngày cằng tăng. Do vậy việc tổ chức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp.
- Việc huy động vốn đầy đủ và kịp thời giúp cho doanh nghiệp có thể chớp được thời cơ kinh doanh, tạo lợi thế trong cạnh tranh.
- Lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn thích hợp giảm bớt được chi phí sử dụng vốn cũng như giảm bớt tiền lãi vay. Điều đó có tác động rất lớn đến việc tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Trong cơ chế tập trung bao cấp trước đây.Tất cả các nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước đều được bao cấp qua nguồn vốn cấp phát của ngân sách Nhà nước và qua nguồn vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi của ngân hàng. Nếu doanh nghiệp có nhu cầu về vốn thì có thể xin Nhà nước cấp phát thêm. Cho nên có thể nói rằng ở cơ chế bao cấp thì vốn của doanh nghiệp Nhà nước hầu như được Nhà nước cấp cho toàn bộ. Vì thế khi sử dụng vốn, doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả, vì nếu kinh doanh thua lỗ đã có Nhà nước bù đắp và trang trải mọi thiếu hụt, đồng thời vai trò khai thác thu hút vốn không được đề ra như một yêu cầu cấp bách có tính chất sống còn đối với doanh nghiệp.Việc khai thác thu hút vốn trở nên rất thụ động, vì vậy đã thủ tiêu tính chủ động của các doanh nghiệp Nhà nước trong việc tổ chức đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh.
- Chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế cùng đan xen hoạt động, các doanh nghiệp Nhà nước chỉ còn là một bộ phận song song cùng tồn tại với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Các khoản bao cấp về vốn qua cấp phát của ngân sách Nhà nước không còn nữa, doanh nghiệp phải tự trang trải mọi chi phí và đảm bao kinh doanh có lãi. Phải quản lý sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả. Hơn nữa để tồn tại và phát triển trong cơ chế mới doanh nghiệp phải năng động nắm bắt nhu cầu thị hiếu của thị trường, đầu tư, đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm và tìm cách hạ giá thành để tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm. Muốn làm được điều đó doanh nghiệp phải có vốn, do đó nếu nhu cầu về vốn để đảm bảo cho sản xuất kinh doanh, cho sự phát triển những ngành nghề mới đã trở thành động lực và là một đòi hỏi bức bách đối với tất cả các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng.
- Như vậy việc huy động và sử dụng hiệu quả vốn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh có tầm quan trọng đặc biệt đối với các doanh nghiệp. Nó quyết định đến sự sống còn và tương lai phát triển của mỗi doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải xác định chính xác nhu cầu về vốn cần thiết, cân nhắc lựa chọn các phương án đầu tư có hiệu quả và lựa chọn các hình thức thu hút vốn tích cực .
- Từ những phân tích trên, cho ta thấy sự cần thiết của việc tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp để từ đó doanh nghiệp cần chú trọng hơn trong công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là đảm bảo số vốn hiện có bằng các biện pháp quản lý tổng hợp, khai thác triệt để khả năng vốn hiện có để mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng vốn càng hiệu quả thì càng có thể sản xuất và tiêu thụ nhiều sản phẩm. Vì lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng hợp lý có hiệu quả từng đồng vốn nhằm làm cho vốn được thu hồi sau mỗi chu kỳ sản xuất, có thể mua sắm được nhiều trang thiết bị, vật tư hơn, sản xuất và tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn từ đó thu được nhiều lợi nhuận. Việc tăng tốc độ chu chuyển vốn cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển vốn, qua đó vốn được thu hồi nhanh hơn, có thể giảm bớt số vốn cần thiết mà vẫn hoàn thành được khối lượng sản phẩm hàng hoá bằng hoặc lớn hơn trước. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn còn có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thông và hạ giá thành sản phẩm. Mục tiêu kinh doanh của mọi doanh nghiệp là hướng tới lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng nói lên kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và là nguồn tích luỹ cơ bản của tái sản xuất mở rộng. Đặc biệt trong điều kiện hạch toán kinh doanh, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không thì điều quyết định là doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không? Vì vậy lợi nhuận được coi là đòn bẩy quan trọng đồng thời là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Để làm được việc đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường công tác tổ chức quản lý và trong đó có việc tổ chức và quản lý sản xuất nói chung và vốn nói riêng. Có như vậy mới mang lại lợi nhuận cao góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
- Từ những vấn đề nêu trên cho thấy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Nó quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của mỗi doanh nghiệp trong cơ chế mới.
1.5. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp và các yếu tố ảnh hưởng.
1.5.1. Khái niệm và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của vốn.
Khái niệm :
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân tài, vật lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất.
Hiệu quả kinh doạnh là một vấn đề phức tạp có quan hệ với tất cả các yếu tố của quá trình kinh doanh như lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động.Từ đó doanh nghiệp cần thấy rằng chỉ có thể đạt được hiệu quả cao khi các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất đều được sử dụng có hiệu quả.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh theo khái niệm rộng là một phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên 2 mặt là hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn được xây dựng theo nguyên tắc kết quả cao nhất, chi phí thấp nhất:
=
Trong đó: kq: Kết quả thu được
: Hệ số hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
: Vốn kinh doanh bình quân
* Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
Trong công tác quản lý và sử dụng vốn, việc đánh giá đúng đắn tình hình của kỳ trước là vấn đề rất quan trọng.Từ việc phân tích, đánh giá cho phép nêu ra những phương hướng, biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các kỳ tiếp theo.
Để đánh giá tình hình tổ chức cũng như hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, người ta có thể sử dụng một số chỉ tiêu cơ bản sau.
- Chỉ tiêu tổng hợp.
Chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả sử dụng vốn dạng khái quát nhất. Hiện nay có 3 loại chỉ tiêu tổng hợp: Chỉ tiêu phản ánh sức sinh lợi, chỉ tiêu phản ánh sức sản xuất và chỉ tiêu phản ánh suất hao phí.
Lợi nhuận
Hệ số sinh lợi của tổng vốn =
Tổng vốn kinh doanh
Chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lợi của vốn.
Chỉ tiêu này càng cao thì nó phản ánh việc sử dụng vốn càng có hiệu quả. Hệ số này được coi là khả năng tìm kiếm thu nhập của công ty. Đây là thước đo quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thường có mối quan tâm lớn đối với việc đánh giá khả năng sinh lợi của Công tytrong hiện tại và tương lai.
2. Chỉ tiêu phản ánh sức sản xuất của tổng vốn:
Giá trị tổng sản lượng
Sức sản xuất của tổng vốn =
Tổng số vốn
Doanh thu thuần
Hiệu quả sử dụng vốn tính theo doanh thu =
Tổng số vốn
Giá trị tổng sản lượng là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả sản xuất.
Giá trị tổng sản lượng
Hệ số tổng sản lượng giá thành =
Giá thành
Chỉ tiêu này đo lường hiệu quả sử dụng của toàn bộ vốn trong kỳ tính theo doanh thu.
Doanh thu thuần
Hệ số doanh thu giá thành =
Giá thành
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng chi phí sản xuất bỏ ra trong kỳ đã làm ra bao nhiêu dồng giá trị tổng sản lượng.
Chỉ tiêu này nói lên một đồng chi phí chi sản xuất tạo ra mấy đồng doanh thu.
3. Chỉ tiêu phản ánh suất hao phí:
Tổng vốn
Suất hao phí vốn cho một đơn vị lợi nhuận =
Lợi nhuận
Chỉ tiêu cung cấp các thông tin có giá trị cho công việc hoạch định của các nhà quản trị doanh nghiệp.
Giá thành
Chi phí sản xuất cho một đơn vị lợi nhuận =
Lợi nhuận
Tổng vốn
Suất hao phí vốn cho một đơn vị giá trị tổng sản lượng =
Giá trị tổng sản lượng
Tổng vốn
Suất hao phí vốn cho một đơn vị doanh thu thuần =
Doanh thu thuần
Giá thành
Chi phí sản xuất cho một đơn vị giá trị tổng sản lượng =
Giá trị tổng sản lượng
Giá thành
Chi phí sản xuất cho một đơn vị doanh thu thuần =
Doanh thu thuần
Đây là hệ thống các chỉ tiêu phản ánh suất hao phí cho một đơn vị kết quả.
- Hệ thống chỉ tiêu chi tiết
+ Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Doanh thu thuần
Sức sản suất vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân
1. Sức sản xuất vốn lưu động.
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động đã sử dụng đem lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng doanh thu.
Lợi nhuận thuần
Sức sinh lợi vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân
2.Sức sinh lợi vốn lưu động
Chỉ tiêu này gọi là tỷ suất lợi nhuận của vốn lưu động phản ánh một đồng vốn lưu động tạo nên đựơc bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần trong kỳ.
Vốn lưu động bình quân
Mức độ đảm nhiệm vốn lưu động =
Doanh thu thuần
3. Mức độ đảm nhiệm VLĐ
Hệ số này càng nhỏ, thì nó phản ánh việc sử dụng vốn có hiệu quả cao, số vốn tiết kiệm càng nhiều. Chỉ tiêu này cho biết để có một đồng doanh thu cần có bao nhiêu đồng vốn lưu động.
4.Số vòng quay của vốn lưu động(VLĐ)
Doanh thu thuần
Số vòng quay của vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu năng phản ánh tốc độ luân chuyển VLĐ nghĩa là cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ theo đại lượng doanh thu thuần.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định cơ thể được phản ánh bằng nhiều loại chỉ tiêu khác nhau nhưng trước hết và chủ yếu là các tiêu chuẩn sau.
Giá trị sản xuất (Doanh thu)
1, Sức sản xuất của TSCĐ =
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Lợi nhuận
2, Sức sinh lời của TSCĐ =
Nguyên giá bình quân của TSCĐ
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng TSCĐ sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
Chỉ tiêu này phản ánh khái niệm sinh lợi của 1 đồng vốn cố định đã sử dụng trong kỳ. Chỉ tiêu càng lớn thì càng có hiệu quả.
