BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
_____________________
Nguyễn Thị Sáu
Chuyên ngành : Địa Lý học
Mã số : 60 31 95
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐÀM NGUYỄN THÙY DƯƠNG
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô
giáo của khoa Địa Lý trường Đại học sư phạm TPHCM đã
hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong thời
gian học tập tại trường và thực hiện đề tà
152 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1610 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hiện trạng và định hướng sử dụng lực lượng lao động trong ngành công nghiệp ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i.
Đặc biệt hơn, tác giả xin chân thành cám ơn sự tận
tình hướng dẫn và giúp đỡ của Tiến sĩ: Đàm Nguyễn Thùy
Dương đã dành cho tác giả trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn các cơ quan ban
nghành của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu: UBND tỉnh, Tổng cục
thống kê, Sở kế hoạch và đầu tư, Sở lao động thương binh-
xã hội, Liên đoàn lao động, Sở công nghiệp, Phòng công
nghiệp.v.v… đã nhiệt tình cung cấp tư liệu, số liệu và
những thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung nghiên
cứu đề tài.
Lời cảm ơn tới các thành viên lớp cao học Địa Lý
K17, lòng biết ơn đến với gia đình, người thân đã luôn
động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn
thành luận văn.
Xin cảm ơn
TP.HCM, tháng 12 năm 2009
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BR-VT : Bà Rịa - Vũng Tàu
CHLB : Cộng hòa liên bang
CN : Công nghiệp
DS : Dân số
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài
FDI : Vốn đầu tư trực tiếp (Fund Direct Investment)
GTSX : Giá trị sản xuất
ILO : Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labor Orgnization)
KT : Kinh tế
KV : Khu vực
LĐ : Lao động
LLLĐ : Lực lượng lao động
NN : Nông nghiệp
SX : Sản xuất
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ XXI, nền kinh tế thế giới biến đổi sâu sắc do tác động
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Vai trò to lớn
của nền kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế làm
cho việc phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia chủ yếu dựa trên nền tảng
tri thức của con người, khác với trước đây là dựa vào các nguồn tài nguyên
thiên nhiên.
Nước ta có dân số đông, lực lượng lao động dồi dào. Gần đây, tốc độ
tăng lao động hàng năm khoảng 1,2 triệu lao động/năm. Lực lượng lao động
đông về số lượng nhưng hạn chế về chất lượng, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu
quả sản xuất.
Nhận thức được xu hướng phát triển nền kinh tế - xã hội thế giới và dựa
vào tình hình thực tế của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước,
Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đưa ra quan điểm “Lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”,
trong đó “Nguồn lao động có ý nghĩa quan trọng và quyết định trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở nước ta”. Đó cũng là ý kiến của nhiều
chuyên gia kinh tế nước ngoài tại Việt Nam: “Phát triển công nghiệp Việt
Nam không nên dựa nhiều vào tài nguyên thiên nhiên mà nên dựa vào nhiều
vào nguồn lực con người”. Trong đó, lực lượng lao động là bộ phận quan
trọng nhất đối với nguồn nhân lực, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tăng
trưởng và phát triển công nghiệp cũng như phát triển kinh tế -xã hội của Việt
Nam.
Là một trong những tỉnh thuộc Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nền
kinh tế Bà Rịa - Vũng Tàu đang có nhiều chuyển biến tích cực. Những năm
qua, tốc độ tăng trưởng GDP luôn đạt từ 12% - 13%/năm. Năm 2005
GDP/người của Bà Rịa -Vũng Tàu đứng đầu cả nước (4000 USD kể cả dầu
khí, 2000 USD không kể dầu khí). Năm 2006, tốc độ tăng trưởng GDP là
12,86%. Công nghiệp tăng nhanh cả tốc độ tăng trưởng và giá trị sản xuất. Để
đạt được thành tựu đó không thể không nói đến vai trò to lớn của lực lượng
lao động trong ngành công nghiệp. Vì thế việc sử dụng hợp lý lực lượng lao
động này hiện đang là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong
tỉnh.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, tôi quyết định chọn đề tài:
“Hiện trạng và định hướng sử dụng lực lượng lao động trong ngành công
nghiệp ở Bà Rịa – Vũng Tàu” làm luận văn thạc sĩ.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu cơ bản của đề tài là đúc kết cơ sở lý luận về lực lượng lao
động và sử dụng lực lượng lao động. Trên cở sở đó phân tích hiện trạng sử
dụng lực lượng lao động trong ngành công nghiệp của Bà Rịa – Vũng Tàu và
đề ra định hướng cho việc nâng cao chất lượng, sử dụng có hiệu quả lực
lượng lao động trong ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh theo hướng phát
triển bền vững.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Tổng quan có chọn lọc một số vấn đề lý luận về lực lượng lao động
và sử dụng lực lượng lao động.
- Khái quát tình hình phát triển công nghiệp của tỉnh, chủ yếu là thời
kỳ đổi mới.
- Phân tích các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến qui mô, chất lượng và
việc sử dụng lực lượng lao động công nghiệp của Bà Rịa – Vũng Tàu dưới
góc độ Địa lý kinh tế -xã hội.
- Tìm hiểu thực trạng lực lượng lao động trong ngành công nghiệp ở
khía cạnh qui mô, cơ cấu và phân bố.
- Nghiên cứu tình hình sử dụng lực lượng lao động trong ngành công
nghiệp trên địa bàn.
- Đề ra một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và
sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động trong ngành công nghiệp cho địa
phương.
2.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nội dung nghiên cứu
- Làm rõ một số khái niệm có liên quan: lực lượng lao động, cơ cấu
lực lượng lao động, tình trạng việc làm, thị trường lao động.
- Một số vấn đề về lý luận công nghiệp và sự phân chia công nghiệp,
các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp. Những vấn đề
này sẽ được cụ thể trong ngành công nghiệp của Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Qui mô, cơ cấu, phân bố lực lượng lao động, sử dụng lực lượng lao
động công nghiệp ở địa phương.
- Tổng quan dự báo về lực lượng lao động và sử dụng lực lượng lao
động công nghiệp. Đề xuất một số ý kiến góp phần tổ chức, sử dụng lực
lượng lao động, thực hiện phân công lao động công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở mức độ khái quát chung
toàn ngành công nghiệp là chủ yếu. Sau đó đi sâu phân tích lực lượng lao
động và sử dụng lực lượng lao động của các phân ngành công nghiệp. Do sự
khác nhau về lý luận và thực tiễn phát triển, nên đề tài không đề cập đến việc
sử dụng lực lượng lao động thuộc lĩnh vực “Làng nghề”.
Giới hạn lãnh thổ nghiên cứu: Toàn tỉnh theo đơn vị hành chính hiện
nay và lãnh thổ nghiên cứu xuống đến cấp huyện, thị xã.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2000 đến nay.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trước sự đổi mới của đất nước, những năm qua có rất nhiều công trình
nghiên cứu về lao động, việc làm của các cơ quan chức năng như: Trung tâm
Nghiên cứu lao động của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Ban Dân cư
lao động của Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với
một số cơ quan thuộc Trung tâm Khoa học - Xã hội và Nhân văn quốc gia,
v.v…
Vấn đề lao động và sử dụng lực lượng lao động đã được đề cập đến
trong các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học: GS.TS Đặng Thu,
GS.TS Nguyễn Viết Thịnh, GS.TS Lê Thông, PGS.TS Nguyễn Minh Tuệ,
GS.TS Nguyễn Thị Minh Đức …
Ngoài ra, cũng phải kể đến một số đề tài được đề cập chuyên sâu về
nguồn lao động và sử dụng lao động: “Sử dụng nguồn lao động và giải quyết
việc làm ở Việt Nam” của tác giả Trần Đình Hoan và Lê Mạnh Khoa, “Dân
cư, nguồn lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Vùng duyên
hải Nam Trung Bộ” của tác giả Hoàng Văn Chức, “Nguồn lao động và sử
dụng lao động ở TPHCM” của tác giả Đàm Nguyễn Thùy Dương …
Tuy nhiên đa số các đề tài nghiên cứu có qui mô lớn, tổng hợp, cho đến
nay chưa có công trình nào nghiên cứu về lực lượng lao động công nghiệp ở
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu dưới góc độ địa lý kinh tế - xã hội.
Chính vì thế đề tài “Hiện trạng và định hướng sử dụng lực lượng lao
động trong ngành công nghiệp ở Bà Rịa – Vũng Tàu” sẽ là một đóng góp
nhỏ, mới mẻ trong kho tàng khoa học khổng lồ. Và những đề tài nghiên cứu
của các tác giả trên sẽ là tài liệu tham khảo vô cùng quý báu cho tôi thực hiện
đề tài này.
4. Hệ quan điểm và phương pháp nghiên cứu
4.1. Hệ quan điểm
4.1.1. Quan điểm hệ thống
Các đối tượng hiện tượng địa lý đều có sự tác động qua lại với nhau
trong một hệ thống nhất định khi một thành phần của hệ thống bị tác động
làm nó thay đổi, phát triển thì nó sẽ gây ra những ảnh hưởng đến các thành
phần khác của hệ thống đồng thời kéo theo các thành phần khác thay đổi.
Lực lượng lao động là một bộ phận cấu thành của hệ thống kinh tế - xã
hội, sự phát triển về số lượng, chất lượng lao động cũng như việc sử dụng lao
động trong công nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, vào một cơ cấu
kinh tế và một thể chế xã hội nhất định. Vì vậy khi nghiên cứu đánh giá lực
lượng lao động và vấn đề sử dụng lực lượng lao động trong công nghiệp ở
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phải dựa trên quan điểm hệ thống, coi mọi sự vật
hiện tượng thông suốt trong các hợp phần thì việc đánh giá phân tích mới
chính xác.
4.1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Lực lượng lao động của một vùng có quan hệ mật thiết với các yếu tố
tự nhiên và kinh tế - xã hội của vùng và các vùng lân cận, các yếu tố có thể
thúc đẩy hoặc ức chế sự phát triển của lực lượng lao động của vùng đó và
ngược lại.
Vì vậy việc nghiên cứu các vấn đề về lực lượng lao động và sử dụng
lực lượng lao động trong công nghiệp ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu không thể
tách rời vấn đề sử dụng lực lượng lao động của các vùng lân cận và cả nước.
4.1.3. Quan điểm lịch sử viễn cảnh
Lực lượng lao động và sử dụng lực lượng lao động trong công nghiệp
không chỉ có phân hóa theo không gian mà còn có sự thay đổi phát triển theo
thời gian. Vì vậy để lí giải lực lượng lao động và thực trạng sử dụng lực
lượng lao động trong hiện tại và xác định kế hoạch phát triển sử dụng lao
động trong tương lai của tỉnh chúng ta cần phải quán triệt quan điểm lịch sử
và viễn cảnh.
4.1.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Nghiên cứu những vấn đề về lao động phải dựa trên quan điểm sinh
thái và phát triển bền vững, phát triển kinh tế tạo việc làm cho người lao động
phải đi đôi với sử dụng hợp lý, bảo vệ tái tạo tài nguyên thiên nhiên, chống
gây ô nhiễm môi trường, kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp
Đề tài khai thác thông tin, số liệu từ nguồn của tỉnh: Cục thống kê, Sở
Lao động – Thương binh và Xã hội, Liên đoàn lao động, Sở Công nghiệp, Sở
Kế hoạch và Đầu tư, Ban quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất, Phòng
công nghiệp, v.v… Ngoài ra chúng tôi còn đối chiếu, tham khảo các nguồn
khác như Tổng cục Thống kê, các tài liệu từ thư viện Quốc gia, thư viện
Trường Đại học Sư phạm TPHCM, …Chúng tôi tiến hành xử lý số liệu, sắp
xếp, kiểm tra mức độ chính xác, phân tích và tổng hợp các dữ liệu, rút ra
những kết luận cần thiết cho luận văn.
4.2.2. Phương pháp bản đồ - biểu đồ
Đây là phương pháp đặc trưng trong nghiên cứu Địa lý. Các loại bản đồ
được sử dụng để nghiên cứu sự biến động về số lượng, kết cấu của lực lượng
lao động, sử dụng lực lượng lao động trong toàn ngành công nghiệp của tỉnh
cũng như trong một số phân ngành chủ yếu nhất.
4.2.3. Phương pháp thực địa
Thực địa là phương pháp cần thiết trong quá trình nghiên cứu các vấn
đề địa lý kinh tế - xã hội. Vì vậy, trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi sử
dụng phương pháp này để kiểm tra độ chính xác, độ tin cậy của các nguồn tài
liệu thu thập được và có cơ sở thực tiễn đánh giá tình hình sử dụng lực lượng
lao động trong ngành công nghiệp của tỉnh.
4.2.4. Phương pháp dự báo
Đây là giai đoạn khái quát hóa, hệ thống hóa thông tin ở mức cao nhằm
xác định trạng thái trong tương lai của vấn đề. Dựa vào số liệu về lực lượng
lao động, tình hình sử dụng lực lượng lao động trong quá khứ và hiện nay của
tỉnh, chúng tôi tiến hành dự báo về lực lượng lao động và sử dụng lực lượng
lao động công nghiệp trong tương lai của tỉnh nhằm hiểu rõ vấn đề và đề ra
những biện pháp giải quyết cho hợp lý.
