GIÁO TRÌNH
Kỹ thuật bảo
quản tài liệu
MỤC LỤC
Lời giới thiệu
Bảo quản tài liệu nói chung và các tài liệu quý hiếm nói riêng ở các cơ
quan thông tin, thư viện, lưu trữ và bảo tàng Việt Nam đang là một vấn đề
cấp thiết, nhất là ở Việt Nam, một đất nước nằm trong khu vực khí hậu
nhiệt đới nóng ẩm, lại chịu sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh, và thêm
nữa là trình độ về kỹ thuật bảo quản còn nhiều hạn chế, dẫn tới tình trạng
vốn tài liệu của chúng ta nhanh chóng xuống cấp và lã
1216 trang |
Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 803 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giáo trình Kỹ thuật bảo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o hoá. Nhiều năm
qua, một số cơ quan, thư viện và lưu trữ đã rất cố gắng trong việc xử lý
vấn đề này, song do thiếu những hiểu biết và kiến thức cơ bản về bảo
quản, nên còn lúng túng và chưa tìm ra được những giải pháp thích hợp
để bảo quản nguồn tài liệu của mình, dẫn đến việc các tài liệu bị xuống
cấp nhanh hơn, kéo theo sự lãng phí cả về thời gian, công sức và tiền của
của nhà nước.
Để khắc phục tình trạng nói trên, những năm gần đây, Đảng và Nhà nước
ta cũng đã quan tâm và đầu tư nhiều cho công tác bảo quản, nhiều kho
tàng và nhà xưởng đã được xây mới hoặc nâng cấp, nhiều cán bộ thư viện
đã được gửi đi đào tạo ở nước ngoài. Một số cơ quan thông tin, thư viện và
lưu trữ như: Trung tâm Thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia, Thư
Viện Quốc gia Việt Nam, Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Cục Lưu trữ Nhà
nước đã có nhiều cố gắng trong việc tổ chức các khoá đào tạo ngắn ngày
với sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật và tham gia giảng dạy của các chuyên gia
nước ngoài. Tuy nhiên những cố gắng đó vẫn còn quá khiêm tốn, chưa đủ
đáp ứng cho những đòi hỏi bức thiết của thực tế công tác bảo quản mà
chúng ta đang phải đối mặt.
Trong thực tế ở Việt Nam chưa hề có một tài liệu hay giáo trình nào dành
cho công tác bảo quản, do vậy sau các khoá đào tạo ngắn ngày trở về cơ
sở, các cán bộ thư viện làm công tác bảo quản chưa thực sự tự tin để thực
thi công việc của mình vì thiếu tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ cần thiết, nhất
là những tài liệu bằng tiếng Việt. Nhận thức được sự cấp thiết của vấn đề
này, Thạc sĩ Kiều Văn Hốt - Phó giám đốc Thư viện Quốc gia Việt Nam,
thành viên ban chỉ đạo SEACAP (Uỷ ban Bảo quản tài liệu các nước Đông
Nam Á) và Thạc sĩ Chu Tuyết Lan - Trưởng phòng Thông tin-Tư liệu-Thư
viện, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thành viên Ban tư vấn SEACAP đã xây
dựng dự án "Bảo quản tài liệu trong các thư viện và cơ quan lưu trữ ở
Việt Nam", và Dự án này đã nhận được sự tài trợ của Quỹ Ford. Mục đích
của Dự án là cung cấp những hiểu biết và kiến thức cơ bản cả về lý thuyết
lẫn thực hành cho những cán bộ đang làm công tác bảo quản tại các cơ
quan, thư viện và bảo tàng lớn trong cả nước, nhằm tạo điều kiện cho họ
có đủ kiến thức và vững vàng hơn khi tiến hành công việc bảo quản nhằm
kéo dài tuổi thọ của nguồn tài liệu cho muôn đời con cháu mai sau.
Dự án này đã được Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
cho phép thực hiện tại công văn số 991/CP-QHQT ngày 29 tháng 7 năm
2003 do Phó thủ tướng Chính phủ Phạm Gia Khiêm ký.
Nội dung của Dự án bao gồm hai phần chính:
(1) Dịch các cẩm nang về kỹ thuật bảo quản tài liệu [Tạo các đĩa CD với
tính năng liên kết mục lục với các tiểu mục của bản dịch, có kèm theo các
video trình diễn kỹ thuật và hình ảnh minh hoạ].
(2) Tiến hành các khoá đào tạo tại chỗ cho các cán bộ thư viện hiện đang
làm công tác bảo quản ở các cơ quan thông tin, thư viện, lưu trữ và bảo
tàng lớn trong cả nước. (Từ trước đến nay các lớp tập huấn ngắn ngày
được tổ chức chủ yếu dành cho các cán bộ thư viện ở Hà Nội, chứ chưa có
điều kiện đào tạo cho các cán bộ ở tỉnh ngoài).
Để Dự án có được kết quả như ngày hôm nay, trước hết xin được bày tỏ
lòng biết ơn chân thành tới Giám đốc Thư viện Quốc gia Việt Nam, các
bạn đồng nghiệp ở Thư viện Quốc gia, ngài Chủ tịch Quỹ Ford, đặc biệt là
Tiến sĩ Michael Digregorio, bà Phùng Minh Uyên và bà Ngô Thị Lê Mai
đã giúp đỡ về mặt ý tưởng và kinh phí để thực hiện Dự án. Đồng thời cũng
xin được bày tỏ lòng biết ơn tới Trung tâm Bảo quản tài liệu vùng Đông
Bắc Hoa Kỳ, ông John F. Dean - nguyên Giám đốc Trung tâm bảo quản
Đại học Cornell và bà Ann Kenny - Phó giám đốc Thư viện Đại học
Cornell đã cho phép sử dụng tài liệu để thực hiện chương trình này và đã
tham gia tập huấn, cho phép quay Video làm tài liệu hướng dẫn về nghiệp
vụ bảo quản. Sau nữa xin được bày tỏ lòng biết ơn tới các bạn đồng
nghiệp, các cộng tác viên đã tham gia vào công việc dịch thuật, góp phần
quan trọng làm nên sự thành công của Dự án.
Tập tài liệu dịch về Kỹ thuật bảo quản tài liệu này được tổ chức dựa trên
các phần mềm quen thuộc với các cán bộ thư viện như: Winisis, Winword
và Internet Explorer.
Từ menu chính, người sử dụng có thể lựa chọn các thao tác bằng nháy
chuột:
- Việc xem văn bản tài liệu được tổ chức bằng HTML dưới dạng Website.
Ở đây văn bản được tập trung thành các chủ đề: ngoài lời giới thiệu có các
chủ đề về công tác bảo quản như: Lập kế hoạch; Môi trường; Kho tàng;
Tác nhân phá hoại; Chuyển dạng tài liệu và qui trình bảo quản. Cần xem
chủ đề nào thì kích chuột vào chủ đề đó. Trong mỗi chủ đề lại chia thành
các bài, cần xem bài nào thì kích chuột vào tên bài đó ở mục lục phía bên
trái. Trong một số bài có ảnh minh hoạ. ảnh minh hoạ được chia làm hai
loại, một loại nằm trong nội dung của bài luôn để to để có thể xem ngay
cùng với văn bản, loại khác chỉ là ảnh minh hoạ, không liên quan trực tiếp
đến nội dung văn bản thì để nhỏ, có thể kích chuột vào ảnh để phóng to,
khi cần quay về thì dùng biểu tượng hay chức năng BACK.
Khi xem văn bản các nút ở cuối màn hình cho phép tiến hành các thao tác:
ML : quay về mục lục
HD : xem hướng dẫn
IN : Thông báo hướng dẫn in
- Xem video minh hoạ. Dùng khi muốn xem video minh hoạ của tài liệu.
Muốn xem ở chế độ toàn màn hình thì sử dụng chức năng Full Screen ở
View hay gõ tổ hợp Alt+enter. Dùng Esc hoặc chuột phải -> Full screen để
về chế độ thu nhỏ. Dùng biểu tượng ra (X) hay File -> Exit để ra khỏi thao
tác. Video ở đây là bài giảng của các chuyên gia bảo quản của trường Đại
học Cornell (Mỹ) tại lớp học tổ chức tại Thư Viện Quốc gia ngày 9-1-2004.
Do video lớp học có dung lượng lớn, không thể đưa chung vào một đĩa CD
với văn bản nên phải để ở một CD riêng. Thư viện nào có nhu cầu đề nghị
liên hệ với Thư viện Quốc gia. Tệp ghi bài giảng và lớp học có tên là
lophc.dat, muốn chạy được theo menu thì tệp này phải được copy vào thư
mục c:\lhbq
- Tra cứu thông tin: Toàn bộ các bài viết được quản lý bằng cơ sở dữ liệu
Winisis, cho phép tìm tin theo tên bài và theo chủ đề. Từ kết quả tìm tin có
thể xem toàn văn theo văn bản Winword và xem video minh hoạ bằng cách
nháy chuột vào dòng thông báo tương ứng. Khi xem văn bản Winword có
thể in ra. Nếu muốn in toàn bộ các bài thành sách thì in theo thứ tự biểu
ghi.
- Hướng dẫn: để xem bản hướng dẫn này.
- Thoát: ra khỏi chương trình.
Chương trình tự khởi động khi đưa vào ổ CD. Trường hợp CD đã ở trong
ổ có thể gọi chương trình bằng cách: Start -> Run -> bqtl (ở ổ CD)
Xin cám ơn FORD FOUNDATION đã tài trợ cho chương trình này.
Chu Tuyết Lan
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Kiều Văn Hốt
Thư Viện Quốc gia
VN
LẬP KẾ HOẠCH
Mục lục
Lên kế hoạch bảo quản là gì?
Lên kế hoạch và đánh giá công tác bảo quản
Khảo sát đánh giá các nhu cầu về bảo tồn
Sắp xếp các hoạt động bảo tồn theo thứ tự ưu tiên
Chính sách thu thập tư liệu và công tác bảo quản
Lập kế hoạch bảo quản: thư mục chọn lọc
Những vấn đề cần quan tâm trong công tác bảo quản về việc thiết kế
toà nhà lưu trữ: thư mục chọn lọc
Nguồn thông tin
Sherelyn Ogden
Thư viện, cơ quan lưu trữ, bảo tàng
và các hội bảo tồn lịch sử không chỉ
có nhiệm vụ thu thập, diễn giải và
trưng bày các tư liệu có giá trị minh
chứng lịch sử mà còn có trách
nhiệm bảo quản lâu dài, đảm bảo an
ninh và tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tiếp cận các tư liệu đó. Hiệp hội
bảo tàng Mỹ đã nhận thức được
trách nhiệm này. Hiệp hội này đã
chỉ ra trong “Các quy chuẩn đạo
đức nghề nghiệp của ngành bảo
tàng” trong đó chỉ rõ cơ quan bảo
tàng phải đảm bảo “các tư liệu mà
bảo tàng quản lý phải được bảo vệ,
không làm mất mát, không bị gây
trở ngại, được theo dõi sát sao và
được bảo quản tốt”. Bảo quản là
một phần không thể thiếu được
trong nhiệm vụ của một cơ quan
văn hoá, do đó việc lên kế hoạch bảo
quản phải là một bộ phận trong
tổng thể kế hoạch mang tính chiến
lược của công tác này.
+ Lên kế hoạch bảo quản là một quá
trình đòi hỏi phải xác định các yêu
cầu chung và cụ thể đối với việc bảo
vệ các tư liệu đã thu thập được, việc
này đòi hỏi phải xác định được các
trường hợp cần ưu tiên, và cũng
phải định rõ được các nguồn vốn để
thực hiện công việc.
+ Mục đích chính của việc lên kế
hoạch là xác định được một quy
trình hoạt động cho phép cơ quan
đó lập được một chương trình bảo
quản cho cả hiện tại và tương lai.
+ Hơn nữa, quá trình này còn giúp
cho các cơ quan xác định rõ những
việc phải làm và những việc không
bao giờ nên làm, nhờ đó vốn tài liệu
có thể được sử dụng một cách hợp
lý.
Lập kế hoạch bảo quản dài hạn
Kết quả của quá trình lập kế hoạch
là việc thiết lập được một kế hoạch
bảo quản dài hạn thể hiện bằng văn
bản. Đó là một tư liệu quan trọng
mà bất cứ một cơ quan nào cũng
cần phải có.
+ Một kế hoạch bảo quản dài hạn
phải phác thảo được những yêu cầu
bảo quản của cơ quan và phải vạch
ra được một quy trình hoạt động để
đáp ứng được những yêu cầu của
việc thu thập tư liệu.
+ Kế hoạch đó đưa ra một khuôn
mẫu để thực hiện những mục tiêu
đề ra và những trường hợp cần ưu
tiên theo một cách thức hợp lý và
hiệu quả; nó là công cụ để đạt được
những việc cần nhất trí làm trước
trong một giai đoạn đã định. Kế
hoạch đó giúp duy trì sự liên tục và
tính nhất quán theo thời gian của
một chương trình bảo quản.
+ Kế hoạch này phải thể hiện được
vai trò và tầm quan trọng của công
tác bảo quản, giúp thấy được bảo
quản là một công việc có vị trí
ngang với các công việc như thu
thập tư liệu, diễn giải và nghiên cứu.
+ Kế hoạch là một sự trợ giúp quan
trọng trong việc đảm bảo những
nguồn vốn cần thiết để hỗ trợ thực
hiện những việc cần làm.
+ Kế hoạch ghi lại những hoạt động
bảo quản trong hiện tại và quá khứ,
cũng như những nỗ lực trong tương
lai của cơ quan.
Kế hoạch bảo quản cần phải phù
hợp với các biện pháp quản lý trọng
yếu khác của cơ quan, chẳng hạn
như các chủ trương về quản lý thu
thập tư liệu. Kế hoạch bảo quản
không nên được soạn thảo một cách
tách biệt mà nên được soạn trên
cùng một khung tham chiếu áp
dụng cho tất cả các kế hoạch và chủ
trương về thu thập tư liệu. Khung
tham chiếu này là phương hướng
hoạt động của cơ quan. Mọi chủ
trương và các vấn đề quản lý phải
được thực hiện phù hợp với chức
năng và nhiệm vụ của cơ quan và
phải được hiểu cũng như thực thi
trong khuôn khổ của nó.
