GIÁO TRÌNH
MÔI TRƯỜNG BẢO
QUẢN TÀI LIỆU
Mục lục
Nhiệt độ, độ ẩm tương đối, ánh sáng và chất lượng không khí: chỉ dẫn cơ
bản cho công tác bảo quản
Theo dõi nhiệt độ và độ ẩm tương đối
Thực hiện theo thiết kế: đưa hệ thống vào hoạt động
Bảo vệ tài liệu giấy tránh những hư hại do ánh sáng gây ra
Bảo quản sách và tài liệu viết trên chất liệu giấy trong quá trình trưng bày
Sherelin Ocđen - Trưởng ban bảo quản, Hiệp hội lịch sử
Minesota
Điều chỉnh nhiệt độ và độ ẩm tương
122 trang |
Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 497 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giáo trình Môi trường bảo quản tài liệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đối rất quan trọng
trong công tác bảo quản thư viện và các nơi lưu trữ vì khi
nhiệt độ và độ ẩm không đảm bảo sẽ góp phần đáng kể
làm hỏng các tư liệu lưu trữ. Nhiệt độ cao cũng làm gia
tăng mức độ hư hỏng: hầu hết các phản ứng hoá học gây
hỏng tư liệu có tỷ lệ tăng gần gấp đôi mỗi khi nhiệt độ
tăng 18 độ F (khoảng 10 độ C). Độ ẩm tương đối cao tạo
ra độ ẩm cần thiết, xúc tiến các phản ứng hóa học có hại
đối với tư liệu, và khi kết hợp với nhiệt độ cao gây ra sự
phát triển của nấm cũng như các loại côn trùng. Độ ẩm
tương đối đặc biệt thấp, thường xuất hiện vào mùa đông ở
những nơi sử dụng hệ thống điều hoà trung tâm, có thể
làm cho một số loại tư liệu lưu trữ trở nên khô và giòn.
Sự dao động về nhiệt độ và độ ẩm tương đối cũng gây tác
hại. Các tư liệu lưu trữ thường có tính hút ẩm, rất dễ hút
và nhả hơi nước. Sự thay đổi về nhiệt độ và độ ẩm tương
đối hàng ngày và theo mùa có thể làm các tư liệu lưu trữ
nở ra hoặc co lại. Những thay đổi nghiêm trọng gia tăng
mức độ hư hỏng, dẫn tới những thiệt hại thấy được như
quăn giấy, bong mực, cong vênh bìa sách, và rạn bong
ảnh. Tuy nhiên, ở một số cơ sở thư viện, các tư liệu lưu trữ
có thể được bảo vệ trước các dao động ở mức độ vừa phải.
Một số loại chất liệu đóng gói kèm theo hoặc sách báo
đóng gói sát nhau có thể gây ra các thay đổi nhỏ về nhiệt
độ và độ ẩm.
Lắp đặt đầy đủ và vận hành các thiết bị điều chỉnh khí
hậu để duy trì tiêu chuẩn bảo quản sẽ làm chậm tiến trình
hư hỏng các tư liệu lưu trữ một cách đáng kể. Thiết bị
điều chỉnh khí hậu được xếp theo độ phức tạp: từ máy
điều hoà, máy tạo độ ẩm và / hoặc máy hút ẩm từng phòng
đơn giản đến hệ thống điều hoà trung tâm cho cả toà nhà
để có thể lọc, làm mát, sưởi, tạo ẩm và hút ẩm không khí.
Cần tìm kiếm sự trợ giúp của các kỹ sư có kinh nghiệm về
lĩnh vực điều chỉnh khí hậu để có thể chọn và lắp đặt thiết
bị. Cần có thêm các biện pháp để điều chỉnh nhiệt độ và
độ ẩm tương đối. Toàn bộ toà nhà cũng cần được bảo
dưỡng tốt, cần phải hàn gắn các vết rạn nứt ngay khi mới
xuất hiện. Cửa đi và cửa sổ bên ngoài phải bịt các khe gió
và phải đóng kín để tránh lưu thông với không khí ngoài
trời. Tại những vùng có mùa đông lạnh, phía trong cửa sổ
phải được bít kín bằng các tấm dính hoặc bằng băng dính.
Tại các khu vực lưu trữ có thể bịt các cửa sổ bằng các tấm
ván lát tường hoặc bằng băng dính.
Các nhà chuyên môn thường bất đồng về nhiệt độ và độ
ẩm tương đối tối ưu cho các tư liệu lưu trữ. Thông thường
họ cho rằng nhiệt độ ổn định không cao hơn 70 độ F, còn
độ ẩm tương đối ổn định dao động trong khoảng tối thiểu
là 30% và tối đa là 50%. Qua nghiên cứu cho thấy độ ẩm
tương đối dao động ở mức thấp thì tốt hơn vì khi đó tiến
trình xuống cấp của tư liệu diễn ra ở tốc độ chậm hơn. Nói
chung, nhiệt độ càng thấp càng tốt. Nhiệt độ trong các khu
vực chỉ dành riêng cho lưu trữ nên thấp hơn nhiều so với
nhiệt độ ở các khu vực vừa dùng để lưu trữ vừa dùng để
tra cứu.
Đôi khi nên lưu trữ các tư liệu ít sử dụng ở nhiệt độ lạnh
có sử dụng thiết bị điều chỉnh độ ẩm. Tuy nhiên khi lấy
các tư liệu ra khỏi khu vực lưu trữ ở nhiệt độ lạnh thì sự
thay đổi nhiệt độ nhanh có thể làm cho các tư liệu đó bị
ngưng tụ hơi nước . Trong trường hợp như vậy cần phải
có sự thay đổi nhiệt độ dần dần để dễ thích nghi.Duy trì
các điều kiện ổn định rất quan trọng. Thư viện hay các cơ
sở lưu trữ cần chọn lựa nhiệt độ và độ ẩm tương đối trong
khoảng tối ưu, duy trì trong suốt 24 tiếng một ngày trong
suốt 365 ngày trong năm. Không bao giờ được tắt hệ
thống điều chỉnh khí hậu cũng như không đặt chế độ thấp
hơn về đêm, vào cuối tuần hoặc vào bất cứ thời gian nào
mà thư viện và các nơi lưu trữ đóng cửa. Chi phí phát
sinh do vận hành liên tục hệ thống này sẽ ít hơn nhiều so
với chi phí khắc phục bảo quản trong tương lai để phục
chế các hư hỏng do điều kiện khí hậu không đảm bảo.
Mặc dù nhiều thư viện và các nơi lưu trữ thấy thực hiện
việc này rất tốn kém và ngoài khả năng, nhưng qua thực
tiễn và qua kiểm nghiệm cho thấy thời hạn sử dụng của
các tư liệu tăng đáng kể nhờ duy trì ổn định nhiệt độ và độ
ẩm tương đối. Tại những nơi không đủ điều kiện kinh tế
hoặc thiếu hệ thống máy móc để có thể duy trì các điều
kiện tối ưu quanh năm thì có thể chọn tiêu chuẩn ít
nghiêm ngặt hơn trong mùa hè và mùa đông sao cho nhiệt
độ và độ ẩm tương đối sẽ thay đổi dần dần trong khoảng
cho phép giữa hai mùa. Tiêu chuẩn về nhiệt độ và độ ẩm
tương đối theo mùa càng gần mức tối ưu càng tốt. Đáng
chú ý là các tư liệu không bằng chất liệu giấy có thể đòi
hỏi nhiệt độ và độ ẩm tương đối khác với các tư liệu bằng
chất liệu giấy. Ngoài ra, việc duy trì nhiệt độ và độ ẩm
tương đối ở mức tối ưu có thể gây hư hại đến kết cấu của
toà nhà dùng để lưu trữ tư liệu, vì vậy không tránh khỏi
những lựa chọn mang tính thoả hiệp giữa các quyết định
trên.
Cần đo và ghi lại nhiệt độ và độ ẩm tương đối một cách có
hệ thống. Điều này rất quan trọng vì các số liệu đó 1) nêu
lên điều kiện môi trường mà các tư liệu lưu trữ tư liệu; 2)
làm cơ sở để yêu cầu lắp đặt hệ thống điều chỉnh môi
trường; và 3) chỉ ra liệu thiết bị điều chỉnh khí hậu đang
sử dụng có hoạt động hiệu quả và tạo ra một môi trường
đủ tiêu chuẩn hay không. Nên nhớ rằng một yếu tố thay
đổi có thể làm các yếu tố khác thay đổi theo. Nếu đưa ra
các biện pháp không coi trọng đến tổng thể môi trường thì
có thể sẽ làm tình hình xấu đi chứ không cải thiện gì thêm.
Cần phải biết ( thông qua các số liệu đo được) thực trạng
điều kiện môi trường như thế nào và phải xin ý kiến của
các kỹ sư có kinh nghiệm trong lĩnh vực điều chỉnh khí
hậu trước khi đưa ra các thay đổi lớn. Không nên quá
nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tiếp tục giám sát
sau khi có các thay đổi.
Ánh sáng.
Ánh sáng cũng góp phần làm hỏng các tư liệu lưu trữ.
Anh sáng có thể làm suy yếu và làm giòn các sợi giấy và có
thể làm giấy ngả màu vàng hoặc sẫm lại. Ánh sáng cũng
gây ra lớp trung gian, làm bạc màu hoặc đổi màu giấy,
làm cho giấy không đọc được và / hoặc thay đổi lớp ngoài
của tài liệu, giấy ảnh, các tác phẩm nghệ thuật. Bất cứ sự
tiếp xúc nào với ánh sáng, cho dù chỉ trong thời gian ngắn,
đều gây hại, và tác hại đó bị tích lại và không thể thay đổi
được.
Ánh sáng bình thường được đo bằng độ lux (độ lumen
trên một đơn vị mét vuông) hoặc bằng độ phút nến. Một
phút nến tương đương với 11 lux. Trước đây, người ta
định ra độ sáng cho các loại vật liệu nhậy sáng, trong đó
có giấy, là 55 lux (5 phút nến), và cho các vật liệu kém
nhậy sáng với mức tối đa là 165 lux (15 phút nến). Gần
đây, các tiêu chuẩn trên đang gây ra tranh cãi với lí do mỹ
học và mức độ bạc màu khác nhau đối với các lớp trung
gian khác nhau.
Mặc dù tất cả các bước sóng ánh sáng đều có hại, nhưng
tia cực tím (UV) là có hại nhất đối với các tư liệu lưu trữ
vì cường độ năng lượng cao của nó. Tiêu chuẩn cho phép
của tia cực tím là 75cmW/l. Ánh sáng mặt trời và ánh
sáng vonpham - halogien hoặc đèn thạch anh, đèn sạc sử
dụng kim loại halide hoặc thuỷ ngân với cường độ cao, và
đèn huỳnh quang là một số nguồn sáng gây hại nhất vì
chúng sản ra một lượng lớn tia cực tím.
Vì toàn bộ tổn hại là sự kết hợp giữa thời lượng và cường
độ của việc tiếp xúc với ánh sáng, nên cần điều chỉnh ánh
sáng ở mức thấp nhất ( phù hợp với người sử dụng) và
trong thời gian ngắn nhất cho phép. Tốt nhất là chỉ nên để
tư liệu tiếp xúc với ánh sáng khi có người sử dụng. Khi
không có người sử dụng, nên cất giữ tư liệu ở những
thùng kín hoặc trong các phòng không có cửa sổ và chỉ
thắp sáng khi có người cần truy cập. Chỉ nên thắp sáng
bằng các bóng đèn ánh sáng nóng. Khi sử dụng tư liệu,
nên thắp sáng bằng bóng đèn có ánh sáng nóng. Cần chú ý
rằng bóng đèn ánh sáng nóng sản sinh ra nhiệt lượng và
phải để xa khỏi tư liệu. Nên sử dụng đèn ở mức ánh sáng
yếu, và sử dụng càng ít càng tốt.
Nên che cửa sổ bằng rèm, các tấm bạt phủ hoặc các tấm
ván sập để hoàn toàn chặn ánh sáng mặt trời. Thực hiện
việc này cũng giúp điều chỉnh nhiệt độ bằng cách giảm
thiểu năng lượng thất thoát và ngăn chặn sự sản nhiệt do
ánh sáng mặt trời vào ban ngày. Các toà nhà mái kính để
ánh sáng mặt trời chiếu thẳng vào tư liệu cần phải có biện
pháp che phủ tránh ánh sáng mặt trời hoặc sơn mái bằng
titan đioxít hoặc bằng cách tráng kẽm trắng, nhờ đó có thể
phản xạ ánh sáng mặt trời và hấp thụ tia cực tím. Các tấm
lọc làm bằng chất dẻo đặc biệt cũng giúp hạn chế tia cực
tím. Có thể sử dụng các tấm phim chất dẻo hoặc các tấm
kính chất dẻo lọc tia cực tím che cửa sổ để giảm lượng tia
cực tím chiếu qua. Tuy nhiên, các tấm lọc này không đảm
bảo ngăn chặn hoàn toàn tác hại do ánh sáng gây ra. Nên
dùng các loại rèm, mành, vải che và cửa sập có thể chặn
hoàn toàn ánh sáng. Nên bọc các bóng đèn huỳnh quang
bằng các túi lọc tia cực tím ở những nơi phải chiếu sáng tư
liệu. Để thay thế có thể sử dụng loại bóng đèn huỳnh
quang đặc biệt có lượng tia cực tím thấp. Nên sử dụng các
công tắc đèn hẹn giờ ở các khu lưu trữ để hạn chế thời
lượng tư liệu phải tiếp xúc với ánh sáng.
Nên tránh trưng bày tư liệu thường xuyên vì tư liệu chỉ
cần tiếp xúc ít với ánh sáng cũng có hại, nên trưng bày
thường xuyên là hỏng hoàn toàn. Nếu bắt buộc phải trưng
bày tư liệu, thì nên trưng bày trong thời gian ngắn nhất và
dưới ánh sáng yếu nhất, nên sử dụng ánh sáng nóng.
Không bao giờ được trưng bày tư liệu ở những nơi có ánh
sáng mặt trời chiếu thẳng, ngay cả khi chỉ trong thời gian
ngắn và khi đã che cửa sổ bằng các tấm lọc tia cực tím.
Chất lượng không khí
Các chất ô nhiễm cũng góp phần đáng kể làm hỏng các tư
liệu lưu trữ. Hai dạng ô nhiễm chính là dạng khí và dạng
bụi. Các loại khí gây ô nhiễm chủ yếu là khí đi-ô-xít sul-
phua, khí ô-xít ni-tơ, khí pê-rô-xít, và khí ô-zôn, các chất
khí này xúc tiến các phản ứng hoá học có hại dẫn đến việc
hình thành a-xít trong các tư liệu lưu trữ. Đây là một vấn
đề nghiêm trọng đối với các chất liệu giấy và da, những
chất liệu này đặc biệt dễ bị hỏng khi nhiễm a-xít. Giấy sẽ
bị mất màu và giòn, còn da sẽ nhũn và bị tơi ra thành bột.