4.2.5. Phương pháp GIS
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi ứng dụng phần mềm thông
tin địa lý (GIS) nhằm tính toán, thiết kế, biên tập bản đồ. Nhờ đó quá trình
nghiên cứu đề tài mang tính định lượng hơn.
Các phương pháp trên được vận dụng trong toàn bộ quá trình nghiên
cứu của luận văn với sự thống nhất và kết hợp giữa chúng.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn gồm ba chương
chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận về lực lượng lao động trong ngành công
nghiệp
Chương 2: Hiện trạng sử dụng lực lượng lao động trong ngành công
nghiệp ở Bà Rịa - Vũng Tàu
Chương 3: Định hướng sử dụng lao động trong ngành công nghiệp ở
Bà Rịa - Vũng Tàu
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG
TRONG NGÀNH CÔNG NGHIỆP
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan
1.1.1. Lao động
1.1.1.1. Quan niệm về lao động
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra của
cải vật chất và các giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân và xã
hội. Lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả là nhân tố quyết định sự phát
triển xã hội.[58]
Các định nghĩa lao động tập trung đề cập hai khía cạnh chủ yếu: Thứ
nhất, xem lao động là hoạt động, phương thức tồn tại sống của con người.
Thứ hai, lao động quan niệm là chính bản thân con người, với tất cả nỗ lực
vật chất, tinh thần của nó thông qua hoạt động lao động của mình sử dụng
các công cụ lao động tác động đến đối tượng lao động để đạt được mục đích
nhất định. [4]
1.1.1.2. Tuổi lao động
Tuổi lao động là khoảng thời gian con người có khả năng lao động để
thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật lao động qui định. [57]
Độ tuổi lao động luôn được pháp luật qui định và có thể thay đổi trong
các thời kì khác nhau. Có quan niệm khác nhau về độ tuổi lao động. Về giới
hạn dưới của tuổi lao động: Ai Cập qui định từ 6 tuổi, Braxin từ 10 tuổi, Thụy
Điển và Hoa Kì từ 16 tuổi … Về giới hạn trên của tuổi lao động: Đan Mạch,
Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan qui định 74 tuổi; Ai Cập, Malaixia, Hoa Kì,
CHLB Đức qui định 65 tuổi. Nhiều nước khác không qui định tuổi tối đa.
Ở Việt Nam theo qui định hiện hành của Bộ luật Lao động, tuổi lao
động được qui định:
- Nam: từ đủ 15 tuổi trở lên đến 60 tuổi.
- Nữ: từ đủ 15 tuổi trở lên đến 55 tuổi.
Thực tế có những người không nằm trong độ tuổi lao động do pháp luật
qui định nhưng vẫn tham gia lao động. Đó là lao động trẻ em và lao động cao
tuổi. Lao động trẻ em là lao động dưới tuổi lao động (Dưới 15 tuổi đối với
Việt Nam). Lao động cao tuổi là lao động trên tuổi lao động (nam trên 60
tuổi, nữ trên 55 tuổi) theo qui định của pháp luật nhưng vẫn còn khả năng lao
động và có nhu cầu làm việc, họ được miễn giảm các nghĩa vụ theo pháp luật
lao động qui định.
1.1.1.3. Vai trò của lao động
Những nguồn lực được dùng để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ gọi là
các yếu tố sản xuất. Lao động là một trong bốn yếu tố sản xuất cơ bản: Đất
đai, lao động, vốn và năng lực kinh doanh. Bất kì doanh nghiệp nào, nếu
thiếu lực lượng lao động, quá trình sản xuất sẽ không thể tiến hành bình
thường được. Là yếu tố sản xuất đặc biệt, lao động không đơn thuần là số
lượng mà bao gồm cả chất lượng lao động. Mỗi thời kì khác nhau, số lượng
lao động nhiều hay ít, chất lượng lao động cao hay thấp sẽ trực tiếp quyết
định đến kết quả sản xuất. [21]
Nền sản xuất trình độ thấp thì số lượng lao động quan trọng hơn chất
lượng lao động. Nền sản xuất trình độ cao đòi hỏi chất lượng lao động cao.
Mức độ trang bị kĩ thuật – công nghệ như nhau thì ở các nước có công nghệ
tiên tiến với trình độ chuyên môn của người lao động cao hơn sẽ có năng suất
lao động cao hơn.
Mặt khác, người lao động là người trực tiếp hưởng những thành quả lao
động của mình và xã hội, là yếu tố tiêu thụ sản phẩm, tạo nhu cầu kích thích
sản xuất phát triển. Lao động không chỉ đáp ứng yêu cầu trước mắt của bản
thân người lao động mà còn tích lũy tái sản xuất sức lao động thông qua đóng
góp nghĩa vụ lao động, để dành lúc tuổi già sức yếu …
Tóm lại, người lao động trong hệ thống sản xuất xã hội có vai trò hai
mặt: vừa là yếu tố sản xuất, vừa là yếu tố tiêu thụ. Người lao động là nhân tố
đầu vào quan trọng của cả hai lĩnh vực cung và cầu. Bản chất lao động là
nhân tố tích cực.
1.1.2. Lực lượng lao động
1.1.2.1. Quan niệm về lực lượng lao động
Theo quan niệm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): Lực lượng lao
động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế đang có việc làm
và những người thất nghiệp.
Ở Việt Nam cũng có nhiều quan điểm khác nhau về lực lượng lao động.
Theo giáo trình “Kinh tế lao động” của trường Đại học Kinh tế Quốc
dân Hà Nội: Lực lượng lao động là số người trong tuổi lao động cộng 1/2 số
người lao động trên tuổi và 1/3 số người lao động dưới tuổi có khả năng lao
động và nhu cầu làm việc.
Trong cuốn sách “Hướng dẫn nghiệp vụ chỉ tiêu xã hội ở Việt Nam”
của Tổng cục Thống kê qui định: Lực lượng lao động là những người đủ 15
tuổi trở lên có việc làm và không có việc làm (biểu thị dân số hoạt động kinh
tế).
Các quan niệm nêu về lực lượng lao động mới chỉ làm rõ phần nào về
mặt định tính hoặc định lượng của chỉ tiêu lực lượng lao động, không thể
dùng làm căn cứ để đánh giá thống kê về quy mô lực lượng lao động, bởi vì
chúng còn một số yếu tố không xác định và không phù hợp với Bộ luật Lao
động của Việt Nam.
Theo quan điểm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Lực lượng
lao động gồm những người từ độ tuổi 15 trở lên đang tham gia hoạt động
kinh tế, không phân biệt là có việc làm hay thất nghiệp.
Khái niệm này về cơ bản thống nhất với quan điểm của ILO và qui định
hiện hành của Tổng cục Thống kê về lực lượng lao động: Lực lượng lao động
đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh tế.
Sơ đồ 1.1: Dân số - nguồn lao động - lực lượng lao động xã hội
Trong độ tuổi lao động Ngoài độ tuổi lao động
Không
có khả
năng lao
động
Tình
trạng
khác
Khôn
g có
nhu
cầu
làm
việc
Nội
trợ
Đi
học
Thất
nghiệp
Làm
công
ăn
lương
Chủ
doanh
nghiệp
Tự
tạo
việ
c
làm
Trên
tuổi lao
động
đang
làm
việc
Lao
động
trẻ
em
Trên
tuổi
lao
động
khôn
g làm
việc
Dưới
tuổi
lao
động
khôn
g làm
việc
Dân số không hoạt động
kinh tế Dân số hoạt động kinh tế
Nguồn lao động
Nguồn: Nguồn nhân lực, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội 2001
Lực lượng lao động tuy là một bộ phận của nguồn lao động nhưng
không đồng nhất với nguồn lao động. Lực lượng lao động không bao gồm bộ
phận dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng không tham
gia hoạt động kinh tế như đang đi học, đang làm nội trợ cho gia đình mình
hoặc chưa có nhu cầu làm việc. Do vậy, ngoài các đặc trưng về nhân khẩu, về
trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kĩ thuật, lực lượng lao động còn bao
hàm các đặc trưng về trình độ, cơ cấu, nghề nghiệp, cấu trúc đào tạo, tác
phong kỷ luật lao động, đạo đức nghề nghiệp, sự hiểu biết về pháp luật, khả
năng đáp ứng được yêu cầu phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, khả năng hội nhập với thị trường lao động trong
nước và thế giới.
1.1.2.2. Cơ cấu lực lượng lao động
Theo quan điểm triết học, “cơ cấu” hay “kết cấu” là phạm trù phản ánh
cấu trúc bên trong của một hệ thống, là tập hợp những mối quan hệ cơ bản
tương đối ổn định giữa các yếu tố cấu thành nên bộ phận đó trong một thời
gian nhất định. Với quan niệm trên, cơ cấu lực lượng lao động là thành phần
khác nhau và mối quan hệ tỉ lệ của các thành phần đó theo các tiêu thức cấu
thành nên một tổng thể lực lượng lao động. Cơ cấu đó thể hiện đặc trưng của
lực lượng lao động từng quốc gia hay địa phương và được hình thành do quá
trình phân phối sử dụng lực lượng lao động.
Ví dụ: Cơ cấu theo giới tính, cơ cấu theo độ tuổi, cơ cấu theo trình độ
văn hóa, cơ cấu theo trình độ chuyên môn kĩ thuật…
Người ta thường nghiên cứu cơ cấu lực lượng lao động theo các tiêu
thức sau:
Cơ cấu lực lượng lao động theo giới tính
Nghiên cứu lực lượng lao động theo tiêu thức này giúp ta xem xét cấu
thành lực lượng lao động nam, nữ tham gia hoạt động sản xuất; tỉ lệ lao động
trẻ, khỏe trong nền kinh tế quốc dân. Trong chừng mực nhất định nó chi phối
năng suất lao động và các hoạt động khác của lao động.
Để thể hiện cơ cấu lực lượng lao động theo giới, người ta thường dùng
tỉ số lực lượng lao động theo giới tính. Tỉ lệ này được tính bằng hai công
thức:
Tỉ lệ giới tính nam (hoặc nữ) bằng số lực lượng lao động nam (hoặc
nữ) trên tổng số lực lượng lao động. Đơn vị tính: %
Số lực lượng lao động nam (nữ)
Tỉ lệ giới tính nam (nữ) = Tổng số lực lượng lao động
Tỉ số giới tính là tổng số lực lượng lao động nam trên tổng số lực
lượng lao động nữ. Đơn vị tính: %
Tổng số lực lượng lao động nam
Tỉ số giới tính =
Tổng số lực lượng lao động nữ
Cơ cấu lực lượng lao động theo giới thay đổi theo loại hình công việc.
Đối với những ngành lao động nặng nhọc, lực lượng lao động chủ yếu là nam,
đối với những công việc nhẹ, đòi hỏi sự khéo léo, cần cù như công nghiệp dệt,
may mặc … lao động chủ yếu là nữ.
Cơ cấu lực lượng lao động theo giới phản ánh tính chất, đặc điểm, loại
hình công việc và mức độ bình đẳng nam – nữ. Trong chừng mực nhất định
nó chi phối năng suất lao động và các sinh hoạt xã hội.
Trên thế giới, khi nền kinh tế càng phát triển thì xu hướng gia tăng tỉ lệ
lao động nữ càng cao, tạo cơ hội cho sự bình đẳng nam – nữ.
Cơ cấu lực lượng lao động theo ngành kinh tế
Cơ cấu lực lượng lao động theo ngành là tình trạng phân bố sắp xếp lực
lượng lao động của một vùng, một nước (hay trên toàn thế giới) vào các
ngành kinh tế khác nhau, đảm bảo cho sự hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.
Việc phân chia lực lượng lao động theo ngành kinh tế chủ yếu dựa vào
tính chất và nội dung của hoạt động sản xuất. Nền kinh tế của mỗi quốc gia
được chia thành 3 nhóm ngành: Nông – lâm – ngư (khu vực I); Công nghiệp –
xây dựng (khu vực II) và Dịch vụ – thương mại (khu vực III). Mỗi ngành kinh
tế lại được phân chia thành các phân ngành nhỏ hơn.
Lực lượng lao động công nghiệp là toàn bộ những người có việc làm
hoặc đang tìm kiếm việc làm trong lĩnh vực công nghiệp với các phân ngành:
khai thác mỏ; công nghiệp chế biến và công nghiệp sản xuất, phân phối điện,
ga, nước. [58]
Tỉ lệ lực lượng lao động theo nhóm ngành kinh tế phản ánh tình hình và
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Bởi vì, sự thay đổi cơ
cấu kinh tế sẽ kéo theo sự thay đổi cơ cấu lực lượng lao động. Với xu thế phát
triển kinh tế - xã hội như hiện nay, tỉ lệ lực lượng lao động trong khu vực sản
xuất vật chất sẽ giảm xuống, tỉ lệ lực lượng lao động trong khu vực không sản
xuất vật chất tăng lên. Nghĩa là, tỉ lệ lực lượng lao động trong khu vực I và II
đang giảm dần và tăng tỉ lệ lực lượng lao động ở khu vực III.