Kế hoạch bảo quản cần phải dễ hiểu
và phải bao quát được toàn bộ các
nguồn tư liệu của cơ quan. Sự kết
hợp toàn bộ các nguồn tư liệu thu
thập được vào bản kế hoạch là vô
cùng thiết yếu đối với việc thúc đẩy
sự hiểu biết đầy đủ trong việc ưu
tiên xây dựng kế hoạch bảo quản
dài hạn. Ngoài ra , sự kết hợp như
vậy sẽ tạo ra sự liên kết giữa các
hoạt động bảo quản với các chương
trình kế hoạch mang tính chiến lược
khác. Một kế hoạch bảo quản có
hiệu quả là một kế hoạch thiết thực
và khả thi. Một kế hoạch nằm ngoài
khả năng thực hiện và chi trả của cơ
quan là một kế hoạch vô dụng.
Trong khi kế hoạch cần phải đưa ra
tất cả những yêu cầu bảo quản thì
nó cũng cần phải chú ý đến các
bước có thể đạt được nhờ nguồn
vốn sẵn có hoặc huy động được (ví
dụ như nhờ các khoản viện trợ hoặc
gây quỹ)
Kế hoạch của từng cơ quan là khác
nhau. Có những kế hoạch dài hạn,
phức tạp và chi tiết, lại có những kế
hoạch ngắn gọn và đơn giản. Tuy
nhiên, tất cả mọi kế hoạch đều phải
dựa trên kết quả khảo sát đánh giá
nhu cầu của từng cơ quan.
Khảo sát đánh giá nhu cầu
Khảo sát đánh giá nhu cầu có tính
then chốt đối với việc lập kế hoạch
bảo quản và phải được tiến hành
trước khi soạn thảo kế hoạch. Kế
hoạch bảo quản dựa trên các nhu
cầu của cơ quan và các hoạt động
đặt ra để đáp ứng các yêu cầu đó.
Những thông tin này phải được đưa
vào các báo cáo khảo sát. Nhiều cơ
quan chỉ có báo cáo khảo sát xem
xét các nhu cầu đối với các tư liệu
thu thập được nói chung. Đối với
một số cơ quan có nhiều hệ thống tư
liệu và các nhu cầu lên kế hoạch
phức tạp thì cần thiết phải có thêm
những khảo sát đề cập đến những
khó khăn cụ thể hoặc những yêu
cầu về các tư liệu cụ thể hoặc các
loại tư liệu khác nhau.
Vì khảo sát là bộ phận quan trọng
để cơ quan căn cứ vào đó mà lên kế
hoạch bảo quản, cho nên tiến hành
các khảo sát đáp ứng được yêu cầu
lập kế hoạch của cơ quan là điều vô
cùng quan trọng.
+ Khảo sát phải đánh giá được các
chủ trương, việc thực hiện và các
điều kiện của cơ quan có ảnh hưởng
đến công tác bảo quản các tư liệu
lưu trữ.
+ Khảo sát phải nêu được tình trạng
chung của toàn bộ các tư liệu lưu
trữ, phải chỉ ra được những gì cần
làm để cải thiện tình trạng đó, cũng
như bằng cách nào để bảo quản các
tư liệu đó lâu dài.
+ Khảo sát cũng phải xác định được
các yêu cầu bảo quản cụ thể, phải đề
xuất được các hoạt động đáp ứng
được yêu cầu đó và ưu tiên thực
hiện các hoạt động đã được đề xuất
đó.
Toàn bộ toà nhà lưu trữ vốn tư liệu
cũng cần phải được khảo sát. Cần
phải xác định cho được những rủi
ro đối với vốn tư liệu thu thập, phải
tính đến các yếu tố như môi trường,
bảo quản, an ninh, vấn đề sử dụng,
trông coi, xử lý bảo quản, các chủ
trương và việc thực hiện. Cũng cần
lưu ý rằng bản thân tòa nhà dùng
để lưu trữ các tư liệu cũng được coi
là một phần của công tác lưu trữ.
Đó là các toà nhà có kết cấu mang
tính lịch sử hoặc có giá trị kiến trúc
cao. Trong trường hợp này các hoạt
động bảo quản toà nhà cũng phải
được coi trọng như các hoạt động
bảo quản vốn tư liệu.
Tất cả những thông tin trên phải
được ghi lại trong các báo cáo khảo
sát chính thức một cách rõ ràng, dễ
hiểu và được trình bày theo khuôn
mẫu thống nhất, bằng cách này mọi
thông tin sẽ được sắp xếp và trích
dẫn một cách dễ dàng. Báo cáo là
công cụ để soạn thảo các kế hoạch
bảo quản; nó phải chứa đựng các
thông tin dễ hiểu và dễ sử dụng.
Sẵn sàng hỗ trợ
Các chương trình dịch vụ trong lĩnh
vực này của địa phương luôn sẵn
sàng hỗ trợ các cơ quan văn hoá về
tất cả các khía cạnh liên quan đến
việc lập kế hoạch bảo quản. Các
chương trình này tài trợ các hội
thảo, tiến hành đánh giá các yêu cầu
chung và tiến hành khảo sát riêng
từng mục, đồng thời hướng dẫn
nhân viên trong cơ quan tiến hành
các khảo sát tại chỗ. Để có thêm
thông tin, hãy liên hệ với trung tâm
bảo quản về các thông tin liên quan
đến các chương trình dịch vụ trong
lĩnh vực này của địa phương.
Tiến sĩ Margaret Child
Không nên coi việc thiết kế một
chương trình bảo quản như một quy
trình đặc thù đòi hỏi sự thành thạo
chuyên môn trong lĩnh vực hoá học
liên quan đến quy trình xử lý giấy
hoặc đòi hỏi các kỹ năng bảo quản
mang tính thực hành. Thực ra quá
trình này tương tự như việc ra các
quyết định quản lý khác: một quá
trình phân bổ các nguồn tư liệu sẵn
có cho các hoạt động và các chức
năng quan trọng đối với việc tiến
hành các nhiệm vụ của cơ quan. Để
việc ra các quyết định về công tác
bảo quản được thực sự rõ ràng,
chúng ta cần phải coi bảo quản như
là một khâu quan trọng của việc
quản lý các tư liệu thu thập được.
Giống như các chương trình khác,
mục tiêu và các ưu tiên trong
chương trình bảo quản cần phải
được xuất phát từ chức năng, nhiệm
vụ và định hướng hoạt động của cơ
quan. Những mục tiêu này cần phải
được xác lập dựa trên các chủ
trương rõ ràng về vấn đề thu thập
tư liệu. Nếu như định hướng hoạt
động hoặc chủ trương thu thập tư
liệu của cơ quan lập kế hoạch lại
mang tính chung chung, mơ hồ thì
cần phải viết lại các tài liệu đó sao
cho chúng phản ánh được mục tiêu
thực sự của cơ quan lưu trữ, bảo
tàng, thư viện và phải thể hiện rõ
việc thu thập tư liệu đã giúp gì cho
các mục tiêu đó.
Việc bảo quản tài sản của một cơ
quan lưu trữ, bảo tàng và thư viện
được chia theo hai tiêu chí. Tiêu chí
thứ nhất là bảo quản dự phòng, loại
bảo quản này chú trọng đến việc
ngăn chặn sự xuống cấp của toàn bộ
các tư liệu nói chung. Tiêu chí thứ
hai là các biện pháp bảo quản phục
chế nhằm sửa lại tình trạng xuống
cấp về mặt lý tính hoặc hoá tính.
Bảo quản phục chế đòi hỏi một
lượng nhân công đông đảo và
thường cần đến các chuyên gia có
chuyên môn cao, do đó bảo quản
phục chế rất tốn kém và thường chỉ
giới hạn trong phạm vi chọn lọc
toàn bộ các hiện vật tư liệu sưu tập.
Bất cứ một quy trình lên kế hoạch
nào cũng phải đưa ra được một
chương trình có sự kết hợp của hai
tiêu chí trên.
Phương pháp lập kế hoach.
Việc lập kế hoạch bảo quản cần
phải áp dụng phương pháp lên kế
hoạch chiến lược đạt quy chuẩn.
Hơn nữa, cần phải phát triển một
hệ thống các công cụ chuyên biệt để
giúp các nhân viên bảo tàng, nhân
viên lưu trữ và các nhân viên thư
viện đánh giá được các yêu cầu về
bảo quản và định ra các chuẩn ưu
tiên để phục vụ yêu cầu đó. Tài liệu
thực hành “ Lên kế hoạch bảo
quản: Hướng dẫn viết kế hoạch dài
hạn” của Trung tâm bảo quản tư
liệu Đông Bắc có ý định hỗ trợ các
cơ quan đã hoàn tất việc đánh giá
yêu cầu cho việc soạn thảo các kế
hoạch dài hạn. Hiệp hội các thư viện
nghiên cứu đã đưa ra “Chương
trình lên kế hoạch bảo quản”. Các
chương trình này mặc dù nhằm vào
các thư viện nghiên cứu và có ý định
được thực hiện dưới sự hỗ trợ tư
vấn của các nhà quản lý công tác
bảo quản có kinh nghiệm, nhưng
các chương trình này cũng có thể
cung cấp những thông tin hữu ích
cho việc đánh giá các vấn đề mà các
nơi này quan tâm. CALIPR là
chương trình phần mềm trọn gói có
thể hỗ trợ mọi cơ quan bảo tàng thư
viện ở California thực hiện việc
đánh giá các yêu cầu bảo quản đơn
giản. Các công cụ này cũng như các
công cụ khác trong lĩnh vực này
giúp các nhà quản lý đánh giá được
các yêú tố cơ bản trong việc lập kế
hoạch bảo quản: mức độ các tư liệu
lưu trữ có thể gặp rủi ro, do nhiều
yếu tố khác nhau; các bộ sưu tập có
giá trị lâu bền nhất trong các nguồn
tư liệu; khả năng về mặt thời gian,
nhân lực, khả năng về kỹ thuật
chuyên môn, và khả năng tài chính;
khả năng thực thi mang tính chính
trị đối với một số hoạt động cụ thể.
Kết quả của việc tính toán này phải
được kết hợp để tạo ra một danh
mục các quy chuẩn ưu tiên.
Tính toán rủi ro
Cần phải có các dữ liệu đáng tin cậy
về mọi khía cạnh khó khăn của công
tác bảo quản trong từng cơ quan
bảo tàng, thư viện để bước đầu phục
vụ cho việc thiết lập các chính sách
ưu tiên trong công tác bảo quản của
cơ quan đó. Cần phải thu thập các
thông tin về mức độ và các dạng
xuống cấp, về các điều kiện môi
trường trong đó các tư liệu được lưu
giữ và sử dụng, và về hệ thống các
chủ trương biện pháp như xác định
cháy nổ và các biện pháp an ninh
bảo vệ các hiện vật tư liệu lưu trữ
trước các nguy cơ bị huỷ hoại hoặc
mất mát.
Khảo sát các điều kiện bảo quản
Nhiều thư viện nghiên cứu lớn đã
tiến hành các khảo sát tình hình một
cách kỹ lưỡng về các cơ quan lưu
trữ của họ trong suốt 15 năm qua.
Các khảo sát này đã đưa ra các dữ
liệu đáng tin cậy về tỷ lệ giấy axít,
về độ giòn của giấy, về mức độ mất
các cột chữ, về sự xuống cấp của các
văn bản và hình vẽ và về tỷ lệ các
trang bìa bị hỏng do thiếu các trang
bìa phụ để bảo vệ. Có khá nhiều tài
liệu liên quan đến điều này. Hầu hết
các khảo sát đều đưa ra cùng một
dạng xuống cấp, vì vậy các cơ quan
khác không cần phải điều tra kỹ
nữa trừ khi cơ quan đó lưu trữ các
chủng loại tư liệu khác hoặc lưu trữ
trong các điều kiện đặc biệt kém.
Tuy nhiên, sẽ là hữu ích nếu mỗi cơ
quan có ít nhất một mẫu tư liệu nhỏ
trong kho tư liệu riêng của mình,
vừa để khẳng định rằng các mẫu đó
tuân theo các dạng mẫu chuẩn quốc
gia vừa để làm vật minh hoạ để
đăng ký xin ngân sách và chuẩn bị
để xin các dự án tài trợ.
Khảo sát môi trường
Để có được các dữ liệu phục vụ cho
việc xây dựng kế hoạch về môi
trường lưu trữ các tư liệu, mỗi cơ
quan phải đo và ghi lại nhiệt độ, độ
ẩm tương đối để thấy được sự dao
động về nhiệt độ và độ ẩm trong
ngày và trong năm. Có thể nhận
được hỗ trợ xác lập chương trình
giám sát này qua chương trình dịch
vụ trong lĩnh vực bảo quản của địa
phương, qua các thư viện của bang
có chương trình bảo quản hoặc qua
các thư viện của các trường đại học
gần đó có ban quản lý về công tác
bảo quản. Hỗ trợ từ phía các nhà tư
vấn có lúc cũng cần thiết để có thể
diễn giải một cách chính xác các dữ
liệu thu thập được, nhờ đó có thể
chọn lựa các cách phục chế.
Làm thế nào để giám sát một cách
bao quát về sự thay đổi khí hậu
trong từng kho tài liệu là vấn đề
mang tính quản lý, mà vấn đề này
lại phụ thuộc vào các điều kiện tại
chỗ và phụ thuộc vào phạm vi
nguồn tư liệu trong kho để có thể
tiến hành các khảo sát như vậy.
Trong việc khảo sát về điều kiện
môi trường của mỗi cơ quan cần
phải chú ý đến các nguy cơ thiệt hại
tiềm tàng như việc tiếp xúc với ánh
sáng qua cửa sổ hoặc ánh sáng tổng
hợp. Lý tưởng là, mức độ ô nhiễm
cũng phải được xem xét, nhưng
thực tế thì hầu hết những rắc rối về
ô nhiễm đều phải đợi đến khi có sự
đổi mới toàn bộ hoặc thay thế hệ
thống HVAC.
Khảo sát hệ thống bảo vệ và sử
dụng
Ngoài ra, lên một kế hoạch hiệu quả
cho chương trình bảo quản đòi hỏi
cơ quan lưu trữ, bảo tàng, thư viện
phải xem xét rất nhiều các hệ thống
khác nhau, các quy tắc và các chủ
trương chính sách đã định, để đề
phòng thiệt hại gây ra cho các tư
liệu lưu trữ từ việc lưu kho, sử dụng
và trao đổi cũng như từ các hiểm
họa, phá hoại và trộm cắp. Đảm bảo
thực hiện đúng các biện pháp bảo
vệ, các quy tắc và các chủ trương
cho phép đánh giá được mức độ các
tư liệu sẽ xuống cấp trong tương lai,
cũng như trước các thiệt hại bất
ngờ.