Nguyên giá của TSCĐ
3, Suất hao phí của tài sản cố định =
Giá trị sản xuất (Lợi nhuận, doanh thu)
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng giá trị sản xuất.
Các khoản phải thu
._.1, Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu bình quân ngày
Các chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động của các hoạt động cấu thành vốn lưu động. Các chỉ tiêu nay phản ánh khả năng hoạt động của các bộ phận cấu thành VLĐ.
Chỉ tiêu này đo lường khả năng thu hồi vốn trong thanh toán của doanh nghiệp, đồng thời cũng phản ánh hiệu quả việc quản lý các khoản phải thu và các chính sách tín dụng doanh nghiệp thực hiện với khách hàng.
Trị giá vốn hàng bán
2, Vòng quay dự trữ =
Giá trị hàng tồn kho bình quân
Doanh thu thuần
3, Vòng quay tiền =
Tiền mặt và chứng khoán dễ chuyển nhượng
bình quân
Đây là chỉ tiêu kinh doanh khá quan trọng bởi vì dự trữ hàng tồn kho là để sản xuất hàng hoá, tiêu thụ nhằm thu tiền bán hàng có lợi nhuận cao trên cơ sở đáp ứng nhu câù thị trường.
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu suất sử dụng tiền mặt và chứng khoán dễ chuyển nhượng trong kỳ.
Trong các công thức trên, các đại lượng: Vốn kinh doanh bình quân, vốn cố định bình quân, VLĐ bình quân được xác định như sau:
VKD đầu tháng + VKD cuối tháng
-Vốn kinh doanh bình quân tháng =
2
Tổng số VKD bình quân 3 tháng trong quý
-Vốn kinh doanh bình quân quý =
3
Tổng số VKD bình quân 4 quý trong năm
-Vốn kinh doanh bình quân năm =
4
1.5.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý và sử dụng vốn.
Quản lý và sử dụng vốn trong doạnh nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau. Nhằm nâng cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh và phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế những nhân tố tiêu cực tác động vào quá trình quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp phải nắm bắt được những nhân tố tác động đó.
Trước hết chúng ta xem xét những nhân tố có tác động và ảnh hưởng đến việc quản lý vốn sản xuất kinh doanh. Vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được hình thành từ 2 nguồn đó là: Nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp.Từ đó có thể nhận thấy việc quản lý vốn cũng chịu ảnh hưởng chủ yếu của 2 nguồn này.
Nguồn vốn bên trong của doanh nghiệp bao gồm: Tiền khấu hao TSCĐ, lợi nhuận để lại để tái đầu tư, các khoản dự phòng. Ngoài ra còn có các khoản thu được từ nhượng bán thanh lý TSCĐ. Nguồn vốn bên trong với lợi thế rất lớn là doanh nghiệp được quyền chủ động sử dụng một cách linh hoạt mà không phải chịu chi phí sử dụng. Vì thế nếu doanh nghiệp khai thác triệt để nguồn này sẽ vừa tạo ra được một khoản lợi nhuận đáng kể. Đồng thời nâng cao được hiệu quả của vốn sản xuất kinh doanh.
Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp bao gồm: Vay ngân hàng, các tổ chức kinh tế khác, phát hành trái phiếu, nợ người cung cấp và các khoản nợ khác.Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh. Ngoài vốn chủ sở hữu thì số vốn mà doanh nghiệp huy động từ bên ngoài chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Việc huy động vốn sản xuất, kinh doanh với số lượng lớn mà còn tạo cho doanh nghiệp có một cơ cấu vốn linh hoạt hơn.
Tuy thế việc cân chắc lựa chọn hình thức thu hút vốn tích cực lại là nhân tố quyết định trực tiếp đến hiệu quả công tác quản lý vốn. Nếu doanh nghiệp xác định chính xác nhu cầu vốn, lựa chọn phương án đầu tư vốn có hiệu quả và tìm được nguồn tài trợ thích ững sẽ mang đến thành công cho doanh nghiệp, ngược lại nợ vay sẽ là gánh nặng rủi ro đối với doanh nghiệp.
- Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn ta cần xem xét thêm việc xác định nhân tố nào là chủ yếu để có biện pháp thích hợp. Trong quá trình hoạt động có nhiều nhân tố ảnh hưởng. Tuy nhiên xét về mặt khách quan, hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của một số nhân tố sau:
Do sự tác động của nền kinh tế: Ví dụ khi nền kinh tế có lạm phát, sức mua của đồng tiền bị giảm sút dẫn đến sự tăng giá của các loại vật tư, hàng hoá. Vì vậy nếu doanh nghiệp không điều chỉnh kịp thời giá trị các loại tài sản thì sẽ làm cho vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bị mất dần theo tốc độ trượt giá của tiền tệ.
Do những rủi ro bất thường trong quá trình sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp thường gặp phải.Trong điều kiện kinh donah theo cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế cùng tha gia hoạt động, cùng cạnh tranh và khi vốn kinh doanh bị giảm sút thì càng làm tăng thêm khả năng rủi ro cho doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp còn gặp phải những rủi ro do thiên tai gây ra như bão lụt, hạn hán, hoả hoạn… mà bản thân doanh nghiệp khó có thể lường trước được.
Do sự tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật.Hiện nay cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ như vũ bão. Tiến bộ khoa học kỹ thuật tác động trực tiếp tới tất cả các yếu tố đầu vào của sản xuất đến đối tượng lao động và tư liệu lao động, sức lao động và trở thành một bộ phận của lực lượng sản xuất, tác động trực tiếp đến sản xuất: Trước đây đối tượng lao động có nguồn gốc nhân tạo, có tính năng tác động tốt với giá cả rẻ nếu doanh nghiệp nào không ứng dụng kịp thời vào sản xuất kinh doanh thì sẽ bị tác động dẫn đến vốn kinh doanh bị mất giá.
Ngoài các nhân tố khách quan nêu trên còn có rất nhiều nhân tố chủ quan của bản thân doanh nghiệp làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Ta xét một vài nhân tố chủ yếu sau.
Do xác định nhu cầu vốn thiếu chính xác, dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng không tốt đến quá trình hoạt động kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Việc lựa chọn thiếu chính xác phương án đầu tư là một nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu qủa sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đầu tư làm ra các sản phẩm, lao vụ, dịch vụ chất lượng tốt, mẫu mã đẹp giá thành hạ thì được thị trường chấp nhận và tất yếu hiệu quả kinh tế sẽ cao. Ngược lại nếu các sản phẩm lao vụ dịch vụ tung ra thị trường đều kém chất lượng, xấu về mẫu mã thì tất yếu là mất thị trường, mất uy tín kinh doanh. Hay nói khác đi là hiệu quả sử dụng vốn lúc này quá thấp
Cơ cấu vốn đầu tư bất hợp lý cũng là nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Bởi vì vốn đầu tư vào các tài sản không quá cần thiết hoặc chưa cần sử dụng mà chiếm tỷ trọng lớn thì không những không phát huy được tác dụng trong việc thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh mà còn bị hao hụt, mất mát dần làm cho hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh đạt được ở mức thấp.
Do việc sử dụng lãng phí vốn, nhất là vốn lưu động trong quá trình mua sắm, dự trữ như: Mua các loại vật tư không phù hợp với quy mô trình độ sản xuất, không đúng tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng quy định, không tận dụng được hết các loại phế liệu, phế phẩm cũng như tác động không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Do trình độ quản lý của doanh nghiệp còn yếu kém, hoạt động sản xuất kinh doanh thua lỗ kéo dài làm cho vốn bị thâm hụt sau mỗi chu kỳ sản xuất, hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh thấp.
Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu làm ảnh hưởng tới hiệu quả công tác quản lý và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngoài ra còn có thể có những nguyên nhân khác. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu, xem xét một cách kỹ lưỡng, thận trọng từng nguyên ngân để hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả xấu có thể xảy ra, đảm bảo việc tổ chức huy động vốn đầy đủ kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh đồng thời làm cho hiệu quả đồng vốn không ngừng được tăng lên.
1.6. Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp.
Để cung ứng đầy đủ, kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, làm cho đồng vốn không ngừng sinh sôi, nảy nở, các doanh nghiệp cần thực hiện một số phương hướng, biện pháp cơ bản sau:
Thứ nhất: Xác định đựơc một cách chính xác nhu cầu vốn tối thiểu cần thiết cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp để từ đó đề ra kế hoạch tổ chức huy động vốn sao cho hợp lý, đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Hạn chế tình trạng thiếu vốn phải vay ngoài kết hoạch với lãi suất cao. Nếu thừa vốn thì doanh nghiệp phải có các biện pháp linh hoạt nhằm tránh tình trạng vốn ứ đọng hoặc chết không đưa vào lưu thông được hay đầu tư mở rộng sản xuất, cho các đơn vị khác vay…
Thứ 2: Xem xét và lựa chọn các hình thức thu hút vốn tích cực, để khai thác triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp để vừa đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn vừa giảm được một khoản chi phí sử dụng vốn cho doanh nghiệp.Tránh tình trạng vốn tồn tại dưới các loại tài sản không hoặc chưa cần sử dụng, đến vật tư kém phẩm chất, hàng hoá kém chất lượng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà doanh nghiệp vẫn phải đi vay để duy trì sản xuất với lãi suất cao và phải chịu giám sát của chủ nợ làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thứ 3: Trước khi quyết định đầu tư, doanh nghiệp cần phải cân nhắc kỹ lưỡng từng nguồn tài trợ vốn đầu tư, quy trình công nghệ, tình hình cung cấp nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cần đảm bảo chi phí sử dụng vốn đầu tư là thấp nhất, máy móc thiết bị tiên tiến, phù hợp nhất, kết cấu tài sản cố định đầu tư hợp lý sẽ hạn chế ảnh hưởng của hao mòn vô hình. Đồng thời nguồn nguyên liệu phải dồi dào, sản phẩm sản xuất đa dạng về mẫu mà, chủng loại.