Bảng 1.1: Cơ cấu lực lượng lao động khu vực kinh tế ở một số quốc gia
trên thế giới năm 2002
Đơn vị tính: %
Quốc gia Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
Thế giới 40,0 30,0 30,0
Xing-ga-po 0,2 20,8 79,0
Thụy Sĩ 5,6 33,2 61,2
Hoa kỳ 2,7 24,0 73,3
Nhật Bản 5,7 33,6 60,7
Thái Lan 48,8 14,6 36,6
In-đô-nê-xi-a 45,3 13,5 42,1
Trung Quốc 46,9 12,5 40,6
Ấn Độ 63,0 15,0 22,0
(Nguồn: 66 )
Cơ cấu lực lượng lao động theo ngành kinh tế cho phép nghiên cứu cơ
cấu, quá trình phân phối và sử dụng lực lượng lao động theo từng ngành kinh
tế và toàn bộ nền kinh tế, cũng như xu hướng biến động đó qua từng thời kì.
Cơ cấu lực lượng lao động theo thành phần kinh tế
Cơ cấu lực lượng lao động theo thành phần kinh tế phụ thuộc vào chế
độ chính trị - xã hội của mỗi quốc gia. Nó thể hiện sự khác biệt và tính đa
dạng của nền kinh tế.
Ở nước ta, trước đây chỉ có hai thành phần kinh tế: Quốc doanh và tập
thể. Từ khi phát triển nền kinh tế thị trường đến nay, cơ cấu lực lượng lao
động theo thành phần kinh tế đã có sự thay đổi lớn. Trong báo cáo của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, nước
ta có 6 thành phần kinh tế sau: Kinh tế Nhà nước; Kinh tế tập thể; Kinh tế cá
thể và tiểu chủ; Kinh tế tư bản tư nhân; Kinh tế tư bản Nhà nước; Kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. [Trích trong Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ IX
“Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010”, trang 188 – 191].
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động của nước ta đang thay đổi theo hướng
giảm dần tỉ lệ lao động ở khu vực quốc doanh, tăng tỉ lệ lao động ở khu vực
ngoài quốc doanh. Sự chuyển dịch đó phù hợp với đặc điểm và khả năng phát
triển nền kinh tế - xã hội nước ta, phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất.
Cơ cấu lực lượng lao động theo trình độ
Cơ cấu lực lượng lao động theo trình độ phản ánh chất lượng lực lượng
lao động, việc bố trí lao động phù hợp với trình độ của họ tạo cơ sở cho việc
tăng năng suất lao động, cũng như khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong cơ chế thị trường. Đây là cơ sở cho việc lập kế hoạch đào tạo và nâng
cao trình độ cho người lao động.
Cơ cấu lực lượng lao động theo trình độ được tính theo tiêu thức sau:
Trình độ văn hóa: biểu hiện thông qua các quan hệ tỉ lệ của số
lượng người biết đọc, biết viết; số người có trình độ tiểu học; số người có
trình độ trung học cơ sở; số người có trình độ trung học phổ thông; số người
có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học. Trình độ văn hóa cao của lực
lượng lao động tạo khả năng tiếp thu, vận dụng nhanh chóng những tiến bộ
khoa học kĩ thuật vào thực tiễn.
Trình độ chuyên môn: là sự hiểu biết, khả năng thực hành về
chuyên môn nào đó, nó thể hiện trình độ được đào tạo ở các trường chuyên
nghiệp có khả năng chỉ đạo, quản lí một công việc thuộc một chuyên môn
nhất định. Trình độ chuyên môn của lực lượng lao động được đo bằng tỉ lệ
cán bộ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học và trên đại học.
Trình độ kĩ thuật: Trong nền kinh tế nông nghiệp, nhân lực chủ yếu
quyết định sự phát triển là lao động phổ thông. Trong nền kinh tế công
nghiệp, nhân lực chủ yếu quyết định sự phát triển là các chuyên gia và công
nhân lành nghề. Trong nền kinh tế tri thức, nhân lực chủ yếu quyết định sự
phát triển là các chuyên gia công nghệ cao và người lao động tri thức có nhiều
khả năng sáng tạo.
Cơ cấu lực lượng lao động theo trình độ kĩ thuật được phân ra:
Lao động không có kĩ thuật (còn gọi là lao động phổ thông, lao động
đơn giản hay lao động không có nghề) là lao động không qua học nghề dưới
bất kì hình thức nào.
Lao động có trình độ kĩ thuật là những người có trình độ đại học, cao
đẳng, trung cấp nghiệp vụ và công nhân kĩ thuật. Công nhân kĩ thuật là những
người tốt nghiệp các khóa đào tạo và hoàn thành thời gian tập sự hoặc tích lũy
kiến thức qua thực tế, đạt trình độ nhất định theo tiêu chuẩn nghề qui định.
Lao động có trình độ cao là những lao động kĩ thuật có trình độ kĩ năng
và kĩ xảo đặc biệt thông qua đào tạo hoặc tích lũy kinh nghiệm thực tế, đảm
nhiệm được những công việc rất phức tạp, đáp ứng được yêu cầu kĩ thuật –
công nghệ; có khả năng truyền nghề và dạy nghề (gồm những người có trình
độ đại học trở lên, các nghệ nhân, những người có tài năng bẩm sinh đặc biệt).
Ngoài những chỉ tiêu được định lượng hóa kể trên về chất lượng lực
lượng lao động, người ta còn xem xét chỉ tiêu năng lực, phẩm chất, ý chí và
năng lực tinh thần người lao động. Chỉ tiêu này phản ánh mặt định tính và khó
định lượng như: truyền thống dân tộc về bảo vệ tố quốc, văn hóa văn minh
dân tộc, phong tục tập quán, lối sống, phong cách làm việc của người lao
động.
1.1.3. Việc làm - Thất nghiệp
1.1.3.1. Việc làm
“Việc làm là những công việc mà người lao động tiến hành nhằm có
được thu nhập bằng tiền hoặc bằng hiện vật” [Theo từ điển “Kinh tế khoa học
xã hội”]
Ở Việt Nam, thời bao cấp, coi việc làm là những công việc đòi hỏi một
chuyên môn nào đó tạo ra một thu nhập nhất định; người có việc làm hoặc
phải thuộc biên chế nhà nước, hoặc làm việc trong các hợp tác xã. Hiện nay,
quan niệm việc làm ở nước ta đã thay đổi. Điều 3 của Bộ luật Lao động đầu
tiên của nước Việt Nam năm 1994 được sử dụng trong các cuộc điều tra về:
“Thực trạng lao động – việc làm ở Việt Nam” đưa ra định nghĩa: “Mọi hoạt
động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa
nhận là việc làm” [51]
“Người có việc làm là người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm hoạt
động kinh tế, mà trong tuần trước điều tra: đang làm công việc để nhận tiền
lương, tiền công hoặc lợi nhuận bằng tiền hay hiện vật; đang làm công việc
không được hưởng tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận trong các công việc
sản xuất kinh doanh của hộ gia đình; đã có công việc trước đó, song trong
tuần lễ trước điều tra tạm thời không làm việc và sẽ tiếp tục làm việc ngay
sau thời gian tạm nghỉ việc”. [51] Căn cứ vào thời gian thực hiện công việc
và nhu cầu làm thêm, người có việc làm được chia ra: Người đủ việc làm và
người thiếu việc làm.
- Người đủ việc làm là người có số giờ làm việc trong tuần lễ tính
đến thời điểm điều tra lớn hơn hoặc bằng 40 giờ; Hoặc những người có số giờ
làm việc nhỏ hơn 40 giờ nhưng có nhu cầu làm thêm; Hoặc những người có
số giờ làm việc nhỏ hơn 40 nhưng bằng hoặc lớn hơn giờ qui định đối với
những người làm các công việc nặng nhọc, độc hại theo qui định hiện hành
của Nhà nước.
- Người thiếu việc làm là người trong tuần lễ tính đến thời điểm điều
tra có số giờ làm việc dưới 40, hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn giờ qui định
đối với những người làm các công việc nặng nhọc, độc hại theo qui định hiện
hành của Nhà nước, có nhu cầu làm thêm giờ và đã sẵn sàng làm việc nhưng
không có việc để làm (trừ những người có số giờ làm việc dưới 8 giờ, có nhu
cầu làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc làm). Theo
Quyết định số 188/1999/QĐ-TT ngày 17/9/1999 của Thủ tướng Chính phủ,
mức giờ chuẩn được qui định là 40 giờ/1 tuần làm việc.
1.1.3.2. Thất nghiệp
Theo quan niệm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “Thất nghiệp là
tình cảnh._. người lao động không có việc làm vì những lí do ngoài ý muốn của
họ”.
Ở nước ta, “người thất nghiệp là những người thuộc nhóm dân số hoạt
động kinh tế, trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu
làm việc”. [41] Giới hạn độ tuổi của người thất nghiệp qui định cả những
người trên độ tuổi lao động. Điều này phù hợp với thực tế Việt Nam, khi xã
hội còn một tỉ lệ nhất định người trên độ tuổi lao động làm việc trong nền
kinh tế quốc dân và đi liền với nó là tỉ lệ không nhỏ số người đó đang rơi vào
tình trạng không có việc làm nhưng đang có nhu cầu tìm việc làm.
Cách phân loại thất nghiệp chỉ là tương đối. Tùy theo mục đích nghiên
cứu, có nhiều dạng thất nghiệp khác nhau: Theo thời gian thất nghiệp (thất
nghiệp dài hạn và thất nghiệp ngắn hạn); Theo tình trạng sản xuất (thất
nghiệp theo chu kì, thất nghiệp cơ cấu, thất nghiệp thời vụ); Theo lí do thất
nghiệp (thất nghiệp do nghỉ việc – xảy ra khi người lao động tự ý xin thôi
việc, thất nghiệp do đuổi việc – xảy ra khi người lao động vi phạm hợp đồng
lao động, người chủ sử dụng lao động sa thải họ). [21]
1.1.4. Thị trường lao động
Thị trường lao động là một bộ phận của hệ thống thị trường, trong đó
diễn ra hành vi trao đổi giữa một bên là người lao động tự do và một bên là
người sử dụng lao động. Lao động được mua bán trên thị trường không phải
là lao động trừu tượng, mà cụ thể, thể hiện bằng việc làm được trả công, với
những tiêu chuẩn đánh giá: tính chất cá nhân hay tập thể của việc làm, tính kĩ
thuật, thành thạo, cơ động … của việc làm.
Thị trường lao động là nơi thể hiện việc làm được trả công qua các
quan hệ mua và bán giữa người cung ứng lao động và người sử dụng lao
động, nghĩa là các quan hệ cung và cầu lao động. [44] Chỉ những người lao
động đang làm thuê hoặc đang đi tìm việc làm thuê mới trực tiếp tham gia thị
trường lao động.
Cung lao động là khối lượng người lao động (số lượng, chất lượng)
tham gia vào thị trường lao động trong thời gian nhất định. Cầu lao động là
khả năng sử dụng lao động trên thị trường lao động. Nếu mức cầu có khả
năng thu hút tất cả những người có khả năng trong xã hội thì thị trường lao
động vận hành thắng lợi. Ngược lại điều đó, nạn thất nghiệp xảy ra làm tổn
hại cho lợi ích nền kinh tế và người lao động.
1.2. Một số chỉ tiêu phản ánh tình hình sử dụng lực lượng lao động
Để phản ánh tình hình sử dụng số lượng lực lượng lao động dựa vào
các chỉ tiêu:
Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động trong dân số là tỉ lệ phần trăm giữa
số người thuộc lực lượng lao động so với tổng số dân cùng thời kì. Công thức
tính:
S
T (%) =
D
Trong đó: T là tỉ lệ tham gia lực lượng lao động
S là số lượng lực lượng lao động
D là tổng số dân cùng kì
Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động theo ngành kinh tế là tỉ lệ phần
trăm số lượng lực lượng lao động ở một ngành kinh tế nào đó so với tổng số
lực lượng lao động cùng kì.
Sn
Tn (%) =
S
Trong đó: Tn là tỉ lệ tham gia lực lượng lao động trong ngành n
Sn là số lượng lực lượng lao động trong ngành n
S là tổng số lực lượng lao động
Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động theo thành phần kinh tế là tỉ lệ
phần trăm số lượng lực lượng lao động ở một thành phần kinh tế nào đó so
với tổng số lực lượng lao động cùng kì. Công thức tính:
St
Tt (%) =
S
Trong đó:
Tt là tỉ lệ tham gia lực lượng lao động trong thành phần kinh tế t
St là số lượng lực lượng lao động trong ngành t
S là tổng số lực lượng lao động
Tỉ lệ lực lượng lao động có việc làm là phần trăm của số lượng lực
lượng lao động có việc làm so với tổng số lực lượng lao động cùng kì. Công
thức tính:
Sc
Tc (%) =
S
Trong đó: Tc là tỉ lệ lực lượng lao động có việc làm
Sc là số lượng lực lượng lao động có việc làm
S là tổng số lực lượng lao động
Tỉ lệ lực lượng lao động thiếu việc làm là phần trăm của số lượng lực
lượng lao động thiếu việc làm so với tổng số lực lượng lao động cùng kì.