Kết cấu của toà nhà cũng cần phải
được khảo sát để có thể tiên liệu các
nguy cơ có thể xảy ra như rò rỉ hoặc
gây cháy nổ. Hệ thống xác định và
dập cháy cũng cần phải được kiểm
tra đánh giá. Các hệ thống an ninh,
gồm cả đơn giản lẫn phức tạp và
việc lên các kế hoạch đối phó với
thảm hoạ cũng cần phải được xem
xét. Cũng cần phải kiểm tra việc
đào tạo người sử dụng và nhân viên
trong việc trông coi và sử dụng các
tư liệu lưu trữ và cũng cần đánh giá
các thiết bị lưu trữ, các hợp đồng
đóng sách và việc bảo quản
microfilm, các hình thức hộp để bảo
quản, lưu trữ, và các vật liệu dùng
trong công tác bảo quản và phục
chế. Có thể cũng hữu ích khi theo
dõi một số các tư liệu, ấn phẩm ngay
từ khâu bổ sung thông qua trang
bìa, túi bọc hoặc các túi đựng, qua
ca-ta-lô, qua việc xếp đặt trên giá,
qua việc phát hành và qua việc trao
đổi giữa các thư viện, nhờ đó có thể
xác định được tất cả các vấn đề về
những thủ tục hoặc việc sử dụng có
thể làm hư hại đến tư liệu đó. Tiến
hành các hoạt động như vậy sẽ chỉ
rõ được những ảnh hưởng của
những thiệt hại tiềm tàng trong các
công việc này.
Xác định giá trị
Các nhân viên bảo tàng, thư viện cố
gắng phát triển kế hoạch chiến lược
cho chương trình bảo quản cũng
cần đánh giá chiều sâu, tầm rộng
của các khu khác nhau trong số các
tư liệu lưu trữ để có thể đánh giá
được giá trị tri thức của các tư liệu
ấn phẩm đó. Trong thư viện thì tổng
quan phân nhóm các khu vực tra
cứu đã chứng tỏ là một công cụ hữu
hiệu. Chương trình phần mềm
CALIPR, như đã đề cập trên đây,
đã đưa ra bốn câu hỏi đơn giản với
ý định đánh giá giá trị của các tài
liệu ấn phẩm dưới khía cạnh là
nguồn tài liệu của toàn bộ thư viện
của bang.
Một khi cơ sở thư viện không chọn
lựa bất cứ công cụ nào đã nêu trên
đây thì các câu hỏi sau sẽ giúp thiết
lập các nghiên cứu lâu dài hoặc giá
trị giáo dục của các tài liệu và các
ấn phẩm về mặt ưu tiên của cơ sở và
về toàn bộ các tài liệu đề cập đến
vấn đề này:
1. Tầm quan trọng của nội dung mà
các tài liệu hoặc ấn phẩm này đề
cập đến là gì? Các tài liệu này có giá
trị chủ yếu mang tính địa phương,
toàn bang, cục bộ, toàn quốc hay
quốc tế?
2. Các tài liệu ấn phẩm này có liên
quan gì đến các tài liệu cùng chủ đề
đang lưu trữ tại thư viện?
3. Các tài liệu này có liên quan gì
đến các tài liệu cũng cùng đề tài ở
các thư viện khác?
4. Thông tin trong các tài liệu này là
duy nhất hay sao chép lại thông tin
đã được ghi chép, phát hành hoặc
lưu giữ tại các thư viện khác?
5. Cơ sở thư viện có cam kết sẽ tiếp
tục thu thập tài liệu về đề tài này
không?
6. Tại sao lại cần phải đầu tư vào
việc bảo quản các tài liệu này hơn là
thu thập các tài liệu mới?
7. Việc phá huỷ các tài liệu này có
ảnh hưởng gì đến việc minh chứng
và hiểu biết về vấn đề này?
Thông qua tiến trình này, dễ dàng
nhận ra rằng đa số các tài liệu lưu
trữ ở hầu hết các thư viện đều
không có giá trị lâu dài. Tuy vậy,
các tài liệu này lại đang được lưu
tâm, vì vậy chúng cần phải được
bảo vệ để tránh xuống cấp và hư
hỏng để có thể sử dụng càng lâu
càng tốt.
Các nhà đánh giá cũng cần phải xác
định được liệu các tài liệu ấn phẩm
này có giá trị thực sự không thông
qua việc xem xét các giá trị tượng
trưng, giá trị tiền tệ và giá trị cổ của
nó. Các giá trị nội tại này sẽ ảnh
hưởng đến các ưu tiên trong công
tác bảo quản. Thường thường điều
đó cũng sẽ xác định liệu có thể chấp
nhận việc in ấn lại các tư liệu hoặc
việc chọn các biện pháp bảo quản
thích hợp hay không.
Các nguồn vốn có sẵn
Tất cả các thông tin thu được về
tình trạng của các tư liệu thu thập
được, tình hình điều kiện môi
trường, các yếu tố khác liên quan
đến việc lưu trữ, và sự ước tính giá
trị của chúng, cuối cùng đều cần
phải được cân đối với nguồn vốn mà
cơ sở có thể huy động được và cân
đối với khả năng kỹ thuật của đội
ngũ nhân viên có thể đảm đương
được các yêu cầu đã định đó. Về
điểm này thì tiến trình lên kế hoạch
phải được áp dụng và phải xác định
được các hành động cần thiết thực
hiện.
Các nhà hoạch định cần nhận thức
rằng có thể áp dụng một số sáng
kiến đóng góp đáng kể cho việc tăng
tuổi thọ của các tư liệu sưu tầm
được mà không cần phải bổ sung
ngân sách hoặc tăng thêm khoản
ngân sách hiện có. Ví dụ toàn bộ các
việc như đào tạo nhân viên và người
sử /dụng trong công tác trông coi và
quản lý, việc xem xét các hợp đồng
đóng sách theo chỉ dẫn Các tiêu
chuẩn đóng sách thư viện của Viện
đóng sách thư viện, việc thực hiện
lưu trữ có hệ thống và bảo dưỡng kệ
sách, việc chuẩn bị kế hoạch phòng
rủi ro, việc thực hiện theo các tiêu
chí khi mua các thiết bị lưu trữ, việc
cộng tác với các nhà phụ trách xây
dựng thư viện để làm ổn định nhiệt
độ và độ ẩm, cũng như việc kết hợp
các dự định bảo tồn trong các chủ
trương và thủ tục đều có thể được
thực hiện tốt trong khuôn khổ nhân
sự và nguồn phân bổ ngân sách hiện
có. Đây chưa phải là tất cả các việc
mà chỉ là một số ví dụ cải tiến có thể
đạt được nhờ thay đổi cách làm việc
hiện tại theo hướng tôn trọng công
tác bảo quản.
Ngược lại, thường thì tăng ngân
sách chỉ áp dụng cho các việc như
thay thế một lượng đáng kể các thiết
bị lưu trữ hay các thiết bị bảo tồn đi
kèm, cải thiện điều kiện môi trường
xấu bằng cách tân trang toà nhà
hoặc lắp đặt hệ thống điều chỉnh
không khí, thiết lập chương trình
sắp xếp lại tư liệu theo hệ thống, và
đưa ra các biện pháp bảo quản tại
chỗ hay thuê ngoài. Hơn nữa, ba
việc cuối đòi hỏi trình độ chuyên sâu
của nhân viên trong công tác quản
lý bảo quản cũng như trong các vấn
đề bảo quản đã qua và sắp tới mà có
thể đạt được điều này qua các hội
thảo hoặc các khoá đào tạo ngắn
hạn ngay cho dù rút cục cũng cho
đấu thầu công việc.
Môi trường lãnh đạo.
Bất cứ một quá trình lập kế hoạch
nào cũng phải tính đến môi trường
lãnh đạo trong đó tiến hành chương
trình dự định thực hiện. Vì vậy cần
phải tỉnh táo trước các trở ngại về
mặt quản lý lãnh đạo như trước sự
thiếu hụt về kỹ thuật và không đủ
nguồn vốn. Đa phần thành công của
một kế hoạch bảo quản phụ thuộc
vào tâm nguyện ủng hộ của các nhà
quản lý của cơ sở trước các thay đổi
cần thiết. Sự ủng hộ đó cần phải
được thể hiện rõ ràng ngay từ khi
bắt đầu quá trình lập kế hoạch và
cần phải được duy trì qua các báo
cáo về việc triển khai và kiểm tra
qua đó thông qua các việc khuyên
làm. Việc đảm bảo cơ sở tiếp tục cho
một số nguồn vốn cần thiết sẽ được
cấp cũng rất quan trọng, có thể là
việc phân bổ quỹ thời gian hoặc khả
năng điều chỉnh lại một số dòng
trong ngân sách hoặc cấp dòng ngân
sách bổ sung. Điều đó có nghĩa là
cần phải làm cho các nhà quản lý
hàng đầu của các cơ sở tham gia và
ủng hộ quá trình này. Điều này
cũng phụ thuộc nhiều vào sự hợp
tác của các nhân viên khác của cơ
sở. Trong chừng mực có thể thì việc
lập kế hoạch cần ngăn chặn được sự
mất đoàn kết nội bộ bằng cách liên
kết và thuyết phục mọi nhân viên có
công việc bị thay đổi thấy được tầm
quan trọng của sự thay đổi đó.
Tương tự như vậy, nhiều phần
trong chương trình bảo quản đòi
hỏi sự hợp tác của các nhân viên
bên ngoài cơ sở như các nhà quản lý
hoặc các kỹ sư xây dựng. Một lần
nữa, việc giúp họ thấy được tầm
quan trọng của việc nâng cấp hệ
thống xây dựng hay sửa chữa để
bảo tồn các tư liệu ấn phẩm, cũng
rất cần thiết.
Trong mọi trường hợp, nên chuẩn
bị các dữ kiện chính xác về những
tác hại khi không tiến hành thay
đổi, nếu có thể thì bao gồm cả chi
phí tiền mặt cho việc phục hồi hư
hỏng và xuống cấp, cũng như đưa ra
các ước tính sát giá về chi phí cho
việc tiến hành các thay đổi đó. Việc
thực hiện chương trình theo kiểu
đưa ra mục tiêu cho từng giai đoạn
cũng rất cần thiết, nhờ vậy mỗi khó
khăn sẽ được xác định rõ ràng, và
có thể tìm kiếm nhiều nguồn vốn
trong vòng vài năm hoặc theo từng
giai đoạn.
Công tác bảo quản dự phòng.
Khi chuyển từ việc thu thập thông
tin và lên kế hoạch chương trình
bảo quản sang việc xác định các ưu
tiên và ... các thông số về số
lượng và chủng loại của tư liệu. "Bản tổng quan của
nhóm thư viện nghiên cứu (RLG) là một phương pháp
đánh giá cấp độ sưu tập tư liệu trong đó chỉ rõ đến điểm
mạnh và điểm yếu theo từng chủ đề nội dung trong một
đơn vị thư viện riêng lẻ hay trong một hệ thống thư viện,
hay trong một khu vực địa lý nhất định thông qua việc sử
dụng các tiêu chí và mô tả được chuẩn hoá" . Bản tổng
quan sử dụng thước đo có số xác định tương ứng với các
định nghĩa chuẩn hoá để mô tả mức độ sử dụng tư liệu
của khách hàng. Hệ thống thước đo được liệt kê dưới đây
theo thứ tự giảm dần như sau: đầy đủ nhất(5), nghiên
cứu (4), trung bình (3), cơ bản (2), tối thiểu (1), nằm
ngoài lĩnh vực (0); trong đó mức (1) và mức (2) lại được
chia nhỏ ra thành hai mức, còn mức (3) được chia nhỏ
thành ba mức nữa nhằm phân biệt rõ ràng những tư liệu
nào là hữu ích trong việc mô tả các bộ tư liệu nhỏ hơn.
Bản hướng dẫn viết phần trình bày chủ trương lưu trữ
tư liệu của Hiệp hội thư viện Mỹ (ALA) ( đã trích dẫn ở
phần 1) cung cấp thêm một số thông tin về việc sử dụng
bản tổng quan trong chủ trương lưu trữ tư liệu.
Tuy vậy, mức độ sử dụng tư liệu không phải là tiêu chí
duy nhất để đánh giá tầm quan trọng của tư liệu đối với
thư viện, dựa vào đó mà đặt ra các vị trí ưu tiên bảo
quản. Một đặc điểm quan trọng nữa để đánh giá là liệu
bộ tư liệu đó có chứa đựng những tư liệu có giá trị cổ
hoặc có giá trị đặc biệt gắn kết với thư viện không. Khi
làm việc với các tư liệu lưu trữ, ta cần chú ý đến giá trị
hiển nhiên của tư liệu đó. Các giá trị này làm cho các tư
liệu thực sự cần thiết vì ý nghĩa quan trọng về pháp lý,
quản lý và/hoặc tài chính của chúng đối với một tổ chức.
Một khi được suy xét cẩn thận kỹ càng toàn diện, định
hướng sưu tập sẽ đưa ra luận điểm quan trọng để tham
khảo khi ra quyết định về bảo quản tư liệu. Các quyết
định về lưu trữ tư liệu cũng phải thể hiện chính sách thu
thập tư liệu nếu định hướng này là sự chỉ đạo đáng tin
cậy trong công tác triển khai và quản lý các bộ sưu tập.
“Tất cả các định hướng về việc quản lý sưu tập, cần được
đưa ra ngay từ khi nhập tư liệu, phải tính đến quá trình
xuống cấp về lý tính của tư liệu đó cũng như nhu cầu cần
thiết phải lưu trữ tư liệu”3. Như vậy, ở mỗi giai đoạn
trong quá trình thu thập, xử lý, cất trữ, truy cập, bảo
dưỡng và cuối cùng là thanh lý tư liệu, mọi nhân viên thư
viện, đặc biệt là những ai liên quan đến công tác triển
khai và quản lý tư liệu, phải nhận thức rõ được định
hướng lưu trữ trong quyết định và hành động của họ.