Thứ 4: Tổ chức tốt quá trình sản xuất và đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp cần phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động nhằm sản xuất ra nhiều sản phẩm chất lượng tốt, giá thành hạ tiết kiệm được nguyên nhiên vật liệu, khai thác tối đa công suất máy móc thiết bị hiện có. Mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng cường công tác tiếp thị, thông tin quảng cáo, giới thiệu sản phẩm….giảm khối lượng sản phẩm tồn kho, tăng nhanh vòng quay của vốn.
Thứ 5: Thực hiện tốt công tác thanh toán công nợ, chủ động phòng ngừa rủi ro trọng kinh doanh. Doanh nghiệp phải chủ động trong công tác thanh toán tiền hàng, hạn chế tình trạng bán hàng không thu được tiền hoặc thu chậm, bị chiếm dụng vốn làm phát sinh nhu cầu vốn cho tái sản xuất dẫn đến doanh nghiệp lại phải đi vay ngoài dự tính, kéo theo việc phát sinh thêm chi phí sử dụng vốn lẽ ra không cần có. Đồng thời khi vốn đã bị chiếm dụng thì có rủi ro trở thành nợ khó đòi, làm thất thoát vốn của doanh nghiệp.Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp khó có thể tránh những rủi ro xảy ra. Để chủ động phòng ngừa các doanh nghiệp cần mua bảo hiểm, lập quỹ dự phòng tài chính để có nguồn bù đắp khi vốn bị thiếu hụt mà chưa có nguồn khác ứng kịp.
Thứ sáu: Cần tăng cường và phát huy vai trò của các biện pháp tài chính trong việc quản lý và sử dụng vốn.Thực hiện biện pháp này đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng cường công tác kiểm tra tài chính đối với việc sử dụng tiền vốn trong tất cả các khâu, từ dự trữ vốn sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm và đầu tư mua sắm TSCĐ.
Sử dụng vốn nhàn rỗi một cách linh hoạt thông qua các hình thức đầu tư ra bên ngoài, cho các đơn vị khác vay nhằm thu được lợi tức tiền vay, cũng như có thể đầu tư mở rộng sản xuất. Các doanh nghệp cần xem xét cân nhắc hình thức nào mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, hạn chế được khả năng rủi ro có thể xảy ra khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trên đây là một số các biện pháp chủ yếu và cơ bản để đẩy mạnh việc tăng cường tổ chức và sử dụng vốn ở doanh nghiệp. Trên thực tế do tình hình thực tiễn ở mỗi doanh nghiệp có khác nhau về ngành, về quy mô, về lĩnh vực kinh doanh hay sản xuất…Do đó bản thân tự mỗi doanh nghiệp cần phải nghiên cứu và xem xét việc áp dụng phương pháp nào mà đạt được tính khả thi phù hợp với doanh nghiệp mình, nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng vốn cho doanh nghiệp.
Chương 2
Thực trạng quản lý và sử dụng vốn ở Công ty
xây dựng thuỷ lợi hoà bình
2.1. Giới thiệu chung về Công ty
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty xây dựng Thuỷ Lợi Hoà Bình được thành lập vào tháng 7 năm 1976 theo quyết định số 205QĐ/UB ngày 19 tháng 7 năm 1976 của UBND tỉnh Hà Sơn Bình về việc hợp nhất hai đơn vị là: Đội xây dựng cơ bản thuỷ lợi và xí nghiệp cung ứng vật tư Hoà Bình trực thuộc sở thuỷ lợi Hoà Bình.
Tháng 9 năm 1991 tại kỳ họp quốc hội thứ 9 khoá VIII quyết định chia tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh Hà Tây và Hoà Bình được thông qua. Tháng 10 năm1991 tỉnh Hoà Bình tái lập và đi vào hoạt động, ngày 10/10/1991 UBND tỉnh ra quyết định số 37/QĐ/UB và quyết định 471QĐ/UB ngày 30/10/1992 chuyển Công tyxây dựng thuỷ lợi II thành xí nghiệp xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình trực thuộc Sở Thuỷ Lợi Hoà Bình nay là sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Hoà Bình.Xí nghiệp xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình nay là Công ty xây dựng thuỷ lơi Hoà Bình có trụ sở đóng tại số 252 đường Bà Triệu - phường Chăm Mát - thị xã Hoà Bình - tỉnh Hoà Bình.
2.1.2.Chức năng và nhiệm vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Theo giấy chứng nhận và quản lý số 104312 cấp ngày 25/11/1992 và giấy chứng nhận kinh doanh bổ sung ngày 20/10/1997 do sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Hoà Bình cấp, ngành nghề kinh doanh của Công ty là:
- Thi công các công trình thuỷ lợi và thuỷ điện nhỏ
- Thi công xây dựng các công trình giap thông nông thôn
- Thi công xây dựng nhà cấp III cấp IV
- Gia công cấu kiện bê tông đúc sẵn phục vụ xây lắp công trình thuỷ lợi
2.1.3.Đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty.
Công tyxây dựng Thuỷ Lợi Hoà Bình là đơn vị trực thuộc sở nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hoà Bình, thực hiện hạch toán nội bộ, có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản bằng tiền Việt Nam và được sử dụng con dấu riêng để hoạt động theo quy định của nhà nước.
2.1.4.Mô hình tổ chức quản lý của Công ty.
Trên cơ sở của quá trình sản xuất kinh doanh và quy mô của Công ty trong mấy năm qua Công ty đã có bộ máy quản lý gồm 15 người chiêm 14% trên tổng số lượng cán bộ công nhân viên toàn công ty.
- Giám đốc Công ty.
Là thủ trưởng của đơn vị do UBND tỉnh ra quyết định bổ nhiêm đại diện tư cach pháp nhân của đơn vị trước pháp luật. Giám đốc Công ty có toàn quyền quyết định về tổ chức quản lý, quyết định bổ nhiệm miễn nhiệm, khen thưởng kỷ luật, hợp đồng lao động, nâng bậc lương cho cán bộ công nhân viên của Công ty trong phạm vi và quyền hạn được nhà nước quy định, chịu trách nhiệm quản lý toàn dịên và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước.
Bộ máy giúp việc cho Công ty gồm có:
- Phó giám đốc:
Là người tham mưu và giúp việc cho giám đốc về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị kiêm trưởng phòng tài vụ kế toán, phụ trách lao động tiền lương, bảo hộ lao động, an toàn vệ sinh lao động, phụ trách công tác vật tư và bộ phận hành chính của Công ty.
- Phòng kế hoạch vật tư.
Có chức năng tham mưu với giám đốc về công tác quản lý lập kế hoạch sản xuất, xác định các mức lập các dự án xây dựng và sản xuất hàng tháng, quý, năm. Lập kế hoạch cung cấp các loại vật tư để phục vụ công tác sản xuất, dự trữ đảm bảo tính thường xuyên liên tục, phục vụ yêu cầu sản xuất đối với các công trường và yêu cầu quản lý của Công ty kết hợp chặt chẽ với phòng kế toán của Công ty để có kế hoạch cung ứng vốn, đáp ứng tốt các yêu cầu về mua vật tư, nguyên nhiên liệu cũng như cung ứng các số liệu phục vụ công tác lập kế hoạch tài chính của Công ty.
Phòng tổ chức hành chính :
Theo dõi giám sát tình hình tăng giảm cán bộ công nhân viên của Công ty thực hiện các chế độ chính sách mà nhà nước quy định đối với công nhân viên .
- Phòng kế toán :
Có nhiệm vụ thu thập và xử lý thông tin, kiểm tra và cố vấn cho giám đốc về tài chính cụ thể là :
Trực tiếp hạch toán các chi phí trong nội bộ Công ty, kiểm tra thực hiện, ngăn ngừa các hiện tượng tham ô, lãng phí tài sản của Công ty. Sử dụng vật tư tiền vốn đảm bảo cho sản xuất hợp lý, tiết kiệm nhất đạt hiệu quả cao, phát hiện mọi khả năng tiềm tàng để nâng cao năng lực sản xuất của Công ty.
- Ban chỉ huy công trường:
Ban chỉ huy công trường chịu trách nhiệm trước giám đốc về thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh được giao, quản lý toàn bộ lực lượng sản xuất trên công trường như lao động thiết bị dụng cụ máy móc, dụng cụ thi công, vật tư vật liệu…
- Đội xe máy thi công:
Bao gồm tổ xe, tổ sửa chữa: Có nhiệm vụ là căn cứ vào kế hoạch sản xuất của Công ty vào mùa vụ thi công xây dựng, đội xe phải lập được kế hoạch tu sửa xe máy từng thời kỳ cho phù hợp, lập kế hoạch mua sắm phụ tùng, vật tư thay thế cho xe máy hoạt động bình thường. Ngoài ra còn nhiệm vụ điều hành các phương tiện thi công để phục vụ nhu cầu thi công các công trường.
SƠ Đồ Tổ CHứC Bộ MáY QUảN Lý
GIáM ĐốC
PGĐ,kiêm trưởng phòng tài vụ kế toán
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kế toán
Phòng kế hoạch vật tư
Đội xe máy
Ban chỉ huy công trường
Tổ xe
Tổ sửa chữa
Tổ máy
Tổ khoan
Tổ xây
2.2. Thực trạng quản lý và sử dụng vốn ở Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình.
2.2.1. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty.
Đặc điểm nổi bật của sản phẩm xây dựng đó là: Sản phẩm mang tính đơn chiếc, cố định tại một chỗ, có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, thời gian xây dựng và thời gian sử dụng lâu dài. Khối lượng thi công chủ yếu được tiến hành ngoài trời nên quá trình xây dựng thường được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn gồm nhiều công việc khác nhau.
Cũng như các ngành sản xuất vật chất khác, ngành xây dựng khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thực chất cũng là quá trình biến đổi đối tượng lao động trở thành sản phẩm. Sản phẩm xây dựng là những công trình, vật kiến trúc có giá trị lớn, kết cấu phức tạp, thời gian thi công và thời gian xây dựng lâu dài, được sản xuất theo đơn đặt hàng. Để thi công có nhiều phương thức kỹ thuật khác nhau, dẫn đến giá trị công trình khác nhau.