Các chất ô nhiễm dạng bụi chủ yếu bao gồm bồ hóng,
muội than, các chất bụi mài mòn, bụi đất và các loạI vật
liệu bị biến dạng.
Kiểm soát chất lượng không khí rất khó khăn và phức tạp
và còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố liên quan.
Người ta đưa ra nhiều tiêu chuẩn khác nhau về chất lượng
không khí. Tuy nhiên, cho đến giờ thì biện pháp hữu hiệu
nhất vẫn là hạn chế các chất ô nhiễm ở mức thấp nhất.
Có thể khử các chất khí ô nhiễm bằng các thiết bị hoá lọc,
các tháp đốt khí hoặc dùng cả hai biện pháp trên. Các
chất ô nhiễm dạng bụi có thể qua lọc máy. Không nên sử
dụng các thiết bị kết tủa tĩnh điện vì chúng sản sinh ra khí
ô-zôn. Các thiết bị rất khác nhau về kích cỡ và độ phức
tạp: từ máy lọc riêng lẻ gắn vào lỗ thông hơi, ống khói đến
hệ thống các máy lọc không khí cho cả toà nhà.
Các thiết bị cũng rất khác nhau về tính hiệu quả. Cần lưu
ý rằng chọn các thiết bị phải phù hợp với nhu cầu của các
cơ sở thư viện và phù hợp với mức độ ô nhiễm trong khu
vực. Cần tuân theo lịch trình bảo dưỡng đều đặn, và nên
tham khảo ý kiến của các kỹ sư môi trường có kinh
nghiệm.
Ngoài ra còn có nhiều biện pháp kiểm soát chất lượng
không khí. Một biện pháp là tạo ra không khí sạch đối lưu
ở những khu vực lưu trữ, không khí đối lưu càng sạch
càng tốt. Cần chú ý đảm bảo không đặt các quạt thông gió
ở gần các nguồn gây ô nhiễm như gần các bãi đỗ xe tải.
Một biện pháp khác là đóng các cửa sổ thông ra bên
ngoài. Biện pháp nữa là lưu trữ các tư liệu trong bao bì
đảm bảo chất lượng lưu trữ, nhờ đó ngăn chặn ảnh hưởng
ô nhiễm đến các tư liệu. Các loại bao bì mới hiện nay sử
dụng các lớp gom phân tử như than hoạt tính hoặc zê-ô-lít
để chặn các chất ô nhiễm đã chứng tỏ là biện pháp đặc
biệt hữu hiệu. Biện pháp cuối cùng là phải loại bỏ càng
nhiều càng tốt các nguồn gây ô nhiễm. Có lẽ sẽ khó kiểm
soát những nguồn gây ô nhiễm chính như động cơ ôtô và
máy móc công nghiệp. Tuy nhiên, có thể hạn chế các
nguồn ô nhiễm khác như khói thuốc lá, máy phôtô, một số
loại vật liệu xây dựng, sơn, vật liệu trám, đồ lưu trữ hoặc
đồ trưng bàybằng gỗ, các thiết bị làm sạch, đồ gỗ và thảm.
Nhiệt độ, độ ẩm tương đối, ánh sáng và chất lượng không
khí, tất cả đều ảnh hưởng đến tuổi thọ của các tư liệu lưu
trữ. Nếu tuân thủ các hướng dẫn nêu trên, chúng ta có thể
kéo dài tuổi thọ của các tư liệu đó.
Beth Limdblom Patlcus - Chuyên gia tư vấn về Bảo tồn,
Walpole, MA
Phần giới thiệu
Sách báo, tranh ảnh hoặc các đồ vật làm bằng giấy đều
dễ bị hư hỏng bởi môi trường. Hơi nóng, hơi ẩm, ánh
sáng và bụi bẩn tạo ra những phản ứng hoá học mang
tính huỷ hoại. Tình trạng ấm và ẩm làm thúc đẩy các
quá trình sinh học như nấm mốc và côn trùng sinh sôi
nảy nở. Mặc dù một số chất liệu được sử dụng để làm
sách báo, tài liệu và vật phẩm trên giấy có độ bền tương
đối, song những chất liệu khác (như bột giấy nghiền và
các loại mực làm từ a-xít) sẽ hư hỏng nhanh chóng dưới
những điều kiện môi trường không thuận. Các viện bảo
tàng, thư viện và khu bảo tồn lịch sử đều phải hứng chịu
những hiện tượng tương tự như bất kỳ một toà nhà nào
khác, song những nơi này lại có trọng trách duy trì, bảo
tồn những đồ vật lưu giữ cho các thế hệ trong tương lai.
Dù chúng ta không thể triệt tiêu mọi quá trình phân huỷ
các tư liệu văn hoá thông qua tiếp cận với các bộ sưu tập,
song chúng ta có thể làm chậm lại đáng kể quá trình gây
hư hỏng thông qua việc tạo ra môi trường ôn hoà. Việc
kiểm soát một số nhân tố, như ánh sáng, khá dễ dàng và
không tốn kém. Trái lại, kiểm soát không khí (nhiệt độ
và độ ẩm tương đối) lại là một nhiệm vụ khó khăn hơn
nhiều. Theo dõi nhiệt độ và độ ẩm tương đối có ý nghĩa
then chốt để kiểm soát môi trường hiệu quả. Việc theo
dõi này có thể nhằm một vài mục đích: cung cấp các
thông số cho thấy việc kiểm soát môi trường hiện tại là
chưa đủ; lập hồ sơ về các điều kiện môi trường hiện nay
để chuẩn bị cho những đổi mới về trang thiết bị; đánh
giá hiệu quả của những đổi mới về trang thiết bị đã được
tiến hành; và/hoặc bảo vệ chống lại những thái cực môi
trường có thể xảy ra.
Tại sao việc kiểm soát môi trường lại quan trọng?
Việc kiểm soát môi trường rất quan trọng vì nhiệt độ và
độ ẩm tương đối không thích hợp có thể hạn chế nghiêm
trọng tuổi thọ của các đồ vật lưu trữ làm từ giấy. Nhiều
người cho rằng nhiệt độ có ảnh hướng lớn nhất lên các
đồ lưu trữ (như sức ảnh hưởng của nó đến con người),
trong trên thực tế, độ ẩm tương đối ít nhất cũng góp
phần quan trọng không kém vào quá trình gây hư hỏng
giấy. Hầu hết mọi người đều nhận thức được rằng nhiệt
độ và độ ẩm tương đối cao sẽ khích thích sự phát triển
của nấm mốc và sự sinh sôi của côn trùng, song trong
thực tế, ảnh hưởng của môi trường lưu trữ lên các đồ lưu
giữ còn phức tạp hơn nhiều.
Cũng cần nhận thấy rằng nhiệt độ và độ ẩm tương đối có
mối quan hệ tương tác – một thay đổi trong yếu tố này có
thể đưa tới một thay đổi trong yếu tố kia. Không khí ấm
giữ nhiều độ ẩm hơn không khí mát, nên nếu lượng hơi
ẩm trong không gian không đổi, thì độ ẩm tương đối (thể
hiện “dưới dạng phần trăm lượng nước trong không khí
tương ứng với một lượng không khí nhất định” ) sẽ giảm
khi nhiệt độ tăng, và sẽ tăng khi nhiệt độ giảm (mối quan
hệ giữa nhiệt độ và độ ẩm tương đối này có thể tính được
bằng biểu đồ đo độ ẩm). Ví dụ, nếu một không gian đang
ở 60 độ F và độ ẩm tương đối 70%, thì độ ẩm tương đối
sẽ giảm xuống còn khoảng 40% nếu nhiệt độ tăng lên 75
độ F. Mặt khác, nếu nhiệt độ giảm, độ ẩm tương đối sẽ
tăng, và khi nó đạt đến 100%, lúc đó không khí sẽ sũng
nước và hơi ẩm sẽ đọng thành nước (đây gọi là điểm
ngưng tụ). Ví dụ, nếu một không gian ở nhiệt độ 70 độ F
và độ ẩm tương đối là 50% và nhiệt độ đột ngột hạ xuống
dưới 50 độ F, quá trình ngưng tụ sẽ xảy ra trên các đồ
vật lưu trữ.
Quá trình hư hỏng của giấy (cùng với nhiều hình thức
phân huỷ khác của các chất liệu hữu cơ như da, vải và
băng từ) là một minh chứng về sự phá huỷ hoá học, và
phản ứng hoá học chi phối quá trình này chủ yếu bị ảnh
hưởng bởi môi trường. Nhiệt độ làm gia tăng tốc độ của
các phản ứng hoá học gây ra sự phá huỷ của a-xít. Một
phương pháp đơn giản quen thuộc ước tính rằng các
phản ứng hoá học sẽ tăng gấp đôi nếu nhiệt độ tăng lên
15 độ F (tương đương 10 độ C). Trong trường hợp đặc
biệt có chất xenluloza, các thử nghiệm nhân tạo kéo dài
cho thấy nhiệt độ tăng lên 9 độ F sẽ làm cho tốc độ phá
huỷ tăng gần gấp đôi, thậm chí trong điều kiện không có
ánh sáng, bụi bẩn, hay các nhân tố khác. Độ ẩm tương
đối mang hơi ẩm cũng góp phần làm tăng những phản
ứng này - độ ẩm càng cao, thì quá trình phá huỷ càng
diễn ra nhanh.
Những mẫu nghiên cứu nhằm lượng hoá tác động của
nhiệt độ và độ ẩm tương đối lên quá trình phá huỷ hoá
học, đã được đưa ra ứng dụng trong mấy năm qua. Viện
Lưu ảnh (IPI) tại Viện Công nghệ Rochester đã ứng
dụng “Chỉ số bảo tồn”, xây dựng trên công trình của
Donald Sebera, trước từng làm việc cho Thư viện Quốc
hội. Công cụ này đưa ra một ý tưởng chung về khoảng
thời gian các đồ lưu trữ bằng giấy bị hư hại rõ nét tại
một nhiệt độ và độ ẩm tương đối cụ thể. Mẫu nghiên cứu
này cho thấy các chất liệu hữu cơ có tuổi thọ ngắn được
cất giữ ở nhiệt độ 72 độ F và độ ẩm tương đối 50% sẽ có
tuổi thọ xấp xỉ khoảng 33 năm, nhưng nếu nhiệt độ được
hạ thấp xuống 62 độ F và độ ẩm tương đối còn 40%,
những chất liệu này sẽ có tuổi đời là 88 năm. Mẫu này
cũng chỉ rõ nếu các chất liệu chịu những nhiệt độ và độ
ẩm cao (như nhiệt độ 82 độ F và độ ẩm tương đối 75%),
thì quá trình hư hỏng sẽ rõ nét chỉ trong vòng 9 năm
hoặc thậm chí ngắn hơn .
Một khía cạnh thú vị khác của nghiên cứu này là nó
chứng minh rằng thông qua nhiều sự kết hợp khác nhau
giữa nhiệt độ và độ ẩm tương đối, ta có thể đạt được
cùng một tuổi thọ như đã dự kiến. Ví dụ, các điều kiện
nhiệt độ 57 độ F và độ ẩm tương đối 50% hay 82 độ F và
35% sẽ cùng thu về một kết quả là tuổi thọ dự tính gần
100 năm . Điều này sẽ cho phép các cơ quan bảo tồn, bảo
tàng có thể linh ậnt lựa chọn cách thức kiểm soát môi
trường, mặc dù độ ẩm và nhiệt độ quá cao vẫn luôn là
những điều kiện phải tránh do có nguy cơ phát triển nấm
mốc và côn trùng.
Ánh hưởng của những dao động về nhiệt độ và độ ẩm
tương đối lên đồ vật lưu trữ là một mối quan ngại lớn
khác đối với việc kiểm soát môi trường. Những dao động
về nhiệt độ rất nghiệm trọng – nghiên cứu được tiến
hành tại Thư viện Quốc hội cho thấy nếu giấy đã từng
trải qua những dao động về nhiệt độ, thì quá trình phá
huỷ hoá học của giấy đó diễn ra nhanh hơn so với giấy
được cất tại nơi có nhiệt độ không đổi. Hơn nữa, giấy –
giống như nhiều chất liệu khác – chứa chất hogroscope,
có nghĩa là nó có khả năng hấp thụ và toả hơi ẩm. Điều
này có nghĩa là khi nhiệt độ tăng lên và độ ẩm tương đối
giảm xuống, hơi ẩm sẽ được thải từ một đồ vật có chứa
hogroscope ra ngoài không khí, vì đồ vật này cố gắng
duy trì trạng thái cân bằng. Khi nhiệt độ hạ xuống và độ
ẩm tương đối lại tăng lên, hơi ẩm lại quay trở lại đồ vật.
Quá trình này có thể gây ra một sức ép tự nhiên vì sự
thay đổi tỷ lệ độ ẩm khiến cho chất liệu nở ra và co lại.
Điều này gây tổn hại nghiêm trọng đến những chất liệu
tổng hợp như nội thất và các tác phẩm nghệ thuật, và
khiến cho sách báo và giấy tờ bị quăn và biến dạng (mặc
dù trong một số trường hợp, sách báo và giấy tờ được
bảo vệ tránh những dao động vừa phải của độ ẩm tương
đối, vì những thay đổi về độ ẩm có thể gia tăng do điều
kiện lưu trữ khép kín hay do sách báo bị đóng chặt với
nhau .
Cuối cùng, các nhà quản lý lưu trữ phải nhận thức được
rằng mặc dù không có nguy cơ cụ thể nào gắn với môi
trường lưu trữ ở nhiệt độ thấp (trên thực tế, việc lưu trữ
trong điều kiện như vậy làm giảm đáng kể quá trình hư
hỏng), song độ ẩm tương đổi thấp lại gây tổn hại đến một
số chất liệu. Lâu nay, người ta luôn lo ngại rằng giấy sẽ
rất dễ hư hỏng nếu lưu giữ tại các độ ẩm tương đối thấp.
Nghiên cứu cho thấy rằng giấy có thể được lưu giữa an
toàn ở độ ẩm tương đối khoảng 20%, hoặc 30% nếu phải
tăng độ ẩm lên; nên không nhất thiết phải lưu trữ ở
những độ ẩm từ 40-50% mới bảo đảm mục tiêu an toàn.
Đối với các chất liệu giấy da và phim ảnh, nên duy trì độ
ẩm tương đối thấp để tạo môi trường hoá học ổn định;
song những chất liệu này không được lưu giữ ở độ ẩm
dưới 30%. Đặc biệt, trong trường hợp giấy da, cần hết
sức lưu ý tránh thay đổi môi trường nhanh chóng vì điều
này có thể gây hư hỏng đối với đồ vật .
Việc kiểm soát môi trường rất tốn kém- vậy kết quả thu
được ở đây là gì?
Mặc dù giới lưu trữ, bảo tồn không thể thống nhất về
những tiêu chuẩn cụ thể đối với việc kiểm soát môi
trường khi lưu giữ những đồ vật làm từ giấy, song các
nhà quản lý vẫn đạt được sự nhất trí về một số kết luận
chung rút ra từ nghiên cứu, đó là:
- Nhiệt độ trên 70 độ F và độ ẩm tương đối trên 55-60%
sẽ kích thích nấm mốc và côn trùng phát triển.