Các quyết định lưu trữ tư liệu không chỉ tính tới tầm
quan trọng của tiêu đề đối với một lĩnh vực lưu trữ hay
việc có cần phải lưu giữ tư liệu dưới dạng bản in, văn
bản khổ nhỏ hay điện tử để thuận tiện nhất cho người sử
dụng, mà còn cần cân nhắc tới những yêu cầu lưu giữ lâu
dài của các hình thức văn bản này. Nếu một tiêu đề được
in trên giấy có chứa a-xít hoặc nếu kinh nghiệm cho thấy
một loạt các tư liệu đặc biệt dễ bị đánh cắp hoặc có
những phần trong đó bị cắt mất, thì nhất thiết phải lưu
trữ tư liệu này dưới dạng phim hay văn bản điện tử để có
thể đạt được tuổi thọ lý tính dài hơn hoặc sự an toàn cao
hơn.
Những việc tưởng như hết sức đơn giản như hỏi về cách
thức lưu trữ tư liệu trước đây và kiểm tra tình trạng hiện
tại của tư liệu, lại hết sức quan trọng. Một nhà quản lý
công tác lưu trữ thông minh luôn xem xét kỹ lưỡng bất
cứ tư liệu sắp đưa vào lưu trữ nào để tìm ra những dấu
hiệu cho thấy tình trạng dễ bị hư hỏng, sự hư hại trên bề
mặt hay về lý tính, sự xuống cấp của bìa sách, nấm mốc
cũng như sự sinh trưởng của sâu bọ trong đó. Đối với
việc viện trợ tư liệu cũng cần xác định rõ rằng thư viện
có thể sẽ chọn lọc để thanh lý một số lượng tư liệu khỏi
bộ sưu tập không chỉ vì những tư liệu này không thuộc
phạm vi lưu trữ hoặc chúng trùng với những tư liệu lưu
trữ sẵn có tại thư viện, mà còn bởi chi phí lưu trữ quá
tốn kém, vượt quá khả năng của cơ quan lưu trữ.
Khi ta đã nhập tư liệu, thì lúc này việc quản lý tư liệu tốt
phải bao gồm cả các biện pháp nhằm ngăn chặn quá
trình xuống cấp của tư liệu trong tương lai. Ví dụ, các
quyết định sử dụng loại chất liệu nào đối với phần bìa
sách quảng cáo của thư viện, phải ý thức được rằng
những bìa sách đáp ứng các tiêu chuẩn quốc gia hiện nay
có khả năng bảo vệ sách tốt và lâu dài. Trên thực tế, đây
là cách thức phát huy tốt nhất tính hiệu quả của chi phí
mà một thư viện cần thực hiện để bảo quản những tư
liệu dự định bổ sung vào vốn tư liệu lưu trữ. Tương tự
như vậy, cần bảo vệ các tư liệu lưu trữ và bản viết tay
trong các cặp và các hộp được kiềm hoá ngay khi nhập
về kho lưu trữ.
Các nhà quản lý lưu trữ cần hợp tác với những người
phụ trách công tác bảo quản để đảm bảo có một môi
trường tối ưu nhất cho công tác lưu trữ tư liệu có giá trị
lâu dài. Nghiên cứu tại Thư viện Quốc hội và Viện Lưu
giữ Hình ảnh cho thấy rõ ràng rằng tuổi thọ của các tư
liệu lưu trữ ở trong điều kiện môi trường nhiệt độ và độ
ẩm ổn định, vừa phải, tăng lên đáng kể. Trong thời gian
gần đây, khi ngân sách dành cho tư liệu bị cắt giảm
nhiều, các nhà quản lý lưu trữ càng ý thức được thực tế
là việc mua ít hơn số lượng tư liệu dự phòng để thay thế
sẽ làm tăng thêm khoản tiền dành cho việc nhập thêm
các đầu tư liệu mới.
Khi số lượng tư liệu bị hư hỏng không thể phục hồi được,
các nhà sưu tầm và đội ngũ bảo quản có thể phối hợp với
nhau để đề ra những quyết định sáng suốt nhất xem liệu
có nên hay không nên thay thế tư liệu cũ, và nếu thay thế
thì thay thế bằng tư liệu nào. Ví dụ, trong hầu hết các
trường hợp, việc yêu cầu thêm một bản copy của một
cuốn sách bị hư hỏng sẽ chẳng mấy tác dụng nếu cuốn
sách này được in trên giấy có lượng a-xít cao và bìa kém
chất lượng. Kiến thức của một người sưu tầm về điểm
mạnh, điểm yếu và chi phí liên quan của một số lựa chọn
sẵn có về công việc chỉnh sửa: như chụp phim, sao chụp
tư liệu, chụp kỹ thuật số sẽ quyết định liệu có nên tiến
hành công việc chỉnh sửa và cách thức chỉnh sửa như thế
nào cho phù hợp.
Ngoài ra, một số các thư viện nghiên cứu hàng đầu như ở
Đại học Havard và Đại học Texas gần đây đã cho xây
dựng các khu giữ lạnh cách biệt. Những khu này được
thiết kế rất cẩn thận, không chỉ nhằm giảm bớt số lượng
sách quá lớn tại thư viện trong trường, mà còn tạo ra
môi trường lưu trữ có nhiệt độ và độ ẩm thấp, ổn định,
để làm tăng tuổi thọ của các tư liệu sưu tập bằng giấy và
phim cũ. Các nhà quản lý lưu trữ và những người phụ
trách công tác bảo quản đang phối hợp với nhau để xác
định những tư liệu sưu tầm nào có giá trị nhất, để chuyển
chúng vào môi trường lưu trữ đặc biệt này.
Một dấu hiệu của sự tương tác, dựa vào nhau ngày càng
tăng giữa việc quản lý lưu trữ và công tác bảo quản tại
các thư viện Mỹ là thay đổi về bản chất khi đánh giá các
yêu cầu đề ra. Nếu như trong những năm 1970 và đầu
những năm 1980, khi các chương trình bảo quản lần đầu
tiên được đưa vào ứng dụng, các cuộc điều tra trên tư
liệu lưu trữ chỉ nhằm đơn giản xác định điều kiện lý tính
của những tư liệu này. Ngày nay, các cuộc điều tra cũng
đã thu thập được các số liệu về điều kiện môi trường lưu
trữ, việc phòng ngừa hoả hoạn, phòng tránh tai nạn, mức
độ sử dụng và giá trị. Các yếu tố cuối cùng lâu nay vốn
vẫn thuộc phạm vi quản lý tư liệu.
Có lý do lịch sử cho sự thay đổi này. Phong trào bảo
quản ở đất nước này chủ yếu bắt đầu khi phải đứng
trước tình trạng một số lượng ngày càng tăng các tài liệu
in trên giấy a-xít bị hư hỏng trong các kho của những
thư viện nghiên cứu ở Mỹ. Cuộc khủng hoảng lan rộng
này rõ ràng đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của những
giải pháp truyền thống, sử dụng việc thay thế hay phục
hồi cơ bản là các biện pháp khắc phục trước mắt đối với
một quyển, một bộ, hoặc một nhóm nhỏ các bản viết tay
hoặc bản ghi. Vào giữa những năm 1970, nhu cầu cần có
những giải pháp lớn mang tính đồng bộ càng rõ nét hơn.
Bước đầu, sự lựa chọn tối ưu là chụp vi phim, đặc biệt
đối với các bộ sưu tập quan trọng, có khối lượng lớn
trong các thư viện nghiên cứu, đây là cách thức gọi là
“những bộ sưu tập vĩ đại” để cứu lấy phần cốt yếu trong
di sản tri thức của chúng ta.
Lẽ dĩ nhiên, khi phong trào lưu trữ phát triển, thì các
giải pháp bảo quản cũng ngày càng được cải thiện. Ngày
càng có nhiều các nhà quản lý lưu trữ chuyên nghiệp
nắm bắt được kinh nghiệm nhằm giải quyết tất cả các
nhu cầu về bảo quản của tổ chức họ. Các chương trình
đào tạo được triển khai đã khuyến khích việc phân tích
các nhu cầu đó và đề xuất ra những ý tưởng mới về giải
pháp. Các dịch vụ bảo quản trong vùng cung cấp kinh
nghiệm về đào tạo và tư vấn cho hàng loạt các cơ quan
và tổ chức, mà nhiều tổ chức trong số này không đủ lớn
để có một nhà quản lý lưu trữ chuyên trách, mà thường
kết hợp công việc lưu trữ với các trách nhiệm khác. Các
cuộc điều tra tìm hiểu khoa học để xác định nguyên nhân
xuống cấp của tư liệu và phim ảnh đã đưa ra được
những gợi ý về cách thức kéo dài tuổi thọ, các biện pháp
được áp dụng hữu hiệu nhất cho toàn bộ tư liệu lưu trữ
và thậm chí cả các kho lưu trữ.
Một trong những đặc điểm gây ngạc nhiên nhất của quá
trình phát triển diễn ra hơn 20 năm qua, là trọng tâm
của bảo quản đã ngày càng xa rời dần với nhu cầu cứu
lấy các tư liệu lưu trữ. Nhiệm vụ cứu chữa không còn
chủ yếu để nhằm giữ được các thông tin có giá trị nghiên
cứu lớn khỏi bị nguy cơ hư hại. Ngày nay, các chương
trình lưu trữ là những nỗ lực rộng khắp nhằm ngăn chặn
sự xuống cấp dần dần của cả thư viện cũng như các tư
liệu lưu trữ. Vì vậy, công tác bảo quản đã trở thành một
phần không thể thiếu được của công tác quản lý lưu trữ,
và công tác quản lý lưu trữ về phần mình đã ngày càng
quan tâm hơn đến việc duy trì sức chống đỡ của tư liệu
với thời gian, không chỉ trong hiện tại.
Ghi chú
1. Bonita Bryant, tái bản, Hướng dẫn về tài liệu về định
hướng sưu tập. Hướng dẫn Quản lý và Triển khai lưu
trữ. (Chicago và London: Hiệp hội thư viện Hoa Kỳ,
1989).
2. Larry R.Oberg, “Đánh giá định hướng lưu trữ đối với
lưu trữ tại các thư viện nhỏ”. Thư viện Đại học và nghiên
cứu 49.3 (5/1988): trang 187-96.
3. Ellen Cunningham Kruppa, “Vai trò của chuyên gia
bảo quản trong việc Triển khai công tác Lưu trữ”, Bản
tin của Thư viện Wilson (11/1992): trang 27
Debra Saryan, Quản lý thư viện, Trung tâm bảo quản tài
liệu Đông Bắc
Danh mục ngắn này được thiết lập nhằm hỗ trợ các nhà
quản lý các bộ sưu tập của thư viện, bảo tàng và cơ quan
lưu trữ phát triển chương trình bảo quản của mình. Nó
cung cấp hàng loạt các thông tin chuyên ngành có giá trị
giúp đánh giá các nhu cầu bảo quản, và quyết định thứ
tự ưu tiên để giải quyết chúng. Các nhà quản lý các bộ
sưu tập nên tham khảo các tài liệu về các phương pháp
lập kế hoạch mang tính chiến lược để đạt hiệu quả cao
hơn trong quá trình lập kế hoạch của mình.
Mỗi tài liệu tham khảo được liệt kê dưới đây đều có phần
chú giải. Đó là nhờ sự hỗ trợ từ tập thể nhân viên của
Trung tâm bảo tồn tư liệu Đông Bắc (NEDDC), cũng như
qua tham khảo các tài liệu đã xuất bản trước đó như
cuốn A Core Collection in Preservation (Bộ tài liệu nòng
cốt về bảo quản), [Lisa L. Fox xuất bản lần 1 năm 1988,
Don K. Thompson và Joan Ten Hoor xuất bản lần 2 năm
1993, Chicago, American Library Association (Hiệp hội
thư viện Hoa Kỳ)]. Hội các nhà lưu trữ Hoa Kỳ (SAA),
Uỷ ban giáo dục về lĩnh vực bảo quản đã phát hành các
tài liệu cập nhật cho cuốn “Selected Readings in
Preservation” (Các tài liệu chọn lọc về bảo quản). Đây là
nguồn tham khảo quý báu về lĩnh vực bảo quản tài liệu
cho các cơ quan lưu trữ.
Cuối tài liệu này là phần danh mục các bài viết và tạp chí
tham khảo, tập trung vào việc tổ chức nhiều công tác
khác nhau trong một chương trình bảo quản.
Alberta Museums Association (Hiệp hội bảo tàng
Alberta). Self-Evaluation Checklist (Danh mục tự đánh
giá). Edmonton, Alberta: Alberta Museums Association,
1991.
Alberta Museums Association. Standard Practices
Handbook for Museums (Sổ tay tiêu chuẩn thực hành
cho các bảo tàng). Edmonton, Alberta: Alberta Museums
Association, 1990.
American Association of Museums. Shaping the
Museum: The MAP Institutional Planning Guide (Tổ
chức bảo tàng: Hướng dẫn hoạch định tổ choc của
MAP), xuất bản lần 2. Washington, D.C: American
Association of Museums, 1993.
American Library Association (Hiệp hội thư viện Hoa
Kỳ), Subcommittee on Guidelines for Collection
Development (Tiểu ban hướng dẫn phát triển tư liệu).
Guide for Written Collection Policy Statements (Hướng
dẫn trình bày các chính sách tư liệu bằng văn bản).
Bonita Bryant, đã xuất bản. Chicago: American Library
Association, 1989: Collection Management and
Development Guides (Hướng dẫn quản lý và phát triển
tư liệu), số 3, 32 trang.
Tài liệu này và hai tài liệu tiếp theo là một phần trong bộ
tài liệu hướng dẫn về phát triển tư liệu do ALA soạn
thảo. Mọi thông tin đều đơn giản, dễ hiểu và dễ ứng
dụng. Chúng đều được khuyến khích dùng.
American Library Association, Subcommittee on
Guidelines for Collection Development. Guide to the
Evaluation of Library Collections (Hướng dẫn đánh giá
các bộ sưu tập của thư viện). Barbara Lockett, đã xuất
bản. Chicago: American Library Association, 1989;
Collection Management and Development Guide số 2, 25
trang.
American Library Association, Subcommittee on
Guidelines for Collection Development. Guide to Review
of Library Collections (Hướng dẫn xem xét các bộ sưu
tập thư viện). Lenore Clark, đã xuất bản. Chicago:
American Library Association, 1991; Collection
Management and Development Guides số 5, 41 trang.
Association of Research Libraries (ARL) (Hiệp hội thư
viện nghiên cứu). Preservation Planning Program
Resource Guides (Hướng dẫn về các nguồn lực trong
hoạch định chương trình bảo quản). Jutta Reed-Scott
chủ biên. Washington, D.C: ARL, 1993, nhiều độ dài
khác nhau.