Bên cạnh đó mỗi công trình xây dựng gắn liền với một địa bàn nhất định thường cố định tại nơi thi công và đồng thời cũng là nơi sử dụng khi trở thành tài sản cố định sau này. Các điều kiện sản xuất cơ bản như: Lao động, vật tư, thiết bị luôn phải di chuyển theo nơi thi công. Hoạt động xây dựng cơ bản chủ yếu được tiến hành ngoài trời do đó chịu nhiều ảnh hưởng của các nhân tố khách quan như thời tiết, thiên tai…điều đó dễ dẫn đến hao hụt, mất mát, lãng phí vật tư tài sản, dẫn đến tăng chi phí sản xuất.
Qua những điều phân tích trên có thể nêu lên một số đặc điểm chủ yếu của ngành kinh doanh ảnh hưởng đến vốn và công tác sử dụng vốn của Công ty như sau:
- Do hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, do đó hoạt động của Công ty không ổn định. Mỗi công trình gắn với một nơi cố định do đó Công ty phải vận chuyển nguyên vật liệu, tài sản máy móc đến nơi công trình để thi công. Hơn nữa Công ty hầu như phải ứng trước vốn để xây dựng công trình đến khi hoàn thành, điều đó làm cho ảnh hưởng lớn đến tốc độ luân chuyển vốn và ảnh hưởng đến phương pháp đầu tư, chi trả.
- Tính thời vụ cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Công ty. Do đặc thù của ngành xây dựng là thường thi công công trình vào mùa khô do đó nhu cầu về vốn của Công ty trong các quý của năm thường có sự biến động lớn, các khoản thu về cũng sẽ không đồng đều trong năm. Vì vậy việc đảm bảo nguồn vốn cũng như sự đẩm bảo cân đối thu chi của Công ty cũng gặp nhiều khó khăn.
2.2.2. Những thuận lợi và khó khăn của Công ty.
Là một doanh nghiệp nhà nước hạch toán kinh doanh độc lập, trong những năm vừa qua Công ty đã không ngừng đổi mới phương pháp hoạt động sản xuất kinh doanh, khai thác tối đa mọi nguồn vốn nhằm đẩy mạnh nhịp độ phát triển kinh doanh của mình. Để có thể hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra Công ty cần phải có cách tổ chức và sử dụng vốn kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả nhất.
Để tìm ra biện pháp thúc đẩy việc tổ chức và sử dụng vốn của Công ty, trước hết cần xem xét những thuận lợi và khó khăn chủ yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
+ Những thuận lợi chủ yếu của Công ty.
Trước hết phải kể đến đội ngũ quản ly giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng và đội ngũ công nhân lành nghề đã được đào tạo cẩn thận.
Thứ hai là Công ty đã tạo được uy tín với khách hàng thông qua các công trình xây dựng, đó là những tài sản giá trị nhất. Nhiều công trình xây dựng đã được thực hiện, bên cạnh đó Công ty còn có nhiều biện pháp ưu đãi cho khách hàng như gia hạn thời hạn thanh toán, thanh toán theo phương thức trả chậm…
Do đáp ứng được nhu cầu của thị trường một cách nhanh chóng và kịp thời, Công ty ngày càng nhận được nhiều hợp đồng của khách hàng.
Bên cạnh những thuận lợi thì Công ty cũng gặp không ít khó khăn như:
+ Những khó khăn chủ yếu của Công ty.
Thứ nhất: Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nhu cầu xây dựng ngày càng tăng nhiều đơn vị xây dựng cơ bản được nhà nước thành lập thành các tổng Công ty xây dựng mạnh, đủ sức đấu thầu các công trình lớn điều đó làm cho khả năng cạnh tranh của Công ty gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai: Địa bàn thi công các công trình của Công ty hầu như đều nằm ở vùng núi cao ở tỉnh Hoà Bình, giao thông khó khăn làm cản trở việc vận chuyển nguyên vật liệu, máy móc đến các công trình của Công ty.
Thứ ba: Có lẽ đây là khó khăn lớn nhất của Công ty đó là vấn đề thiếu vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh. Chuyển sang cơ chế thị trường cũng như các doanh nghiệp nhà nước khác Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình không được bao cấp về vốn, tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh và phải đảm bảo có lãi. Nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh là rất lớn, trong khi đó nguồn vốn tự có của Công ty không đủ đáp ứng do đó Công ty phải đi vay với một lượng vốn khá lớn để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Do vậy hàng năm Công ty phải trả chi phí vay vốn với một lượng khá lớn dẫn đến giá thành sản phẩm của Công ty tăng cao làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường.
2.2.3. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây.
Trong thời kỳ bao cấp, tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty không gặp nhiều khó khăn nhưng hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng không cao vì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty từ mua sắm yếu tố đầu vào, tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đều do cấp trên chỉ đạo. Tất cả các doanh nghiệp trong thời kỳ này đều không tự chủ sản xuất kinh doanh, không hạch toán độc lập, không cần lập phương án kinh doanh, nghiên cứu thị trường…Còn trên thị trường thì không có sự cạnh tranh, chính vì lẽ đó các doanh nghiệp không phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp Nhà nước được giao quyền quản lý sử dụng vốn, tự chủ trong sản xuất kinh doanh.Điều nay buộc các doanh nghiệp phải thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, tuy nhiên nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn do không thích ứng được với cơ chế mới, nên sản xuất kinh doanh bị thua lỗ, nhiều doanh nghiệp đã phải phá sản. Hầu hết máy móc thiết bị trong các doanh nghiệp Nhà nước đều lạc hậu, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phảm kém không đủ sức cạnh tranh trên thị trường…dẫn đến người lao động thiếu việc làm, sản xuất kinh doanh thua lỗ. Đứng trước những thử thách mới của cơ chế thị trường, xu thế cạnh tranh là tất yếu thì việc xác định sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? luôn luôn là trăn trở băn khoăn của Công ty. Để làm được điều này Công ty phải nghiên cứu thị trường, phải tiến hành cải cách sự quản lý, thay thế một số máy móc thiết bị, nâng cao tay nghề cho cán bộ công nhân viên…để chất lượng sản phẩm làm ra và giá cả phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
Ngoài ra Công ty đã không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để có lợi thế cạnh tranh, từ đó tạo việc làm cho cán bộ công nhân viên, nâng cao thu nhập cho họ, góp phần vào tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Sau đây là một số chỉ tiêu kinh tế mà Công ty đã đạt được trong 3 năm qua.
Bảng 01: Một số chỉ tiêu kinh tế của Công tytrong 3 năm qua.
Đơn vị tính:Đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
1
Giá trị tổng sản lượng
4.137.120.224
6.823.477.052
4.346.413.643
2
Nộp ngân sách
78.072.539
147.130.747
83.744.521
3
Lợi nhuân trước thuế
10.021.802
8.489.107
12.401.100
4
Thu nhập bình quân người/tháng
432.000
460.000
576.500
Nguồn:Báo cáo tài chính năm 1999,2000,2001
Thông qua kết quả trên cho thấy, sản lượng hàng năm của Công ty tăng giảm không đều, năm 2000 giá trị tổng sản lượng tăng 2.686.356.828đ, tăng 64.9% so với năm 1999, sang năm2001 thì giá trị tổng sản lượng lại giảm so với năm 2000, giảm 2.477.063.409đ. Nguyên nhân của sự tăng sản lượng năm 2000 là do Công ty thực hiện được nhiều công trình có giá trị lớn hơn năm 1999, tổng số công trình năm 2000 là 22 công trình, trong khi đó năm 1999 là 18 công trình, đặc biệt năm 2000 có những công trình lớn như công trình xây dựng kênh Hồ Ngọc - Kỳ Sơn Hoà Bình, xây dựng hệ thống nước sinh hoạt Mai Châu, tràn suối ong Mai Châu, và nhiều công trình có giá trị lớn khác.
Năm 2001giá trị sản lượng giảm so với năm 2000 nguyên nhân chính là do số lượng công trình thực hiện giảm (19 công trình), hơn nữa giá trị bình quân các công trình cũng nhỏ hơn so với năm 2000.
Tương ứng với mức tăng giảm của giá trị tổng sản lượng, khoản nộp ngân sách của Công ty cũng tăng giảm theo, Công ty luôn chấp hành thực hiện đung chế độ Nhà nước về các khoản thuế phải nộp.
Về khoản lợi nhuận trước thuế, thì lại không tăng giảm theo sự thay đổi của sản lượng. Tuy năm 2000 sản lượng của Công ty cao hơn năm trước nhưng lợi nhuận lại giảm so với cả năm 1999 và năm 2001 nguyên nhân chính là do giá vốn hàng bán tăng, còn nguyên nhân chúng ta sẽ phân tích kỹ ở phần sau.
Mặc dù sản lượng của Công ty tăng giảm không đồng đều giữa các năm nhưng thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên thì không ngừng tăng lên theo các năm. Năm1999 thu nhập bình quân là 432.000đ trên tháng thì đến năm 2000 thu nhập tăng 28000 đ, tăng 6,4% so vơi năm 1999. Sang năm 2001 thu nhập bình quân của công nhân viên lại tiếp tục tăng so với năm trước, tăng 116.500 đ (tăng25%) so với năm 2000 tuy vẫn còn thấp so với mức lương trung bình của ngành xây dựng hiện nay, nhưng đó là điều đáng khích lệ, đó là sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên toàn công ty. Dù sao Công ty vẫn luôn cố gắng đảm bảo việc làm thường xuyên cho cán bộ công nhân viên Công ty với số lao động bình quân hàng năm khoảng 103 lao động.
Những kết quả mà Công ty đã đạt được trong những năm qua do nhiều nguyên nhân mang lại. Song một nguyên nhân đóng vai trò then chốt đó là sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ cán bộ trong Công ty, lao động hăng say, thực hiện tiết kiệm trong sản xuất, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật của cán bộ công nhân viên Công ty.
Bên cạnh đó Công tycũng luôn đổi mới cách quản lý, mua sắm trang thiết bị,đầu tư thêm nhiều máy móc để nâng cao năng xuất lao động, đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động, góp phần đưa Công ty ngày càng phát triển.