- Quá trình hư hỏng sẽ gia tăng tại những thái cực môi
trường: độ ẩm cao làm gia tăng quá trình hình thành a-
xít; độ ẩm tương đối dưới 30% có thể gây hại cho giấy,
giấy da, chất kết dính, nhũ tương phim ảnh và các chất
liệu khác.
- Trong khoảng giới hạn này thì nhiệt độ và độ ẩm tương
đối càng thấp càng tốt, với điều kiện chúng không giao
động .
Bước đầu tiên nhằm hạn chế sự hư hỏng thông qua việc
quản lý môi trường tốt mà cơ quan lưu trữ cần chú trọng
là duy trì điều kiện môi trường ổn định trong suốt cả
năm, nhiệt độ không cao quá 70 độ F và độ ẩm tương đối
từ 30-50%. Đây là những giá trị được đưa ra trong cuốn
Nguyên tắc chỉ đạo về môi trường đối với việc lưu giữ
giấy tờ, một báo cáo kỹ thuật của Tổ chức Tiêu chuẩn
Thông tin Quốc gia. Báo cáo chỉ rõ rằng cần lựa chọn
một tiêu chí giá trị trong khoảng 30-50% đối với độ ẩm
tương đối, điều này phụ thuộc vào yếu tố nào hệ thống
kiểm soát môi trường của cơ quan đó có thể duy trì ổn
định lâu dài. Báo cáo lưu ý rằng nhiệt độ không nên thay
đổi vượt quá mức ±2 độ F và độ ẩm tương đối không nên
lên xuống quá mức ±3% trong vòng 24 tiếng đồng hồ.
Nếu kiểm soát được những dao động, sự tổn hại đối với
đồ lưu trữ sẽ chậm hơn đáng kể so với hàng loạt những
điều kiện lưu trữ hiện nay tại nhiều khu vực khác nhau
của Mỹ và Ca-na-đa.
Các cơ quan chịu trách nhiệm lưu trữ, bảo tồn lâu dài
phải được cấp kinh phí khi cần để có thể đạt được điều
kiện môi trường tối ưu. ít nhất, ở những nơi cần phải có
hệ thống sởi cho mùa đông dài, nhiệt độ cũng nên giữ
thấp ở mức nhân viên có thể chịu đựng được (giả thiết đã
đạt được độ ẩm tương đối như mong muốn). ở những nơi
nhiệt độ và độ ẩm mùa hè cao, cần để các đồ vật lưu trữ
có tầm quan trọng lâu dài trong phòng điều hoà.
Không có trường hợp nào cần phải tắt thiết bị kiểm soát
môi trường hay thay thế bằng máy điều chỉnh nhiệt dùng
vào ban đêm, cuối tuần hoặc trong những thời gian khác
khi phòng lưu trữ không hoạt động. Những thay đổi
nhanh chóng, lặp đi lặp lại khi thiết bị cố gắng chuyển
khu vực lưu trữ từ điều kiện "đóng cửa" sang điều kiện
"làm việc" gây ra áp lực lớn đối với các đồ vật lưu giữ ở
đây. ở một số khu vực, thời tiết khắc nghiệt và kinh tế
khó khăn buộc các cơ quan phải đóng cửa vào mùa đông.
Trong tình hình như vậy, không phải thời tiết lạnh gây
tổn hại tới đồ lưu trữ, mà chính độ ẩm dễ thay đổi trong
một toà nhà chưa thực sự được cách ly hay đóng kín để
ngăn không khí ùa vào. Các biện pháp nhằm đông hoá
các đồ lưu trữ đã được ứng dụng. Thêm vào đó, việc
kiểm soát độ ẩm mùa đông bằng cách hạ thấp hơi nóng
đồng thời sử dụng các thiết bị cảm biến về độ ẩm có thể
sẽ có tác dụng.
Nếu mùa đông quá khắc nghiệt, hệ thống sưởi trung tâm
có thể làm giảm đáng kể độ ẩm tương đối trong một toà
nhà. ở nơi có thể lắp đặt hệ thống tạo độ ẩm, thì nên lắp
hệ thống chạy bằng hơi nước, và luồng hơi phải sạch và
độc lập với các hệ thống khác. Hầu hết hệ thống sưởi
bằng hơi và nước nóng sử dụng các hoá chất chống ăn
mòn để các ống dẫn không bị hư hỏng. Những hoá chất
này có thể có hại cho nhân viên làm việc và đồ lưu trữ
nếu chúng bị phân tán trong không khí.
Dưới điều kiện độ ẩm cao kéo dài, thì mỗi điều hoà
không khí thông thường sẽ không đủ để làm giảm độ ẩm.
Vì vậy, cần theo dõi cẩn thận môi trường sử dụng điều
hoà. Các hoá chất hút ẩm cũng có thể đưa những hoạt
chất ráp gây hại vào không khí và chỉ nên sử dụng chúng
trong trường hợp khẩn cấp. Sẽ lý tưởng hơn nếu ta bổ
sung thêm một máy thổi mát.
Duy trì những điều kiện hoàn hảo là điều khó thực hiện
và tốn kém, đặc biệt ở khí hậu phía bắc chịu ảnh hưởng
của mùa hè nóng nực, ẩm ướt và mùa đông lạnh giá, khô
hanh. Hướng dẫn NISO đã chi tiết hoá các bước cho
phép nhiệt độ và độ ẩm tương đối từ từ tăng lên (tức là
thay đổi dần dần theo cùng một hướng) 3 độ F hay độ ẩm
tương đối 3% mỗi tháng, theo sự chuyển mùa. Sự dao
động tối đa cho phép hàng ngày là ±2 độ F và độ ẩm
tương đối ±3%. Việc theo dõi chặt chẽ là điều cần thiết
để phát hiện chính xác những thay đổi này.
Bằng cách nào để xác định liệu môi trường có đạt yêu
cầu không?
Cách duy nhất để biết môi trường nào đang tồn tại trong
toà nhà của bạn là đo và ghi lại nhiệt độ và độ ẩm tương
đối bằng các thiết bị được thiết kế để phục vụ cho mục
đích này. Điều này cần được tiến hành một cách có hệ
thống ở những nơi lưu trữ những đồ vật có giá trị lâu
dài. Một bản tường trình cụ thể, chính xác có thể giúp
việc kiểm soát môi trường không phải dự trù những giả
thuyết mà đi thẳng vào các bước đi hay mục tiêu mang
tính thực tế nhằm cải thiện điều kiện của kho lưu trữ hay
phòng trưng bày. Việc thuyết phục các nhà hoạch định
chủ chốt quan tâm tới môi trường hiện tại của toà nhà
cũng là việc làm cần thiết.
Cùng với việc lập hồ sơ về điều kiện môi trường hiện tại,
một chương trình theo dõi có thể hướng dẫn và ghi nhận
tác động của những thay đổi khi vận hành các thiết bị
kiểm soát môi trường sẵn có. Hệ thống sưởi, thông gió và
điều hoà không khí (HVAC) hiếm khi được sử dụng một
cách tối ưu, thậm chí cả khi tất cả các thiết bị này đã
được lắp đặt. Một kỹ sư chuyên bảo dưỡng toà nhà hay
nhà thầu phụ trách hệ thống HVAC có thể thường xuyên
cải thiện hoạt động của hệ thống, nếu luôn có những
thông tin cụ thể cho thấy tác động của việc thay mới các
bộ ổn nhiệt, bộ lọc khí, hay thậm chí sắp xếp lại đồ nội
thất để làm thông các lỗ thông hơi.
Nếu thiết bị kiểm soát môi trường được thiết kế nhằm
tạo ra những điều kiện lý tưởng, song các vấn đề vẫn
không giải quyết được bằng những sửa chữa đơn giản và
bảo trì thường xuyên, thì cần lấy lại sự cân bằng cho hệ
thống một cách có chuyên môn. Đây là một quá trình bao
gồm việc đo lại luồng khí và các đặc tính khác của hệ
thống HVAC; đòi hỏi phải có một kỹ sư kiểm soát môi
trường chuyên nghiệp có trình độ chuyên môn cao.
Nếu điều kiện không thể cải thiện được với thiết bị hiện
có, một chương trình theo dõi cần lập hồ sơ về tính chất
nghiêm trọng của vấn đề và đề xuất nhu cầu trang bị
thêm máy móc thiết bị. Trường hợp khả quan nhất thì
chương trình này sẽ chỉ rõ rằng thiết bộ kiểm soát môi
trường hiện có đang hoạt động tốt và đảm trách được
khối lượng công việc theo yêu cầu. Chương trình cũng
xác định ra những vấn đề nhất thời đôi lúc phát sinh.
Làm thế nào kiểm soát được môi trường?
Có rất nhiều thiết bị khác nhau sẵn có để đo nhiệt độ và
độ ẩm tương đối. Song có thể chia chúng thành hai loại:
loại có thể đo nhanh (như thông số về điều kiện môi
trường tại một thời điểm cụ thể) và loại đưa ra một dãy
thông số nối tiếp nhau về điều kiện môi trường. Mỗi cơ
quan cần phân tích nhu cầu và khả năng của từng đơn vị
để quyết định thiết bị theo dõi nào là phù hợp nhất. Dưới
đây là những thiết bị phổ biến nhất .
Thiết bị theo dõi nhanh gồm:
1- Nhiệt kế có thể cung cấp những thông tin chính xác về
nhiệt độ với giá khoảng 10 đô/chiếc. Nhiệt kế kiểm tra
dùng trong khoa học luôn có bán, song về mức độ chính
xác, một nhiệt kế tiêu chuẩn đo được cả điều kiện môi
trường sắp tới trong toà nhà sẽ thoả mãn thị hiếu của
người tiêu dùng. Hầu hết các thiết bị đo độ ẩm tương đối
đều có lắp đặt thêm một bộ cảm ứng nhiệt, vì độ ẩm
tương đối chỉ là một phần của nhiệt độ không khí chỉ
lượng hơi ẩm có trong không khí.
2- Dụng cụ đo độ ẩm kiểu đĩa số đơn giản luôn có bán tại
hầu hết các cửa hàng đồ điện với giá 15 đô hoặc thấp
hơn, là một cách tiết kiệm để đo độ ẩm tương đối, song
không nên sử dụng thiết bị này vì có thể không chính xác
và hầu hết đều không kiểm tra lại được. Chỉ ngoại trừ
dụng cụ đo độ ẩm đĩa số sử dụng “màng liên kết của
động vật” có độ chính xác cao hơn.
3- Dải băng hay thẻ màu chỉ độ ẩm là một thiết bị theo
dõi độ ẩm khác cũng có chi phí thấp (giá từ 1-5 đô/một
dải). Một số dải có thể lộn lại nên tái sử dụng được, trong
khi những loại khác chỉ dùng một lần. Dải băng chỉ độ
ẩm chỉ cung cấp những thông số áng chừng; để chắc
chắn, các thông số hiện thị chỉ ra các điều kiện môi
trường cực cao hoặc cực thấp.
4- Thiết bị đo độ ẩm treo dây (giá khoảng 100 đô) là thiết
bị ít tốn kém nhất có khả năng đo độ ẩm tương đối chính
xác. Gồm hai nhiệt kế đặt song song. Bầu nhiệt kết thứ
nhất được bọc bởi một chiếc bấc được người sử dụng
dùng nước cất làm ướt. Thiết bị này lúc lắc, mỗi giây
quay một vòng trong khoảng vài phút để lấy thông số
chính xác. Kết quả luồng không khí đi qua chiếc bấc ướt
sẽ làm mát nhiệt kế thứ hai, và sự khác biệt giữa nhiệt độ
của bầu khô và bầu ướt được sử dụng để đo độ ẩm tương
đối.
- Mặc dù điều kiện môi trường có thể được xác định nhờ
sử dụng thiết bị này (vài lần trong một ngày),...u rõ hoạt động của hệ thống
để bảo đảm rằng hệ thống họat động tốt.
Công việc chưa hoàn tất cho đến khi hệ thống đi vào vận
hành liên tục, và đây thuộc trách nhiệm của nhà thầu.
Không có bất cứ chủ thầu nào cố tình lắp đặt ra một hệ
thống không họat động được, song lại có nhiều chủ thầu
không dành thời gian cuối dự án để kiểm tranh công
trình do họ làm ra. Theo quan điểm của chủ thầu, không
có lý do gì để cho rằng một hệ thống sẽ không họat động
theo như thiết kế, vì ngày nào chủ thầu cũng theo dõi sát
quá trình thi công. Nhiều khi ngày trong ngày sử dụng
đầu tiên, người sử dụng đã phàn nàn rằng hệ thống lắp
đặt đã có vấn đề, chỉ vì không chạy thử kiểm tra hệ thống
trước khi đưa vào sử dụng.
Nếu không tiến hành việc chạy thử kiểm tra do một
chuyên gia không có mối liên hệ với chủ xây dựng, thực
hiện, thì cơ quan chủ quản có thể sẽ phải thời xuyên gọi
các chủ xây dựng cử người tới sửa chữa hệ thống mới
này. Cơ quan chủ quản không ý thức được tính phức tạp
của hệ thống, sẽ phó mặc mọi thứ cho các chủ xây dựng,
những người không có ý định tìm ra những thiếu sót
trong việc lắp đặt của họ. Nhà thiết kế, có thể không còn
ở đó, sẽ bị đổ lỗi vì những hỏng hóc của hệ thống, trong
khi chủ xây dựng "đang cố hết sức để phục hồi" nó. Việc
đổ lỗi này chỉ chấm dứt khi cơ quan chủ quản không thể
gắng sức nữa hoặc cho gọi nhà thiết kế hoặc một chuyên
gia tư vấn có chuyên môn khác, người đáng lẽ phải bắt
tay vào việc ngay sau khi hoàn thành việc lắp đặt.
Từ xưa tới nay, các cấu phần có nhiều rủi ro nhất trong
hệ thống máy móc lắp đặt mới là hệ thống cân đối lưu
lượng không khí và nước và hệ thống điều khiển tự động.
Chính vì thế, cần lưu tâm nhất tới những cấu phần này
trong giai đoạn khởi động/vận hành của bất kỳ dự án
nào.
Hệ thống cân đối
Thông thường, người tiến hành việc cân đối là các nhà
thầu phụ hoặc nhân viên của nhà thầu về máy móc, và
trách nhiệm của họ là bảo đảm lưu lượng không khí do
quạt thổi vào được đưa tới những không gian cụ thể với
số lượng và tỷ lệ đúng như trong thiết kế. Họ cũng phải
đảm bảo rằng lưu lượng nước do máy bơm cung cấp
được phân tới mỗi thiết bị theo đúng như yêu cầu, cho
phép thiết bị họat động tốt.
Người tiến hành cân đối sử dụng những công cụ đặc biệt
để kiểm tra và đo lưu lượng khí và nước, ngoài ra, họ còn
phải đệ trình một báo cáo lên nhà thiết kế sau khi đã
hoàn tất các quy trình cân đối nói trên. Đôi khi, nhà thiết
kế chỉ xem qua báo cáo và nhất trí rằng các chỉ số ghi
nhận đã đáp ứng những yêu cầu quy định trong thiết kế.