Công thức tính:
Stv
Ttv (%) =
S
Trong đó: Ttv là tỉ lệ lực lượng lao động thiếu việc làm
Stv là số lượng lực lượng lao động thiếu việc làm
S là tổng số lực lượng lao động
Tỉ lệ lực lượng lao động thất nghiệp là phần trăm của số lượng lực
lượng lao động thất nghiệp so với tổng số lực lượng lao động cùng kì. Công
thức tính:
Stn
Ttn (%) =
S
Trong đó: Ttn là tỉ lệ lực lượng lao động thất nghiệp
Stn là số lượng lực lượng lao động thất nghiệp
S là tổng số lực lượng lao động
1.3. Công nghiệp và các loại hình doanh nghiệp trong công nghiệp
1.3.1. Công nghiệp và sự phân chia công nghiệp
1.3.1.1. Định nghĩa công nghiệp
Công nghiệp là một tập hợp các hoạt động sản xuất với những đặc điểm
nhất định thông qua quá trình công nghệ để tạo ra sản phẩm. Hoạt động công
nghiệp bao gồm cả ba loại hình: công nghiệp khai thác tài nguyên, công
nghiệp chế biến và các dịch vụ sản xuất theo sau nó.
1.3.1.2. Phân loại công nghiệp
Có nhiều cách phân loại công nghiệp:
Dựa vào công dụng kinh tế của các sản phẩm, công nghiệp được
chia thành công nghiệp nặng (nhóm A) sản xuất các tư liệu sản xuất và công
nghiệp nhẹ (nhóm B) sản xuất các tư liệu tiêu dùng.
Dựa trên tính đồng nhất của công dụng sản phẩm sản xuất ra hay
căn cứ vào tính chất chung của nguyên liệu được sử dụng, hoặc dựa vào tính
chất giống nhau của các quá trình công nghệ, công nghiệp được chia ra các
ngành thấp hơn. Ở Việt Nam, theo Nghị định 117 của Chính phủ ngày
18/10/1982, công nghiệp được phân thành 19 ngành công nghiệp: công
nghiệp điện năng, công nghiệp luyện kim, công nghiệp sản xuất thiết bị máy
móc, công nghiệp hóa chất. . .
Dựa vào các tính chất của sự tác động vào đối tượng lao động, công
nghiệp phân chia thành ba nghành: khai thác mỏ; công nghiệp chế biến; sản
xuất và phân phối điện, khí đốt và nước. Theo cách này nước ta có 29 phân
ngành công nghiệp: khai thác than, dệt, luyện kim…
Ngoài ba cách phân loại trên: dựa vào trình độ trang thiết bị kĩ thuật
chia thành công nghiệp hiện đại, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp; dựa
vào quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất có công nghiệp quốc doanh, công
nghiệp ngoài quốc doanh, công tư hợp doanh, hợp tác xã, tư nhân…; dựa
theo cấp quản lí có công nghiệp Trung ương và công nghiệp địa phương;
dựa theo vốn đầu tư có công nghiệp vốn Nhà nước, công nghiệp vốn đầu tư
nước ngoài.
Trong thực tế ở nước ta sự phân chia các ngành công nghiệp không chỉ
theo một cách mà vận dụng tổng hợp các cách nói trên.
1.3.2. Các loại hình doanh nghiệp trong công nghiệp
Doanh nghiệp là danh từ chung nhất dùng để chỉ các hoạt hình tổ chức
kinh doanh tồn tại như một thực tế pháp luật. [25]
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hiện nay, nước
ta xuất hiện nhiều cơ sở hoạt động kinh doanh. Về góc độ pháp lí, chỉ những
cơ sở nào thỏa mãn những điều kiện nhất định, được công nhận tư cách chủ
thể trong quan hệ pháp luật mà ngành Luật Kinh tế điều chỉnh mới gọi là
doanh nghiệp.
Hầu hết các nước trên thế giới thống nhất có ba loại hình doanh nghiệp
cơ bản: doanh nghiệp cá nhân, doanh nghiệp hợp doanh và công ty. Ở Việt
Nam, sự phát triển của doanh nghiệp gắn liền với quan điểm sở hữu, đây là
quan điểm khác biệt rất cơ bản với các nước khác.
Các loại hình doanh nghiệp ở nước ta xuất hiện cùng với quá trình khai
thác thuộc địa của Pháp. Trước năm 1986, nước ta tồn tại hai loại hình doanh
nghiệp thuộc sở hữu quốc doanh và tập thể. Thực hiện chính sách đổi mới,
ngày 29/12/1987, Luật Đầu tư nước ngoài ban hành, cho phép hình thành và
phát triển doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 1990, Luật Doanh
nghiệp tư nhân và Luật Công ty được ban hành, qui định 3 loại hình doanh
nghiệp cho khu vực kinh tế tư nhân là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần và doanh nghiệp tư nhân. Ngày 12/6/1999, Quốc hội thông qua Luật
Doanh nghiệp (thay cho Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm
1990), mở rộng hơn loại hình doanh nghiệp, bao gồm: công ty hợp doanh,
công ty TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty
cổ phần. Ngày 20/4/1996, Luật Doanh nghiệp Nhà nước được thông qua, áp
dụng cho các doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu. Ngày 1/1/1997 Luật Hợp tác
xã thông qua, áp dụng cho các doanh nghiệp hợp tác xã.
Như vậy, dựa theo tiêu chí về sở hữu và điều chỉnh bởi quy định pháp
lí riêng, hiện nay nước ta có các loại hình doanh nghiệp sau:
Doanh nghiệp Nhà nước được điều chỉnh theo Luật Doanh
nghiệp Nhà nước.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được điều chỉnh theo
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Hợp tác xã được điều chỉnh theo Luật Hợp tác xã.
Doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty hợp doanh, công
ty cổ phần được điều chỉnh theo Luật Doanh nghiệp.
Đại hội Đảng IX đề cập đến kinh tế tư nhân, gồm hai thành phần kinh
tế là kinh tế cá thể, tiểu thủ và kinh tế tư bản tư nhân. Loại hình tổ chức kinh
doanh của kinh tế tư nhân rất đa dạng và phổ biến là: công ty tư nhân, công ty
TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp doanh và hộ kinh doanh cá thể. Hộ kinh
doanh cá thể là tiền đề, là bước tập dợt và tích lũy cho doanh nghiệp tư nhân.
1.4. Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế
Công nghiệp là ngành sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất rất
lớn cho xã hội, có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp
không những cung cấp hầu hết các tư liệu sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất,
kĩ thuật cho tất cả các ngành kinh tế mà còn tạo ra các sản phẩm tiêu dùng có
giá trị, góp phần phát triển nền kinh tế và nâng cao trình độ văn minh của toàn
xã hội.
Công nghiệp còn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành
kinh tế khác như nông nghiệp, giao thông vận tải, thương mại, dịch vụ và
củng cố an ninh quốc phòng. Không một ngành kinh tế nào lại không sử dụng
các sản phẩm của công nghiệp.
Công nghiệp tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên
thiên nhiên ở các vùng khác nhau, làm thay đổi sự phân công lao động và
giảm mức độ chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng lãnh thổ.
Công nghiệp ngày càng sản xuất ra nhiều sản phẩm mới mà không
ngành sản xuất vật chất nào sánh được với nó vì thế tạo khả năng mở rộng sản
xuất, mở rộng thị trường lao động, tạo ra nhiều việc làm mới và tăng thu
nhập.
Ngày nay, một nước muốn có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và đảm
bảo sự phát triển ổn định về kinh tế - xã hội, cần thiết phải có một hệ thống
các ngành công nghiệp hiện đại và đa dạng, trong đó các ngành công nghiệp
mũi nhọn phải được đầu tư đúng mức. Quá trình một xã hội chuyển dịch từ
một nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở nông nghiệp sang một nền kinh tế về
cơ bản dựa vào sản xuất công nghiệp được gọi là quá trình công nghiệp hoá.
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến lực lượng lao động và sử dụng lực
lượng lao động
1.5.1. Vị trí địa lí của lãnh thổ
Các nhân tố tự nhiên ảnh hưởng một cách gián tiếp đến lực lượng lao
động và sử dụng lực lượng lao động trong công nghiệp của mỗi vùng, mỗi
quốc gia.
Vị trí địa lí chi phối các điều kiện tự nhiên của lãnh thổ, ảnh hưởng tới
các hình thức cư trú và sản xuất của con người. Sự ảnh hưởng đó thể hiện qua
các yếu tố như địa hình, khí hậu, đất đai, nguồn nước, sinh vật, khoáng sản…
Vị trí địa lí còn có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã
hội, có ảnh hưởng lớn tới lực lượng lao động và sử dụng lực lượng lao động
trong công nghiệp. Vì lợi thế về vị trí địa lí kinh tế sẽ thu hút lượng lớn lao
động từ nơi khác đến.
Ví dụ: Một vùng có vị trí thuận lợi, nằm trong khu vực phát triển kinh
tế năng động của cả nước, có nhiều khu công nghiệp, xí nghiệp công nghiệp,
vùng đó sẽ thu hút lao động đặc biệt là lao động trong công nghiệp từ các
vùng khác đến để làm việc trong các công ty, nhà máy nơi đây.
1.5.2. Các nhân tố tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
1.5.2.1. Địa hình ảnh hưởng đến việc cư trú, đi lại của con
người, chi phối phương thức canh tác cũng như năng suất của đất đai. Dân cư
và lao động thường tập trung đông ở những vùng địa hình phẳng như các
đồng bằng, bồn địa và thung lũng miền núi để thuận tiện cho sản xuất và sinh
hoạt. Càng lên cao dân cư càng thưa thớt.
Vùng địa hình cao thường là nơi khai thác kinh tế, liên quan đến sự di
cư của lao động nam nhiều hơn lao động nữ, trong cơ cấu lao động theo giới
thường thì nam nhiều hơn nữ.
1.5.2.2. Thuỷ văn và nguồn nước chi phối mọi hoạt động sản
xuất, nhất là nông - lâm - ngư nghiệp, ảnh hưởng tới sinh hoạt của dân cư và
lực lượng lao động. Vùng nhiệt đới ánh sáng nhiều, nhiệt độ cao, cây trồng
vật nuôi sinh trưởng nhanh, năng suất cao, nuôi sống nhiều người nên đây
cũng là nơi tập trung đông dân cư và lực lượng lao động. Về mặt sinh học,
con người vùng nhiệt đới có khả năng sinh đẻ lớn hơn vùng ôn đới và hàn đới
nên mức sinh ở các nước nhiệt đới cũng thường cao hơn, nhất là những nước
nghèo, lạc hậu, làm cho mức gia tăng về dân số và lao động lớn.
Diễn biến mùa khí hậu góp phần hình thành tập quán canh tác, sinh
hoạt và kinh nghiệm sản xuất của người lao động ở từng địa phương. Khí hậu
mùa đông ở miền Bắc nước ta với sự xen kẽ các đợt gió mùa Đông Bắc làm
thời tiết luôn luôn thay đổi, chi phối lịch thời vụ gieo trồng. Rét đậm kéo dài
làm ảnh hưởng tới sức khoẻ của con người, ảnh hưởng tới sự sinh trưởng của
cây trồng, vật nuôi.
1.5.2.3. Thủy văn: Nguồn nước cần thiết cho sự sống của mọi
sinh vật, cần thiết cho hoạt động của nông nghiệp. Sự phân bố lực lượng lao
động chịu ảnh hưởng gián tiếp của nguồn nước. Vùng khô hạn không đủ nước
cho cây trồng vật nuôi phát triển thì dân cư – lực lượng lao động cũng thưa
thớt. Trái lại nơi có nguồn nước phong phú thuận lợi cho các hoạt động sản
xuất, dân cư – lực lượng lao động tập trung đông đúc. Bất kỳ ngành công
nghiệp nào cũng cần có nước. Bởi vậy, các nhà máy công nghiệp thường
được phân bố trên những sông lớn và lao động công nghiệp cũng được phân
bố theo đó.
1.5.2.4. Thổ nhưỡng: Mọi hoạt động kinh tế - xã hội cần có đất
đai. Đất đai là yếu tố sản xuất quan trọng của nông nghiệp. Sự tập trung dân
cư và lao động đông đúc trước tiên là những vùng đất đai màu mỡ, thuận lợi
cho canh tác cây lương thực, thực phẩm. Sự chuyển dịch dân cư - lao động
sang các lĩnh vực phi nông nghiệp đều phải dựa vào nguồn cung cấp lương
thực, thực phẩm từ những vùng sản xuất trọng điểm - nơi có đất đai thích hợp
với cây lương thực, thực phẩm. Mọi sản xuất công nghiệp, dịch vụ đều cần có
đất đai. Do diện tích đất đai có hạn, người ta phải nâng cao hiệu quả sử dụng
đất bằng cách đầu tư thêm lao động, vốn, kỹ thuật trên một đơn vị diện tích để
tăng sản phẩm.
1.5.2.5. Tài nguyên khoáng sản: là nguyên liệu của công
nghiệp, là "bánh mỳ" cho sự phát triển các ngành công nghiệp. Sự phân bố
khoáng sản ảnh hưởng đến sự phân bố công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp
khai thác) và lực lượng lao động công nghiệp. Công nghiệp khai khoáng đòi
hỏi sức khoẻ tốt và ở mức độ nhất định cần tới trình độ văn hoá, chuyên môn
kỹ thuật nên vùng công nghiệp khai khoáng thường có cơ cấu lao động nam
nhiều hơn nữ và tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật cao.Ví dụ: vùng khai
thác dầu khí ở BR-VT, than đá ở Quảng ninh.