Trên đây là những thành tựu mà Công ty đã đạt được trong những năm qua, ngoài những điều kiện thuận lợi thì trong thời gian tới Công ty còn phải đối phó với nhiều khó khăn thử thách trên thị trường luôn biến động như hiện nay, trong thời gian tới Công ty cần lựa chọn xây dựng những phương án kinh doanh phù hợp sao cho vừa giải quyết được những khó khăn trước mắt và vừa tính đến hậu quả lâu dài, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình để đưa Công ty ngày càng đứng vững trên thị trường.
2.2.4. Thực trạng về quản lý và sử dụng vốn của Công ty.
2.2.4.1. Tình hình chung về quản lý và sử dụng vốn.
Quản lý và sử dụng vốn được Công ty đặc biệt chú trọng, coi đây là nội dung quan trọng trong công tác tài chính của mình, trước hết chúng ta hãy xem xét về đặc điểmcơ cấu vốn của Công ty trong một số năm qua.
Bảng 02: Đặc điểm, cơ cấu vốn của Công ty.
Đơn vị: Đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
1.Vốn kinh doanh
4.513.271.760
100
4.694.295.318
100
4.088.400.429
100
2.Vốn lưu động
2.788.678.037
62
2.966.015.578
63
2.589.474.884
64
3.Vốn cố định
1.724.593.723
38
1.728.279.740
37
1.498.925.545
36
Nguồn: Bảng cân đối kế toán năm 1999,2000,2001
Theo bảng kết cấu trên về vốn kinh doanh của công ty, thì vốn lưu động thường chiếm tỷ trọng lớn vì đó cũng là đặc thù của ngành xây dựng, năm 1999 vốn lưu động chiếm 62% so với tổng vốn kinh doanh của Công ty, bước sang năm 2000 tỷ trọng này tăng lên 63% nhưng sự tăng này không đáng kể và hoàn toàn hợp lý. Năm 2000 tỷ trọng vốn lưu động trong tổng vốn kinh doanh lại tiếp tục tăng lên 64% chứng tỏ Công ty phải đầu tư thêm nhiều vốn lưu động và có thể bị chiếm dụng. Năm 2000 tổng vốn kinh doanh của Công ty tăng lên 181.023.558đ so với năm 1999 tăng 4% đây là xu hướng tốt khi quy mô về vốn của Công ty tăng lên nhưng đến năm 2001 thì tổng vốn kinh doanh của Công ty lại bị giảm so với cả năm 1999 và năm 2000. So với năm 2000 thì tổng vốn kinh doanh của Công ty bị giảm 605.894.889đ tương ứng giảm 13%, đây là chiều hướng xấu đối với Công ty nói chung. Nếu nhìn vào vốn cố định của Công tyt hì càng cho thấy rõ điều đó, tỷ trọng vốn cố định ngày càng giảm so với tổng vốn kinh doanh, năm 1999 vốn cố định chiếm 38% so với tổng vốn kinh doanh thì đến năm 2000 và năm 2001 con số này tương ứng là 37% và 36%.
Như vậy xét một cách tổng thể ta thấy vốn lưu động của Công ty ngày càng tăng so với tổng vốn kinh doanh trong khi vốn cố định thì lại giảm. Điều này có đem lại hiệu quả cho công tác quản lý và sử dụng vốn hay không? Để lý giải điều này chúng ta cần tiến hành đi sâu phân tích đặc điểm cơ cấu vốn kinh doanh của Công ty trong một số nằm trở lại đấy.
2.2.4.2.Tình hình phân bổ vốn của Công ty.
Phần này chúng ta hãy phân tích cơ cấu tài sản của Công ty trong 3 năm qua, quan hệ tỷ lệ từng bộ phận tài sản trong toàn bộ tài sản của doanh nghiệp.
Tổng tài sản và sự tăng trưởng của tài sản chỉ thể hiện của quy mô của kinh doanh đã được mở rộng hay bị thu hẹp, còn cơ cấu tài sản như thế nào thì mới phản ánh trình độ quản lý của doanh nghiệp, vì cơ cấu tài sản hợp lý thì hiệu quả kinh doanh sẽ cao.
Bảng 03: Cơ cấu tài sản của Công ty năm 1999,2000,2001
Đơn vị: Đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Đầu năm
Cuối kỳ
Đầu năm
Cuối kỳ
Đầu năm
Cuối kỳ
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Số ti._.2 năm trước đó, tăng 31,2% so với năm 2000 chứng tỏ Công ty sử dụng vốn kinh doanh nói chung và vốn chủ sở hữu nói riêng đã có hiệu quả hơn.
Tóm lại, trên đây là tình hình sử dụng vốn của Công ty trong 3 năm qua, mặc dù đó là sự cố gắng của toàn bộ cán bộ công nhân viên Công ty đã làm cho hiệu quả sử dụng vốn trong những năm qua đạt được những thành tích đang khích lệ, đặc biệt hệ số doanh lợi vốn kinh doanh năm 2001 tăng gấp 1,9 lần so với năm 2000, và các chỉ tiêu hiệu quả khác ngày càng cao như đã phân tích. Công ty đã có chỗ đứng trên thị trường khốc liệt hiên nay, có đóng góp đáng kể cho ngân sách. Tuy vậy trong quá trình hoạt đông sản xuất kinh doanh vẫn còn tồn tại một số nhược điểm nhất định đòi hỏi Công ty cần đưa ra các giải pháp khắc phục để việc quản lý và sử dụng vốn ngày càng có hiệu quả hơn.
2.2.5. Đánh giá tổng quan về hiệu quả sử dụng vốn của Công ty trong ba năm qua
2.2.5.1. Những kết quả đạt được
- Thông qua việc phân tích thực trạng quản lý và sử dụng vốn của Công ty cho thấy trong những năm qua Công ty đã đạt được một số kết quả như sau:
- Hiệu quả kinh doanh của Công ty trong ba năm qua tuy vẫn không đạt được như kế hoạch đặt ra, nhưng cũng đã có chiều hướng tăng lên, năm 2001 cao hơn năm 2000 là 1,47 lần. Sự tăng lên của hệ số doanh lợi vốn kinh doanh chủ yếu là do hiệu quả sử dụng của vốn lưu động đem lại.
- Công ty luôn đảm bảo đời sống và việc làm cho hơn 100 lao động với mức thu nhập năm sau cao hơn năm trước.
- Lãi ròng của Công ty tăng giảm không đều giữa các năm. Năm 1999 là 7.516.352đ thì sang năm 2000 lãi ròng của Công ty giảm xuống còn 6.366.830đ và năm 2001 khoản này lại tăng lên hơn cả hai năm trước đó, tăng 32,5% so với năm 2000, 12,2% so với năm 1999. Đây là sự cố gắng nỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty trong những năm qua. Nguyên nhân là do Công ty đã thực hành tiết kiệm nguyên vật liệu, giảm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Nếu như hai loại chi phí này năm 1999 là 355.414.369đ thì sang năm 2000 là 348.010.472đ và năm 2001 giảm xuống còn33.192.440đ.
- Nộp ngân sách của Công ty ngày càng tăng, chủ yếu là thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp , lên tới hàng trăm triệu đồng.
- Công tác huy động vốn: Công ty đã huy động được một lượng vốn lưu động khá lớn, vay ngắn hạn năm 1999 là 897.137.301đ, năm 2000 là 798.148.089đ và năm 2001 lên tới 996.577.760đ. Ngoài ra Công ty còn đi chiếm dụng được một lượng vốn lớn phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Điều đó chứng tỏ Công ty được bạn hàng, các tổ chức tín nhiệm.
- Trong những năm qua ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty đã không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần làm việc, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Công ty đã tổ chức linh hoạt cơ cấu vốn. Dùng vốn ngắn hạn để đầu tư vào mục đích dài hạn. Điều này đã làm giảm chi phí sử dụng vốn làm cho lợi nhuận của Công ty năm sau cao hơn năm trước. Đó là một thành tích đáng khích lệ rất quan trọng đối với Công ty.
Bên cạnh những kết quả đạt được Công ty còn có một số tồn tại.
2.2.5.2. Những tồn tại
- Công tác thu hồi công nợ:
Qua phân tích ở trên cho thấy, công tác thu hồi công nợ của Công ty những năm qua còn quá yếu kém, không hiệu quả. Điều đó làm cho một lượng vốn rất lớn bị khách hàng chiếm dụng, không có khả năng sinh lời. Năm 1999 khoản phải thu chiếm 45,6% so với tổng tài sản và 73,8% so với tài sản lưu động. Năm 2000 và năm 2001 tương ứng là 41%, 64,9% và 27,8% 43,9%. Trong khi vốn của mình bị chiếm dụng thì Công ty lại phải bỏ ra chi phí sử dụng vốn để đi vay đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của Công ty.
- Doanh thu:
Năm 2000 doanh thu của Công ty đã tăng gần 1,9 lần so với năm 1999, nhưng năm 2001 doanh thu không những không tăng mà còn giảm hơn năm 2001 là2.433.671.880đ, giảm 37,5%. Điều đó chứng tỏ công tác sản xuất xây lắp, tìm kiếm công trình còn yếu kém. Doanh thu giảm nó có ảnh hưởng rất lớn tới tình hình tài chính của Công ty nói chung và ảnh hưởng tới các chỉ tiêu về hoạt động, khả năng thanh toán.
- Khoản phải thu của Công ty luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số tài sản. Năm 1999 khoản này chiếm 45,6%, năm 2000 là 41% và năm 2001 còn 27,8%. Nguyên nhân là do Công ty chưa tổ chức tốt công tác đảm bảo tiến độ thi công, làm cho tiến độ hoàn thành một số hạng mục công trình chậm hơn so với kế hoạch. Chứng tỏ công tác tổ chức sản xuất, tiến độ thi công của Công ty chưa được tổ chức tốt đã làm cho một lượng vốn lớn chưa có thể thanh toán bị ứ đọng gây nên tình trạng lãng phí.