Nhà thiết kế thường không cho rằng họ có trách nhiệm
phải kiểm tra các kết quả ghi trong báo cáo. Vì lý do này,
những người tiến hành cân đối thường chỉ việc ghi lại
những thông số theo như yêu cầu mà không cần kiểm tra
tình hình thực tế. Nói thế thì cũng oan cho các nhà cân
đối có lương tâm, nhưng ta cũng nên cẩn trọng và luôn
giả sử rằng các bản báo cáo cân đối không chính xác
100%.
Việc kiểm tra chạy thử cũng cần có những thiết bị tương
tự như việc tiến hành cân đối và vì vậy, cần đầu tư thuê
chuyên gia tiến hành các cuộc chạy thử này. Cơ quan chủ
quản có thể thuê một nhà thầu độc lập không bị ảnh
hưởng gì đến kết quả thu được để tiến hành chạy thử
kiểm tra. Kết quả thu được ở đây sẽ đáng tin cậy hơn
nhiều so với kết quả của chủ thầu.
Việc kiểm tra ngẫu nhiên một vài máy khuếch tán hay
van điều tiết khí để so sánh với bản báo cáo cân đối sẽ
giúp cơ quan chủ quản cảm thấy tin tưởng vào độ chính
xác của toàn bộ bản báo cáo. Nếu kết quả kiểm tra ngẫu
nhiên phù hợp với bản báo cáo thì có thể không cần phải
kiểm tra từng đường dẫn khí ra vào. Ngược lại, nếu việc
kiểm tra ngẫu nhiên cho kết quả khác biệt lớn với báo
cáo, thì có thể cần kiểm tra lại từng thiết bị và tổng hợp
các kết quả mới này thành một báo cáo đưa cho người đã
tiến hành cân đối trước. Người tiến hành cân đối này sẽ
phải quay trở lại nơi thi công (mà không được hưởng bất
cứ khoản thanh toán bổ sung nào) để cân đối lại toàn bộ
hệ thống và đề trình lại một bản báo cáo sửa đổi. Qua đó,
người tiến hành cân đối sẽ ý thức được rằng cơ quan chủ
quản rất "nghiêm túc" với bản báo cáo cân đối (nhiều cơ
quan đã không có thái độ này) và làm việc chính xác ở
lần thứ hai. Người tiến hành cân đối độc lập sẽ còn được
gọi đến để tiến hành kiểm tra ngẫu nhiên số liệu báo cáo
sửa đổi cho đến khi cơ quan chủ quản yên tâm rằng hệ
thống đã được cân đối theo như thiết kế.
Điều này cũng được áp dụng đối với việc cân đối lượng
nước, mặc dù người cân đối lúc đầu thường thận trọng
khi cân đối lượng nước, bằng cách quy định một lượng
nước lớn hơn so với lượng nước theo như thiết kế vào
mỗi bộ phận thiết bị. Cách làm này dù sao vẫn tốt hơn so
với việc quy định lượng nước thấp hơn, vì chính các van
kiểm soát thông thường sẽ tự động điều chỉnh lưu lượng
nước vào thiết bị theo đúng quy định để đạt được điều
kiện môi trường lý tưởng. Tuy việc cân đối lượng nước
càng chính xác càng tốt, song nếu cân đối theo cách trên
cũng không gây hại cho hoạt động của hệ thống như việc
cân đối thừa lượng khí.
hệ thống điều khiển tự động
Bộ não của bất cứ hệ thống máy móc nào là hệ thống
điều khiển tự động. Vì thế, việc kiểm tra các bộ điều
khiển này hết sức quan trọng để bảo đảm rằng hệ thống
phù hợp với quy định chi tiết trong thiết kế. Đáng tiếc,
đây cũng là một công việc thường bị sao nhãng, một
phần do nhiều người không hiểu đầy đủ về các hệ thống
điều khiển. Nếu nhà thiết kế dự án cảm thấy không thoải
mái khi tiến hành kiểm tra các hệ thống điều khiển, thì ta
cần thuê một chuyên gia độc lập để thực hiện việc này.
Mỗi hệ thống điều khiển đều có sự khác biệt, đặc biệt với
các hệ thống điều khiển kỹ thuật số trực tiếp bằng máy
tính ngày nay (DDC), song nhà thiết kế hoặc chuyên gia
độc lập không cần phải thông thạo việc lập trình chi tiết
và các giao diện phần mềm của hệ thống được kiểm tra.
Nhà thầu cung cấp hệ thống điều khiển phải có mặt vào
lúc chạy thử kiểm tra để thao tác các chức năng cụ thể
của hệ thống theo yêu cầu của người kiểm tra, và quy
định này cần được ghi rõ trong bản thiết kế.
Việc khởi động/vận hành hệ thống điều khiển bao gồm 3
bước sau đây
+ Cài đặt thông số
Mọi bộ cảm ứng, đặc biệt là bộ cảm ứng nhiệt độ và độ
ẩm tương đối, phải được cải đặt thông số phù hợp để bảo
đảm cung cấp đúng các thông số về điều kiện môi trường
thực tế. Quá trình này có thể mất nhiều thời gian, nhưng
đơn giản và chỉ cần dùng một máy đo độ ẩm treo dây do
một người sử dụng có kinh nghiệm vận hành.
Để đảm báo điều khiển lưu lượng không khí phù hợp
theo các mục tiêu về áp suất hay chất lượng khí trong
phòng, nhất thiết ta phải cài đặt thông số cho bộ cảm ứng
đo lưu lượng khí phù hợp với vị trí lắp đặt. Điều này đòi
hỏi sự hợp tác của người cân đối khí để so sánh thông số
về lưu lượng khí trên thực tế với kết quả hiển thị trên bộ
cảm ứng.
Lá chắn tự động cũng cần cài đặt thông số để bảo đảm
họat động phù hợp với yêu cầu của hệ thống điều khiển.
Nếu những lá chắn khí bên ngoài được đặt thông số ở
mức quy định tối thiểu trong giờ cao điểm nhằm bảo
đảm sự lưu thông gió tốt, thì một lần nữa ta cần nhắc
nhở người cân đối khí xác định chính xác lại chương
trình họat động của lá chắn sao cho phù hợp với lưu
lượng khí bên ngoài.
Các van tự động đối với các quá trình làm nóng, làm mát
và tạo ẩm cũng cần đặt thông số để bảo đảm họat động
của các thiết bị này đáp ứng yêu cầu của hệ thống điều
khiển. Một vấn đề quan trọng nữa là việc phối hợp họat
động của nhiều van khác nhau nhằm đảm bảo quá trình
làm nóng và làm mát không xảy ra đồng thời, trừ những
trường hợp do hệ thống điều khiển quy định rõ.
+ Chạy thử
Quy trình chạy thử bao gồm việc "khởi động" các bộ
phận của hệ thống điều khiển. Việc này còn bao gồm cả
việc thay đổi các thông số điều khiển tự động và quan sát
bằng mắt thường sự điều chỉnh của các van và lá chắn.
Việc chạy thử cũng nên vượt quá các thông số giới hạn,
như vào ban ngày và lúc cao điểm, để người chạy thử có
thể quan sát các động cơ quạt khởi động, ngừng họat
động hoặc thay đổi tốc độ. Một quy trình chạy thử có thể
được triển khai với từng chiến lược của hệ thống điều
khiển được ghi rõ trong thiết kế nhằm bảo đảm hệ thống
họat động tốt trong hầu hết mọi điều kiện môi trường.
Thông qua việc vận hành hệ thống với các mức độ khác
nhau trong quy trình chạy thử, cơ quan chủ quản sẽ
lường trước được mọi vấn đề có thể xảy ra đối với hệ
thống điều khiển sau khi đã chính thức tiếp quản công
trình. Điều này thấy rõ nhất với hệ thống điều khiển vận
hành được vào mùa hè nhưng không họat động được vào
mùa đông. Họat động vào mùa hè có thể tốt, nhưng nếu
ta không chạy thử kiểm tra kỹ càng thì cũng không thể
nói trước điều gì sẽ xảy ra khi chuyển mùa. Đến lúc đó,
nhà thầu cung cấp hệ thống điều khiển có thể đã kết thúc
công trình từ lâu và không còn động cơ tài chính nào
buộc họ phải giúp cải thiện hệ thống nữa. Và hiển nhiên
là những vấn đề tương tự cũng sẽ xảy ra với hệ thống vận
hành vào mùa đông nhưng không được chạy thử kiểm
tra họat động trong mùa hè.
Những sai sót không lường trước trong họat động của hệ
thống điều khiển sẽ gây hại cho các đồ vật lưu trữ. Chính
vì thế, bắt buộc ta phải đưa hệ thống vào thử nghiệm
trong mọi điều kiện môi trường, dù đó là điều kiện thực
tế hay nhân tạo, trước khi đưa vào sử dụng chính thức.
+ Vi chỉnh
Công việc vận hành cuối cùng là vi chỉnh hệ thống điều
khiển. Việc này gồm điều chỉnh các thông số của hệ
thống theo đúng yêu cầu để đạt được độ chính xác và tốc
độ phản ứng lý tưởng. Một lần nữa, do mỗi hệ thống có
sự khác biệt, nên việc này phải do nhà thầu về hệ thống
điều khiển thực hiện, song nhà thiết kế phải kiểm tra kết
quả.
Nói một cách đơn giản, việc điều khiển một thiết bị đơn
lẻ, như van nước nóng, rút lại thành một công thức toán
học với một vài tham số có thể thay đổi để đạt được
những đặc tính khác nhau trong vận hành. Ví dụ như hệ
thống điều khiển nhận tín hiệu đầu vào từ một bộ cảm
ứng nhiệt độ và so sánh tín hiệu đó với thông số quy định
được đặt sẵn cho bộ cảm ứng đó. Nếu tín hiệu đó chỉ ra
rằng nhiệt độ thực tế thấp hơn so với mức quy định, thì
hệ thống điều khiển truyền một tín hiệu đầu ra cho van
nước nóng, buộc van đó phải mở ra ở một mức nhất định
để cung cấp thêm hơi nóng.
Biểu độ ở hình 2 mô tả tín hiệu đầu vào (nhiệt độ) trên
trục tung ứng với từng thời điểm trên trục hoành cùng
các giá trị tham số khác nhau theo công thức của hệ
thống điều khiển. Đường Cong điều khiển #1 cho thấy
một phản ứng nhanh, với những dao động lớn không tốt
xung quanh mức nhiệt độ quy định. Đường Cong điều
khiển #2 cho thấy một công thức triệt tiêu sự dao động
xung quanh mức quy định, song phản ứng lại quá chậm.
Đường Cong điều khiển #3 cho thấy một công thức điều
khiển "lý tưởng" cho phép phản ứng nhanh không cần
phải điều chỉnh (tức là không để xảy ra sự vượt mức). Sự
vượt mức là hiện tượng trong đó tạo ra một điều kiện
môi trường vô cùng đặc biệt, khiến hệ thống phản ứng
một cách thái quá khi đưa ra sự điều chỉnh. Trong
trường hợp này, các điều kiện môi trường dao động lên
xuống giữa hai thái cực trước khi dần dần đạt tới thông
số lý tưởng, như minh họa ở Đường Cong điều khiển #1.
Các bản thiết kế cần cụ thể những giới hạn trên và giới
hạn dưới, như nhiệt độ ±1 độ F, độ ẩm tương đối ±3%...
Chính nhà thầu cung cấp hệ thống điều khiển có trách
nhiệm xác định các thông số cần thiết để đạt được sự
phản ứng nhanh nhất trong phạm vi những giới hạn đó.
Đây thường là một quá trình gian khó, mất nhiều thời
gian, mầy mò và phải vận dụng phương pháp thử-sai.
Nhiều nhà thầu thường lướt qua, sử dụng những thông
số định sẵn theo kinh nghiệm. Những thông số này có thể
sử dụng được tại các toà nhà thương mại thông thường,
những nơi mà việc kiểm soát môi trường chặt chẽ có
không tầm quan trọng lớn, song các nhà thầu phải hiểu
rằng họ cần phải vi chỉnh hệ thống điều khiển đạt mức
tối ưu để ứng dụng phù hợp vào các viện bảo tàng hay
kho tư liệu.
Họat động bình thường
Khi hệ thống máy móc đã được lắp đặt, chạy thử và vi
chỉnh, họat động theo như thiết kế, thì lúc này cơ quan
chủ quản có toàn quyền quyết định và tự chịu trách
nhiệm với hệ thống này. Vào thời điểm này, cơ quan chủ
quản có thể thấy túng thiếu về tài chính, sau khi ngân
sách đã chi gần hết cho những cải tạo lớn, song đây
không phải là lúc để tiết kiệm. Để bảo đảm hệ thống mới
vận hành tốt liên tục và các bộ phận trong đó đạt tuổi thọ
tối đa, cơ quan phải quan tâm tới quá trình họat động
sau này của hệ thống. Mức độ quan tâm cần thiết phụ
thuộc vào tính phức tạp của hệ thống, song thậm chí với
những thiết bị và hệ thống điều khiển đơn giản nhất, ta
cũng cần bảo dưỡng, lau chùi và cài đặt thông số định kỳ.
Nếu cứ bỏ mặc các thiết bị tự hoạt động, thì mới đầu hệ
thống có vẻ hoạt động tốt cho đến khi xảy ra trục trặc
lớn hoặc môi trường ở một hoặc một vài không gian đã
xuống cấp, cách quá xa so với các thông số quy định,
buộc cơ quan chủ quản phải lưu tâm tới. Đến lúc đó, việc
cứu vãn tình hình sẽ đòi hỏi nỗ lực và chi phí lớn, vì hệ
thống có thể nảy sinh vô số trục trặc. Bên cạnh đó, tổng
chi phí thực tế nằm ngoài dự tính và tài chính không thể
sẵn có để đưa hệ thống quay trở lại trạng thái họat động
ban đầu "theo như thiết kế", và khi đó cơ quan chủ quản
sẽ đối mặt với khả năng mất đi lợi ích của dự án xây
dựng hay nâng cấp vừa hoàn thành. Để tránh hậu quả
này, ta cần dành ra một khoản ngân sách để bảo dưỡng
tốt thiết bị mới.
Một trong những biện pháp hữu hiệu lại tốn ít chi phí
nhất để có được một hệ thống luôn vận hành ở mức tối
đa là ít nhất có một nhân viên thông thạo và đáng tin
cậy, chịu trách nhiệm về thiết bị. Người này, như chúng
ta thường gọi là Điều hành viên Hệ thống Máy móc, có
thể là nhân viên kiêm nhiệm, hay chuyên gia tư vấn, hoặc
nhà thầu dịch vụ sửa chữa, hay kết hợp sử dụng cả ba
người trên. Công việc bao gồm: thường xuyên theo dõi,
bảo dưỡng và sửa chữa hệ thống máy móc. Chỉ trừ đối
với những hệ thống lắp đặt lớn nhất, công việc này không
nhất thiết cần một biên chế riêng.