Trên đây là 7 tài liệu hướng dẫn do các chuyên gia bảo
quản của các thư viện soạn thảo nhằm cung cấp các quy
chuẩn về những gì mà một thư viện có thể tính đến bằng
nỗ lực trong công tác bảo quản của mình, đẩy mạnh các
hoạt động hiện có và phát triển những sáng kiến mới.
Các bài viết ở đây tập trung vào các chủ đề, đó là:chuyển
dạng tư liệu, bảo quản/sửa chữa, tu bổ, bồi vá, đóng bìa,
bảo dưỡng các bộ sưu tập, đối phó với các trường hợp
khẩn cấp, đào tạo nhân viên và hướng dẫn người sử
dụng, đồng thời quản lý công tác bảo quản.
Barry, Bryan W. Strategic Planning Workbook for
Nonprofit Organizations, Revised and Updated (Bài tập
hoạch định chiến lược cho các tổ chức phi lợi nhuận, có
sửa đổi và bổ sung). St. Paul, MN: Amherst H. Wilder
Foundation, 1997.
Cung cấp các hướng dẫn chi tiết theo từng bước để phát
triển kế hoạch. Hiện có trên http:/www.wilder.org.
Calmas, Alan. “Preservation Planning at the National
Archives and Records Administration” (Lập kế hoạch
bảo quản ở cục lưu trữ quốc gia và tư liệu hành chính).
The Record (Tài liệu) 1.2 (11/1994): 1
Cloonan, Michole V. Organizing Preservation Activities
(Tổ chức các hoạt động bảo quản). Association of
Research Livraries (Hiệp hội các thư viện nghiên cứu),
1993, 98 trang.
Darling, Pamela W., và Wesley Boomgaarden.
Preservation Planning Program Resource Notebook
(Hướng dẫn về các nguồn lực trong việc hoạch định
chương trình bảo quản). Washington, D.C: Association
of Research Libraries, Office of Management Studies
(Phòng nghiên cứu quản lý), 1987, 719 trang.
Là nguồn tham khảo quý giá về các danh mục, tài liệu cơ
sở và kỹ thuật và các tài liệu cập nhật quan trọng cho
công tác hoạch định và thực hiện kế hoạch bảo quản. Nó
được soạn thảo có sự tham khảo cuốn Sổ tay tự học của
Darling và Webster (1987) (Xem danh mục tiếp theo).
Darling, Pamela W., và Duane E. Webster. Preservation
Planning Program: An Assisted Self-Study Manual for
Libraries (Chương trình hoạch định bảo quản: Cuốn sổ
tay hướng dẫn tự nghiên cứu dành cho các thư viện).
J.Mirrill-Oldham và J. Reed-Scott sửa đổi và bổ sung.
Washington, D.C: Association of Research Libraries
Office of Management Studies (OMS) (Hiệp hội các thư
viện nghiên cứu về công tác quản lý nghiên cứu), 1993.
Tài liệu được xây dựng nhằm hướng dẫn các thư viện lập
và thực hiện các chương trình bảo quản qua một quá
trình mang tính giáo dục và thu hút đông đảo nhân viên
tham gia. Vạch ra một quy trình tự nghiên cứu về đánh
giá nhu cầu, đưa ra các thứ tự ưu tiên, lập kế hoạch khảo
sát điều kiện của bộ sưu tập, tổ chức và bố trí nhân sự,
kiểm soát các thảm hoạ, đào tạo nhân viên và hướng dẫn
người sử dụng và có tinh thần đoàn kết, hợp tác trong
nội bộ. Có tham khảo Resource Notebook năm 1987(Sổ
tay nguồn lực) của Darling và Boomgaarden và 7 tài liệu
hướng dẫn của ARL Preservation Planning Program
Resource Guides (Hướng dẫn về các nguồn lực trong
hoạch định chương trình bảo quản của ARL) năm 1993.
Hiện có các bản báo cáo của các tổ chức đã hoàn thiện
quá trình tự nghiên cứu này tại OMS.
DeCandido, Pobert, and Cheryl Shackleton. Who Ya
Gonna Call? A Preservation Services Sourcebook for
Libraries and Archives (Bạn sẽ gọi cho ai? Cuốn sách về
các nguồn dịch vụ bảo quản dành cho các thư viện và cơ
quan lưu trữ). New York Metropolitan Reference and
Research Library Agency (METRO) (Tổ chức thư viện
nghiên cứu và tham khảo thành phố New York), 1992,
132 trang. Hiện có tại địa chỉ: New York State Library,
Division of Library Development, Cultural Education
Center (Thư viện bang New York, Ban phát triển thư
viện), Albany, NY 12230.
Cung cấp danh sách nhiều dịch vụ bảo quản, bao gồm
điều tra bảo quản, chụp vi phim, công nghệ xử lý làm
phẳng giấy, đóng bìa sách, sắp xếp thư viện và các nguồn
cung cấp. Dành cho khu vực Washington, DC;
Philadelphia và Boston; nhưng cũng có các tổ chức ở xa
hơn mà vẫn có thể cung cấp dịch vụ trong phạm vi đó.
Drewes, Jeanne M. và Julie Page. Promoting
Preservation Awareness in Libraries: A Sourcebook for
Academic, Public, School, and Special Collections (Tăng
cường nhận thức về bảo quản trong các thư viện: Cuốn
sách dành cho các bộ sưu tập ở các trường, tổ chức công
cộng, tổ chức nghiên cứu và bộ sưu tập đặc biệt).
Westport, CT: Greenwood Press ấn hành, 1997.
Đây là một tài liệu đánh giá toàn diện về các chương
trình giáo dục bảo quản cho người sử dụng tại thư viện
lưu trữ các bộ sưu tập tại các trường, tổ chức công cộng,
tổ chức nghiên cứu và bộ sưu tập đặc biệt. Cung cấp các
ví dụ thực tế về cách thức các tổ chức có thể hướng dẫn
và thông báo cho các nhân viên và người sử dụng. Có
nhiều phụ lục hữu ích về cách minh hoạ trưng bày, các
danh mục và danh sách về thiết bị nghe nhìn.
Ellis, Judith. Keeping Archives (Lưu giữ các tài liệu).
Xuất bản lần 2. Sydney, Australia: D.W . Thorpe và
Australian Society of Archivists (Hội các nhà lưu trữ úc),
1993, 512 trang.
Đây là một tài liệu hay, đề cập đến mọi khía cạnh của
công tác quản lý lưu trữ, bao gồm cả việc bảo quản bằng
ngôn ngữ văn phong dễ hiểu và thực tế. Phù hợp cho việc
giới thiệu, đánh giá hoặc tham khảo; đề cập đến bề rộng
hơn là bề sâu. Hiện có tại Society of American Archivists
(Hội các nhà lưu trữ Hoa Kỳ).
Gallery Association (Hiệp hội Gallery). Insurance and
Risk Management for Museums and Historical Societies
(Quản lý rủi ro và bảo hiểm đối với các bảo tàng và hội
sử học). Hamilton, NY: Gallery Association, 1985, 96
trang.
Đề cập đến những vấn đề cơ bản của việc quản lý rủi ro
và các lựa chọn bảo hiểm cho các bảo tàng; chuyển đổi
thông tin giữa các tổ chức văn hoá cũng như các bộ sưu
tập khác. Hiện có tại American Association of Museums
(Hiệp hội bảo tàng Hoa Kỳ), Washington, D.C. 20005.
Green, Sara Wolf. The Conservation Assessment: A Tool
For Planning, Implementing, and Fundraising (Đánh giá
bảo quản: Công cụ hoạch định, thực hiện và gây quỹ).
Xuất bản lần 2. Marina del Ray, CA, and Washington,
D.C: Getty Conservation Institute and National Institute
for the Conservation of Cultural Property (Viện bảo
quản Getty và Viện bảo quản tài sản văn hoá quốc gia),
1991.
Harvey, Douglas R. “Developing a Library Preservation
Program” (Phát triển chương trình bảo quản thư viện).
Chương 10 trong cuốn Preservation in Libraries: A
Reader (Bảo quản trong thư viện). New York: Bowder-
Saur, 1993.
Vạch ra 4 loại hình đưa công tác bảo quản vào thư viện:
các thư viện chuyên ngành loại nhỏ, các bộ sưu tập được
sử dụng nhiều, các bộ sưu tập ít được sử dụng hơn, và
các bộ sưu tập có ý nghĩa quốc gia. Hiện có tại địa chỉ
Bowker-Saur, 121 Chanlon Rd. New Providence, NJ
07974. 1-800-521-811.
Hoagland, K. Elaine. Guidelines for Institutional Policies
& Planning in Natural History Collections (Hướng dẫn
hoạch định và tạo lập chính sách cho các tổ chức lưu giữ
các bộ sưu tập lịch sử tự nhiên). Washington, D.C:
Association of Systematics Collections (Hiệp hội sưu tập
hệ thống), 1994.
Jones, Maralyn. Collection Conservation Treatment: A
Resource Manual for Program Development and
Conservation Technician Training (Xử lý bảo quản sưu
tập: Sổ tay phát triển chương trình và đào tạo kỹ thuật
viên bảo quản). Berkeley: Conservation Department
(Ban bảo quản), Library (Thư viện), University of
California (Đại học California), 1993. 451 trang.
Các tài liệu (quy trình sửa chữa sách, tổ chức không gian
làm việc, sơ đồ các bước quyết định) từ Hội thảo
Berkeley về đào tạo kỹ thuật viên tu bổ, 1992. Đưa ra
nhiều quy trình đa dạng cho các chương trình tu bổ sách
với số lượng lớn. Hiện có tại Association of Research
Libraries (Hiệp hội thư viện nghiên cứu), Washington,
D.C.20036.
Lusenet, Yola De. Choosing to Preserve: Towards a
Cooperative Strategy for Long-Term Access to the
Intellectual Heritage (Lựa chọn để bảo tồn: Hướng tới
một chiến lược hợp tác nhằm tiếp cận lâu dài với các di
sản trí tuệ). European Commission on Preservation and
Access (Uỷ ban châu Âu về công tác bảo tồn và truy cập),
Amsterdam, Netherlands, 1997, 165 trang.
Managing Preservation: A Guidebook (Quản lý công tác
bảo quản: tài liệu hướng dẫn). Columbus, Ohio: State
Library of Ohio Preservation Council (Hội đồng bảo tồn
thư viện bang Ohio), 1995. Liên hệ với Clara Ireland,
State Library of Ohio, 65 S. Front Street, Columbus,
Ohio.
Đây là cuốn sổ tay dành cho các giám đốc phụ trách công
tác bảo quản có kinh nghiệm và cả những người mới vào
nghề.
McCord, Margaret, và Catherine Antomarchi. A
Preventive Conservation Calendar for the Smaller
Museum (Lịch bảo tồn cã týnh chÊt ph#ng ngõa đối với
các bảo tàng quy mô nhỏ). Rome: International Centre
for the preservation and Restoration of Cultural
Property (Trung tâm quốc tế về bảo tồn và phục chõ các
tài sản văn hoá), 1997.
Merrill-Oldham, Jan, Carolyn Clark Morrow, và Mark
Roosa. Preservation Program Models: A Study Project
and Report (Các hình mẫu về chương trình bảo quản:
Dự án nghiên cứu và báo cáo). Association of Research
Libraries (Hiệp hội các thư viện nghiên cứu), Committee
on Preservation of Research Library Materials (Uỷ ban
về bảo tồn các tài liệu nghiên cứu của thư viện).
Washington, D.C: Association of Research Libraries
(Hiệp hội các thư viện nghiên cứu), 1991, 54 trang.
Cung cấp cho các nhà quản lý thư viện các hướng dẫn để
tiếp cận với các chương trình bảo quản, chia các thư viện
thành 4 nhóm theo quy mô, mỗi nhóm lại có một chương
trình tiếp cận riêng về nhân lực, hoạt động và ngân sách.
Thảo luận về 10 thành tố của một chương trình bảo quản
toàn diện. Đây là một tài liệu hữu ích cho các thư viện
bất kể quy mô và chức năng gì.
Mibach, Lisa. Collections Care: What to Do When You
Can’t Afford to Do Anything (Chăm sóc các bộ sưu tập:
Phải làm gì khi bạn không có điều kiện tài chính để làm
bất cứ điều gì). Oberlin, Ohio: Mibach & Associates,
Collection Conservation (Bảo tồn sưu tập).
Motylewski, Karen. “What an Institution Can Do to
Survey Its Own Preservation Needs” (Những gì một tổ
chức có thể tiến hành để tự khảo sát nhu cầu bảo quản
của mình). Trong Collection Maintenance and
Improvement (Duy trì và nâng cấp sưu tập). Sherry
Byrne, đã xuất bản. Washington, D.C: Association of
Research Libraries (Hiệp hội các thư viện nghiên cứu),
1993.
National Association of Government Archives & Records
Administrators (Hiệp hội quốc gia của các nhà lưu trữ
thuộc chính phủ và các nhà quản lý tài liệu). NAGARA
Guide and Resources for Archival Strategic Planning
(Hướng dẫn và các nguồn NAGARA về hoạch định chiến
lược lưu trữ). Albany, NY: National Association of
Government Archives & Records Administrators, 1991.
Cung cấp 3 công cụ: chương trình tự nghiên cứu hỗ trợ
trên máy vi tính, có sử dụng trí tuệ nhân tạo để định ra
và báo cáo kết quả, mục tiêu và các ưu tiên được tổ chức
lập ra; một sổ tay về các chiến lược hoạch định; và một
bản trích yếu nguồn lực dài 700 trang về các tài liệu đã
và chưa được công bố. Society of American Archivists
(Hội các nhà lưu trữ Hoa Kỳ), 600 South Federal, Suite
504, Chicago, IL 60605. Telephone: (312)922-014, ext.21,
Email:
Archivists.org/catalog/catalog/index.html.
New York State Archives and Records Administration
(Hội quản lý tài liệu và lưu trữ bang New York).
Guidelines for Arrangement and Description of Archives
and Manuscripts: A Manual for Historical Records
Programs in New York State (Hướng dẫn sắp xếp và mô
tả các tài liệu và bản thảo chép tay: Sổ tay về các chương
trình lưu trữ tài liệu sử học trong bang New York).
Albany, NY: New York State Archives and Records
Administration,1991, 35 trang. Hiện có tại Documentary
Heritage Program (Chương trình di sản tài liệu), State
Archives and Records Administration (Cục lưu trữ nhà
nước và tài liệu hành chính), New York State Education
Department (Khoa giáo dục bang New York), Room 9
B44 Cultural Education Center, Albany, NY 12230.