- Nợ phải trả của Công ty cũng chiếm một tỷ trọng lớn. Năm 1999 nợ phải trả chiếm 50,65% so với tổng nguồn vốn. Năm 2000 là 52,6% và năm 2001 là 45,5%, mà trong số nợ phải trả thì chủ yếu là nợ ngắn hạn. Năm 2001 nợ ngắn hạn chiếm tỷ lệ cao nhất, chiếm tới 53,5% so với tổng nợ phải trả.Trong khoản nợ phải trả bao gồm nợ người cung ứng, người mua ứng trước, phải trả công nhân viên, thuế và các khoản phải nộp chưa đến hạn thanh toán. Nói chung các khoản này đều là các khoản chiếm dụng hợp pháp. Bởi vậy Công ty đã huy động cao độ hiệu quả sử dụng loại vốn này. Nó đã làm cho đòn bẩy tài chính của Công ty luôn dương, có tác dụng khuếch đại lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Bởi vì khi sử dụng loại vốn này Công ty không phải trả chi phí sử dụng vốn. Tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp hiện nay diễn ra tương đối phổ biến, nhưng nói chung khi chiếm dụng vốn của người khác là không tốt. Nó thể hiện tình hình tài chính của Công ty đang gặp khó khăn, thiếu lành mạnh. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của Công ty với khách hàng. Đứng trước thực trạng này đòi hỏi ban lãnh đạo Công ty phải sớm đưa ra những biện pháp chủ động, tìm nguồn vốn ổn định có tính chất vững chắc để đảm bảo cho nhu cầu vốn kinh doanh của Công ty. Có như vậy mới nâng cao hiệu quả của việc quản lý và sử dụng vốn trong thời gian tới.
Chương 3
Một số ý kiến đề xuất nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty xây dựng thuỷ lợi hoà bình
3.1. Mục tiêu phát triển của Công ty trong thời gian tới.
Trong năm tới Công ty sẽ cố gắng thực hiện tăng giá trị sản lượng, tăng doanh thu so với năm 2001; Đồng thời đẩy mạnh công tác quản lý vật tư thiết bị, các chi phí khác, tổ chức cơ cấu lại công tác thu hồi nợ, nâng cao khả năng thanh toán, tạo ra tình hình tài chính lành mạnh cho Công ty; Khai thác hết công suất máy móc thiết bị để đạt doanh thu cao hơn nữa, nhằm thực hiện vượt định mức kế hoạch, tăng thu nhập cho người lao động…
3.2. Một số ý kiến đề xuất để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình.
Qua thực tế xem xét tình quản lý và sử dụng vốn cũng như hoạt động kinh doanh của Công ty xây dưng thuỷ lợi hoà bình trong những năm vừa qua chúng ta thấy rằng mặc dù hoạt động trong điều kiện gặp nhiều khó khăn nhưng do sự cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên Công ty trong việc hoạt động kinh doanh, nên đã đạt được một số kết quả nhất định .Công ty đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường, tình hình tài chính ngày càng ổn định, lành mạnh, lợi nhuận thu được hàng năm tuy không cao nhưng đã được cải thiện, tăng tích luỹ nội bộ, đồng thời đời sống của công nhân viên ngày càng được cải thiện .
Tuy nhiên đi sâu vào phân tích tình hình thực tế của Công ty cho thấy bên cạnh những kết quả đạt được Công ty còn bộc lộ một số vấn đề tồn tại trong vấn đề hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như việc quản lý sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. Vì thế cần phải đưa ra những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế khắc phục những tồn tại hạn chế, nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý sử dụng vốn của Công ty.
Từ thực tế trên đây tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần đẩy mạnh việc quản lý và sử dụng vốn của Công ty như sau:
- ý kiến1: Giải pháp tạo vốn cho Công ty.
Đối với Công ty kinh doanh, vốn là điều kiện cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Giữa vốn và hiệu quả sản xuất kinh doanh có mối quan hệ tương tác với nhau. Việc đảm bảo kịp thời vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. Xuất phát từ việc đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong tình hình hiện nay. Vấn đề đặt ra là Công ty phải tạo vốn như thế nào để có thể cung cấp đầy đủ kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty cần nhanh chóng khai thác triệt để mọi nguồn vốn trong nội bộ của mình. Đây là biện pháp dựa vào những điều kiện tiềm năng sẵn có của Công ty để huy động vốn một cách tối đa. Đối với Công ty hiện nay cần phải:
- Tăng cường khả năng thu hồi vốn trong thanh toán, các khoản phải thu của Công ty trong năm qua còn quá cao. Cuối kỳ 1999 tổng các khoản phải thu là 2.056.914.133đ chiếm tới 45,6% so với tổng tài sản và 72,8% trong tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn; trong năm 2000 và trong năm 2001 tỷ lệ này này đã giảm nhưng vẫn còn cao vì năm 2000 là 1.923.780.626đ chiếm 46,6% so với tổng tài sản và 64,9% tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, năm 2001 lần lượt là 27,8% và 43,9% .
Để giải quyết vấn đề này, Công ty cần phải liệt kê lại các đơn đặt hàng nghiên cứu quan hệ với các chủ công trình, tích cực giải quyết nợ tồn đọng bằng cách thực hiện chiết khấu để nhanh chóng thu hồi vốn càng nhanh càng tốt vì đây là khoản không sinh lời đối với doanh nghiệp nhưng lại mất chi phí vì bên cạnh đó thì Công typhải đi vay vốn ngắn hạn nhiều. Ngoài ra Công ty còn phải theo dõi chặt chẽ các khoản chi tiêu phát sinh tăng quá trình hoạt động kinh doanh. Tìm các biện pháp lập lại cân bằng giữa thu và chi để đảm bảo cho khả năng thanh toán của mình .
Kiểm tra thường xuyên đối với tình hình hoạt động của Công ty và thực tốt việc phân tích tình hình sử dụng vốn của Công ty, qua đó có thể đánh giá được tình hình hoạt động của Công ty phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực.
- ý kiến2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh:
- Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Tiến hành cải thiện hoàn thiện cơ cấu tài sản lưu động. Tài sản lưu động của Công ty luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản của công ty. Năm 1999 nó chiếm tới 62% so với tổng số tài sản. Năm 2000 và 2001 đều chiếm 63% nên tài sản lưu động có một vai trò quan trọng. Doanh nghiệp sử dụng tài sản lưu động càng hiệu quả thì càng có thể thực hiện được nhiều công trình, nghĩa là càng tổ chức được tốt quá trình mua sắm, quá trình sản xuất và tiêu thụ, phân bổ hợp lý các giai đoạn luân chuyển của vốn.
Nhìn chung trong 3 năm qua việc sử dụng vốn lưu động của Công ty kém hiệu quả. Nếu như năm 2001 sức sinh lời của vốn lưu động bình quân là 0,005đ thì tài sản cố định là 0,07đ. Tài sản lưu động của Công ty những năm qua thường chiếm tỷ lệ lớn khoảng 62% tổng số tài sản mà trong loại tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn thì khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn, năm 2001 là 43,5% so với tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn điều này có ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động vì Công ty đã bị chiếm dụng vốn. Bên cạnh khoản phải thu chiếm tỷ lệ lớn thì hàng tồn kho chiếm tỷ lệ không nhỏ, năm 1999 là 12,6% so với tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, hơn nữa hàng tồn kho chiếm tỷ lệ ngày càng tăng, năm 2000 là 17,1% và năm 2001 lên tới 31,2% so với tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn. Đây là những khoản không sinh lời mà Công ty vẫn phải mất chi phí cho nó. Tất nhiên đây là do yêu cầu cạnh tranh của thị trường, Công ty có một số ưu đãi với chủ hàng, nhưng liệu ưu đãi có đúng không, trong khi đó Công ty lại đang thiếu vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh, khả năng thanh toán nhanh của Công ty trong những năm qua còn quá thấp. (9% năm 1999, 56% năm 2000 và 54% năm 2001). Thiết nghĩ Công ty phải rút số vốn bị chiếm dụng về càng nhanh nhất càng tốt, để bổ sung vào vốn lưu động, hiện nay tiền mặt của Công ty chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với tổng tài sản lưu động và vốn đầu tư ngắn hạn khoảng 2,9% năm 1999 và 15,2% năm 2000 và 20,7% năm 2001, đồng thời có một vài chính sách ưu đãi cho khách hàng như:
Trả tiền và lãi suất đúng thời hạn hạn quy định trong hợp đồng
Ưu tiên khách hàng trả tiền trước một phần tiền vừa phải đủ để giữ uy tín cho Công ty.
Tuy nhiên bên cạnh chính sách chiết khấu thì Công ty cần phải xem xét các yếu tố như:
Giá bán sản phẩm hàng hoá
Các chi phí phát sinh thêm do việc tăng các khoản nợ
Thời gian thu hồi các khoản nợ
Dự đoán số nợ phải thu của khách hàng
Để nhanh chóng thu hồi nợ, hạn chế việc phát sinh các chi phí không cần thiết, thì Công ty cần có các biện pháp như:
Mở sổ theo dõi chi tiết các khoản phải thu, thường xuyên đôn đốc để thu hồi các khoản đó đúng thời hạn.
Có các biện pháp phòng ngừa rủi ro, không để các khoản thu khó đòi xảy ra như nghiên cứu kỹ khách hàng trước khi làm hợp đồng, yêu cầu đặt cọc…
Có chính cách tín dụng đúng đắn hợp lý đối với khách hàng
Có biện pháp cứng rắn đối với khách hàng thanh toán chậm so với thời gian hợp đồng đã ký kết như tính lãi suất bằng với lãi suất quá hạn của các ngân hàng thường áp dụng.