Một chương trình bảo dưỡng tốt phải lường trước được
những trục trặc trước chúng trở nên nghiêm trọng. Điều
này có thể thực hiện được nếu theo dõi, ở mức độ tối
thiểu, những đặc tính sau đây của hệ thống:
Theo dõi nhiệt độ và độ ẩm tương đối trong không gian
Công việc này phải thực hiện ở bất cứ nơi nào đòi hỏi có
các điều kiện môi trường được kiểm soát chặt chẽ. Điều
hành viên hệ thống máy móc cần thường xuyên kiểm tra
các thông số ghi nhận, phát hiện các dấu hiệu cho thấy hệ
thống có chiều hướng xuống cấp. Nắm được những thông
tin này, điều hành viên có thể thay đổi các bộ lọc, lau
chùi các ống bảo ôn và bảo nhiệt, cài đặt lại thông số đối
với hệ thống điều khiển..., trước khi các điều kiện môi
trường tiến triển theo hướng xấu hơn và có thể gây tổn
hại cho đồ lưu giữ trong không gian đó.
Theo dõi các hóa đơn thanh toán về năng lượng
Điều hành viên phải có trong tay tất cả các hóa đơn
thanh toán tiên điện, ga và dầu của cơ quan. Bằng cách
theo dõi việc tiêu thụ năng lượng hàng tháng và năm,
điều hành viên sẽ biết được đâu là mức tiêu thụ "bình
thường" và nhanh chóng xác định ra các mức bất
thường ở đây có thể là biểu hiện của một trục trặc ở bên
trong thiết bị. Những bất thường này sẽ được kiểm tra và
xử lý trước khi chúng gây ảnh hưởng đến môi trường.
Theo dõi tình trạng các bộ lọc
Thông qua việc thường xuyên theo dõi tình trạng của các
bộ lọc rác thể rắn và bộ lọc khí bẩn, điều hành viên sẽ
biết chính xác loại bộ lọc nào cần thay thế. Việc theo dõi
bộ lọc rác thể rắn rất đơn giản và chỉ cần lắp đặt và theo
dõi thường xuyên đồng hồ đo áp suất chênh lệch qua mỗi
thành bộ lọc. Nếu bộ lọc bị bẩn, không khí sẽ khó lưu
thông qua bộ lọc, làm áp suất tại thành bên kia bộ lọc
giảm đi.
Các bộ lọc rác thể rắn: Nếu không có các thông tin chính
xác hơn, thì ta có thể dựa vào các gợi ý về giới hạn áp
suất chênh lệch cho bộ lọc ở mức tối đa của nhà sản xuất,
nhưng cách tốt nhất là ta biết được cụ thể mức giảm áp
suất mà nhà thiết kế áp dụng đối với từng bên của bộ lọc.
Vì mức tối đa theo gợi ý của nhà sản xuất thường khá
cao, còn theo nhà thiết kế không phải tất cả các bộ lọc
đều bẩn với từng kích cỡ quạt cụ thể. Khi áp suất qua bộ
lọc giảm vượt quá mức tối đa theo quy định trong thiết
kế, lượng không khí đưa vào hệ thống sẽ giảm, và vì vậy,
hạn chế khả năng làm nóng, làm mát, tạo ẩm và hút ẩm
của hệ thống.
Một lý do khác là ta không nên đợi cho đến khi các bộ lọc
thật bẩn mới thay chúng. Vì khi đó, bụi bẩn có thể đã
chui qua bộ lọc vào ống dẫn trong lúc thay thế và thổi
vào môi trường không gian. Điều này rõ ràng có thể
tránh được. Dựa vào chủng loại bộ lọc, vị trí lắp đặt và
chất lượng không khí xung quanh, bộ lọc rác thể rắn có
thể họat động tốt trong khoảng thời gian từ 3 đến 6
tháng.
Bộ lọc khí bẩn: Việc theo dõi và bảo dưỡng bộ lọc khí
bẩn phức tạp hơn và phụ thuộc vào chủng loại bộ lọc.
Các khay lọc than hoạt tính thông thường đòi hỏi phải
kiểm tra mẫu than họat tính định kỳ, thường do nhà sản
xuất thực hiện, mới quyết định được tuổi thọ của bộ lọc.
Khi than họat tính đã "qua sử dụng", nghĩa là đã hết
khả năng hút chất bẩn, thì phải thay mới than họat tính
trong khay. Các chủng loại bộ lọc khác cũng đòi hỏi quy
trình xử lý khác nhau mới quyết định được khi nào
chúng cần phải thay thế hay thay mới chất liệu lọc. Và
không có chủng loại nào có quy trình theo dõi đơn giản
như bộ lọc rác thể rắn. Các bộ lọc khí bẩn thường dùng
được tối thiểu là một năm, thậm chí còn lâu hơn, tùy theo
chất lượng không khí xung quanh và loại chất bẩn mà
chúng hấp thu.
Theo dõi họat động của hệ thống điều khiển
Hệ thống điều khiển tự động cũng đòi hỏi có sự quan tâm
thường xuyên nhằm bảo đảm rằng hệ thống vẫn họat
động theo như thiết kế. Ta cần bảo đảm rằng điều hành
viên có hiểu biết cơ bản về hệ thống điều khiển, song
người này không nhất thiết phải là một chuyên gia về lập
trình và điều chỉnh các hệ thống điều khiển. Người này
chỉ cần có kiến thức đủ để phát hiện và thông báo chính
xác về các sự cố cho nhà thầu cung cấp thiết bị điều
khiển hay nhà thầu dịch vụ sửa chữa khác. Việc theo dõi
hệ thống điều khiển đang vận hành cũng tương tự như
những việc cần làm trong giai đoạn khởi động/vận hành,
đó là kiểm tra các bộ cảm ứng đã được cài đặt thông số
chưa và tất cả các thiết bị có họat động tốt không. Các
vấn đề trục trặc thường được phát hiện khi điều kiện
môi trường đã xuống cấp, song khi đó một số đồ vật lưu
trữ đã bị hư hỏng. Do vậy, nhất thiết ta phải chú trọng
đến công tác bảo dưỡng dự phòng hơn là bảo dưỡng sửa
chữa.
Cải tạo
Điểm cuối cùng cần lưu ý đối với giai đoạn "Họat động
bình thường" của một hệ thống được áp dụng đối với
những thay đổi phát sinh về không gian và/hoặc hệ
thống. Ta có thể lường trước rằng việc sử dụng và bố cục
không gian sẽ thay đổi nhiều lần trước khi một hệ thống
xây dựng hay máy móc được thay thế hoặc nâng cấp
toàn diện. Vì thế, những thay đổi này phải thận trọng
nhằm đảm bảo không khiến cho toàn bộ họat động theo
như thiết kế của hệ thống trở nên vô ích.
Hệ thống máy móc cần điều chỉnh cho phù hợp với hầu
hết những thay đổi về mặt kiến trúc, song những người
lên kế hoạch cho một cải tạo "nhỏ" thường không chú ý
tới thực tế này. Thiết bị máy móc thường ở ngoài tầm
mắt họ, nên cũng không khiến họ phải để tâm tới. Vấn đề
này có thể dễ dàng tránh được, khi có một Điều hành
viên Hệ thống Máy móc chịu trách nhiệm trông coi thiết
bị. Điều hành viên này cần được tham khảo ý kiến khi
xác định tác động của việc cải tạo lên hệ thống trong
tương lai, khả năng phục vụ của hệ thống trong những
không gian mới, và liệu có cần thêm chuyên gia, như kỹ
sư thiết kế, tư vấn cho việc cải tạo này không.
Kết luận
Tóm lại, những ai hết sức quan tâm tới thành quả cuối
của của bất kỳ dự án nào cũng đều sử dụng và đặt hy
vọng vào những hệ thống máy móc được xây dựng mới
hoặc cải tiến này. Hợ sẽ có lợi thế nếu tham gia vào quá
trình thiết kế và theo sát các quá trình thi công, khởi
động/vận hành và họat động bình thường vốn có trong
tất cả các dự án xây dựng. Đây có thể không phải là
trách nhiệm của cơ quan chủ quản, song đây là cách tốt
để biết rõ thực trạng tiến trình dự án và đưa ra những
câu chất vấn đúng lúc khi ta cần nhắc nhở những người
có trách nhiệm.
Những công việc được đề cập đến ở đây có thể vận dụng
cho mọi dự án xây dựng, không chỉ với việc xây mới cơ
bản. Những công việc này cũng cần được áp dụng lại với
việc cải tạo sau này, dù là nhỏ đến đâu. Trên thực tế, việc
cơ quan chủ quản tham gia tích cực vào công trình cải
tạo "nhỏ" thậm chí còn có tầm quan trọng hơn, vì công
trình càng nhỏ thì càng dễ bị các nhà thiết kế và nhà
thầu xây dựng xem nhẹ.
Mặc dù mỗi dự án xây dựng có những khác biệt riêng,
song chúng đều vốn có hàng lọat các vấn đề và sức ép
tương tự, những đề xuất của tài liệu này có thể áp dụng
chung cho mọi công trình. Điều quan trọng là với tư cách
là người sẽ làm việc trong không gian đang được thi
công, ta phải hiểu rõ quá trình thi công tại đó và quyền
được đòi hỏi đối với chất lượng nghiệm thu. Nắm được
điều này, bất kỳ một cơ quan chủ quản nào cũng sẽ tỉnh
táo yêu cầu dứt điểm rằng hệ thống phải được lắp đặt và
vận hành theo đúng thiết kế.
Nguồn cung cấp thiết bị và dịch vụ sửa chữa
Nguồn cung cấp thiết bị sẽ tùy thuộc vào quy định cụ thể
và kinh nghiệm của nhà thiết kế. Ta cần khẳng định chắc
chắn rằng dịch vụ sửa chữa và cung cấp linh kiện thiết bị
luôn sẵn có tại địa phương. Thâm niên tham gia họat
động kinh doanh của công ty, xếp hạng của họ tại Cục
Chất lượng Doanh nghiệp và kinh nghiệm của nhà thiết
kế cũng như chủ thầu xây dựng với thiết bị sản phẩm là
những thông tin hữu ích hướng dẫn cho việc lựa chọn.
Ngoài ta, ta cũng có thể tham khảo thêm ý kiến các cơ
quan khác đã từng lắp đặt những thiết bị hay hệ thống
tương tự, và việc này chỉ cần thực hiện bằng một cuộc gọi
đến những cơ quan đó.
Ta cũng nên tham khảo đề xuất về việc thuê một bên độc
lập phụ trách việc kiểm tra và chạy thử từ một cơ quan
khác có kinh nghiệm trong một dự án tương tự. Một hiệp
hội bảo tàng trong vùng hay một chi cục bảo tồn lâu năm
cũng sẽ cho ta những gợi ý tốt
Tác giả: Beth Lindblom Patkus, Chuyên gia tư vấn bảo tồn,
Walpole, MA.
Giới thiệu
Ánh sáng là nguyên nhân phổ biến gây hư hại cho các bộ
sưu tập ở thư viện và cơ quan lưu trữ. Giấy, bìa sách và
các vật phẩm (mực, chất bắt sáng trên mặt tấm ảnh,
thuốc nhuộm, chất sắc tố và nhiều vật liệu khác được sử
dụng để tạo nên chữ viết và hình ảnh) đặc biệt nhạy cảm
với ánh sáng. ánh sáng gây hư hại bằng nhiều cách. Nó
có thể làm giấy phai màu, ố vàng hay xỉn đen; làm yếu và
giòn các sợi cellulose cấu tạo nên giấy. Nó khiến cho các
vật phẩm và chất nhuộm trong tài liệu, ảnh và các tác
phẩm nghệ thuật bị nhạt màu hoặc đổi màu. Hầu hết
chúng ta đều nhận thấy sự phai màu là do ánh sáng gây
ra, nhưng đó chỉ là dấu hiệu bề ngoài của những gì mà
ánh sáng gây ra đối với cấu trúc vật lý và cấu trúc hoá
học của những vật thể sưu tập. Ánh sáng cung cấp năng
lượng cho những phản ứng hoá học có hại. Mọi người
đều biết rằng tia cực tím (UV) có tính huỷ hoại đáng kể,
nhưng cũng cần phải nhớ thêm rằng mọi ánh sáng đều có
tác hại. ảnh hưởng của ánh sáng mang tính tích luỹ và
không thể đảo ngược.
Bản chất của ánh sáng
Ánh sáng là một dạng năng lượng điện từ gọi là bức xạ.
Những bức xạ chúng ta biết đến trong khoa học nguyên
tử ở những bước sóng ngắn hơn nhiều so với quang phổ
ánh sáng; sóng radio là những bước sóng dài hơn nhiều.
Ánh sáng hữu hình (là dạng bức xạ mà chúng ta có thể
nhìn thấy) nằm ở phần giữa của bảng quang phổ điện từ.
Quang phổ hữu hình nằm trong khoảng 400-700nm
(nanomét: là đơn vị đo bức xạ). Tia cực tím nằm ở phần
sóng ngắn ở cuối quang phổ hữu hình (dưới 400nm). Tia
hồng ngoại nằm ở phía cận trên của bước sóng dài
nhưng mắt thường không thấy được. Loại ánh sáng này
cũng gây nguy hiểm cho các bộ sưu tập.
Ánh sáng gây huỷ hoại như thế nào?
Năng lượng ánh sáng được các phân tử bên trong một
vật thể hấp thụ mà sự hấp thụ này có thể gây ra nhiều
phản ứng hoá học, và tất cả các phản ứng hoá học này
đều gây ảnh hưởng xấu đến giấy. Thuật ngữ chỉ quá
trình này là suy thoái quang hoá. Mỗi phân tử trong vật
thể cần một lượng năng lượng tối thiểu để bắt đầu phản
ứng hoá học với các phân tử khác. Nó được gọi là năng
lượng kích hoạt. Các loại phân tử khác nhau có nguồn
năng lượng kích hoạt khác nhau.
Hình 1: Các bảng quang phổ điện từ (trích từ các tài
liệu: “Chiếu sáng hợp lý trong trưng bày: Bảo vệ các bộ
sưu tập tránh hư hại” (Proper Exhibition Lighting:
Protections Collections from Damage) của Susan E.
Weiss, Technology & Conservation xuất bản (Xuân 1977)
Nếu như năng lượng ánh sáng tự nhiên hay ánh sáng
nhân tạo bằng hoặc vượt quá năng lượng kích hoạt cần
thiết của một loại phân tử nhất định thì phân tử đó được
kích hoạt và có thể tạo ra các phản ứng hoá học. Khi đó,
phân tử sẽ hoạt động theo nhiều cách khác nhau. Năng
lượng vượt trội này được thể hiện dưới dạng nhiệt hoặc
ánh sáng; năng lượng này cũng có thể phá vỡ nhiều mối
liên kết bên trong phân tử (điều này sẽ tạo ra các phân tử
nhỏ hơn và gây hậu quả xấu cho giấy); nó cũng có thể
gây ra sự sắp xếp lại các nguyên tử cấu tạo nên phân tử;
hoặc là năng lượng này sẽ được chuyển giao sang một
phân tử khác. Một trong những phản ứng quang hoá
chính là ôxi hoá, trong đó phân tử được kích hoạt sẽ
chuyển giao năng lượng của nó cho một phân tử ôxi,
phân tử ôxi này sẽ phản ứng với các phân tử khác để bắt
đầu các phản ứng gây hại. Mặc dù các khả năng xảy ra
vô cùng đa dạng nhưng chúng đều có cùng hậu quả là
gây hư hại cho tài liệu.