Đây là một tài liệu hướng dẫn dễ hiểu về lý thuyết lưu
trữ và định dạng, dễ ứng dụng cho các tổ chức lưu giữ
các hiện vật có giá trị lịch sử. Cung cấp cái nhìn tổng
quan về các quy trình lưu trữ đã được thừa nhận về sắp
xếp và mô tả. Gồm có một danh mục ngắn về các công cụ
cơ bản và sổ tay hướng dẫn được sử dụng rộng rãi trong
mô tả lưu trữ. Là điểm khởi đầu lý tưởng cho các tổ chức
nhỏ và các nhà lưu trữ chưa có nhiều kinh nghiệm.
Ogden, Barclay, và Maralyn Jones. CALIPR.
Sacramento, CA: The California State Library (Thư viện
bang California), 1997.
Có phần mềm vi tính (cùng với tài liệu hướng dẫn sử
dụng), là công cụ đánh giá một cách tự động nhu cầu bảo
quản của các bộ sưu tập sách và tài liệu dựa trên cơ sở
100 mẫu ngẫu nhiên. Hiện có tại The California State
Library Foundation, P.O., Box 942837, Sacramento, CA
94237-001, hoặc tải miễn phí tại trang web Berkeley
Library Digital Sunsite
Ogden, Sherelyn. Preservation Planning: Guidelines for
Writing a Long-Range Plan (Lên kế hoạch bảo quản:
Hướng dẫn viết kế hoặch dài hạn). Washington, D.C.:
American Association of Museums and Northeast
Document Conservation Center (Hiệp hội Thư viện Hoa
Kỳ và Trung tâm bảo tồn tài liệu Đông Bắc), 1997.
Hỗ trợ viết các kế hoạch bảo quản sưu tập dài hạn. Cung
cấp những tài liệu mở rộng về in ấn và trình bày điện tử.
Đĩa tương thích với máy IBM.
Pickett, A.G. và M.M. Lemcoe. Preservation and Storage
of Sound Recordings (Bảo tồn và lưu trữ băng đĩa), ấn
phẩm năm 1959 của Thư viện quốc hội. Silver Springs,
MD: Association for Recorded Sound Collections (Hiệp
hội các sưu tập băng đĩa), 1991, 75 trang. Society of
American Archivists (Hội các nhà lưu trữ Hoa Kỳ),
Chicago, IL.
Một tài liệu cần thiết cho các nhà quản lý các bộ sưu tập
âm thanh. Điều đáng ngạc nhiên là nhiều hướng dẫn vẫn
còn nguyên giá trị. Có trước công nghệ kỹ thuật số.
RLG Preservation Needs Assessment Package (PreNAP)
(Bộ đánh giá nhu cầu bảo tồn RLG). Mountain View,
CA: Research Libraries Group (Nhóm các thư viện
nghiên cứu), 1991.
Là công cụ tự động đánh giá các nhu cầu bảo tồn. Hiện
có tại Preservation Publication Coordinator, RLG, 1200
Villa Street, Mountain View, CA 94041-1100.
Reed-Scott, Jutta. Preservation Planning Program
(Chương trình lên kế hoạch bảo quản). Washington,
D.C.: Association of Research Libraries (Hiệp hội các
thư viện nghiên cứu), 1993.
Một bộ gồm 7 cuốn hướng dẫn, cung cấp một kho tài liệu
toàn diện, dễ sử dụng gồm các bài viết, tài liệu và danh
mục về các yếu tố bảo tồn trong thư viện. Được thiết kế
sử dụng với PPP Assisted Self-Study Manual (Sổ tay tự
nghiên cứu có trợ giúp). Các cuốn sách gồm: 1. Options
for Replacing and Reformatting Deteriorated Materials
(Jennifer Banks, đã xuất bản) (Lựa chọn thay thế và
chuyển dạng các hiện vật đã xuống cấp). 2. Staff
Training and User Awareness in Preservation
Management (Wesley Boomgarden, đã xuất bản) (Tăng
cường nhận thức của nhân viên và người sử dụng về
công tác quản lý bảo quản). 3. Disaster Preparedness
(Constance Brooks, đã xuất bản) (Sẵn sàng đối phó với
thiên tai). 4. Collection Maintenance and Improvement
(Sherry Byrne, đã xuất bản) (Bảo quản và nâng cấp sưu
tập). 5. Collections Conservation (Robert DECandido, đã
xuất bản) (Bảo tồn sưu tập); 6. Managing a Library
Binding Program (Jan Merrill-Oldham, đã xuất bản)
(Quản lý chương trình đóng sách thư viện); 7.
Organizing Preservation Activities (Michole V. Cloonan,
đã xuất bản) (Tổ chức các hoạt động bảo quản).
Association of Research Libraries (Hiệp hội các thư viện
nghiên cứu), 21 Dupont Circle, N.W., Suite 800,
Washington, DC, 20036, (202) 296-2296. Email:
pubs@arl.org.
Ritzenthaler, Mary...ày bao gồm khối lượng xử lý tối thiểu được
yêu cầu để làm chậm việc hư hỏng của một cuốn sách.
Công việc này không bao gồm xử lý bên ngoài hay sửa
chữa về mặt kết cấu. Ví dụ một cuốn sách có bìa bị long
và trang rách chỉ có thể được chụp vi phim, làm giảm
axit bằng cách khô và đóng hộp. Cấp độ xử lý này
thường được lựa chọn đối với sách mà giá trị của nó hạn
chế hoặc sách ít được dùng.
Xử lý mở rộng
Công việc này bao gồm xử lý toàn bộ cả trang và đóng.
Xử lý cả kết cấu và bên ngoài. Cách làm này thường liên
quan đến việc tách rời một cuốn sách, lau chùi bên ngoài,
giảm axit bằng cách ướt, vá và gia cố các trang giấy,
khâu lại, sửa chữa bìa gốc và dán chúng vào trang nội
dung. Nếu bìa gốc quá nát không thể tái sử dụng được
thì cuốn sách đó phải được đóng lại theo một trong
những cách đóng (kết cấu hộp, bìa tách hoặc buộc) và ghi
nhan đề. Cấp độ xử lý này thường dành cho sách có giá
trị cao.
Đóng hộp
Trong bảo quản sách đóng hộp là một công việc quan
trọng. Hộp hỗ trợ về mặt cấu trúc cho một cuốn sách và
bảo vệ cho nó khỏi bụi, bẩn, ánh sáng và hư hại về mặt
hóa chất. Sách có bìa đóng có giá trị về mặt lịch sử và mỹ
thuật cần phải được duy trì tối đa trong tình trạng hiện
tại của nó, nên được đóng hộp. Sách hỏng, ít khi được
dùng, không đảm bảo xử lý hoặc sửa chữa cũng nên
được đóng hộp. Hộp nên được làm bằng chất liệu bền, có
chất lượng bảo quản và phải là hộp đặt để vừa chính xác
với kích thước của cuốn sách. Hộp có gáy thõng (drop-
spine) (hình 8) và hộp tương quan (phase-box) Hình 9)
đều được dùng. Hộp drop-spine được ưa chuộng vì nó hỗ
trợ được tốt hơn và giữ sách được sạch hơn. Tuy nhiên
loại hộp này đắt hơn. Cả hai loại hộp đều có thể kiếm
được từ những nhà cung cấp thương mại.
Hình 8
Hình 9
Sao chụp
Chụp vi phim và các loại sao chụp khác là một hình thức
thay thế hiệu quả để bảo quản thông tin khi mà xử lý mở
rộng bản gốc không được thực hiện. Sao chụp có lợi khi
được kết hợp với xử lý, bằng việc loại bỏ sự cần thiết xử
lý bằng tay những tài liệu rách, sao chụp là một hình
thức xử lý tối thiểu vừa đủ đối với rất nhiều sách mà nếu
không có nó thì sẽ cần phải xử lý mở rộng. Sao chụp
cũng cho phép bảo quản được tốt hơn tài liệu không ở
trong kho và tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu được
tiếp cận với thông tin quí hiếm, chỉ có một bản.
Jan Paris - Cán bộ bảo quản, Trường Đại học Bắc Carolina
“Người làm công tác bảo quản, phục chế, bảo tồn là mắt
xích sống quan trọng, không thể thiếu được trong trong dây
chuỗi loài người làm nhiệm vụ liên kết thành công hôm qua
với khả năng ngày mai”
James H. Billington, Cán bộ Thư viện Quốc hội
Điều cần thiết về mặt Đạo đức của công tác Bảo quản
Giới thiệu
Sưu tập tài liệu trong thư viện, cơ quan lưu trữ và các
hiệp hội lịch sử của chúng ta bao gồm tài liệu đa dạng
khác nhau về thể loại, kích thước và hình thức. Chúng
được lưu giữ trong điều kiện môi trường khác nhau, cất
trong nhiều dạng hộp, bao bì, được sử dụng cho những
mục đích và trong những phạm vi khác nhau. Vấn đề
chính là tài liệu lưu giữ trong sưu tập của chúng ta khác
nhau về tình trạng từ chỗ còn nguyên vẹn tới hư hại
nghiêm trọng. Một số tài liệu cần phải được chú ý bảo
quản, tại những cơ quan không có cán bộ bảo quản, tài
liệu quí hiếm phải gửi đi bảo quản ở nơi khác. Lựa chọn
người làm công tác bảo quản là bước quan trọng để có
được dịch vụ bảo quản trách nhiệm.
Để trợ giúp trong tiến trình đó, bài viết này khảo sát một
số vấn đề có liên quan tới lựa chọn người làm công tác
bảo quản. Nó tập trung vào bản chất của bảo quản, trình
độ và kiến thức của người làm bảo quản và làm thế nào
để tìm ra, làm việc với và mong đợi gì từ người làm bảo
quản. Điểm tập trung là các yếu tố liên quan đến bảo
quản tài liệu đặc biệt, tức là những tài liệu có ý nghĩa vì
sự lâu đời của chúng, sự quí hiếm, vẻ đẹp, giá trị về mặt
tiền bạc hoặc tầm quan trọng về mặt lịch sử hay thư
mục.(1) Những yếu tố này thích hợp với những vật tạo
tác mà có đặc điểm vật lý (như minh họa màu sắc, bản đồ
gấp hoặc biểu đồ) cần phải được bảo quản về mặt chất.
Có nghĩa là thậm chí giá trị nội tại của vật tạo tác đó
không đòi hỏi sự bảo quản, xử lý có thể chỉ là lựa chọn
tùy thích nếu như đặc điểm vật lý cản trở việc tái định
dạng hoặc các cách thay đổi khác.
Bảo quản và người làm công tác bảo quản chuyên nghiệp
Một số tài liệu trong bộ sưu tập rất có ý nghĩa do vậy
chúng cần phải được chú ý bảo quản. Việc bảo quản
những tài liệu như vậy đặc biệt thích hợp khi chúng
không thể dùng được thậm chí dùng cẩn thận không gây
hỏng, khi chúng không ổn định về mặt vật lý hay hóa học
hoặc khi chúng chịu sự xử lý không thích hợp trong quá
khứ.(2)
Xử lý bảo quản là việc dùng kỹ thuật và chất liệu để làm
ổn định về mặt hóa học, gia cố về mặt chất những tài liệu
trong sưu tập. Mục đích của xử lý bảo quản tài liệu có
giá trị về mặt tạo tác là đảm bảo tuổi thọ của tài liệu và
tiếp tục được đưa ra sử dụng trong khi thay đổi các đặc
điểm vật lý ở mức thấp nhất. Bảo quản cũng bao gồm
những quyết định có liên quan tới việc nhận diện dạng
tài liệu cần xử lý và xác định các cách xử lý thích hợp.
Xử lý bảo quản sưu tập tài liệu đặc biệt đòi hỏi sự đánh
giá và kinh nghiệm của người làm công tác bảo quản có
trình độ. Một cán bộ bảo quản chuyên nghiệp là một
người được đào tạo cao, có kiến thức thực tiễn và lý
thuyết rộng về những lĩnh vực sau:
+ lịch sử, khoa học và thẩm mỹ của tài liệu và kỹ thuật
lưu giữ tài liệu
+ nguyên nhân những tài liệu này hỏng hoặc bị phá hủy
+ các cách và chất liệu có thể được dùng trong xử lý bảo
quản
+ ngụ ý của các xử lý được đề xuất
Một nhà bảo quản đồng thời cũng chứng minh được các
khía cạnh của công việc tuân thủ theo các chuẩn mực
thực hành.
Bảo quản là một lĩnh vực tương đối mới mà trong suốt
mười năm qua đã trải qua một giai đoạn phát triển
nhanh và tính chuyên môn hóa ngày càng tăng, đặc biệt
là trong lĩnh vực bảo quản thư viện và lưu trữ. Tuy
nhiên, cho đến nay, lĩnh vực này chưa có hệ thống giáo
dục chính thức, qui trình đánh giá chuyên môn hoặc
chuẩn mực chuyên môn quốc gia.
Chính vì lý do này mà đôi khi rất khó khăn để tìm ra và
lựa chọn một người làm bảo quản được đào tạo và đủ
chuyên môn để cung cấp các dịch vụ xử lý theo yêu cầu.
Để đánh giá người làm công tác bảo quản có triển vọng
phải xem xét việc đào tạo về bảo quản của cá nhân đó,
khoảng thời gian đào tạo, mức độ kinh nghiệm thực tế và
chuyên môn. Ngoài ra liên hệ với khách hàng và chú ý tới
người làm chứng để đảm bảo bạn có một sự lựa chọn tốt
nhất và có cơ sở.
Đào tạo người làm công tác bảo quản
Người bảo quản giỏi được đào tạo theo một trong hai
cách: thông qua việc hoàn thành một chương trình sau
đại học để được bằng thạc sĩ hoặc thông qua một thời
gian học nghề dài. Sáu chương trình đào tạo sau đại học
ở Bắc Mỹ cung cấp chương trình học thuật từ hai đến ba
năm bao gồm lịch sử và khoa học lưu giữ tài liệu, bối
cảnh văn hóa của tác phẩm và thực tiễn xử lý bảo
quản.(3) Năm cuối cùng dành để lĩnh hội kinh nghiệm
thực tế từ sự hướng dẫn của người làm bảo quản có uy
tín chuyên trong lĩnh vực bảo quản. Những người tốt
nghiệp thường theo tiếp thêm khóa học nâng cao một
năm hoặc theo đuổi nghiên cứu hay cơ hội nghiên cứu
thông qua các chương trình học bổng đang có.