Tóm lại: Để việc tổ chức và sử dụng vốn lưu động đạt được hiệu quả kinh tế cao thì Công ty cần rút nhanh khoản vốn bị khách hàng chiếm dụng, bổ sung vào vốn lưu động, đẩy nhanh vòng luân chuyển vốn đem lại lợi nhuận lớn hơn, đồng thời giải quyết triệt để vốn dây dưa trong thanh toán, hạn chế tối đa hiện tượng vốn bị chiếm dụng nhiều như hiện nay để làm được điều này Công ty cần:
Nghiên cứu, đánh giá đúng đắn các khoản phải thu của mình đang bị khách hàng chiếm dụng, xem xét khả năng thu hồi công nợ. Bởi vì các khoản phải thu là bộ phận cấu thành nên vốn lưu động. Công ty chỉ xác định được số vốn thực tế có để sử dụng khi đánh giá đúng được công tác thu hồi công nợ của mình. Nếu trên thực tế có phát sinh thêm nhu cầu vốn thì Công ty cần chủ động cung ứng kịp thời đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục. Ngoài ra việc xác định nhu cầu, lập kế hoạch huy động và sử dụng vốn lưu động nhất thiết phải dựa vào sự phân tích tính toán các chỉ tiêu kinh tế tài chính của kỳ trước, kết hợp với những tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tăng cường trong thời kỳ tới.
- Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Tài sản cố định là bộ phận chủ yếu cấu thành nên vốn cố định của Công ty. Do vậy để việc quản lý vốn cố định đạt hiệu quả thì cần phải quản lý tốt tài sản cố định
Quản lý tốt tài sản cố định có nghĩa là phải vận dụng tối đa công suất của nó trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tránh những hiện tượng hao mòn vô hình rất dễ xảy ra trong điều kiện phát triển khoa học kỹ thuật mạnh mẽ như hiện nay. Đồng thời phải thanh lý những tài sản cố định không còn sử dụng được.
Quản lý và sử dụng vốn cố định là một nội dung quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của công ty. Điều đó không chỉ có ý nghĩa quyết định tới năng lực sản xuất kinh doanh mà còn do việc sử dụng vốn thường gắn liền với hoạt động đầu tư dài hạn, thu hồi vốn chậm và dễ gặp rủi ro.
Thứ nhất: Công ty cần phải xác định được nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản cố định đã được thẩm định để lựa chọn và khai thác các nguồn vốn đầu tư phù hợp.
Công ty có thể khai thác nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau để đầu tư vào tài sản cố định: như từ nhân sách Nhà nước, vay dài hạn của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, liên doanh liên kết… Tuy nhiên mỗi nguồn đều có những ưu và nhược điểm riêng. Bởi vậy Công ty cần phải xem xét kỹ lưỡng từng nguồn sao cho phù hợp với khả năng của doanh nghiệp mình, tận dụng tối đa những ưu điểm của những nguồn huy động.
Khi khai thác các nguồn vốn đầu tư Công ty có thể dựa vào một số yếu tố sau.
- Khả năng ký kết các hợp đồng liên doanh với các Công ty khác
- Khả năng huy động vốn vay dài hạn từ các ngân hàng và tổ chức tín dụng
- Các dự án kinh tế kỹ thuật đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ 2: Quản lý và sử dụng vốn cố định.
Vốn cố định của Công ty có thể được sử dụng để mua sắm các tài sản cố định hữu hình và vô hình, đầu tư dài hạn. Công ty cần thực hiện đúng các quy chế quản lý đầu tư và xây dựng tốt khâu chuẩn bị đầu tư, lập và thẩm định dự án đầu tư để tránh các hoạt động đầu tư kém hiệu quả.
Quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả bao gồm cả việc bảo toàn tài sản cố định, hơn nữa Công ty còn phải phát triển được vốn cố định sau mỗi kỳ kinh doanh.
Đặc điểm của tài sản cố định là tham gia vào nhiều kỳ kinh doanh song vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu, còn giá trị lại dịch chuyển dần vào giá trị sản phẩm. Vì vậy bảo toàn vốn cố định luôn bao gồm hai mặt: hiện vật và giá trị.Trong đó bảo toàn về mặt hiện vật là tiền đề để bảo toàn vốn cố định về mặt giá trị.
Bảo toàn vốn cố định về mặt hiện vật không chỉ giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của tài sản cố định mà quan trọng hơn là duy trì thường xuyên năng lực sản xuất ban đầu của nó. Cũng có nghĩa là trong quá trình sử dụng Công ty phải quản lý chặt chẽ không làm mất mát tài sản cố định thực hiện đúng quy chế sử dụng, bảo dưỡng, sửa chữa nhằm duy trì và nâng cao năng lực hoạt động của tài sản cố định .
Bảo toàn vốn cố định về mặt giá trị là phải duy trì được thời điểm bỏ vốn đầu tư ban đầu, bất kể sự biến động giá cả, tiến bộ khoa học kỹ thuật…Công ty không chỉ duy trì được sức mua mà còn mở rộng được quy mô vốn thực chất đầu tư ban đầu thì Công ty phát triển được vốn cố định của mình.
Để bảo toàn và phát triển vốn cố định, Công tycần đánh giá đúng các nguyên nhân dẫn đến tình trạng không bảo toàn được vốn cố định để có biện pháp xử lý thích hợp. Có thể nêu ra một số biện pháp chủ yếu sau:
- Phải đánh giá đúng giá trị của tài sản cố định, tạo điều kiện phản ánh chính xác tình hình biến động của vốn cố định, quy mô vốn phải bảo toàn, điều chỉnh kịp thời giá trị của tài sản cố định để tạo điều kiện tính đúng, tính đủ, chi phí khấu hao, tránh tình trạng mất vốn cố định.
Hiện nay Công ty đang áp dụng phương pháp khấu hao theo phương pháp tuyến tính cố định, phương pháp này có ưu điểm là giá cả ổn định nhưng có nhược điểm là không phản ánh đúng sự hao mòn thực tế cả hao mòn hữu hình và vô hình. Theo cách này có thể tránh đựơc trường hợp thấp hơn hoặc cao hơn mức hao mòn thực tế, nếu đánh giá thấp hơn thì sẽ không đảm bảo thu hồi vốn khi hết thời gian sử dụng , còn nếu đánh giá cao hơn thì sẽ làm tăng chi phí một cách giả tạo…. Vì vậy, Công ty cần phải xem xét cụ thể mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá sản phẩm đầu ra để có chính sách khấu hao phù hợp như khấu hao nhanh để đảm bảo thu hồi vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh .
Cần quan tâm đổi mới trang thiết bị phù hợp với nhu cầu thụ trường. Trong thời gian qua Công tymới quan tâm đến máy móc thiết bị. Đây là loại tài sản cố định cần trực tiếp cho thi công công trường. Nếu năm 2000 tỷ lệ máy móc thiết bị trên tổng tài sản cố định là 60,3 % thì sang năm 2001 là 90,1%. Còn lại các tài sản cố định khác như nhà cửa vật kiến trúc, phương tiện vận tải, hoặc thiết bị dụng cụ quản lý… thì Công ty chưa chú trọng đầu tư. Có lẽ đây là những bất cập về sự đầu tư đồng bộ. Chẳng hạn phương tiện vận tải rất cần trong thi công nhưng Công ty không đầu tư, trong khi đó thì các loại tài sản cố định đều giảm dần giá trị ngay cả khi nó không sử dụng, năm 2001 một số loại tài sản cố định như phương tiện vân tải, thiết bị dụng cụ quản lý, tài sản cố định khác đều đã khấu hao hết nên giải pháp cho trường hợp này là Công ty cần phải đầu tư sao cho hợp lý, đồng bộ…
Thực hiện tốt chế độ sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định định kỳ tránh tình trạng trong quá trình thi công bị hỏng hóc sẽ làm gián đoạn quá trình thi công.
Cần phải khắc phục và đổi mới hơn nữa trong công tác quản lý và sử dụng vốn của Công ty, cụ thể Công ty cần có sự quản lý chặt chẽ hơn nữa trong việc sử dụng vật liệu, máy móc.. để có thể tiết kiệm ở mức cao nhất nhưng vẫn đảm bảo chất lượng cho các công trình xây dựng. Tăng thêm uy tín góp phần thắng lợi trong công cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay.
- Một số chỉ tiêu về hiệu suất kinh tế còn chưa đạt, hoặc đạt chưa cao, công nợ còn tồn đọng lớn, Công ty cần có kế hoạch và đôn đốc việc thanh quyết toán đảm bảo vốn và chủ động trong sản xuất kinh doanh.
- Công ty còn nhiều lãng phí trong việc sử dụng máy thi công, tỷ suất đầu tư vào tài sản cố định chưa cao, tỷ xuất thanh toán còn thấp, nguồn vốn nợ ngắn hạn còn tồn đọng nhiều. Công tác quản lý phải luôn luôn có những chiến lược kinh doanh hợp lý hơn, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế đem lại nguồn thu nhập lớn cho Công ty.
- ý kiến 3. Tổ chức tốt công tác thu hồi tiền hàng, cải thiện tình hình thanh toán công nợ của Công ty.
Qua phân tích ở bảng 05 cho thấy, vốn lưu động của Công ty đang bị khách hàng chiếm dụng với số lượng rất lớn. Cuối kỳ năm 1999 là 73,8%, năm 2000 là 64,9% và năm 2001 là 43,9% vốn lưu động hiện có của Công ty. Điều đó cho thấy công tác thu hồi công nợ thanh toán tiền hàng còn rất nhiều tồn tại chưa hiệu quả cần phải sớm khắc phục. Công ty chưa áp dụng các biện pháp khuyến khích đối với khách hàng như: Chiết khấu, giảm giá…Bởi vậy đã làm cho thời gian một kỳ luân chuyển vốn lưu động chậm, năm 2001 là 246,6 ngày/vòng, cao hơn năm 2000 là 86,6 ngày. Nguyên nhân là do Công ty chưa quan tâm đến các điều kiện ràng buộc về mặt thanh toán mà mới chỉ dừng lại ở việc quy định thời hạn thanh toán, chưa có những ràng buộc cụ thể về kỷ luật thanh toán khi khách hàng vi phạm kỷ luật thanh toán. Để khắc phục tình trạng này trong thời gian tới Công ty cần áp dụng các biện pháp sau:
Trước khi ký hợp đồng với khách hàng Công ty cần phải xem xét kiểm tra tình hình tài chính của khách hàng, đặc biệt là những hợp đồng của những công trình lớn, giá trị hợp đồng cao. Công ty có thể từ chối tham gia dự thầu, ký kết hợp đồng với những khách hàng có khả năng tài chính yếu kém, nợ nần dây dưa..