Những bước sóng ngắn hơn (như tia cực tím) có tần suất
dày hơn (xuất hiện gần nhau hơn) cũng như mang nhiều
năng lượng hơn so với các bước sóng dài. Điều này có
nghĩa là chúng tấn công vật thể với nhiều năng lượng
hơn, trong một thời gian ngắn hơn và năng lượng của
chúng đạt hoặc vượt quá năng lượng kích hoạt cần thiết
đối với nhiều loại phân tử khác nhau. Do vậy, chúng
khiến tác động quang hoá xảy ra nhanh hơn và gây hậu
quả lớn hơn. Nếu như các bước sóng dài hơn về phía
phần màu đỏ của bảng quang phổ thì chúng sẽ có ít năng
lượng hơn, tần suất giảm đi và khả năng “kích hoạt”
phân tử cũng suy yếu.
Cần ghi nhớ rằng ngay cả những ánh sáng có bước sóng
dài cũng gây hại cho giấy và các vật liệu khác. Tia hồng
ngoại tạo ra năng lượng làm tăng nhiệt độ của vật thể và
điều này sẽ làm gia tăng tốc độ các phản ứng hoá học gây
hại sẵn có trong giấy.
So sánh Tia cực tím và ánh sáng hữu hình>
Vì bức xạ cực tím là dạng ánh sáng có nhiều năng lượng
nhất và có sức tàn phá lớn nhất nên chúng ta có thể cho
rằng nếu loại trừ được tia cực tím thì ánh sáng hữu hình
sẽ chỉ còn là vấn đề nhỏ. Điều này không đúng vì ánh
sáng ở mọi bước sóng đều tạo ra những huỷ hoại đáng
kể.
Trên thực tế, tia cực tím dễ dàng bị loại trừ khỏi các khu
vực lưu trữ hoặc trưng bày do mắt chúng ta không thấy
được ánh sáng này. Còn ánh sáng hữu hình thì rắc rối
hơn nhiều và chúng cần phải được loại trừ ra khỏi khu
vực lưu trữ càng triệt để càng tốt, cũng như chúng cần
được kiểm soát cẩn thận ở những khu vực khác.
Các nguồn ánh sáng
Có 2 nguồn ánh sáng là tự nhiên và nhân tạo. Các thư
viện và cơ quan lưu trữ cần phải tránh các ánh sáng tự
nhiên. Ánh sáng mặt trời có tỷ lệ tia cực tím cao. Ánh
sáng ban ngày sáng hơn và có cường độ mạnh hơn nên
gây hư hại nhiều hơn so với hầu hết các dạng ánh sáng
nhân tạo.
Hai nguồn ánh sáng nhân tạo hiện đang được sử dụng
trong các thư viện, bảo tàng và lưu trữ là đèn nóng sáng
và đèn huỳnh quang. (Thuật ngữ “đèn” được các kỹ sư
và kiến trúc sư sử dụng để chỉ nhiều dạng bóng đèn khác
nhau chứ không bao gồm cả phần khung và chụp đèn.
Do yêu cầu tiết kiệm năng lượng và giảm chi phí, các nhà
sản xuất đã và đang tiếp tục hoàn thiện công nghệ sản
xuất đèn để tạo ra các sản phẩm bền, tốn ít năng lượng
và tạo ánh sáng tốt hơn. Các loại đèn huỳnh quang
compact, đèn vonfram-halogen, đèn chiếu rọi (HID), đèn
không điện cực đã ra đời từ những yêu cầu đó.
Đèn nóng sáng kiểu truyền thống phát sáng khi có một
nguồn điện truyền qua dây tóc bằng vonfram của bóng
đèn, đốt nóng dây tóc đó đến nhiệt độ 2700°C. Đèn nóng
sáng chỉ chuyển đổi một lượng nhỏ điện năng thành ánh
sáng, phần còn lại bị biến thành nhiệt năng. Loại đèn
nóng sáng truyền thống tạo ra rất ít tia cực tím và do vậy
không cần bộ phận lọc UV. Chúng gồm có các dạng bóng
đèn tròn thông thường được sử dụng trong gia đình và
nhiều loại đa dạng được dùng để chiếu sáng trong trưng
bày như đèn phản quang R, đèn phản quang elip ER và
đèn phản quang mạ nhôm parabol PAR.
Đèn vonfram-halogen (còn được gọi là đèn thạch anh) là
biến thể của loại đèn nóng sáng truyền thống. Bên trong
1 bóng đèn thạch anh có chứa khí halogen để đèn được
cháy sáng hơn và lâu hơn. Loại đèn này tạo ra lượng tia
cực tím đáng kể và cần phải có bộ phận lọc. Các bộ phận
lọc khá đắt và nơi lắp đặt chúng cần được thiết kế đặc
biệt để có thể hài hoà với bộ phận lọc. Đèn vonfram-
halogen cũng được sử dụng để chiếu sáng nơi trưng bày,
như các loại đèn Halogen PAR và đèn gương phản quang
MR.
Đèn huỳnh quang là loại đèn có hơi thuỷ ngân bên trong
một bóng đèn thuỷ tinh. Mặt trong của bóng đèn này
phủ một lớp bột huỳnh quang. Khi dòng điện đi qua đèn
(qua dây tóc), hơi thuỷ ngân sẽ tạo ra bức xạ UV. Lớp
...áng có cường độ thấp
cũng làm hư hại giấy nếu như thời gian tiếp xúc kéo dài.
Bởi vậy, những người làm công tác bảo quản cần lưu ý
rằng các hiện vật có giá trị không được thường xuyên
trưng bày.
Ánh sáng tự nhiên (ánh sáng ban ngày) đặc biệt nguy
hại:
Cần tránh việc tiếp xúc với ánh sáng tự nhiên do cường
độ và lượng UV trong ánh sáng tự nhiên rất cao. Nếu
như ở khu vực trưng bày có cửa sổ thì chúng cần được
che phủ bằng các loại màn/ mành chắn vào ban ngày.
Ngoài ra, các bộ phận lọc tia cực tím cũng cần phải được
lắp đặt để kiểm soát sự tàn phá của nó.
Các tấm màng lọc UV hiện có ở dạng màng nhựa hoặc
tấm phủ. Các tấm màng thường có chất acetate (muối
hoặc este từ axit axêtic), dễ dàng dùng kéo để cắt và dán
trực tiếp vào các cửa sổ hay hộp chứa. Những tấm màng
UV màu cũng có tác dụng làm giảm mức độ ảnh hưởng
của ánh sáng. Mặc dù màng UV ít tốn kém hơn tấm chắn
UV nhưng chúng lại thiếu tính thẩm mỹ hơn và sau khi
dùng khó tháo bỏ. Hiện tại, ta vẫn chưa biết là các tấm
màng UV có tác dụng trong thời gian bao lâu mặc dù các
thử nghiệm không chính thức đã chỉ ra rằng chúng có
tuổi thọ rất hạn chế. Cách duy nhất để xác định xem tấm
màng còn có tác dụng lọc tia UV hay không là dùng
thước đo UV (xem phần sau) để đo ánh sáng truyền qua.
Các tấm lọc UV có thể được dùng ở cửa sổ, hộp hoặc
khung trưng bày. Chúng tồn tại dưới dạng kính hoặc các
tấm chứa axit acrylic. Từ vài thập kỷ nay, các cơ quan
bảo tàng đã sử dụng sản phẩm UF- 3 Plexiglas chứa
acrylic do hãng Rohm và Haas sản xuất. Gần đây, một số
hãng khác đã bắt đầu giới thiệu các tấm acrylic hoặc tấm
kính lọc UV. Khi lựa chọn các sản phẩm này cần kiểm
tra xem công suất lọc UV của chúng có lớn hơn 90% hay
không, do một số tấm acrylic và hầu hết các loại kính có
ít hoặc hầu như không có khả năng lọc tia UV. Thông
thường, các loại kính không tráng không có khả năng lọc
UV mặc dầu những sản phẩm không tráng khác vẫn có
khả năng này.
Trước khi lắp đặt các tấm acrylic ở cửa sổ cần kiểm tra
để đảm bảo rằng các quy định cứu hoả không bị vi
phạm. Các tấm lọc này được sử dụng như một tấm chắn
thứ hai ở cửa sổ. Nó được lắp đặt ở bên trong tương tự
như cửa chớp, và có tác dụng chắn nhiệt cũng như lọc tia
UV. Nếu như vấn đề tài chính không cho phép lắp đặt
theo kiểu này, thì ta có thể dùng móc treo những tấm này
ở phía bên trong cửa sổ. Kiểu này chỉ hiệu quả khi tấm
treo lớn hơn lớp cửa kính của cửa sổ để đảm bảo rằng
mọi ảnh hưởng từ bên ngoài vào đều được sàng lọc.
Nếu như dùng sơn trắng chứa titanium dioxide trên
tường và trần nơi trưng bày thì cũng giúp giảm bớt một
lượng tia UV nhất định. Tuy vậy, vẫn cần phải sử dụng
các biện pháp khác để kiểm soát tia UV.
Ánh sáng nhân tạo:
ánh sáng ở các khu vực mà các tài liệu viết trên giấy
được trưng bày phải được duy trì ở mức độ thấp. Ngoài
ra, cần sử dụng những loại đèn ít hoặc không sinh ra tia
UV.
+ Đèn huỳnh quang: Mặc dù đèn huỳnh quang được
dùng phổ biến trong hầu hết các cơ quan, nhưng chúng
lại có nhiều nhược điểm trong các khu vực trưng bày.
Các loại đèn này không có chức năng điều chỉnh mờ đi
và hầu hết đều sinh ra bức xạ UV. Có rất nhiều loại đèn
huỳnh quang nhưng chúng rất khác biệt về lượng UV
sinh ra, từ 0.5%-12%. Ta nên sử dụng những loại có
lượng UV sản sinh thấp, nhỏ hơn 2%. Để an toàn hơn,
cần bọc các đầu ống tuýp, nơi mà phần lớn tia UV được
sản sinh ra.
+ Đèn nóng sáng (đèn vonfram): do chúng có thể được
dùng với bộ phận điều chỉnh độ sáng tối và bởi chúng
hầu như không tạo ra UV nên các loại đèn nóng sáng rất
phù hợp với mục đích trưng bày. Loại bóng đèn thường
được sử dụng để chiếu sáng trong gia đình là một ví dụ
của loại đèn vonfram. Do loại đèn này sinh nhiệt nên nó
phải được đặt xa các hiện vật trưng bày và không bao
giờ được đặt trong các hộp trưng bày. Các loại đèn
vonfram cần phải có thiết bị điều chỉnh sáng tối.
+ Đèn Vonfram-Halogen (Thạch anh-Iodine): hiện nay
chúng đang rất được ưa chuộng trong các tổ chức, cơ
quan bảo tàng. Loại đèn này có thể điều chỉnh độ sáng
tối nhưng lại sinh ra lượng UV lớn. Đèn vonfram-
Halogen phải được sử dụng đồng bộ với thiết bị lọc UV
của nó.
Cần ghi nhớ rằng phải luôn giữ mức chiếu sáng ở mức
càng thấp càng tốt. Các nhà thiết kế hệ thống chiếu sáng
giỏi phải biết cách chiếu sáng hiện vật trưng bày một
cách hiệu quả với mức độ sáng từ thấp đến vừa phải. Ví
dụ như nếu cần ánh sáng khuyếch tán rộng chứ không
chiếu rọi thì độ sáng sẽ thấp hơn, có thể tạo sự hấp dẫn
cho người xem mà không cần thiết phải gây hư hại cho
bộ sưu tập bằng những đèn chiếu rọi.
Khi không có người xem trong phòng thì cần tắt đèn đi.
Một số bảo tàng đã có hệ thống bật tắt điện tự động. Một
số tổ chức khác lại dùng vải phủ lên những hợp chứa
những hiện vật có giá trị cao hoặc nhạy sáng để bảo quản
chúng.
Ánh sáng nào thì được phép sử dụng? Khái niệm
Lux/giờ.
Nếu mọi loại ánh sáng đều tiềm tàng nguy cơ gây hại và
sự huỷ hoại của nó mang tính tích luỹ thì bất cứ sự tiếp
xúc nào của ánh sáng đều nguy hiểm, đặc biệt là loại vật
liệu có độ nhạy cảm nhiều với ánh sáng như giấy. Những
tác phẩm nghệ thuật và đồ tạo tác có ý nghĩa văn hoá
phải được trưng bày, nhưng cần phải tuân thủ theo
những hướng dẫn để hạn chế đến mức tối đa việc tiếp
xúc với ánh sáng. Giới hạn 50.000 lux giờ được áp dụng
cho những loại vật liệu nhạy cảm với ánh sáng. Nó được
tính toán bằng cách lấy cường độ ánh sáng (đơn vị đo là
lux) nhân với số giờ hiện vật tiếp xúc với ánh sáng.
(Ngoài ra, ánh sáng cũng có thể được đo bằng footcandle
hoặc Lumen; 1 footcande (lumen) xấp xỉ bằng 11 lux).
Nếu một vật được chiếu sáng trong 10h với cường độ 50
lux thì sau 100 ngày nó sẽ đạt đến giới hạn 50.000 lux giờ
(50 lux x 10 giờ x100 ngày). Cường độ ánh sáng càng cao
thì thời gian tiếp xúc càng giảm. Một số tổ chức đã bắt
đầu ghi chép lại thời gian trưng bày của những hiện vật
có giá trị nhất hoặc làm bằng loại vật liệu nhạy sáng của
cơ quan họ.
Các căn phòng với cường độ ánh sáng 50 lux thì khá tối,
nhất là đối với người xem khi họ từ ngoài trời sáng bước
vào phòng. Tuy nhiên, mắt con người có thể điều tiết và
việc thiết kế một hệ thống chiếu sáng tốt cũng hỗ trợ rất
nhiều. Một tấm biển giải thích rõ lý do cũng sẽ có tác
dụng xoa dịu người xem. Ánh sáng được đo bằng một
loại thước đo ánh sáng. Nếu không có thì có thể sử dụng
loại thước đo gắn liền của máy ảnh một ống kính. Thước
đo UV sẽ đo lường tỷ lệ UV trong ánh sáng, biểu thị bằng
microwatt/lumen. Các bộ sưu tập tài liệu giấy không nên
để tiếp xúc với lượng UV vượt quá 75 microwatt/lumen.
Nếu như cơ quan bạn không có được thước đo UV đáng
tin cậy (do chúng rất đắt), thì bạn có thể yên tâm với giả
thiết rằng ánh sáng tự nhiên và hầu hết các nguồn sáng
huỳnh quang và vonfram-halogen đều chứa một lượng
UV vượt quá giới hạn cho phép. Những nguồn ánh sáng
đó phải có bộ phận lọc UV.