1.5.2.6. Sinh vật: là nhân tố quan trọng tạo nên sự cân bằng
sinh thái. Rừng có vai trò điều hoà khí hậu, duy trì mực nước ngầm, hạn chế
lũ lụt, giảm bớt hạn hán, làm trong sạch môi trường sống.
Hiện tượng thiên tai, lũ lụt những năm gần đây ở miền Trung và đồng
bằng sông Cửu Long, sự thất thường về chế độ nước ở hệ thống sông Hồng và
sông Thái Bình thể hiện ngày càng khắc nghiệt... là hậu quả của sự tàn phá
rừng đầu nguồn, của tập quán du canh du cư ở đồng bào dân tộc thiểu số, của
sự khai hoang bừa bãi không khoa học. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới
cuộc sống và các hoạt động sản xuất. Nhiều nơi do rừng bị tàn phá, đất đai bị
xói mòn, con người đã phải di cư đi tìm đất mới để canh tác.
Sự phát triển công nghiệp, đô thị và các phương tiện giao thông làm
cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Cây xanh trở thành vật “cứu cánh”
cho con người, giảm bớt sự ô nhiễm. Sự săn bắt triệt để các sinh vật tự nhiên
trên đồng ruộng làm cho cân bằng sinh thái bị phá vỡ, sâu bệnh phát triển phá
hoại cây trồng vật nuôi. Rừng và các sinh vật tự nhiên thực sự là bộ máy vĩ
đại điều hoà thiên nhiên. Cần phải duy trì các sinh vật tự nhiên, bảo vệ rừng
đầu nguồn để giữ cân bằng sinh thái.
1.5.3. Các nhân tố kinh tế - xã hội
1.5.3.1. Lịch sử khai thác lãnh thổ
Những vùng có lịch sử khai thác lâu đời thường là nơi tập trung đông
dân cư và lao động. Đó là những vùng được thiên nhiên ưu đãi: đất đai phì
nhiêu, giàu tài nguyên hay thuận lợi giao thông, có cở sở hạ tầng phát triển,
đội ngũ lao động có trình độ chiếm tỉ lệ cao. Ở những vùng này công nghiệp
cũng được chú trọng phát triển vì thế lao động trong công nghiệp chiếm tỉ lệ
cao hơn so với các vùng khác.
1.5.3.2. Dân số và lực lượng lao động
Sự gia tăng dân số quyết định mức độ gia tăng lực lượng lao động.
Thông thường, gia tăng dân số tự nhiên cao thì mức gia tăng lực lượng lao
động cũng cao và ngược lại. Gia tăng dân số cơ học cao dẫn đến tình trạng
tăng, giảm quy mô lực lượng lao động một cách đột biến tại nơi nhập cư và
xuất cư, gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nơi có tỉ lệ
nhập cư quá cao sẽ thiếu việc làm - thừa lao động, nơi có tỉ lệ xuất cư quá lớn
sẽ thiếu lao động.
Cơ cấu dân số có ảnh hưởng đến cơ cấu lực lượng lao động. Cơ cấu
dân số trẻ: Dân số dưới độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao đã dẫn đến việc chi
phí cho tiêu dùng, cho các dịch vụ giáo dục, y tế cao; khả năng đầu tư cho đào
tạo và đào tạo lại lao động, cho chuyển giao công nghệ, cho phát triển sản
xuất thấp. Cơ cấu dân số già: Có ảnh hưởng nhất định đến cơ cấu lực lượng
lao động. Nếu tỷ lệ người già quá đông thì dân số tham gia vào lực lượng lao
động thấp, một bộ phận lớn dân số không hoạt động kinh tế sẽ tăng thêm gánh
nặng cho lực lượng lao động. Một bộ phận lớn lao động sẽ phải tham gia vào
khu vực dịch vụ an sinh xã hội cho người cao tuổi, không thể đóng góp vào
mức tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu dân số hợp lý: Nếu cơ cấu dân số phù hợp
với sự phát triển kinh tế xã hội, thì đầu tư cho phát triển nguồn lao động
tương lai và hiện tại thuận lợi hơn. Cơ cấu của lực lượng lao động có những
đặc trưng: tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật cao chiếm phần lớn, tỷ lệ
lao động có việc làm cao, thất nghiệp thấp. Do cơ cấu dân số hợp lý với việc
phát triển kinh tế xã hội như vậy cho nên có điều kiện để đầu tư cho phát triển
khoa học và công nghệ, cho đào tạo và đào tạo lại lao động, tạo điều kiện cho
công nghiệp, dịch vụ phát triển, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ. Điều đó
dẫn tới khu vực nông nghiệp cần ít lao động và lao động tập trung chủ yếu
trong khu vực kinh tế công nghiệp và dịch vụ. Vì vậy, tỷ trọng lao động trong
khu vực kinh tế nông nghiệp sẽ thấp.
Phân bố dân cư và phân bố lực lượng lao động: Nếu phân bố dân cư
bất hợp lý với điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội thì sức ép lao động, việc làm
cao. Lao động không gắn với phân bố tài nguyên, với đối tượng lao động, với
cơ sở vật chất kỹ thuật khiến cho vấn đề tạo việc làm trở nên khó khăn, dẫn
tới mức sống thấp, cuộc sống nghèo đói. Đó là nguyên nhân làm cho mức
sinh cao, mức di dân cao và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc phân bố lực
lượng lao động. Nếu phân bố dân cư hợp lý thì sẽ phát huy được các yếu tố
tích cực của sản xuất và phát triển như tài nguyên, con người, vốn... Cơ hội
kiếm việc làm nhiều, thu nhập cao. Có điều kiện đầu tư phát triển sản xuất,
phát triển nguồn nhân lực.
Chất lượng dân số với chất lượng lực lượng lao động: Chất lượng dân
số là nói về chất lượng của toàn bộ dân số, từ những người dưới độ tuổi lao
động, những người trong độ tuổi lao động đến những người trên độ tuổi lao
động. Chất lượng của dân số dưới độ tuổi lao động sẽ có ảnh hưởng nhất định
đến chất lượng lực lượng lao động trong tương lai vì sau 10 - 15 năm nữa, họ
sẽ vào tuổi lao động. Chất lượng của những dân số trong độ tuổi lao động là
chất lượng của lực lượng lao động hiện tại. Nếu chất lượng của lực lượng lao
động cao thì tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư, chăm sóc nhóm dân số dưới
độ tuổi lao động. Trình độ học vấn của trẻ em là sự thể hiện chất lượng lực
lượng lao động trong tương lai và chịu ảnh hưởng rất lớn bởi trình độ học
vấn của bố mẹ.
1.5.3.3. Cơ cấu kinh tế quyết định cơ cấu lực lượng lao động
theo ngành, theo thành phần kinh tế và sự phân công lao động theo lãnh thổ.
Cơ cấu ngành kinh tế chi phối cơ cấu lực lượng lao động theo ngành.
Một nền kinh tế nông nghiệp, lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông - lâm -
ngư nghiệp, năng suất lao động thấp. Nền kinh tế công nghiệp phát triển, lao
động chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, người lao động có tính
năng động cao, có kỷ luật và tác phong lao động công nghiệp, năng suất lao
động cũng cao hơn.
Cơ cấu thành phần kinh tế đơn điệu làm cho người lao động bị gò bó
không phát huy hết khả năng của mình. Thành phần kinh tế đa dạng mở
đường cho người lao động tự chủ, phát huy hết khả năng về vốn, sức khoẻ,
thời gian và trình độ của mình để mở mang sản xuất tạo việc làm, tăng thu
nhập cho bản thân gia đình và xã hội.
Cơ cấu lãnh thổ ảnh hưởng đến sự phân bố lực lượng lao động theo
lãnh thổ và đặc trưng cơ cấu nghề nghiệp ở từng địa phương. Sự chuyên môn
hoá của các vùng kinh tế tạo nên sự chuyên môn hoá lao động của vùng.
Đồng thời, sự phát triển tổng hợp vùng sẽ tận dụng tiềm năng lao động trong
vùng để phát triển kinh tế - xã hội và tăng lực lượng lao động dịch vụ, tạo
những mối liên hệ hữu cơ trong và ngoài vùng, ổn định và phát triển vùng
kinh tế. Cơ cấu lãnh thổ nền kinh tế - xã hội càng phát triển, càng tạo điều
kiện sử dụng hợp lý lực lượng lao động, tạo nên sức mạnh của nền kinh tế.
Nước ta đang có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đa ngành, đa thành
phần. Cùng với sự chuyển dịch đó là sự chuyển dịch tỷ trọng lao động giữa
các ngành, các thành phần kinh tế và các khu vực kinh tế. Tỷ trọng lao động
quốc doanh giảm, lao động ngoài quốc doanh tăng. Sự phát triển các vùng
chuyên canh cây công nghiệp, các khu công nghiệp tập trung đang tạo điều
kiện cho sự phân bố lại lao động theo lãnh thổ.
1.5.3.4. Nhu cầu của thị trường là một trong những nhân tố
quan trọng ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu ngành công nghiệp, từ đó ảnh
hưởng đến quy mô cơ cấu sử dụng lực lượng lao động trong công nghiệp.
Công nghiệp có thị trường tiêu thụ rộng lớn bởi vì công nghiệp vừa cung cấp
trang thiết bị cho các ngành sản xuất vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mọi tầng
lớp nhân dân. Vì thế công nghiệp có điều kiện phát triển thu hút ngày càng
nhiều lực lượng lao động.
1.5.3.5. Chính sách sử dụng lao động và phát triển nguồn nhân
lực: chúng ta biết rằng, trong mọi thời đại, giáo dục đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia.
Thực tế đã chứng minh: giáo dục đào tạo là nền tảng, cơ sở trong cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ nhất ở Anh; là nguồn gốc sự thành công trong
công cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai ở Mỹ; là gốc rễ ưu thế về kĩ
nghệ trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba ở Nhật. Vì vậy, rất nhiều
quốc gia đưa ra “phát triển khả năng con người” và “chiến lược phát triển
con người”… như Nhật Bản, Thụy Điển, các nước Đông Âu, Trung Quốc…
Những năm gần đây, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách nhằm
phát triển công nghiệp, huy động vốn trong nước, chính sách mở cửa cũng
như Luật Đầu Tư ra đời và liên tục được hoàn thiện đang phát huy tác dụng,
đặc biệt là trong công nghiệp. Vì thế đòi hỏi lao động ngày càng nhiều và có
trình độ kĩ thuật ngày càng cao.
Nước ta cũng đã chú ý hơn đến công tác giáo dục - đào tạo nhằm nâng
cao chất lượng nói chung, lao động công nghiệp nói riêng trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao khả năng sử dụng máy móc
trang thiết bị hiện đại, để có thể hòa nhịp với xu hướng phát triển của thế giới.
Trên đây là một số những khái niệm chỉ tiêu cơ bản liên quan đến lực
lượng lao động và tình hình sử dụng lực lượng lao động nói chung. Luận văn
sử dụng những khái niệm, những chỉ tiêu trên làm cơ sở lí luận trong quá trình
nghiên cứu và sử dụng lực lượng lao động trong ngành công nghiệp ở tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu.
1.6. Một vài nét về lực lượng lao động và sử dụng lực lượng lao động
ở một số nước Châu Á và Việt Nam
1.6.1. Ở một số nước Châu Á
Phần lớn các nước Châu Á đều có quy mô dân số đông, tỷ lệ dân số ở
độ tuổi lao động cao, khả năng cung ứng lao động lớn, trong khi khả năng tạo
việc làm hạn chế, nhu cầu về lao động thấp do nền kinh tế dựa chủ yếu vào
nông nghiệp... Việc giải quyết vấn đề lao động – việc làm thực chất là giải
quyết giữa khả năng cung ứng lao động của dân số và nhu cầu về lao động
của phát triển kinh tế - xã hội.
1.6.1.1. Đài Loan:
Đài Loan là vùng lãnh thổ “đất chật người đông”, diện tích bằng 1/10
diện tích Việt Nam (32,6 ngàn km2), dân số khoảng 1/3 dân số Việt Nam. Tài
nguyên ít, đất đai chủ yếu là diện tích đồi núi (65% diện tích), đất canh tác chỉ
có 25%.
Ngay từ những năm 1950, Đài Loan coi phát triển nông nghiệp là cơ sở
và điều kiện để phát triển công nghiệp. Đài Loan đã khởi đầu quá trình công
nghiệp hóa ở nông thôn. Trong giai đoạn 1950 – 1969, Đài Loan đã đưa cơ
giới hóa vào nông nghiệp, thâm canh hóa, hiện đại hóa nông nghiệp để đưa
năng suất, sản lượng lương thực lên cao. Do đó, đã đảm bảo được nhu cầu về
đời sống của nhân dân, ổn định vật giá, giảm bớt nhập khẩu nông sản, chuyển
sản xuất nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá và xuất khẩu nông sản chế biến.
Để tạo điều kiện cho nông dân có thêm nghề phụ, tăng thu nhập, thu
hút nông dân làm việc tại địa phương, không di dân ra đô thị kiếm việc làm,
Đài Loan đã đưa tiểu thủ công nghiệp vào nông thôn, thành lập các doanh
nghiệp vừa và nhỏ để phát triển sản xuất. Công nghiệp nông thôn thực tế đã
dựa vào nguồn cung cấp lao động địa phương, tận dụng được lực lượng lao
động nông thôn tương đối trẻ và có trình độ văn hoá tốt. Quy mô một đơn vị
sản xuất không nhiều hơn 50 công nhân nhưng có nhiều ưu điểm về tổ chức
kỹ thuật và tiếp thị.