Một số người không chọn chương trình đào tạo cao học
vì chi phí cao, chương trình không phù hợp với sự quan
tâm của họ hoặc vì một vài lý do khác. Đối với những
người như vậy, đào tạo thông qua học nghề là cách thay
thế. Thành công của bất kỳ chương trình học nghề nào
đều phụ thuộc vào sự nhanh trí của mỗi cá nhân để có
được kiến thức thực hành và lý thuyết sâu rộng thông
qua chương trình nâng cao tại các phòng thực tập bảo
quản; tham dự hội thảo; thảo luận; và các chương trình
học thuật được lựa chọn; và tự đọc, tự nghiên cứu. Đào
tạo học nghề đặc biệt phổ biến ở những nơi mà cơ hội
đào tạo đại học chính quy hết sức hạn chế, nó có thể
mang lại sự chuẩn bị tốt cho việc bảo quản sách. Vì các
chiến lược đào tạo học nghề khác nhau đáng kể và chất
lượng kết quả đa dạng, do vậy việc đánh giá kỹ lưỡng
từng cá nhân trở nên hết sức quan trọng.
Một người được đào tạo chuyên đóng sách không nhất
thiết phải là người bảo quản sách. Trong khi người này
có thể có nhiều kỹ năng hướng dẫn cần thiết nhưng lại
không có kiến thức rộng hơn để đánh giá, đề xuất và tiến
hành xử lý thích hợp theo quan điểm bảo quản. Tương
tự như vậy, xưởng làm khung chuyên nghiệp có thể có
“phục chế giấy’’ trong danh mục dịch vụ, nhưng người
làm khung có thể lại không có kiến thức cần thiết để đưa
ra quyết định bảo quản.
Bất kể được đào tạo theo loại hình nào, tất cả những
người làm công tác bảo quản đều chuyên xử lý các dạng
tài liệu đặc biệt và chỉ có thể đưa ra những lời khuyên
chung về kho tàng, lưu giữ hoặc bảo quản tài liệu. Ví dụ,
một người bảo quản sách có trách nhiệm sẽ không cung
cấp tư vấn về mặt kỹ thuật hoặc xử lý các công trình
nghệ thuật hoặc đồ đạc bởi vì vấn đề này nằm ngoài
chuyên môn của họ.
Tổ chức nghề nghiệp cho cán bộ bảo quản
Là thành viên và tham gia tích cực vào tổ chức chuyên
môn của lĩnh vực chứng tỏ mối quan tâm của người làm
bảo quản trong việc bắt kịp với phát triển khoa học kỹ
thuật, trao đổi thông tin và đẩy mạnh giao tiếp nghề
nghiệp. Để đạt được mục tiêu này, rất nhiều người làm
công tác bảo quản chuyên nghiệp trực thuộc các tổ chức
như Viện Bảo Quản Mỹ (AIC), Viện Bảo Quản Quốc tế
(IIC) và các hiệp hội bảo quản khu vực. Khi không biết
chắc chắn về kiến thức, sự thành thạo hoặc đạo đức của
người làm bảo quản thì danh vị thành viên trong một tổ
chức nghề nghiệp là một bằng chứng quan trọng cho
thấy sự liên quan nghề nghiệp , không có yếu tố này thì
không thể theo kịp sự phát triển trong lĩnh vực.
Diện thành viên có thể cung cấp đôi nét về kinh nghiệm
của người làm bảo quản. Đặc biệt, danh vị “Hội viên”
(Fellow) hoặc “Đồng nghiệp” (Professional Associate)
trong AIC được trao sau một số năm nhất định trong
ngành, dựa trên quá trình đánh giá chi tiết. Các diện
thành viên này chỉ ra rằng người làm bảo quản đồng ý
tuân thủ Qui ước AIC về Đạo đức và Chuẩn mực Nghề
nghiệp. Qui ước và Chuẩn mực AIC được đưa ra để
“hướng dẫn người làm bảo quản về thông lệ đạo đức của
nghề nghiệp và kêu gọi “sự tôn trọng bền vững tính toàn
vẹn về mặt thẩm mỹ, lịch sử và chất lượng của vật thể”
Làm thế nào để tìm được người làm bảo quản
Tìm ra một người làm bảo quản có trình độ đòi hỏi sự
nhanh trí và tính kiên nhẫn, vì không phải chỗ nào cũng
có chuyên môn bảo quản (đặc biệt là bảo quản sách) và
những người làm bảo quản không tự quảng cáo.
Bắt đầu bằng cách đưa ra một danh sách những người
làm bảo quản có tiềm năng. Liên hệ phòng bảo quản của
thư viện, bảo tàng, lưu trữ kề gần. Nhân viên thường là
nguồn cung cấp thông tin và lời khuyên bao quát. Họ có
thề giới thiệu người làm bảo quản tư nhân ở vùng lân
cận hoặc các trung tâm khu vực có cung cấp dịch vụ xử
lý bảo quản. Trong một vài trường hợp, người làm bảo
quản thuộc một cơ quan có thể chấp nhận việc riêng
ngoài việc của cơ quan ra.
Ngoài ra hãy liên hệ với những người làm việc trong các
phòng sưu tầm đặc biệt của thư viện, cơ quan lưu trữ,
hiệp hội lịch sử và những bảo tàng lớn để biết tên những
người làm bảo quản mà đã thường xuyên làm việc cho
họ. Trong mọi trường hợp phải tìm xem liệu sự giới thiệu
có được dựa trên kinh nghiệm trực tiếp của người làm
bảo quản hay đó là thông tin phụ.
Đồng thời gọi điện hoặc viết thư tới Viện Bảo quản Mỹ
để có được các sự giới thiệu khác. Hệ thống Giới thiệu
Dịch vụ Bảo quản của Quỹ tài trợ Viện Bảo quản Mỹ
(FAIC) sẽ cung cấp tên của chuyên viên trong lĩnh vực
của bạn hoặc người chuyên xử lý các dạng tạo tác đặc
biệt. FAIC không xác nhận chất lượng công việc cũng
như bản thân người làm bảo quản, nhưng Hệ thống Giới
thiệu cung cấp một số thông tin chính giải thích điều mà
khách hàng của dịch vụ bảo quản có thể mong đợi từ
người làm bảo quản.
Những mối liên hệ này sẽ cung cấp tên của một số người
làm bảo quản có năng lực. Tuy nhiên, sự giới thiệu này
không nhất thiết phải là sự đảm bảo về mặt chất lượng.
So sánh hàng hoá luôn là một nguyên tắc đúng đắn, thậm
chí ngay cả khi tìm kiếm các dịch vụ bảo quản. Một loạt
các vấn đề có cơ sở được đưa ra trong những phần sau
đây có thể cung cấp một khung cơ sở để đánh giá khả
năng của người làm bảo quản.
Bạn có thể thấy rằng một số nhà bảo quản trong danh
mục không thể cung cấp loại xử lý bảo quản bạn yêu cầu
bởi vì vấn đề đặc biệt nằm ngoài khả năng chuyên môn
của họ hoặc họ không thể lưu giữ vật tạo tác của bạn
trong phòng bảo quản của họ. Có thể một số người có
nhiều việc tồn đọng quá nên không thể xử lý đồ bảo quản
của bạn nhanh như bạn mong muốn.
Hãy thận trọng với người làm bảo quản mà làm việc cho
bạn nhanh và rẻ. Xử lý bảo quản thường mất thời gian
và tốn kém. Sự chờ đợi và tốn kém cho dịch vụ có chất
lượng chỉ là chi phí nhỏ so với rủi ro mà vật tạo tác bị
mất hoặc hỏng không thể sửa chữa được vì bị xử lý
không thích hợp và không đầy đủ.
Nếu bạn ở khu vực ngoại ô có ít người làm bảo quản,
đừng ngần ngại gì hãy tìm kiếm những sự giới thiệu
người làm bảo quản ở khu vực khác. Rất nhiều người
làm bảo quản nhận làm cho khách hàng ở xa và cho bạn
lời hướng dẫn về việc gói gém và vận chuyển an toàn
những chất liệu dễ vỡ. Họ cũng có thể cung cấp cho bạn
thông tin về dịch vụ vận chuyển đường bộ và đường thủy
có bảo hiểm, vận chuyển đặc biệt có đảm bảo đối với
những vật liệu có giá trị trong khi vận chuyển.
Nếu bạn muốn làm điều tra sưu tập tài liệu để giúp bạn
đánh gía được nhu cầu bảo quản tổng thể, hãy cân nhắc
làm việc với tư vấn bảo quản. Điều tra sưu tập tài liệu
nhằm mục đích đánh giá điều kiện chung của tài liệu và
môi trường lưu giữ nó. Điều tra mang lại những khuyến
nghị có thể giúp cơ quan đưa ra kế hoạch bảo quản sưu
tập tài liệu lâu dài. Những khuyến nghị như vậy bao gồm
đề xuất cải thiện môi trường, thay đổi phương thức, đào
tạo cán bộ, dự án cung cấp chỗ mới và xử lý bảo quản tài
liệu chọn lọc. Việc làm này đặc biệt hữu ích cho các viện
mà không có đủ chuyên môn và kinh nghiệm trong việc
đánh giá nhu cầu bảo quản. Chiến lược giới thiệu như
trình bày ở trên sẽ giúp bạn nhận ra những người đủ
chuyên môn làm điều tra bảo quản. Một số tổ chức liệt
kê trong mục “Nguồn Thông tin” (Information
Resources) và “Trung tâm Bảo quản Khu vực” (Regional
Conservation Centers) cũng cung cấp các dịch vụ tư vấn
và điều tra.
Tiếp xúc với người làm bảo quản
Người làm bảo quản sẽ hỏi gì bạn
Để đảm bảo rằng sưu tập của bạn được xử lý đúng cách,
cần phải thiết lập mối quan hệ làm việc hợp tác với người
làm bảo quản ngay từ ban đầu, do vậy các quyết định xử
lý phản ánh sự cân bằng giữa tầm quan trọng về quản lý
và bảo quản. Khi bạn đã có được tên của người bảo
quản, hãy gọi điện và sắp xếp thời gian, địa điểm để trao
đổi nhu cầu bảo quản của bạn. Một số người làm bảo
quản sẽ tới tận nơi, trong khi một số khác thì lại yêu cầu
bạn mang đồ bảo quản đến họ. Nếu bạn ở một địa điểm
xa, cần thu xếp cho việc vận chuyển đồ để được kiểm tra
sau khi đã trao đổi sơ bộ bằng điện thoại.
Để cuộc trao đổi ngay từ đầu gặp thuận lợi, hãy sẵng
sàng cung cấp cho người làm bảo quản những thông tin
sau:
+ bản chất của đồ bảo quản (ví dụ: sách, bản viết tay,
nghệ thuật trên giấy)
+ chất liệu thành phần (ví dụ: giấy, da, giấy da)
+ phụ liệu (ví dụ: viết tay, đánh máy, mực in)
+ bản chất của vấn đề (ví dụ: rách, biến dạng về mặt
chất, gãy vỡ, một sự kết hợp của các nhân tố)
+ thể loại và phạm vi sử dụng trước đây (ví dụ: sử dụng
nghiên cứu giới hạn hay mở rộng, triển lãm)
+ điều kiện môi trường (ví dụ: chỉ sưởi ấm vào mùa
đông, điều kiện ổn định có sự kiểm soát độ ẩm và nhiệt
độ)
+ hệ thống kho tàng (ví dụ: xếp giá theo chiều đứng hay
chiều nằm, hộp và các thiết bị bảo vệ kèm theo)
+ kết quả xử lý mong đợi: (ví dụ: một sự ổn định hoặc
bảo vệ cơ bản, diện mạo được cải thiện, tránh mất thông
tin).
Thông tin này rất cần thiết cho người làm bảo quản để
đánh giá liệu họ có thể đảm nhận được công việc hay
không. Đây cũng là thông tin cần thiết nếu người làm bảo
quản phải đưa ra đề xuất xử lý giải quyết được cả hai
vấn đề điều kiện vật bảo quản và yêu cầu của cơ quan
bạn.
Đồng thời cũng phải quyết định trước khi nào bạn muốn
công việc hoàn thành và xác định hạn công việc nếu có.
Cuối cùng phải biết số tiền bạn có vì điều này cho thấy
mức độ xử lý mà bạn có khả năng chi trả. Nếu bạn nói rõ
với người làm bảo quản ngay từ đầu về mọi vấn đề thì sẽ
tiết kiệm được thời gian và sức lực quý báu.
Tại thời điểm này, người làm bảo quản có thể đưa gợi ý
chung về các cách xử lý và kỹ thuật khác nhau mà có thể
phù hợp với đồ bảo quản của bạn. Tuy nhiên, đừng
mong đợi người làm bảo quản cung cấp cho bạn đề xuất
xử lý cụ thể hoặc ước tính chi phí trước khi họ kiểm tra
toàn bộ đồ bảo quản.
Bạn nên hỏi người làm bảo quản điều gì
Ngay từ đầu hãy đặt câu hỏi mà giúp bạn đánh giá được
trình độ và khả năng của người làm bảo quản trong việc
xử lý đồ bảo quản thuộc sưu tập của bạn. Hãy nhớ rằng
cuộc trao đổi trên đây liên quan đến giáo dục, đào tạo và
phát triển nghề nghiệp của người làm bảo quản, câu hỏi
của bạn phải giải đáp được các vấn đề:
+ đào tạo
+ thời gian thực hành
+ phạm vi thực hành
+ tư cách hội viên trong tổ chức nghề nghiệp
+ liệu có kiếm được hồ sơ về công việc hoặc báo cáo xử lý
Quyết định cách tính chi phí của người làm bảo quản
(theo giờ, ngày, hoặc dự án) và nên hay không nên ràng
buộc ước tính chi phí nếu xử lý yêu cầu nhiều hoặc ít hơn
thời gian dự trù. Hỏi xem liệu có chi phí riêng cho kiểm
tra sơ bộ và ước tính – một phần quan trọng nhưng tốn
thời gian trong xử lý bảo quản. Thông thường người làm
bảo quản tính tiền theo giờ, có giá cố định cho kiểm tra
sơ bộ , khách hàng quyết định trả được hay không thì
mới tiến hành xử lý. Tại thời điểm này, làm rõ các vấn đề
chi phí bảo hiểm, vận chuyển hoặc các chi phí khác bao
gồm trong hóa đơn tổng. Chi phí mỗi một nơi trong một
nước lại khác nhau và cũng có thể phụ thuộc vào tính
chất chuyên môn đặc biệt của người làm bảo quản.