-Trong các hợp đồng ký kết mới Công ty cần phải quy định rõ không chỉ ở phương thức thanh toán mà còn phải đưa ra một số các biện pháp cứng rắn hơn khi khách hàng vi phạm kỷ luật về thời gian thanh toán thông qua lãi suất phạt nếu khách hàng nợ quá hạn tới từng thời điểm cụ thể. Điều đó sẽ buộc khách hàng phải có trách nhiệm một cách đầy đủ nghiêm túc các điều khoản hai bên đã cam kết trong hợp đồng.
- Công ty cần đưa vào áp dụng các hình thức khuyến khích khách hàng thanh toán tiền hàng như giảm giá hàng bán, chiết khấu bán hàng để khuyến khích khách hàng thanh toán sớm tiền hợp đồng đã nhiệm thu. Hạn chế việc thanh toán chậm, nợ nần dây dưa. Để xác định mức chiết khấu cho hợp lý, phù hợp với từng thời điểm, thời gian khách hàng thanh toán tiền hàng thì Công ty cần phải dựa vào lãi suất vay ngân hàng mà Công ty sẽ phải đi vay nếu khách hàng không thanh toán sớm. Bởi vậy việc giảm giá chiết khấu cho khách hàng một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền hàng sao cho tỷ lệ đó nhỏ hơn so với chi phí mà Công ty bỏ ra để có được một lượng vốn tương ứng với số tiền thanh toán, làm như vậy Công ty vẫn có lợi hơn là để cho khách hàng nợ một thời gian và trong thời gian đó Công ty lại phải bỏ ra chi phí hoạt động vốn phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Thật vậy trong năm qua do khách hàng chiếm dụng vốn quá lớn dẫn tới Công ty đã phải đi vay rất nhiều để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh cụ thể cuối kỳ năm 2001. Công ty có khoản nợ ngắn hạn lên tới 996.557.760 đ, chiếm 53,5% tổng nợ phải trả của Công ty, cao hơn năm 2000 là 99.440.459 đ. Đối với những khoản nợ cũ thì Công ty cần phải theo dõi từng đối tượng thời gian thanh toánh để xắp xếp chúng theo từng loại đối tượng để theo dõi. Công ty cần thu hồi dứt điểm các khoản nợ này nếu họ không chịu thanh toán nợ đến hạn thì Công ty có thể dùng tài sản thế chấp của họ để thanh lý thu hồi nợ, đòi nhà bảo lãnh (nếu có) sau khi áp dụng tất cả các biện pháp trên mà vẫn chưa thu hồi vốn thì điều cần thiết là Công ty phải nhờ đến sự can thiệp của pháp luật. Cụ thể Công ty nên phân loại nợ phải thu và lập bảng để thu từng loại nợ phải thu ứng với các giải pháp thu nợ thích hợp.
Đối với những khoản nợ trong thanh toán thì Công ty cần chuẩn bị tốt chứng từ khi đến hạn thanh toán, nhắc nhở đôn đốc khách hàng. Đối với nợ đến hạn thanh toán thì Công ty nên dùng các biện pháp có tính tự nguyện như cho người đến tận Công ty của họ để nhắc nhở. Còn đối với nợ quá hạn thì Công ty nên dùng các biện pháp mạnh có tính cường chế như sự can thiệp của pháp luật.
Đứng trước tình hình công nợ tình hình tài chính của Công ty như hiện nay hơn bao giờ hết Công ty cần thiết lập quỹ dự phòng phải thu khó đòi, việc này trước đây Công ty chưa làm được.
Như đã phân tích ở trên cho thấy các khoản phải thu của Công ty là rất cao, năm 2001 là 43,9% vốn lưu động cho nên đây là việc rất cần thiết bởi vì dù Công ty có thận trọng đến đâu trong quá trình đưa ra các quyết định phục vụ sản xuất kinh doanh. Song trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng rất nhiều của các yếu tố rủi ro, rủi ro có thể xảy ra với mọi doanh nghiệp bất cứ lúc nào do vậy. Việc phát sinh các khoản phải thu khó đòi là điều rất có thể xảy ra bởi những lý do chủ quan và khách quan của khách hàng. Khi đó xây dựng quỹ dự phòng tài chính có thể bù đắp cho các khoản nợ khó đòi, giúp Công ty tránh được những khó khăn về tài chính, những ảnh hưởng xấu đến tình hình tài chính của Công ty.
- ý kiến 4. Giảm chi phí, hạ giá thành.
Giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm nó sẽ giúp sản phẩm của Công ty có thể chiến thắng trong cạnh tranh tranh giành thị trường. Đó là một trong những khó khăn lớn của Công ty trong những giải pháp giúp Công ty có thể dễ dàng thắng thầu hơn, từ đó góp phần tăng tốc độ luân chuyển vốn. Nó sẽ tạo điều kiện cho Công ty giảm bớt được một lượng vốn lưu động bỏ vào sản xuất hoặc có thể mở rộng quy mô mà không nhất thiết phải huy động vốn, bởi vì giảm được chi phí, hạ giá thành Công ty sẽ tiết kiệm được chi phí về nguyên vật liệu … chi phí quản lý, do đó Công ty vẫn có thể sản xuất được khối lượng như cũ mà lại giảm bớt được một lượng vốn lưu động không cần thiết. Để giảm được chi phí hạ giá thành Công ty cần thực hiện tốt các biện pháp sau.
Trong thực tế do khả năng hạn hẹp về vốn, do đó Công ty chưa có thể trang bị đầy đủ máy móc vào thi công mà vẫn phải thuê ngoài, trong trường hợp lựa chọn thuê máy thi công Công ty cần căn cứ vào tình hình cụ thể công việc, kế hoạch thi công để xác định thời gian thuê dài hạn hay theo ca. Cụ thể là đối với những việc cần làm bằng máy ít thời gian thi công ngắn thì tốt hơn là thuê theo ca. Giá thuê máy được căn cứ trên mặt bằng giá chung và có sự điều chỉnh linh hoạt sao cho hai bên cùng có lợi. Còn khi công việc thi công lớn phải làm bằng máy, thời gian thi công dài và có tính liên tục trong thi công thì Công ty nên thuê máy dài hạn. Như vậy sẽ mang tính chủ động trong thi công, lại tiết kiệm được chi phí, đầu tư thêm máy móc thiết bị hiện đại để giảm định mức tiêu hao nguyên bật liệu, tăng năng suất lao động. Bởi vì hiện nay phần lớn các máy móc thiết bị của Công ty đều đã cũ và lạc hâụ, năng suất thấp, mức tiêu hao lớn làm tăng giá thành sản phẩm, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị sẽ giúp Công ty khắc phục được vấn đề này. Việc này đòi hỏi Công ty phải có một lượng vốn lớn để làm được điều này Công ty cần:
- Sắp xếp lại lao động một cách hợp lý trong sản xuất thi công, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân. Đối với công nhân theo hợp đồng để thuê ngoài thì Công ty nên căn cứ vào thời gian thi công của từng công trình để xác định thời gian hợp đồng. Công tycũng nên thuê lao động này ở nơi có công trình có nghĩa là công trình thi công ở đâu thì thuê lao động hợp đồng ở đó. Làm như vậy Công ty có thể linh hoạt hơn trong việc điều chỉnh hợp đồng lao động và để thu được lao động rẻ hơn.
- Bố trí các khâu sản xuất, tổ chức sử dụng vốn hợp lý, hạn chế sự lãng phí nguyên vật liệu, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho việc chủ động mua sắm vật tư, tránh tổn thất cho sản xuất như ngừng việc do thiếu nguyên vật liệu…
Kết luận
Nâng cao hiệu quả và sử dụng vốn là một vấn đề mang tính thời sự cấp bách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp trong thị trường hiện nay .
Là một đơn vị hoạch toán kinh doanh độc lập hoạt động trong cơ chế thị trường, Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình tồn tại và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khác. Điều này đòi hỏi Công ty cần phải tích cực chủ động phấn đấu nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác quản lý và sử dụng vốn kinh doanh, bảo toàn và phát vốn làm cho đồng vốn không ngừng sinh sôi nảy nở, duy trì và phát triển năng lực sản xuất, đồng thời nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên Công ty.
Trong những năm vừa qua Công ty đã có nhiều tích cực phấn đấu trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Tuy nhiên hiệu quả quản lý và sử dụng của Công ty vẫn còn ở mức thấp. Do vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên trong Công ty, tăng mức đóng góp cho ngân sách và có tích luỹ để tái sản xuất mở rộng, Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình cần phải xem xét thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu đã được trình bày ở trên.
Do trình độ hiểu biết và thời gian nghiên cứu có hạn nên khoá luận của tôi chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Tôi mong muốn nhận được ý kiến đóng góp chân thành của các thầy cô, ban lãnh đạo, các cô chú phòng tài chính kế toán của Công ty cùng toàn thể các bạn đọc để đề tài nghiên cứu của tôi thêm được hoàn thiện.
Tài liệu tham khảo
Charles J. Woelfel, Phân tích hoạt động tài chính ở các doanh nghiệp, NXB khoa học và kỹ thuật, 1991
TS. Vũ Duy Hào, Đàm Văn Huệ, Phạm Long, Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB thống kê, 2000
PGS.PTS Vũ Phán, Kinh tế các ngành sản xuất vật chất, NXB giáo dục,1996
Nguyễn Hải Sản, Quản trị tài chinh doanh nghiệp, NXB thống kê, 1996
Nguyễn Thị Minh Tâm, Phân tích hiệu quả sử dụng vốn trong ngành công nghiệp dệt Việt Nam, luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, 1999
PTS Lê Văn Tầm, Quản lý doanh nghiệp công nghiệp, NXB đại học và giáo dục chuyên nghiệp,1992
Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh, NXB thống kê, 2001
Báo cáo tài chính của Công ty xây dựng thuỷ lợi Hoà Bình năm 1999,2000,2001
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0122.doc