Như vậy, Đài Loan đã giải quyết tốt được việc làm, thu hút lao động
ngay tại vùng nông thôn, tăng thu nhập cho người lao động, giảm di dân lao
động từ nông thôn ra thành thị.
1.6.1.2. Hàn Quốc
Trước những năm 1960, Hàn Quốc mới chỉ coi trọng phát triển công
nghiệp ở các đô thị, còn công nghiệp nông thôn không được chú ý. Do đó đã
xuất hiện dòng chuyển cư từ nông thôn ra thành phố kiếm việc làm, gây sự
đông đúc quá tải cho các thành phố.
Để điều chỉnh những tồn tại do sự tập trung khu công nghiệp đô thị,
Chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng nhiều mô hình công nghiệp khác nhau như
khu công nghiệp quốc gia, khu công nghiệp địa phương trên cơ sở Luật phát
triển công nghiệp địa phương năm 1969.
Để phát triển nông thôn, tăng thu nhập ngoài nông nghiệp, chính phủ đã
ban hành nhiều chính sách khuyến khích xây dựng, phát triển công nghiệp
nông thôn. Nhà nước đã đầu tư 3.996 triệu USD cho việc phát triển nông
nghiệp thời kỳ 1970 - 1984 thông qua việc trợ cấp rộng rãi và cho vay vốn để
xây dựng được 147 khu công nghiệp nông thôn và tạo việc làm cho 1/3 hộ
nhân nông dân làm nông nghiệp, thu nhập của các hộ gia đình đã tăng 55%.
Lao động ở các khu công nghiệp nông thôn vẫn có thể tham gia các hoạt động
sản xuất nông nghiệp trong những ngày nghỉ và những lúc mùa vụ, cho nên
việc thu hút lao động vào các khu công nghiệp nông thôn không ảnh hưởng
tới kinh tế nông nghiệp.
Như vậy, với việc phát triển các khu công nghiệp đô thị, hình thành và
đẩy mạnh công nghiệp nông thôn, Hàn Quốc đã giải quyết tốt nhu cầu việc
làm, thu hút lao động tại các vùng nông thôn, hạn chế di dân, tăng thu nhập
cho người lao động
1.6.1.3. Trung Quốc
Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới, trên 1,27 tỷ người, trong
đó gần 80% sống ở khu vực nông thôn. Bình quân diện tích đất canh tác đầu
người là 0,17 ha.
Để thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển với tốc độ nhanh nhằm sử
dụng tốt nhất lao động nông thôn, ngay từ năm 1983 Nhà nước đã thực hiện
kế hoạch đưa khoa học và công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp, huy động
vốn và tiềm năng khoa học kỹ thuật, xây dựng các dự án phát triển công nghệ
mới phù hợp với kinh tế nông thôn, sao cho đầu tư ít, quay vòng vốn nhanh,
sớm đem lại hiệu quả kinh tế. Thực hiện kế hoạch này, Trung Quốc đã tạo ra
"đốm lửa công nghệ" nhằm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy việc
phát triển các xí nghiệp “Hương Chấn” và thúc đẩy sản xuất hàng hoá ở nông
thôn - xí nghiệp “Hương Chấn” có ưu thế là sử dụng ít vốn, kỹ thuật đơn giản,
mức lương tuy không cao nhưng có khả năng thu hút nhiều lao động. Ngoài
việc thu hút được hàng trăm triệu lao động dư thừa ở nông thôn, xí nghiệp
“Hương Chấn” đã góp phần tích lũy vốn đầu tư từ nông thôn và nông dân cho
hiện đại hoá nông nghiệp. Có thể khẳng định, xí nghiệp “Hương Chấn” là
hình thức chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và
dịch vụ, góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá nông thôn và nền kinh tế ở nông
thôn Trung Quốc. Từ đó, thu nhập của nông dân và dân cư tăng lên, đời sống
được cải thiện, khoảng cách giữa nông thôn và đô thị được cải thiện.
1.6.2. Ở Việt Nam
Cũng như hầu hết đã có nước đang phát triển khác, Việt Nam có dân số
đông (khoảng 79 triệu/2007), có lực lượng lao động dồi dào (khoảng 43 triệu
năm 2007), đây là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Tuy nhiên, trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay, nguồn
lao động dồi dào về số lượng nhưng hạn chế về chất lượng tạo nên mâu thuẫn
lớn giữa cung và cầu lao động. Mâu thuẫn này có ảnh hưởng lớn đến hiệu qu._. thực hiện
chương trình việc làm, chăm lo đời sống người lao động
Cơ chế quản lý lao động là toàn bộ các biện pháp tổ chức, chính sách,
các hình thức, phương pháp tác động, điều chỉnh các quá trình hình thành,
phân bố, sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm theo hướng tạo cho
cung và cầu lao động ngày càng phù hợp. Trước đây với cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, lực lượng lao động được kế hoạch hoá và giải quyết việc
làm thông qua việc giao chỉ tiêu trực tiếp cho các ngành, các địa phương, các
cơ sở sản xuất. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, cách làm mang tính hình
thức trên đã thay đổi. Người lao động phát huy tính tự giác, tích cực, sáng tạo
của người lao động cũng như người sử dụng lao động. Từ chỗ tuyển dụng lao
động làm việc lâu dài, vào “biên chế” sang chế độ “hợp đồng lao động” vớt
những kỳ hạn khác nhau: theo mùa vụ, theo việc dưới một năm, 2 - 3 năm...
Nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của tỉnh về vấn đề sử dụng lực lượng
lao động công nghiệp. Tỉnh đưa ra 4 giải pháp cơ bản để giải quyết việc làm
cho lao động nói chung, trong đó có lực lượng lao động ngành công nghiệp.
Một là, tạo việc làm thông qua việc thực hiện chương trình việc làm của quốc
gia. Hai là, tạo việc làm thông qua quy hoạch tổng thể của tỉnh đến năm 2020.
Ba là, tạo việc làm thông qua các công trình trọng điểm trên địa bàn. Bốn là,
tạo việc làm thông qua việc xuất khẩu lao động ra nước ngoài.
3.3.2.4. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
quốc tế.
Việc nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm có ý nghĩa quyết
định với việc duy trì và phát triển việc làm, mà suy cho cùng chỉ thực hiện
được bằng việc thường xuyên ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ. Muốn vậy, cần làm cho công tác nghiên cứu khoa học - công nghệ gắn
liền thực tế sản xuất và phải thu hút đông đảo người lao động tham gia.
3.3.2.5. Thực hiện chính sách dân số, phát triển giáo dục và
đào tạo nghề cho người lao động.
Thực tế lịch sử cho thấy không có quốc gia nào đã thực hiện công
nghiệp hóa thành công trong 100 năm qua mà tốc độ tăng dân số lại vượt quá
1,1%. Lý do là mỗi phần trăm tăng dân số sẽ làm khấu trừ đi vài ba phần trăm
tăng trưởng kinh tế và gay gắt thêm cho vấn đề tạo việc làm. Do vậy cần thực
hiện hoạch hoá gia đình, hạ thấp tốc độ phát triển dân số.
Đầu tư cho giáo dục và đào tạo lao động nói chung và lực lượng lao
động công nghiệp nói riêng là tạo điều kiện cho người lao động có khả năng
tìm được việc làm thích hợp, có thu nhập cao, nâng cao được chất lượng cuộc
sống.
Khuyến khích dạy nghề và hướng nghiệp. Đa dạng hoá hình thức và
phương pháp đào tạo lao động kỹ thuật và công nhân lành nghề. Bên cạnh hệ
đào tạo do Nhà nước quản lý, tiến hành đào tạo tại chỗ, vừa học vừa làm với
hai cực: Một mặt, tập trung đào tạo công nhân kỹ thuật “đỉnh cao” để xuất ra
những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã mới, cạnh tranh được thị trường
trong và ngoài nước; Mặt khác, đào tạo theo yêu cầu của sản phẩm, theo
nguyện vọng học nghề để tìm kiếm việc làm của người lao động.
Đào tạo các chủ doanh nghiệp trong đó có cả cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, các hộ gia đình. Hoàn thiện cơ cấu lực lượng lao động, đảm bảo tốc
độ tăng trưởng lao động kỹ thuật, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo.
3.3.2.6. Hình thành và phát triển thị trường lao động
Quá trình sử dụng lực lượng lao động cũng là quá trình tạo ra sự phù
hợp giữa cung và cầu lao động. Những năm qua, việc giải quyết lao động và
việc làm trong công nghiệp chủ yếu tập trung vào doanh nghiệp Nhà nước,
thông qua các phương pháp hành chính, các chương trình quốc gia về việc
làm. Mặc dù có kết quả nhất định, nhưng vấn đề giải quyết lao động và việc
làm vẫn rất khó khăn, tỉ lệ thiếu việc làm vẫn cao, công nghiệp chưa thực sự
tạo thêm nhiều việc làm mới. Một trong những nguyên nhân là do chưa chú
trọng nhiều đến phát triển thị trường lao động, phát triển các yếu tố của thị
trường lao động.
3.4. Các giải pháp
3.4.1. Các giải pháp tác động trực tiếp đến chất lượng và số lượng
lao động
3.4.1.1. Tiếp tục kế hoạch hóa dân số tiến tới ổn định dân số và
lao động
Những năm qua, Bà Rịa - Vũng Tàu đã làm khá tốt công tác dân số kế
hoạch hóa gia đình, tỉ suất sinh giảm mạnh từ 18,86% năm 2000 xuống
16,06% năm 2007. Tuy nhiên do hệ quả của dân số tăng nhanh vào những
năm 1980, 1990 nên hàng năm số người bước vào tuổi lao động khá cao, gây
nên sức ép lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Hơn nữa, giai đoạn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay đòi hỏi đổi mới công nghệ. Công nghệ mới
trong phát triển kinh tế xã hội sẽ không tạo được nhiều việc làm. Vì vậy cần
phải ổn định số lượng lao động trong tương lai gần bằng biện pháp tiếp tục hạ
tỉ suất sinh tới mức cân bằng số người vào tuổi lao động và số người hết tuổi
lao động hàng năm.
Các biện pháp chủ yếu là:
- Triển khai đồng bộ chương trình giáo dục dân số và sức khỏe sinh
sản.
- Tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong nhân dân ý thức kế hoạch hóa
gia đình, hạn chế triệt để số người sinh con thứ ba trở lên. Tăng cường giáo
dục dân số ở mọi lứa tuổi, mọi đối tượng.
- Đẩy mạnh hoạt động của đội ngũ tuyên truyền, cộng tác viên dân số,
cung cấp kịp thời các phương tiện tránh thai hữu hiệu.
- Phát triển câu lạc bộ gia đình trẻ ở thành thị và nông thôn, hướng
mạnh vào nông thôn. Tuyên truyền phổ biến các thành tựu khoa học kỹ thuật
mới trong lĩnh vực sinh sản, sinh con theo ý muốn.
3.4.1.2. Phát triển giáo dục và đào tạo nghề
Đây là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng lao động. Lực lượng
lao động công nghiệp của Bà Rịa - Vũng Tàu cao hơn mức trung bình của cả
nước nhưng với trình độ hiện tại tỉnh không thể đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là sử dụng những công nghệ mới. Sự phát triển
kinh tế xã hội trong những năm tới đòi hỏi phải nhanh chóng nâng cao trình
độ người lao động bằng các biện pháp cụ thể như:
- Nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, bổ túc văn hóa gần với
thực tiễn kinh tế xã hội đất nước và địa phương. Giáo dục của Bà Rịa - Vũng
Tàu khá phát triển song những kiến thức thực tiễn chưa được quan tâm đúng
mức. Vì vậy, việc gắn liền với thực tiễn, tăng cường hướng nghiệp dạy nghề
trong trường phổ thông, nâng cao chất lượng toàn diện các môn học sẽ góp
phần tích cực về hình thành kỹ năng lao động phù hợp với thực tiễn.
- Đầu tư thích đáng cho đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn kỹ
thuật của người lao động. Cần kiện toàn nâng cao trình độ của đội ngũ giáo
viên dạy nghề, tiếp thu những công nghệ mới hiện đại để giảng dạy, đào tạo
đội ngũ lao động đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội trong hiện tại và tương
lai. Các trường cao đẳng, trung cấp và dạy nghề ở Bà Rịa - Vũng Tàu có cơ sở
vật chất kỹ thuật rất yếu và lạc hậu. Đi đôi với việc nâng cao trình độ giáo
viên là việc trang bị những thiết bị hiện đại của các trường dạy nghề. Chuyển
mục tiêu đào tạo từ chỗ dạy nghề thường có sang dạy nghề xã hội cần. Tập
trung nâng cao chất lượng đào tạo nghề kỹ thuật công nghiệp, xây dựng, cơ
khí, điện, công nghệ tin học ,… để cung cấp lao động kỹ thuật cho các địa
phương trong tỉnh và các khu công nghiệp.