Hãy liên lạc với những người làm chứng cho người làm
bảo quản, nếu có thể, hãy nói chuyện với người làm việc
trực tiếp với người làm bảo quản. Hỏi người làm chứng
xem liệu xử lý đó có được hoàn thành theo như mong
muốn không, phù hợp với thỏa thuận đã ký và đúng tiến
độ. Yêu cầu đầy đủ tư liệu viết tay và ảnh (xem phần
“Tiến trình xử lý” dưới đây). Hỏi xem liệu người làm bảo
quản có duy trì sự giao tiếp nếu cần trong quá trình xử
lý, ví dụ, những mở rộng đột xuất và thay đổi được đề
xuất trong quá trình xử lý mà đã được thảo luận đầy đủ.
Hãy nhớ rằng mỗi một khách hàng ký hợp đồng dịch vụ
xử lý bảo quản vì một lý do khác nhau vì vậy họ sẽ có
những chuẩn mực và tiêu chí khác nhau cho việc đánh
giá chất lượng công việc được hoàn thành. Hãy nhớ rằng
không phải lúc nào cũng có thể tìm ra sai sót về mặt kỹ
thuật, nhất là khi khách hàng đánh giá chỉ dựa trên diện
mạo.
Đánh giá tất cả thông tin mà bạn có được từ khách hàng
trước đây và hiện nay cũng như từ người làm bảo quản.
Lẵng nghe điều người làm bảo quản nói và những câu
hỏi mà họ đưa ra. Ví dụ người làm bảo quản có hỏi về
loại và mức độ xử dụng trước đây, hoặc về môi trường
mà đồ phải bảo quản được lưu giữ? Những câu hỏi này
có thể cho thấy cách suy nghĩ của người làm bảo quản về
những vấn đề rộng hơn và ngụ ý của xử lý bảo quản.
Tiến trình xử lý: mong đợi điều gì
Kiểm tra sơ bộ và đề xuất xử lý
Khi bạn đã lựa chọn và thiết lập được mối quan hệ để
người làm bảo quản làm việc với bạn, bạn sẽ phải tiếp
xúc với họ vài lần . Mặc dù người làm bảo quản đã cung
cấp cho bạn khuyến cáo sơ bộ trong lần tiếp xúc đầu tiên
, song rất cần phải có kiểm tra chi tiết. Vật thể bảo quản
phải được mang hoặc gửi đến người làm bảo quản, người
này sẽ kiểm tra nó và viết một bản báo cáo tình trạng mô
tả những đặc điểm như:
+ chất liệu, cấu tạo và phương thức chế tạo vật thể
+ khu vực và mức độ hỏng về mặt vật lý, hư hỏng về mặt
hóa chất hoặc những sửa chữa trước đây.
Cùng với bản báo cáo này, người làm bảo quản chuẩn bị
một đề xuất xử lý bao gồm các phần sau:
+ Ở đâu thích hợp, các phương án lựa chọn việc tiến
hành sửa chữa bảo quản
+ với mỗi một phương án, phác thảo các bước tiến hành
và mô tả tình trạng chúng sẽ được sửa chữa
+ ước tính thời gian cần để hoàn thành công việc
+ ước tính chi phí.
Đề xuất phải phản ánh rõ ý đồ của người làm bảo quản
là giữ được đặc điểm gốc của vật bảo quản tới mức tối
đa. Mọi bước tiến hành được đề xuất đều cho phép sau
này tháo dỡ vật liệu được bổ sung trong khi xử lý. Khi
trong đề xuất có từ hai phương án xử lý trở lên, người
làm bảo quản phải giải thích được lợi ích và ngụ ý của
từng phương án.
Đọc kỹ đề xuất xử lý, và đừng ngại đặt câu hỏi nếu như
bạn muốn một sự giải thích rõ về khía cạnh kỹ thuật của
đề xuất. Cân nhắc gợi ý của người làm bảo quản nếu như
những gợi ý này ít liên quan đến xử lý hơn so với dự
đoán ban đầu của bạn. Ví dụ, khi đề xuất xử lý cho một
cuốn sách có bọc vải đã bị cũ nát nhưng vấn sử dụng
được, người làm bảo quản có thể khuyến nghị là cuốn
sách đó được đặt vào hộp chứ không nên xử lý bằng
những cách tỉ mỉ. Khuyến nghị này có thể dựa trên mong
muốn giữ nguyên tới mức tối đa vải bọc ban đầu. Đóng
hộp là đặc biệt thích hợp nếu như tập đó được sử dụng
hạn chế.
Khi bạn đã đồng ý với xử lý đã được đề xuất cụ thể,
người làm bảo quản sẽ yêu cầu bạn ký thỏa thuận và trả
lại trước khi bắt đầu xử lý. Trong tiến trình xử lý, người
làm bảo quản có thể phát hiện ra rằng phải thay đổi xử
lý đã được đễ xuất vì một lý do nào đó thì họ phải liên lạc
với bạn để thảo luận sự thay đổi.
Báo cáo xử lý bảo quản và đánh giá
Sau khi xử lý bảo quản được hoàn thành, người làm bảo
quản phải chuẩn bị và trình bản báo cáo cuối cùng cho
bạn. Các báo cáo xử lý bảo quản khác nhau về hình thức
và độ dài, song tất cả báo cáo đều phải bao gồm những
mô tả sau đây:
+ kỹ thuật được xử dụng trong tiến trình xử lý
+ chất liệu chính xác được xử dụng trong khi sửa chữa
các vấn đề bảo quản
+ ảnh minh họa tình trạng trước và sau khi xử lý có đề
ngày
+ ảnh hoặc biểu đồ cần thiết làm sáng tỏ các tiến trình
được thực hiện
Người làm bảo quản cũng có thể đưa ra khuyến nghị đối
với việc sử dụng hoặc vận chuyển đặc biệt vật bảo quản
khi mà thông tin này trở nên cần thiết cho việc bảo trì về
sau.
Việc cơ quan giữ lại vĩnh viễn báo cáo xử lý bảo quản là
cần thiết, vì trong tương lai các học giả về thư mục hoặc
người làm công tác bảo quản sẽ cần nó để bổ sung thêm
việc cần làm cho vật bảo quản. Báo cáo phải được giữ
kèm với chính vật thể đó (có thể để cùng một chỗ với vật
thể) hoặc để cùng với tài liệu lưu giữ khác liên quan đến
vật thể trong cùng một sưu tập.
Khi xem xét công việc đã được hoàn thành, hãy nhớ rằng
đánh giá khía cạnh kỹ thuật của xử lý bảo quản là rất
khó. Theo kinh nghiệm, mọi sự sửa chữa đều phải ưa
nhìn đối với những người có con mắt nghề nghiệp, nhưng
không được trái ngược về mặt thẩm mỹ và lịch sử so với
cái ban đầu. Không nên làm cho việc xử lý bảo quản trở
nên khó hiểu. Điều này rất quan trọng để mọi người
trong tương lai khi dùng tài liệu sẽ không hiểu lầm. Hãy
nhớ rằng bản chất và tính nghiêm trọng của sự hỏng,
xuống cấp sẽ ảnh hưởng tới mức độ mà vật bảo quản
được ổn định, củng cố và cải thiện về mặt thẩm mỹ qua
quá trình xử lý bảo quản.
Kết luận
Lựa chọn người làm bảo quản là một công việc hết sức
quan trọng, đòi hỏi sự kiên trì. Phải hết sức cẩn thận,
không vội vã trao kho báu tài sản của chúng ta cho nguời
mà cách nhìn và trình độ của họ không tương xứng với
công việc.
Bằng việc đưa ra những câu hỏi kỹ càng, liên hệ với
ngưới làm chứng và làm việc với người làm bảo quản
trước và trong quá trình tiến hành xử lý bảo quản, bạn
có thể tìm được dịch vụ bảo quản chất lượng cao. Bằng
việc làm này, dây chuỗi thông tin liên kết quá khứ và
tương lai sẽ không bị đứt đoạn, và những nguồn tin văn
hóa quan trọng này sẽ mãi tồn tại phục vụ cho những
nhà nghiên cứu hiện tại và trong tương lai.
Chú thích
1. Để có bảng tổng quan về khái niệm này, xem phần Bảo
quản Tài liệu Thư viện (The Preservation of Library
Materials) của Paul Banks và Bảo quản Sách và Tài liệu
theo bản gốc (On the Preservation of Books and
Documents in Original Form) của Barclay Ogden, cả hai
tài liệu này đều được trích trong phần “Đọc thêm “
(Further Reading).
2. Một số ví dụ về việc xử lý không đúng cách bao gồm cả
việc dùng bìa có axit kém chất lượng để đóng sách mỏng,
gây hỏng và mất màu các trang sách và việc dùng băng
dính miết mà với thời gian sẽ bị ngả màu hoặc rách làm
cho mực bị bay hoặc để lại vết keo dính gây hỏng và biến
dạng trên giấy.
3. Các địa chỉ chương trình đào tạo có thể tìm trong
phần “Chương trình Đào tạo Bảo quản” (Conservation
Training Programs). Chỉ có chương trình của trường Đại
học Texas ở Austin hiện nay có đào tạo chuyên dành cho
tài liệu thư viện và lưu trữ.
4. “Code of Ethics and Guidlines for Practice”, The
American Institute for Conservation of Historic and
Artistiic Works Directory, 1998 hoặc gần đây nhất có thể
kiếm từ AIC, địa chỉ xem ở phần “Information
Resources”.
Đọc thêm
American Institute for Conservation. Guidelines for
Selecting a Conservator. Washington, DC: AIC, 1991, 6
pp.
Banks, Paul N. "The Preservation of Library Materials."
Chicago: The Newberry Library, 1978. Reprinted from
the Encyclopedia of Library and Information Science 23
(1969): 180-222.
Clarkson, Christopher. "The Conservation of Early
Books in Codex Form: A Personal Approach." The
Paper Conservator 3 (1978): 33-50.
Cullison, Bonnie Jo, and Jean Donaldson. "Conservators
and Curators: A Cooperative Approach to
Treatment Specifications." Library Trends 36.1
(Summer 1987): 229-39.
Dachs, Karl. "Conservation: The Curator's Point of
View." Restaurator 6 (1984): 118-26.
Foot, Mirjam. "The Binding Historian and the Book
Conservator." The Paper Conservator 8 (1984): 77-83.
Henderson, Cathy. "Curator or Conservator: Who
Decides on What Treatment?" Rare Books &
Manuscripts Librarianship 2.2 (Fall 1987): 103-07.
Ogden, Barclay. On the Preservation of Books and
Documents in Original Form. Washington, DC: The
Commission on Preservation and Access, 1989.
Reprinted in The Abbey Newsletter 14.4 (July 1990): 62-
64.
Pillette, Roberta, and Carolyn Harris. "It Takes Two to
Tango: A Conservator's View of Curator/Conservator
Relations." Rare Books & Manuscripts Librarianship 4.2
(Fall 1989): 103-11.
Roberts, Matt T., and Don Etherington. Bookbinding
and the Conservation of Books: A Dictionary of
Descriptive Terminology. Washington, DC: Preservation
Office, Library of Congress, 1982, 296 pp.
Lời cảm ơn
SOLINET và tác giả cảm ơn các cá nhân sau đã có công
trong việc sửa lại bản thảo cho bài viết này:
Paul Banks, Columbia University
Karen Garlick, National Museum of American History
Walter Henry, Stanford University
Lyn Koehnline, Ackland Art Museum
Ellen McCrady, Abbey Publications
Sandra Nyberg, SOLINET
Một phần tài trợ cho bài viết này được the National
Endowment for the Humanities
Office of Preservation cung cấp, đóng góp của họ rất
đáng được hoan nghênh
Các nguồn thông tin
The American Institute for Conservation of Historic and
Artistic Works (AIC)
1717 K St., NW, Ste. 301
Washington, DC 20006
Telephone: (202) 452-9545
Fax: (202) 452-9328
E-mail: InfoAIC@aol.com
Institute of Museum and Library Services (IMLS)
1100 Pennsylvania Avenue, NW
Room 609
Washington, DC 20506
Telephone: (202) 606-8539
Fax: (202) 606-8591
E-mail: imsinfo@ims.fed.us
The International Institute for Conservation of Historic
and Artistic Works (IIC)
6 Buckingham Street
London WC2N 6BA, England
Telephone: 01-839-5975
E-mail: iicon@compuserve.com
National Institute for Conservation of Cultural Property
(NIC)
3299 K Street, NW, Suite 602
Washington, DC 20007
Telephone: (202) 625-1495
Fax: (202) 625-1485
E-mail: lreger@nic.org
SOLINET Preservation Program
1438 West Peachtree St., NW, Ste. 200
Atlanta, GA 30309-2955
Toll Free: (800) 999-8558
Telephone: (404) 892-0943
Fax: (404) 892-7879
E-mail: solinet_information@solinet.net
Chương trình đào tạo bảo quản
Buffalo State College
Art Conservation Department
230 Rockwell Hall
1300 Elmwood Avenue
Buffalo, NY 14222-1095
Telephone: (716) 878-5025
E-mail: tahkfc@buffalostate.edu
Strauss Center for Conservation
Harvard University Art Museums
32 Quincy Street
Cambridge, MA 02138
Telephone: (617) 495-2392
Fax: (617) 495-9936
Conservation Center of the Institute of Fine Arts
New York University
14 East 78th Street
New York, NY 10021
Telephone: (212) 772-5800
E-mail: conservation.program@nyu.edu
Queen's University
Art Conservation Programme
Kingston, Ontario K7L 3N6
Canada
Telephone: (613) 545-2156
Fax: (613) 545-6300
E-mail: amz6@qucdn.queensu.cos
University of Texas at Austin
Preservation and Conservation Studies
Graduate School of Library & Information Sciences
EDB#564
Austin, TX 78712-1276
Telephone: (512) 471-8290
Fax: (512) 471-8285
E-mail: mailto:glabs@utxdp.dp.utexas.edu
University of Delaware/Winterthur
Art Conservation Department
303 Old College
University of Delaware
Newark, DE 19716-2515
Telephone: (302) 831-2479
Fax: (302) 831-4330
E-mail: debra.norris@mvs.udel.edu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_ky_thuat_bao.pdf