Hộp/Lồng
Các hiện vật bằng chất liệu giấy phải được trưng bày
trong các khung hoặc hộp. Các khung/hộp này phải được
làm bằng vật liệu phù hợp và phải được gắn kín. Chúng
sẽ giúp chống lại nhiều tác động có hại do không khí gây
ra cũng như ngăn không cho người xem tiếp xúc trực
tiếp với hiện vật được trưng bày. Đồng thời, nó làm giảm
tác động của những thay đổi lên xuống của nhiệt độ
trong ngày cũng như trong một thời gian dài.
Mặc dù không thể ngăn hơi ẩm lọt vào trong hộp trưng
bày trong khoảng thời gian độ ẩm tương đối cao, nhưng
loại keo silica (silicdioxit SiO2) sẽ giúp ổn định độ ẩm
tương đối (RH) trong hộp nếu như hộp đó được gắn kín.
Silica là một vật liệu trong suốt có tác dụng như một chất
làm khô. Trong những hộp, khung, thùng gỗ trưng bày
hay các vật chứa khác, silica được dùng như một chất
đệm nhằm duy trì độ RH. Trước khi sử dụng, loại keo
này phải được điều chỉnh để đạt độ RH phù hợp (thực
hiện theo hướng dẫn của nhà cung cấp). Khi đã được
điều chỉnh, nó sẽ có khả năng hút ẩm khi độ RH quá cao,
đến khi bên trong hộp quá khô thì nó sẽ giải thoát lượng
ẩm này ra.
Có 2 loại keo silica. Loại thường màu trắng còn loại chỉ
định có màu xanh. Loại keo chỉ định tỏ ra đặc biệt hữu
dụng vì khi nó đạt đến độ bão hoà (độ no) thì nó chuyển
sang màu hồng đậm. Loại này đắt hơn loại thường nhiều
nhưng bạn có thể tiết kiệm tiền bằng cách mua một
lượng nhỏ keo chỉ định và trộn chúng với các loại keo
thường. Khi đạt đến độ bão hoà, keo silica sẽ bị khô, ta
có thể tái sử dụng chúng bằng cách đặt vào lò ở nhiệt độ
300 độ F trong 3giờ.
Lượng keo silica cần thiết cho thể tích hộp cần được tính
toán một cách cẩn thận. Hãy liên hệ với nhà cung cấp để
có hướng dẫn chi tiết. Các loại keo như Art-Sorb hay
Arten là những loại có khả năng hút ẩm lớn gấp 5 lần so
với các loại keo thông thường. Chúng tồn tại dưới dạng
tấm, hạt hoặc sợi băng cassette có hạt hoặc sóng, có thể
bỏ vào trong các khung, hộp hay lồng nhỏ.
Ngoài những biện pháp trên, việc kiểm soát tổng thể môi
trường trong căn phòng với các thiết bị điều hoà không
khí và độ ẩm là cách tốt nhất để bảo vệ hiện vật trưng
bày trước những thay đổi về thời tiết.
Vật liệu làm hộp trưng bày cần phải được lựa chọn cẩn
thận do gỗ, chất gắn kín, sơn, chất dính, các miếng đệm
cao su và vải sợi trưng bày có thể tạo ra những chất khí
có hại và những chất hoá học này (trong tự nhiên thường
có chất axit) được sinh ra trong những hộp kín. Những
chất khí này gây ảnh hưởng tiêu cực một cách hiển nhiên
đến các loại vật liệu như bạc hay chì, nhưng lại tấn công
giấy một cách hết sức kín đáo. Mặc dù một số nhà quản
lý công tác bảo tồn đã để những lỗ thông khí ở các hộp
nhưng việc này cũng khiến cho một số vật trưng bày bị
bụi và ô nhiễm từ bên ngoài. Các loại hộp công nghệ cao
đã được phát triển với các thiết bị thông và lọc khí
nhưng chúng nhiều khi vượt quá khả năng tài chính của
hầu hết các cơ quan và tổ chức. Việc sử dụng các hộp
trưng bày làm bằng vật liệu an toàn thì tốt hơn nhiều.
Nếu như trong cơ quan của bạn có các loại hộp không
phù hợp hoặc thiếu nguồn kinh phí để thay thế chúng,
thì những thùng đó cần phải được đóng góc bằng các loại
vật liệu sẽ được trình bày sau đây. Việc gắn kín vật liệu
gỗ cũng làm tăng khả năng bảo vệ của chúng.
Gỗ và các sản phẩm bằng gỗ
Gỗ thường được sử dụng để làm hộp trưng bày vì chúng
rất sẵn có và dễ kiếm, dễ thao tác và lại rất đẹp. Tuy
nhiên, khi đã biến chất đi thì chúng là hiểm hoạ lớn đối
với giấy. Mặc dù có rất nhiều loại khác nhau, nhưng tất
cả các loại gỗ, kể cả các loại gỗ khô và lâu năm cũng tạo
ra các chất axit.
Nếu điều kiện không cho phép thì nên tránh sử dụng gỗ
bên trong các hộp trưng bày. Ta có thể thay bằng nhôm
mạ (bằng phương pháp điện phân) và những khung bọc
thép được sản xuất phù hợp, chỉ có điều là chúng khá
đắt. Hoặc các hộp trưng bày có thể được thiết kế không
dùng sàn gỗ và phần khung bên ngoài làm từ Plexiglas
hay kính.
Nếu như buộc phải sử dụng gỗ thì cần chọn loại sản sinh
ra tương đối ít khí độc hơn. Các loại gỗ mềm, nhất là gỗ
thông, gỗ dương và gỗ đoạn được khuyên dùng. Một loại
gỗ cứng là gỗ gụ cũng tạo ra ít khí độc nhưng phải dùng
đúng loại gỗ gụ châu Phi. Gỗ sồi thường thấy ở các loại
hộp cũ, là loại có lượng axít cao và gây nguy hiểm nhất.
Do chúng đều chắc và kinh tế nên gỗ dán và gỗ ép được
sử dụng thường xuyên để làm hộp trưng bày. Chúng
thậm chí còn gây nhiều hư hại hơn so với gỗ đặc vì chúng
có thể tác dụng với các chất keo hoặc nhựa cây có chứa
formaldehyde (fócmanđêhít) rồi ôxi hoá tạo thành axit
fomic.
Đối với các loại gỗ ghép, mặt ngoài của gỗ dán cần được
gắn với mặt phủ keo bằng chất axitfomic fenola (phenol
formal dehyde). Fenola axit fomic có tính ổn định hơn
(tạo ít khí hơn) axit mê fomic (loại axit này tồn tại phổ
biến trong các sản phẩm gỗ ghép. Các tấm gỗ nhỏ không
tạo ra axit fomic như loại Medite II cũng như các loại gỗ
dán có lớp phủ bằng giấy Kraft loại MDO (Medium
Density Overlay) (lớp phủ trung bình) và HDO (High
Density Overlay) (lớp phủ dày) đều có thể sử dụng được.
Hiệp hội gỗ dán Hoa Kỳ (APA) (American Plywood
Association), là cơ quan có chức năng đưa ra các quy
cách và tiêu chuẩn cho ngành công nghiệp chế biến gỗ,
chỉ xác nhận chất lượng và đóng dấu hợp chuẩn các sản
phẩm gỗ có phủ nhựa axit fomic.
Điều cần lưu ý nhất là cần tránh đặt các hiện vật sưu tập
tiếp xúc trực tiếp với gỗ, các mặt của các loại hộp gỗ dù
cũ hay mới đều phải được phủ một lớp vật liệu đệm. Nó
cho hiệu quả rất lớn, nhất là với các loại hộp bằng gỗ
ghép hay gỗ sồi.
Các vật liệu đệm:
Các vật liệu đệm có thể ở trạng thái động hay tĩnh, vật
liệu tĩnh là loại vật liệu ổn định về cấu trúc hoá học và
tương đối không thấm nước như các tấm polyester (ví dụ
loại Mylar), vải đệm 4 lớp, và tấm bột polyethyxlene
(Ethafoam, Volara). Loại vật liệu đệm Marvelseal (là loại
vật liệu dạng phiến không dính có các thành phần lá
nhôm, polyethylene, và polyprolene) được đặc biệt
khuyên dùng vì nó là những sản phẩm duy nhất hoàn
toàn không hút khí và ẩm. Hơn nữa, nó khá dẻo, dễ uốn
và dễ gập.
Các loại vật liệu đệm mang tính "động" mới được xuất
hiện. Chúng phản ứng về mặt hoá học với các khí độc,
giữ và loại bỏ những khí độc khỏi khu vực bên trong hộp
trưng bày. Một vật dụng điển hình là sản phẩm
MicroChamber, có cả dạng tấm và dạng miếng đang
được sử dụng rộng rãi bên trong các hộp chứa. Các
thành phần “động” trong vật liệu đệm Microchamber là
carbon và zeolite hoạt hoá. Tuy vậy, do những loại vật
liệu này rất mới nên ít người biết đến hiệu quả lâu dài
của chúng. Đây là những sản phẩm đầy tiềm năng và
triển vọng cần dùng trong công tác bảo quản.
Vật liệu đệm được dùng để che phủ các thành và phía
bên trong của hộp. Chúng có thể được gắn lên bằng băng
dính 2 mặt: Scotch loại #415 (do 3MSE). Một mặt của
loại vật liệu Marvelscal có tính nhạy nhiệt, có thể dán vào
mặt gỗ bằng nhiệt độ cao.
Chất bít kín và sơn
Trước khi sử dụng vật liệu đệm, bịt kín hộp cũng sẽ giúp
giảm bớt lượng khí độc thải ra. Cần phải lựa chọn loại
chất bít kín mà bản thân nó không tạo ra các chất hoá
học có hại. Nói chung là cần tránh dùng những sản phẩm
có nguồn gốc từ dầu. Có sản phẩm hiện đang được các
nhà bảo tồn ưa dùng là các sản phẩm polymethane giữ
ẩm (chứ không phải loại sản phẩm gốc dầu phổ biến) và
loại epoxy 2 lớp. Không phải tất cả các sản phẩm
polymathane gốc nước đều an toàn nhưng ta có thể thay
đổi công thức của chúng. Tốt nhất là nên tham khảo ý
kiến một chuyên gia về công tác bảo quản để biết tên sản
phẩm polymethne cần dùng. Nếu như bạn muốn tự mình
kiểm chứng sản phẩm thì bạn hãy tham khảo tài liệu của
NEDCC có tên “Vật dụng dùng trong kho tàng mang
tính bảo quản: Giới thiệu sơ lược về các sự lựa chọn hiện
có” (Storage Furniture: A Brief Review of Current
Options) để biết cách kiểm tra đơn giản mà không cần
bất cứ thiết bị đặc biệt nào.
Sau khi dùng chất bít kín cần để khô tự nhiên ít nhất 3
tuần. Cần chú ý thực hiện các biện pháp an toàn khi sử
dụng và khi để khô.
Nếu cần sơn hộp, thì nên sử dụng sơn hữu cơ acrylic
hoặc nhựa mủ chứ không dùng sơn dầu. Không nên
dùng những loại sơn này để bịt kín hộp vì chúng khá
xốp, mà cần dùng một loại sơn đặc biệt là loại epoxy 2
lớp. Sơn và chất bịt kín epoxy 2 lớp cần được trộn cẩn
thận theo đúng chỉ dẫn của nhà sản xuất. Nếu tỉ lệ pha
không đúng có thể tạo nên một loại sơn không ổn định.
Vải, miếng đệm và chất dính dùng trong hộp
Các bộ phận khác của hộp trưng bày như vải lót, chất
kết dính và miếng đệm cũng cần phải được lựa chọn cẩn
thận. Không nên dùng vải tơ, lụa vì chúng có axit, hoặc
vải len vì chúng tạo ra các hợp chất sulphur. Các loại vải
có cotton, lanh, polyester không nhuộm hay vải cotton-
polyester có thể sử dụng được. Tất cả các loại vải đều
phải được giặt trước khi sử dụng để tránh co giãn. Vải
cần được mua từ một nhà cung cấp mà người đó bảo
đảm chắc chắn rằng chúng không bị pha các tạp chất.
Nếu như phải sử dụng vải nhuộm và chất nhuộm phai ra
nước giặt thì cần phải giặt vải đến khi chất nhuộm không
phai ra nữa. Để đề phòng thì không được để hiện vật
trưng bày tiếp xúc trực tiếp với vải.
Đối với miếng đệm, nên dùng đệm acrylic hoặc đệm
Tefton hơn là đệm cao su. Chất dính tốt nhất cho các hộp
trưng bày là keo acrylic hoặc keo nóng chảy, chứ không7
dùng keo hữu cơ hoặc cellulose nitrate. Để cố định các
loại vải, tốt nhất nên dùng băng dính Scoch# 415.
Nếu như thời gian trưng bày ngắn (trên thực tế nên như
vậy) thì liệu tất cả các bộ phận của hộp trưng bày có cần
bảo đảm hoàn toàn không tạo nên chất khí có hại không?
Liệu có chất khí nào đó có thể chấp nhận được ở trong
khoảng thời gian ngắn không? Cho đến khi chúng ta biết
được lời giải đáp cho những câu hỏi trên, tốt nhất là nên
cẩn trọng và sử dụng những vật liệu đã được kiểm
chứng, ngay cả với những bộ phận nhỏ của hộp trưng
bày như miếng đệm và chất dính.
Sắp xếp bên trong hộp
Các vật liệu dạng tấm
Nếu như hiện vật trưng bày không được lót hay bọc thì
chúng cần được gắn với những tấm vải hoặc các tấm vật
liệu khác. Những tấm này được cắt rộng hơn kích cỡ
hiện vật một chút. Chúng không những có tác dụng như
một tấm chắn giữa hiện vật và hộp trưng bày mà còn giữ
cho hiện vật không bị xô lệch.
Để trưng bày cho đẹp, các nhà thiết kế thường cho các
mép của hiện vật trưng bày khít với tấm lót. Tuy nhiên,
tấm lót treo càng rộng thì càng bảo vệ hiện vật tốt hơn.
Khi thiết kế trưng bày, những yêu cầu về vấn đề bảo
quản như trên, cần phải được xem xét cụ thể.
Các hiện vật bằng giấy dạng tấm cần phải được gắn chặt
vào tấm treo. Chúng có thể được gắn trên các tấm lót
(xem phần sau) hoặc trên các tấm vải, hoặc được ghép
dạng bản lề hay được ghép với các góc đỡ. Có thể sử
dụng các thanh nẹp nếu như các mép của hiện vật được
bọc vải. Các thanh nẹp và góc đỡ ngày càng được dùng
rộng rãi do không cần phải dùng keo dán để gắn như
trước đây nữa. Với các tài liệu nhỏ và ảnh, không cần
phải dán và có thể sử dụng các góc đỡ bằng nhựa
(polyester) hiện đang phổ biến trên thị trường. Chúng có
thể ở dạng tấm polyester hoặc tấm polyester dệt. Các
tấm dệt polyester vừa trong suốt vừa hơi xỉn, do vậy,
chúng đỡ lộ hơn so với các tấm polyester. Để biết thêm
thông tin về các hệ thống treo móc, xin tham khảo các tài
liệu của NEDCC: "Bọc lót và làm khung các tác phẩm
bằng chất liệu giấy" (Matting and Framing for Art and
Artifacts on Paper) và "Bạn tự bảo quản tác phẩm nghệ
thuật của mình như thế nào" (How To Do Your Own
Matting and Hinging).