Với lực lượng lao động công nghiệp đông đảo mà trình độ chuyên môn
kỹ thuật thấp gây cản trở sự hợp tác lao động trong các khu công nghiệp và
với đối tác nước ngoài. Việc điều chỉnh để giảm bớt sức ép lên ngành công
nghiệp trong tỉnh hết sức khó khăn. Song song với các giải pháp về ổn định
dân số và lao động, cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo: tại trường, tại cơ sở
sản xuất. Có thể mở rộng hợp đồng liên kết với các thành phố, tỉnh khác trong
cả nước để đào tạo đúng nghề, đúng địa chỉ.
Mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo lao động chuyên môn
kỹ thuật là yêu cầu cấp bách của nền kinh tế nói chung và hoạt động công
nghiệp nói riêng.
3.4.1.3. Tăng cường mạng lưới y tế và vệ sinh môi trường, đảm
bảo nâng cao thể lực dân cư và lao động
Cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ y tế ở Bà Rịa - Vũng Tàu khá
vững chắc. Hầu hết các trạm y tế xã có bác sĩ điều trị, các xóm đều có cán bộ
y tế xóm. Nhưng thu nhập còn thấp, chưa có điều kiện trang bị nhiều phương
tiện hiện đại cho các bệnh viện, chưa có chế độ ưu đãi đối với cán bộ y tế.
Mặt khác, điều kiện vệ sinh tại tỉnh đã xuất hiện các yếu tố bất lợi cho sức
khỏe con người ô nhiễm môi trường nước, không khí, biển, … do hoạt động
công nghiệp gây ra bởi vẫn còn sử dụng quy trình công nghệ thấp, không qua
xử lý hay xử lý không triệt để trước khi thải ra môi trường. Điều đó đã gây tác
hại trực tiếp đến sức khỏe người lao động. Cần tiếp tục làm tốt công tác y tế,
vệ sinh môi trường cụ thể là:
- Củng cố mạng lưới bệnh viện, trạm y tế, nâng cao chất lượng khám
chữa bệnh cho người lao động.
- Đẩy mạnh việc chăm sóc sức khỏe ban đầu, vận động người lao
động sử dụng các loại vắc xin phòng bệnh.
- Quan tâm hơn nữa đến công nhân, yêu cầu các chủ sử dụng lao động
mua bảo hiểm cho 100% lao động.
- Làm tốt công tác vệ sinh môi trường, vệ sinh ăn uống, tuyên truyền
phổ biến việc sử dụng các phương tiện bảo hộ lao động, bảo vệ sức khỏe cho
người lao động.
- Nghiên cứu mở rộng ứng dụng công nghệ xử lý chất thải ở tất cả các
nhà máy, xí nghiệp, cơ sở công nghiệp.
3.4.1.4. Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân
là biện pháp tăng chất lượng lao động.
3.4.2. Các giải pháp phát triển kinh tế tăng khả năng sử dụng lao
động.
3.4.2.1. Củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng, tạo mọi điều kiện
thu hút vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển sản xuất trong
tỉnh.
Huy động mọi nguồn vốn đầu tư phát triển tập trung, xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật như cảng biển, đường bộ, đường sắt, cấp điện,
khí đốt, cấp và thoát nước theo hướng hiện đại. Hoàn thiện hạ tầng đô thị để
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay và tạo tiền
đề cho sự phát triển mạnh hơn trong giai đoạn sau.
Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội, đảm bảo yêu cầu phát
triển giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao… tạo điều kiện cho phát triển
kinh tế xã hội bền vững, hiệu quả.
3.4.2.2. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành
công nghiệp.
Chuyển đổi cơ cấu trong công nghiệp trên địa bàn không chỉ tạo điều
kiện thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tỉnh mà còn đảm bảo mối
quan hệ gắn bó giữa thành thị và nông thôn, góp phần ổn định dân cư, hạn chế
làn sóng nhập cư vào tỉnh.
Công nghiệp khai thác dầu, khí sẽ giảm dần tỉ trọng trong cơ cấu công
nghiệp. Năm 2010 sẽ chiếm khoảng 46,7% đến năm 2020 sẽ còn khoảng
17,8% (so với mức 53,9% năm 2005)
Ngành công nghiệp cơ bản như hóa chất (trong đó có hóa dầu), công
nghiệp sản xuất điện sẽ tăng nhanh trong cơ cấu. Đến năm 2010 tỉ trọng
ngành công nghiệp hóa chất sẽ tăng lên 10,8% và 2020 là 43,9% so với mức
11% của năm 2005). Tỉ trọng ngành sản xuất điện đến năm 2010 sẽ là 31,05%
so với mức 25,5% của năm 2005.
Các ngành công nghiệp luyện kim cũng có sự tăng trưởng nhanh cùng
với sự xuất hiện của các cơ sở sản xuất thép và nhôm kim loại quy mô lớn. Tỉ
trọng của ngành công nghiệp này đến năm 2015 sẽ đạt khoảng 8,96% và 2020
là 10,05% so với mức 2,84% năm 2005.
Như vậy cơ cấu công nghiệp của tỉnh được hình thành trong giai đoạn
2010 – 2020 sẽ là cấu công nghiệp nặng, công nghiệp sản xuất điện năng và
tư liệu sản xuất.
3.4.2.3. Hợp tác quốc tế
Thu hút đầu tư nước ngoài và khuyến khích sử dụng lao động có hiệu
quả
Có chính sách phù hợp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng cường
vốn nhàn rỗi trong nhân dân bằng chính sách lãi suất tiền gửi hấp dẫn hay
khuyến khích đầu tư vào những ngành nghể đảm bảo đồng vốn, lợi nhuận cao.
Ngoài ra địa bàn tỉnh có số lượng người Việt sinh sống ở nước ngoài khá lớn.
Đó chính là hậu thuẫn tốt cho tỉnh trong việc trong vấn đề thu hút vốn đầu tư
của kiều bào nước ngoài.
Phân bổ sử dụng nguồn vốn có hiệu quả nhằm tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi cho việc đầu tư, phát triển các ngành nghề. Đầu tư vào những
ngành nghề có khả năng thực hiện, hạn chế đầu tư vào những ngành kinh
doanh thông thường để tránh dàn trải vốn.
Nâng cao vai trò các ngành kinh doanh tiền tệ (ngân hàng, tín dụng,
kho bạc, …). Đó thực sự là “bà đỡ” về vốn cho các doanh nghiệp.
Thu hút các nguồn lực chủ yếu trong cộng đồng người Việt ở nước
ngoài
Thu hút nguồn lực chất xám từ các chuyên gia, trí thức Việt kiều: mời
về nước tham gia giảng dạy, nghiên cứu, tổ chức hội thảo và trao đổi kinh
nghiệm.
Tận dụng các điều kiện thuận lợi về mối quan hệ trong chuyên môn,
trong kinh doanh của bà con người Việt ở nước ngoài để khai thác thông tin
về các đối tác kinh doanh, doanh nghiệp nước ngoài, hay đặt mối quan hệ với
các nhà khoa học, các công ty nước ngoài, hoặc tư vấn cho việc lựa chọn các
thiết bị, công nghệ mà tỉnh đang mua, nhập.
Thu hút đầu tư kinh tế bằng cách hợp tác và hướng dẫn đầu tư cho kiều
bào biết lựa chọn hợp lý lĩnh vực đầu tư, địa điểm và cách thức đầu tư, hay
khuyến khích kiều bào thành lập các tổ chức ngân hàng nhằm thu hút rộng rãi
tiền gửi của bà con Việt kiều làm nguồn vốn đầu tư về địa phương.
Mở rộng xuất khẩu lao động
Mở rộng thị trường theo hướng đa dạng về quy mô và cơ cấu nhu cầu.
Thực hiện xuất khẩu nhiều loại lao động từ lao động giản đơn, công nhân kỹ
thuật đến các chuyên gia, kỹ thuật viên cao cấp.
Nhanh chóng mở mang giáo dục - đào tạo, nhất là lao động có tay nghề
cao để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường quốc tế.
Chấn chỉnh hệ thống quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động để vừa
không gây thiệt thòi cho người lao động, vừa tạo khả năng cạnh tranh thực sự,
lâu dài cho lao động Việt Nam.
Mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu lao động sang một số khu
vực khác như EU, Bắc Mĩ, Châu Phi … nhằm giảm bớt căng thẳng trong việc
giải quyết vấn đề việc làm ở tỉnh.
3.4.2.4. Tăng cường thanh tra chống tham nhũng, giải quyết
nhanh gọn, công khai mọi thắc mắc, khiếu kiện của nhân dân, đảm bảo công
bằng xã hội, tạo niềm tin cho nhân dân yên tâm sản xuất.
3.4.2.5. Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế - xã hội là yêu
cầu cấp bách hiện nay. Sự yếu kém của cán bộ quản lý là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất trật tự công cộng ở địa phương.
Trình độ năng lực của cán bộ quản lý có vai trò quan trọng, quyết định
phần lớn hiệu quả sản xuất. Cán bộ quản lý phải là người có kinh nghiệm, có
trình độ văn hóa cao, trình độ chuyên môn kỹ thuật nhất định và phẩm chất
đạo đức trong sáng, năng động, sáng tạo trong quản lý, lãnh đạo cần được đào
tạo qua trường lớp quản lý.
3.4.3. Các giải pháp điều chỉnh thị trường sức lao động
3.4.3.1. Tìm mọi hướng tạo điều kiện liên kết, liên vùng
Đây là một hướng tạo ra “cầu” lao động. Cơ chế thị trường mở ra các
hướng liên kết, liên vùng mang tính hiệu quả, giúp cho từng vùng có thể phát
huy hết sức mạnh đã có. Có thể nói liên kết, liên vùng là cơ chế nảy sinh
trong sản xuất hàng hóa dựa trên các nguyên tắc: bình đẳng, cùng có lợi, hỗ
trợ lẫn nhau khai thác thế mạnh riêng của từng vùng.
3.4.3.2. Đổi mới phương thức tuyển chọn và sử dụng lao động
trong các cơ quan, doanh nghiệp, có chính sách phù hợp khuyến khích và thu
hút nguồn nhân lực có trình độ cao làm việc tại địa phương
Trong nền kinh tế thị trường, người lao động phải thực sự năng động
theo kịp sự biến đổi của thị trường. Sự năng động tương ứng với trình độ,
năng lực của người lao động. Vì vậy, trong việc tuyển chọn và sử dụng lao
động cần đặt tiêu chuẩn trình độ, năng lực lên hàng đầu. Tiêu chuẩn này vẫn
thường được đưa ra về mặt lý thuyết nhưng trong thực tế nó ít được vận dụng.
Nên học tập kinh nghiệm của các chuyên gia nước ngoài, tổ chức tuyển
dụng công khai, công bằng, mở rộng phạm vi đối tượng tuyển dụng trong toàn
xã hội. Có như vậy mới tuyển dụng được nhân tài cống hiến thực sự cho sự
phát triển của tỉnh.
3.4.3.3. Tổ chức các dịch vụ việc làm trong thị trường lao động
Phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm với sự quản lý, giám
sát của các cấp chính quyền tỉnh. Khuyến khích hỗ trợ phát triển rộng rãi các
trung tâm giới thiệu việc làm ở những nơi có thị trường lao động hoạt động
tương đối mạnh, ở những địa bàn có nhiều người tìm kiếm việc làm. Tạo điều
kiện nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm giới thiệu việc làm, đầu
tư xây dựng nâng cấp trang thiết bị, đào tạo nâng cao kiến thức đội ngũ cán
bộ của các trung tâm giới thiệu việc làm về pháp luật, về nghiệp vụ tư vấn
việc làm.
Phát triển hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động như: điều
tra, khảo sát, tập hợp, xử lý và lưu trữ các thông tin về thị trường lao động;
tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước
có liên quan đến thị trường lao động như Luật Lao động, chính sách cho vay
vốn để phát triển sản xuất, hỗ trợ giải quyết việc làm; đẩy mạnh công tác
nghiên cứu thị trường lao động ngoài nước, xây dựng các kênh thông tin,
cung cấp thông tin về nhu cầu lao động trên thị trường quốc tế, yêu cầu về
chất lượng lao động cho nước ngoài để phục vụ cho việc đào tạo, tuyển chọn
lao động xuất khẩu.
3.4.3.4. Tổ chức cho vay vốn giải quyết việc làm
Một trong những quan điểm cơ bản của việc đầu tư hỗ trợ nhà nước đối
với các cơ sở sản xuất là việc đầu tư phải căn cứ vào năng lực sản xuất và
hiệu quả kinh tế của mỗi cơ sở. Các nguồn vốn vay cần được chuyển giao cho
các cơ sở trong khuôn khổ chặt chẽ của các dự án đầu tư.
Tổ chức cho các cơ sở sử dụng lao động vay vốn để bố trí việc làm cho
những người thất nghiệp do các trung tâm dịch vụ việc làm giới thiệu như các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu và
doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động.
3.4.3.5. Xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Các chính sách bảo hiểm thất nghiệp bảo đảm an toàn việc làm và đời
sống cho người lao động, trực tiếp là người thất nghiệp, thiếu việc làm.
Quỹ bảo hiểm thất nghiệp được hình thành trên cơ sở đóng góp của
người lao động, chủ sử dụng lao động có nghĩa vụ và có phần hỗ trợ của nhà
nước. Người lao động và người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng góp
vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp để được hưởng chế độ khi thất nghiệp.
Quỹ bảo hiểm thất nghiệp phải độc lập với ngân sách nhà nước và do
hội đồng quản lý quỹ điều hành. Việc quản lý quỹ phải tập trung và có nhiều
biện pháp bảo toàn tăng trưởng quỹ. Quỹ được sử dụng để chi trả trợ cấp cho
người thất nghiệp theo mức đóng góp của người tham gia, chi cho việc đào
tạo và đào tạo lại người lao động, hỗ trợ cho doanh nghiệp nhận người thất
nghiệp làm việc và chi cho công tác quản lý.
KẾT LUẬN
Bà Rịa – Vũng Tàu nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có
điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên đa dạng, nguồn lao động dồi dào,
nền kinh tế đang có nhiều chuyển biến, giá trị sản xuất công nghiệp không
ngừng tăng lên. Những điều kiện đó giúp cho lực lượng lao động công nghiệp
của tỉnh có điều kiện tăng về số lượng, nâng cao chất lượng và ngày càng
được sử dụng có hiệu quả hơn.
Năm 2007, lực lượng lao động công nghiệp có 54.555 người, chiếm 0,8
% lực lượng lao động công nghiệp cả nước. Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động
công nghiệp so với dân số chung của tỉnh là 6,6%, so với lực lượng lao động
của tỉnh là 12,5%.
Lực lượng lao động có xu hướng giảm dần tỉ lệ nữ, tăng tỉ trọng nam.
Trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động
công nghiệp cao hơn mặt bằng chung của cả nước và hơn cả nhiều địa phương
khác trong vùng.
Lực lượng lao động công nghiệp của tỉnh phân bố rất không đồng đều
theo lãnh thổ, 90% lực lượng lao động tập trung phía Tây Nam, đặc biệt là ở
vùng ven Quốc lộ 51 dọc theo sông Dinh, sông Thị Vải đến vịnh Gành Rái. Tỉ
lệ tham gia lực lượng lao động công nghiệp trên địa bàn các huyện xa vùng
này còn thấp.
Lực lượng lao động công nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng
trong khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, giảm
trong khu vực nhà nước; tăng tỉ trọng trong nhóm ngành công nghiệp chế biến
và giảm trong nhóm ngành công nghiệp khai thác.
Vấn đề việc làm, công nghiệp ngoài nhà nước có khả năng tạo được
nhiều việc làm mới cho người lao động. Công nghiệp nhà nước rất khó khăn
trong vấn đề thu hút lực lượng lao động. Công nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài có hiệu quả sử dụng lao động cao nhất. Ở Bà Rịa – Vũng Tàu, hình thức
thất nghiệp trong công nghiệp chủ yếu là thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp do
bỏ việc.
Để tăng số lượng, nâng cao chất lượng và sử dụng có hiệu quả lực
lượng lao động công nghiệp, tỉnh cần tiến hành đồng bộ các giải pháp. Trong
các giải pháp tác động trực tiếp đến chất lượng và số lượng lao động thì giải
pháp nhằm nâng cao nguồn lao động có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết
định sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trong những năm tới.
Đầu tư đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao
động là nhiệm vụ cấp bách vừa tạo ra nguồn lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong tỉnh, vừa góp phần tích cực tham gia thị trường sức
lao động ngoài tỉnh làm giảm bớt sức ép lao động lên tài nguyên môi trường
trong tỉnh. Cùng với việc ổn định số lượng, nâng cao chất lượng lao động, các
giải pháp nhằm phát triển kinh tế xã hội sẽ mở rộng khả năng sử dụng lao
động tại chỗ trong đó xây dựng cơ sở hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là
các nhiệm vụ trọng tâm. Cơ sở hạ tầng phát triển là điều kiện tiên quyết mở
rộng sự giao lưu kinh tế - xã hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển sản
xuất công nghiệp trong tỉnh tăng khả năng thu hút sử dụng lao động. Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu công nghiệp nói riêng góp phần tăng
thu nhập, cải thiện đời sống, tích lũy vốn tái sản xuất mở rộng và giải quyết
việc làm cho nhân dân. Các giải pháp điều chỉnh thị trường sức lao động sẽ
góp phần điều hòa lao động, sử dụng lao động đúng năng lực chuyên môn,
nâng cao năng suất lao động, kích thích sản xuất phát triển.
Việc thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp sẽ đưa Bà Rịa - Vũng Tàu
vào thế ổn định, sử dụng hợp lý lao động của tỉnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1996), Triển vọng kinh tế Việt Nam những
năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, Hội thảo khoa học Hà Nội.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2000), Chiến lược và quy hoạch đất nước
bước vào thế kỷ XXI, Hội thảo khoa học Hà Nội tháng 9.
3. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (1997), Thực trạng lao động việc
làm ở Việt Nam năm 1996, NXB Thống kê.
4. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2000), Thực trạng lao động việc
làm ở Việt Nam, NXB Thống kê.
5. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2001), Số liệu thống kê lao
động chất lượng ở Việt Nam 1996 - 2000.
6. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2001), Tác động của toàn cầu
hóa đối với các vấn đề lao động Việt Nam, Thông tin Lao động xã
hội số 212, 213.
7. Trần Ngọc Bút (2002), Phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội
chủ nghĩa, Hà Nội.
8. Cục Thống kê Bà Rịa – Vũng Tàu (2001), Niên giám Thống kê tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu năm 2000.
9. Cục Thống kê Bà Rịa – Vũng Tàu (2002), Niên giám Thống kê tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu năm 2001.
10. Cục Thống kê Bà Rịa – Vũng Tàu (2003), Niên giám Thống kê tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu năm 2002.
11. Cục Thống kê Bà Rịa – Vũng Tàu (2004), Niên giám Thống kê tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu năm 2003.
12. Cục Thống kê Bà Rịa – Vũng Tàu (2005), Niên giám Thống kê tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu năm 2004.
13. Cục Thống kê Bà Rịa – Vũng Tàu (2006), Niên giám Thống kê tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu năm 2005.
14. Cục Thống kê Bà Rịa – Vũng Tàu (2007), Niên giám Thống kê tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu năm 2006.
15. Cục Thống kê Bà Rịa – Vũng Tàu (2008), Niên giám Thống kê tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu năm 2007.
6. Nguyễn Đình Cử (1998), Giáo trình dân số và phát triển, Hà Nội.
17. Mai Ngọc Cường (chủ biên) (1996), Lịch sử các học thuyết kinh tế,
NXB Thống kê, Hà Nội.
18. Nguyển Hữu Dũng và Trần Hữu Thung (1997), Về chính sách giải
quyết việc làm ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia.
19. Đàm Nguyễn Thùy Dương (2004), Nguồn lao động và sử dụng nguồn
lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
20. Z.E. Dzenis (1984), Phương pháp luận và phướng pháp nghiên cứu địa
lý kinh tế – xã hội, NXB Giáo dục.
21. Nguyễn Thị Đông (2002), Tám chỉ tiêu đánh giá tình hình kinh tế,
Thông tin Khoa học thống kê, số 3.
22. Nguyễn Tĩnh Gia (Chủ biên) (1998), Xu hướng biến động của nền kinh
tế nhiều thành phần ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Trần Văn Hà (chủ biên) (2001), Tiếp cận nền kinh tế tri thức thế kỷ
XXI, NXB nông nghiệp, Hà Nội.
24. Nguyễn Thị Hằng (2002), Lao động và việc làm – Những bước tiến
quan trọng, Tạp chí Lao động và xã hội số 198.
25. Phan Đức Hiếu (2002), Lựa chọn loại hình doanh nghiệp, NXB Thống
kê, Hà Nội.
26. Phạm Xuân Hậu – Nguyễn Kim Hồng – Đặng Văn Phan (1995), Địa
lý kinh tế – xã hội Việt Nam, tập 1, Trường Đại học Sư phạm
TPHCM.
27. Trần Văn Hoan (2003), Tác động của toàn cầu hóa đối với các vấn đề
lao động Việt Nam, Tạp chí Lao động và Xã hội số 212.
28. Học viện Chính trị Quốc gia (2002), Giáo trình: Kinh tế phát triển,
NXB Chính trị Quốc gia.
29. Mai Thế Hởn (2003), Sự cần thiết phải hoàn thiện cơ chế quản lý tiền
lương và thu nhập ở các doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn
hiện nay, Báo Công nghiệp số 5.
30. Phạm Xuân Nam (1994), Quá trình phát triển công nghiệp ở Việt Nam,
triển vọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB Khoa học
– Xã hội.
31. Phan Công Nghĩa (2001), Hệ thống chỉ tiêu thống kê kinh tế, Trường
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.
32. Nguyễn Văn Lê (1995), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học,
NXB Trẻ.
33. Võ Đại Lược (1994), Chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam
trong quá trình đổi mới, NXB Khoc học – xã hội.
34. Võ Đại Lược (2001), Lao động, việc làm và sự phát triển công nghiệp
trong những năm 90, NXB Thế giới.
35. Đặng Văn Phan – Nguyễn Kim Hồng (2002), Tổ chức lãnh thổ,
Trường Đại học Sư Phạm TPHCM.
36. Hoàng Đình Phú (2000), Xu thế thế giới trong những thập niên đầu thế
kỷ XXI, NXB Khoa học – Kỹ thuật.
37. Nguyễn Văn Phúc (2004), Công nghiệp nông thôn Việt Nam - Thực
trạng giải pháp và phát triển, NXB Chính Trị Quốc Gia.
38. Nguyễn Quán (2003), 213 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, NXB
thống kê.
39. Nguyễn Duy Quý (2002), Thế giới trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI,
NXB Chính trị Quốc gia.
40. Sở Công thương tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2008), Định hướng chuyển
đổi lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp gắn với việc
phát triển các cụm công nghiệp đến 2010.
41. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (1993), Khoa học về tổ chức phát
triển nền kinh tế quốc dân Việt Nam, Hà Nội.
42. Nhà xuất bản Thống kê (1998), Số liệu kinh tế – xã hội các đô thị lớn
của Việt Nam và thế giới, Hà Nội.
43. Nguyễn Thanh (2002), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, NXB Giáo dục.
44. Phạm Đức Thành – Mai Quốc Chánh (1998), Giáo trình kinh tế lao
động, NXB Chính trị Quốc gia.
45. Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý, NXB Thế
Giới, Hà Nội.
46. Nguyễn Viết Thịnh – Đỗ Thị Minh Đức (2003), Giáo trình Địa lý kinh
tế xã hội Việt Nam, NXB Giáo dục.
47. Phạm Thị Xuân Thọ (2002), Di dân ở Thành phố Hồ Chí Minh và tác
động của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội, Luận án Tiến sĩ Địa
lý, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
48. Lê Thông – Nguyễn Minh Tuệ (1996), Địa lý dân cư, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
49. Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ (2000), Tổ chức lãnh thổ công nghiệp
Việt Nam, NXB Giáo dục.
50. Lê Thông (Chủ biên) (2000), Địa lý các tỉnh và thành phố Việt Nam,
NXB Giáo dục.
51. Lê Thông, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ (2001), Địa lý kinh tế
xã hội Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, NXB Giáo dục
52. Thời báo kinh tế Việt Nam (2003), Kinh tế 2002
53. Thời báo kinh tế Việt Nam (2004), Kinh tế 2003
54. Thời báo kinh tế Việt Nam (2004), Kinh tế 2003
55. Thời báo kinh tế Việt Nam (2005), Kinh tế 2004
56. Nguyễn Minh Tuệ (1995), Một số vấn đề địa lý công nghiệp, Tài liệu
bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên địa lý THPT.
57. Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê 2007, NXB Thống kê,
Hà Nội.
58. Trường Cao đẳng Lao động – Xã hội (2001), Nguồn nhân lực, NXB
Lao động – Xã hội Thống kê, Hà Nội.
59. Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2006), Báo cáo quy hoạch
phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai
đoạn đến 2010, có xét đến năm 2020.
60. Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2006), Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thời kỳ 2006 – 2015
định hướng đến năm 2020.
61. Viện Chiến lược Phát triển (1996), Quan điểm và mục tiêu phát triển
kinh tế – xã hội Việt Nam đến năm 2010, Báo cáo chuyên đề
62. Viện Chiến lược Phát triển (1996), Đánh giá thực trạng phát triển
kinh tế – xã hội của cả nước. Khả năng phát triển và phương án lựa
chọn, Báo cáo chuyên đề.
63. Viện Nghiên cứu Quản lý Trung Ương (1994), Các quá trình chuyển
đổi từ kinh tế vĩ mô và kinh tế vùng ở Việt Nam, NXB Khoa học –
Kỹ thuật Hà Nội.
64 Viện Nghiên cứu Quản lý Trung Ương (2003), Một số vấn đề phát
triển thị trường lao động ở Việt Nam, NXB Khoa học – Kỹ thuật Hà
Nội.
64 Viện Nghiên cứu Phát triển giáo dục (2002), Từ chiến lược phát triển
giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, NXB Giáo dục
Hà Nội.
65 Đức Vượng (2006), “Xây dựng đội ngũ trí thứcViệt Nam giai đoạn
2011-2020”, Đề tài cấp nhà nước Mã số: KX.04.16/06-100
66 International Labour Office (2004), Global Employment Trends,
Switzerland
67 www.gso.gov.vn
www.saga.vn
www.laodong.com.vn
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7512.pdf