Các hiện vật cũng cần được bọc trong các màng
polyester có tác dụng bảo vệ chúng trong và cả sau khi
trưng bày. Tuy nhiên, một công trình nghiên cứu tại Thư
viện Quốc hội Mỹ (Library of Congress) đã chỉ ra rằng
các loại giấy có axit sẽ thoái hoá nhanh hơn khi bị bọc
trong các bao polyester và các vật liệu kín khác. Nhưng
trong một chừng mực nào đó, hầu hết những tài liệu cũ,
chưa được xử lý đều có axít, nên chúng cần phải được
các chuyên gia xử lý để khử axit hay ít nhất phải được
tảy sạch trước khi thực hiện việc bảo quản. Nếu không
thực hiện được những điều đã nói ở trên, thì nên đặt một
tấm kiềm vào đằng sau hiện vật để làm giảm sự thoái hoá
do axit gây ra. Khi được bọc kín, hiện vật rất dễ bị
trượt/trôi khỏi vị trí. Nếu được đặt theo chiều thẳng
đứng thì những hiện vật nặng được gắn bằng băng dính
2 mặt, cũng rất dễ bị trượt xuống. Nếu có thể, thì khi bọc
nên dùng sóng siêu âm để kết dính, thì chỗ nối này sẽ
chắc và đẹp hơn.
Nếu như các hiện vật không đóng khung được trưng bày
ở hướng thẳng đứng thì phải tìm được 1 biện pháp để
bảo vệ sao cho vừa an toàn, vừa đẹp mắt. Một số tổ chức
đã sử dụng các chất gắn nóng-chảy để gắn những tấm
treo trên các bề mặt thẳng đứng. Nhưng cách này chỉ áp
dụng được với các hiện vật nhỏ. Tuy nhiên, với các hiện
vật khác thì cần phải lựa chọn cẩn thận và chỉ được gắn
vào mặt sau của tấm treo. Một số kết quả điều tra do
Viện Bảo tồn Canada tiến hành đã chỉ ra rằng các dạng
keo nóng chảy vinyl acetate có màu trắng trong (như loại
Black & Decker's Thermo Grip Hot) là loại tốt nhất.
Sách
Các loại sách có những yêu cầu trưng bày riêng. Các tập
sách phải được dựng đứng hoặc trưng bày theo một góc
nghiêng nhất định. Nhất thiết không được để sách dựa
nghiêng vào nhau vì dễ gây cong hoặc gãy bìa sách. Khi
đặt hàng hay thiết kế các giá trưng bày sách, cần làm loại
giá sách phục vụ trưng bày theo chiều thẳng đứng.
Nếu một tập sách được mở ra thì cần phải có giá đỡ để
bìa sách không bị chèn ép. Không nên để cuốn sách mở ở
góc 180, mà chỉ mở rộng cho phù hợp với độ mở của bìa
sách mà thôi. Vì mỗi cuốn sách có độ mở khác nhau nên
phải có các giá đỡ phù hợp với từng loại. Các giá đỡ
thông dụng có thể tự chế hoặc đặt hàng và cần tuân thủ
những hướng dẫn ở phần bảo quản tác phẩm. Giá đỡ
phải đủ rộng để đỡ toàn bộ quyển sách. Nếu như quyển
sách không mở ra một cách tự nhiên thì ta dùng một
thanh nẹp bằng polyester đặt ở hai bên sách. Nó có thể
được gắn chặt bằng băng dính hai mặt. Hiện trên thị
trường có bán rộng rãi các loại giá đỡ hoặc vật chặn
bằng acrylic, rất đa dạng về kích cỡ và hướng đỡ, chúng
có thể thay thế cho các loại giá đỡ truyền thống. Nếu
không sử dụng những thiết bị này, ít nhất cũng nên sử
dụng các tấm bảng gấp và thanh nêm bằng xốp
polyethylene để đỡ hiện vật trưng bày.
Cứ vài ngày một lần, cần phải lật các trang sách để tránh
cho chúng không bị tiếp xúc quá lâu với ánh sáng. Nếu
một trang bìa cần được trưng bày lâu dài thì cần sử dụng
bản sao thay thế. Ngay cả khi bạn cứ vài ngày một lần lật
giở các trang sách, thì cũng không nên trưng bày sách
trong thời gian dài. Mở một cuốn sách trong thời gian
dài có thể gây ảnh hưởng đến cấu trúc của nó.
Mặc dù trưng bày nguyên cả cuốn sách và không mở
sách ra thì đỡ hại sách hơn, nhưng cũng cần ghi nhớ
rằng mọi loại vật liệu làm bìa sách đều bị hư hỏng nếu
tiếp xúc dài ngày với ánh sáng. Vì vậy, các tập sách này
cũng chỉ nên trưng bày trong thời gian ngắn với ánh
sáng hạn chế.
Đóng khung
Làm khung treo đóng một vai trò quan trọng trong
trưng bày. Do vậy, sử dụng các loại vật liệu khung và
móc treo tốt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, do vậy hiện
vật có thể vẫn được giữ trong khung ngay cả khi triển
lãm đã kết thúc.
Đối với các tài liệu giấy thì cần phải được lắp kính bảo
vệ. Phần khung kính không nên tiếp xúc với hiện vật.
Nên sử dụng khung kính có tác dụng lọc tia cực tím, đặc
biệt là khi căn phòng có những nguồn sản sinh ra bức xạ
cực tím. Tuy nhiên, cần ghi nhớ rằng không nên sử dụng
khung bằng acrylic do loại nhựa này mang một lượng
tĩnh điện có thể gây nhạt màu cho các vật phẩm bên
trong. Trong những trường hợp này nên sử dụng loại
kính lọc tia cực tím.
Vật liệu treo bên trong khung cần tuân thủ các tiêu
chuẩn về bảo tồn. Những nhà làm công tác bảo quản
khuyên dùng loại đệm lót có độ pH trung tính hoặc loại
lót có độ kiềm nhẹ. Nên sử dụng các loại bản lề hoặc các
hệ thống giá đỡ không sử dụng chất kết dính được đề cập
đến trong các tài liệu của NEDCC đã nói ở trên để gắn
hiện vật với phần móc treo. Nếu sử dụng các giá đỡ có
bản lề thì nên dùng một loại giấy có chất lượng cao như
giấy kozo của Nhật Bản cùng với loại keo dính không gây
ố như loại keo dán làm từ tinh bột. Xin xem thêm các tài
liệu để biết thêm chi tiết.
Các chất sinh ra từ các loại khung gỗ có thể làm hư hại
các góc của hiện vật bằng chất liệu giấy. Những bản in
hay hiện vật được đóng khung trong một thời gian dài
thường có hiện tượng "cháy" góc. Các hư hại có thể nhìn
thấy bằng mắt thường dường như không xảy ra nếu như
hiện vật được đặt cách khung từ 2,5 cm trở lên. Nếu như
vì những lý do lịch sử mà cần giữ hiện vật trưng bày
trong bộ khung gốc, và hiện vật chạm vào khung gỗ thì
hãy dùng các loại nẹp Marvelseal, màng polyester hay
tấm lót. Đôi khi, nẹp Marvelseal có thể được tra vào các
đường rãnh của khung. Nếu như khung cho phép thay
đổi thì có thể dùng bào đục để làm rộng các rãnh của
khung ra một chút; đồng thời, vẫn phải bảo đảm bên
trong khung được nẹp kín.
Mặt sau khung nên có các tấm giấy đủ dày để có thể bảo
vệ được hiện vật trưng bày. Các khung phải được gắn
chặt và treo cẩn thận. Tránh treo ở những nơi ẩm ướt
như trên các bức tường không cách điện vì chúng dễ trục
trặc khi trời lạnh hoặc khi độ ẩm không khí cao. Nếu
như buộc phải treo ở các bức tường phía ngoài thì cần
phải đặt một tấm đệm lót bằng polyester chống ẩm hoặc
Marvelseal giữa các lớp lót phía sau hoặc mặt sau của
khung treo. Khung cần phải đủ sâu để có một khoảng
không cho không khí luân chuyển giữa khung tranh và
bức tường. Khung cũng cần phải được treo cách tường
một chút bằng các ghim nút hay nút cao su.
Trưng bày không cần sử dụng hộp hoặc khung:
Bất cứ hiện vật nào được làm bằng giấy đều cần được
bảo vệ tránh những chất có hại trong không khí, tránh bị
giây bẩn và ngăn không cho khách tham quan chạm tay
vào. Tuy vậy, một số tổ chức không có đủ điều kiện để
mua hộp/khung trưng bày, nhất là đối với những hiện
vật quá to, có hình dạng phức tạp thì việc đóng khung sẽ
rất tốn kém và khó tìm được loại hộp có kích cỡ phù hợp.
Nếu như không có cách nào khác và nếu như những hiện
vật đó có giá trị không cao thì chúng cần được bọc lại và
tạm thời treo trên tường. Cần lưu ý rằng cách trưng bày
như vậy có nguy cơ hư hại và rủi ro trộm cắp cao; hiện
vật trưng bày dễ bị ảnh hưởng tiêu cực từ phía môi
trường hơn. Khi đã được bọc lại thì các hiện vật có thể
được gắn vào một tấm bảng trưng bày bằng băng dính 2
mặt (loại Scotch #415) và tấm bảng này được treo cẩn
thận lên tường. Nếu như hiện vật được bọc và gắn bằng
băng dính hai mặt thì cần theo dõi và hạ xuống kịp thời
nếu như vật đó có xu hướng trượt xuống phía dưới. Nếu
hiện vật không được khử axit hoặc không được bọc bằng
giấy kiềm ở ngoài, thì sau khi trưng bày phải gỡ bỏ lớp
bọc này ngay.
Việc mượn hiện vật trưng bày
Cho mượn các hiện vật của các bộ sưu tập là hoạt động
thông thường đối với nhiều tổ chức. Mặc dù việc này
giúp quảng bá về bộ sưu tập cũng như về tổ chức đó,
nhưng cũng cần phải hiểu rằng việc trưng bày ở những
nơi xa xôi cũng mang đến nhiều nguy cơ rủi ro. Tuy
nhiên, những nguy cơ tiềm tàng đó có thể được hạn chế
nếu có những chính sách và thủ tục cho mượn phù hợp.
Các tổ chức cho mượn nên thiết lập một chính sách để
quản lý việc cho mượn hiện vật trưng bày. Cơ quan bạn
cần có văn bản về chính sách cho mượn, điều đó sẽ rất
hữu ích khi đàm phán với những nơi cần mượn.
Nhất thiết phải thoả thuận trước rằng những điều kiện
của tổ chức mượn phải đảm bảo an toàn. Cần thiết phải
đến xem vị trí trưng bày trước. Người mượn phải có
trách nhiệm đưa ra thoả thuận vay mượn và một báo cáo
về các điều kiện vật chất liên quan. Người cho mượn cần
xem xét và thương thuyết để sửa đổi nếu cần thiết. Hiện
có mẫu báo cáo các điều kiện vật chất của Uỷ ban quản lí
thuộc Hiệp hội bảo tàng Hoa Kỳ American association of
Museums (AAM) năm 1988. Bảng câu hỏi dài 12 trang
này của AAM bao trùm mọi lĩnh vực hoạt động của một
tổ chức mà có thể ảnh hưởng đến việc an toàn khi trưng
bày như an ninh (hoả hoạn và trộm cắp), mức độ ánh
sáng, vật liệu làm hộp trưng bày, kiểm soát môi trường
trong toàn bộ toà nhà, vận chuyển và tiếp nhận phương
tiện vật chất, nhân sự và bảo hiểm.
Khi cần phải vận chuyển, hiện vật phải được đóng gói
cẩn thận và người vận chuyển phải đáng tin cậy. Những
hiện vật đóng khung nên được che bằng acrylic chứ
không nên dùng kính. Tốt nhất là trước khi cho mượn bộ
sưu tập, các hiện vật đã được đóng khung.
Các tiêu chuẩn trưng bày
Một uỷ ban thuộc tổ chức tiêu chuẩn thông tin quốc gia
National information Standard Organization (NISO) đã
dành nhiều năm để nghiên cứu những tiêu chuẩn trưng
bày các hiện vật của thư viện và các phòng lưu trữ. Một
bản báo cáo năm 1997 của tổ chức này đã đưa ra các tiêu
chuẩn về sự tiếp xúc với ánh sáng, độ ẩm tương đối, nhiệt
độ và chất ô nhiễm. Nó cũng đề cập đến những vật liệu
để làm hộp trưng bày. Để biết thêm thông tin chi tiết, xin
liên hệ với Cathy Henderson, Chủ tịch Uỷ ban NISO
MM, HRHRC, PO Drawer 7219, Đại học Texas, Austin,
Texas 78713
Cuối cùng, là các vấn đề có liên quan đến vai trò của
chuyên gia bảo tồn
Không nên coi thường những nguy cơ của việc trưng bày
tài liệu giấy và sách. Nhà quản lý cũng như các chuyên
gia bảo tồn có liên quan đến bộ sưu tập cần tham gia
ngay từ những giai đoạn hoạch định đầu tiên. Những vấn
đề về bảo tồn không nên bị bỏ qua để ưu tiên cho những
yếu tố khác như thiết kế trưng bày.
Đối với những tổ chức nắm giữ các bộ sưu tập, cần thiết
phải tạo lập và duy trì quan hệ với một chuyên gia về bảo
tồn. Nếu như cơ quan bạn không có ai là chuyên gia về
bảo tồn để chăm lo cho các bộ sưu tập, thì cần thường
xuyên tham khảo ý kiến của chuyên gia ở bên ngoài.
Lĩnh vực bảo tồn các bộ sưu tập đang thay đổi nhanh
chóng do khoa học đã và đang khám phá ra những hiểu
biết mới mẻ về vật liệu và cơ chế thoái hoá. Các sản
phẩm mới đã và đang ra đời, sản phẩm hiện có thì thay
đổi nhanh chóng. Nhiều thông tin trên văn bản có thể là
lạc hậu chỉ trong một thời gian ngắn. Bởi vì chuyên gia
bảo tồn là người nắm rõ nhất những thay đổi trong lĩnh
vực ngày càng trở nên phức tạp này, mỗi cơ quan nhất
thiết cần phải duy trì quan hệ đối với chuyên gia bảo tồn
để bảo vệ bộ sưu tập của mình.
độ ẩm tương đối:
là tỷ lệ phần trăm giữa lượng hơi nước bay hơi trong một đơn vị không khí
với lượng hơi nước mà đơn vị không khí đó có thể chứa trong cùng nhiệt độ
và áp suất. Vì độ ẩm tương đối phụ thuộc vào nhiệt độ, nên phải xem xét đến
cả hai yếu tố này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_moi_truong_bao_quan_tai_lieu.pdf