GIÁO TRÌNH
CHUYỂN DẠNG
TÀI LIỆU
Mục lục
Vi phim và vi phiếu
Các nguồn thay thế sách hết bản và sách giòn bằng bản sao
Sao âm bản phim có tính lịch sử
Dễ dàng hơn với công nghệ số
sự cần thiết của công tác bảo quản trong một thế giới số
Giới thiệu
Trong khi người ta đang hô hào cổ vũ cho cuộc cách mạng số, bảo quản
bằng microfilm vẫn thầm lặng khẳng định vai trò chiến lược chuyển
dạng tài liệu để bảo quản được đánh giá cao và áp dụng rộng rãi. Tại sao
vậy?
Sự phổ
87 trang |
Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 519 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giáo trình Chuyển dạng tài liệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng bền bỉ của việc bảo quản bằng vi phim chính là nhờ tính
thực tiễn của nó. Không giống như dạng số, vi phim là sản phẩm của một
loại công nghệ đã qua kiểm nghiệm và gần như ổn định, được điều chỉnh
bởi những tiêu chuẩn quốc gia được xây dựng rất kỹ lưỡng. Khi được
tạo ra và bảo quản theo những tiêu chuẩn này, vi phim có thể tự hào về
tuổi thọ lên tới hơn 500 năm. Một điều cũng cần lưu ý là trong khi các dữ
liệu số cần có một hệ thống truy hồi phức tạp để tiếp cận được kho dữ
liệu này thì vi dạng (vi phim và vi thẻ) có thể đọc được bằng bắt thường
nhờ sử dụng ánh sáng và phóng đại.
Phải thừa nhận là khả năng truy cập đối với các loại vi dạng kém xa so
với khả năng truy cập của công nghệ số. Tuy nhiên, vi dạng có thể nâng
cao khả năng truy cập thông tin mà nếu không có nó sẽ không thể có bởi
vì tài liệu gốc ở một nơi cách xa hoặc dẽ bị hỏng và/hoặc mất trong quá
trình thao tác. Vi dạng cũng không quá đắt để sản xuất hoặc sao chép.
Một dấu hiệu quan trọng khẳng định việc bảo quản bằng vi phim vẫn
tiếp tục cần thiết chính là vì nó vẫn đang được ủng hộ trên toàn quốc.
Viện Khoa học Nhân văn Quốc gia
Viện Khoa học Nhân văn Quốc gia (NEH) tiếp tục ủng hộ việc bảo quản
những cuốn sách và ấn phẩm nhiều kỳ giấy giòn bằng vi phim thông qua
Phòng Bảo quản và Truy cập.
Năm 1998, Quốc hội Mỹ cho phép NEH triển khai một dự án kéo dài hai
mươi năm nhằm bảo quản những nội dung học thuật của khoảng ba
triệu cuốn sách giấy giòn thuộc các kho tài liệu nghiên cứu trên khắp
nước Mỹ. Theo George Farr, Giám đốc Phòng Bảo quản và Truy cập
của NEH, tới nay đã có 72 thư viện và hiệp hội thư viện thuộc 42 bang
thamg gia vào nỗ lực hợp tác này. Khi dự án vẫn đang được tài trợ này
kết thúc, sẽ có khoảng 862.418 tài liệu sẽ được chụp vào vi phim.
Chất liệu phim
Trải qua nhiều năm, các vi dạng thường xuất hiện dưới nhiều chất liệu
phim khác nhau, bao gồm cellulose nitrate, cellulose acetate và polyester.
Vi dạng chất liệu cellulose nitrate, cũng giống như các loại phim cellulose
nitrate khác, khá dễ cháy, dễ thải ra những khí độc theo thời gian, và dễ
bị phân huỷ tự nhiên. Cho đến đầu những năm 1950, người ta đã ngừng
hoàn toàn việc sản xuất tất cả các phim chất liệu cellulose nitrate nhằm
mục đích thương mại.
Phim chất liệu cellulose acetate, được quảng cáo là loại phim an toàn và
không cháy, sẽ tiếp tục thoái hoá tự nhiên theo thời gian. Quá trình thoái
hoá bị đẩy nhanh khi phim chất liệu cellulose acetate không được bảo
quản hợp lý. Mặc dù rất nhiều vi phim acetate được sản xuất, loại phim
này không được chấp nhận là phương tiện bảo quản vi dạng.
Polyester là chất liệu phim duy nhất hiện được khuyến nghị sử dụng
trong bảo quản bằng vi phim. Vừa bền vừa ổn định, phim polyester đen
trắng có tuổi thọ lên tới trên 500 năm nếu bảo quản trong những điều
kiện phù hợp.
Các loại vi dạng
Vi dạng xuất hiện dưới một số loại định dạng. Những định dạng quen
thuộc nhất là loại phim cuộn 16mm hoặc 35mm và vi thẻ, trong đó vi thẻ
trong giống như một tấm thẻ bằng nhựa. Phim cuộn, dù loại 16mm hay
35mm, đều có thể cắt thành những đoạn ngắn và bảo quản trong các
"bao" sạch để tạo ra vi thẻ. Ba loại phim phổ biến nhất trong các bộ sưu
tập vi dạng là: bạc gelatin, diazo và có lỗ.
Phim chất liệu bạc gelatin (hay bạc halogen)
Loại phim này dựa trên công nghệ tương tự với công nghệ ảnh đen trắng
và loại vi dạng phù hợp nhất đối với mục đích lưu trữ. Hình ảnh được
tạo ra bằng cách để các hợp chất bạc nhạy sáng trong chất bắt sáng trên
phim ra ánh sáng. Hình ảnh cuối cùng được tráng bằng hoá chất, tuy
nhiên những hoá chất có khả năng gây hại được rửa sạch trong quá
trình xử lý. Bản phim bạc galetin gốc (master) hầu như luôn là ảnh âm
bản, tuy nhiên có thể nhân thêm các dương bản hoặc âm bản khác. Mặt
chứa chất bắt sáng của phim là mặt mờ, trong khi mặt không chứa chất
bắt sáng là mặt bóng. Các loại phim chất liệu bạc galetin hiện đại có tuổi
thọ rất dài khi được bảo quản ở điều kiện phù hợp và sử dụng bình
thường ở thư viện.
Phim diazo
Loại phim này chứa các muối diazonium trong lớp phủ ngoài kết hợp
các nốt liên kết chất nhuộm nhằm tạo ra màu sắc mạnh và dày đặc. Đưa
phim ra bức xạ cực tím (UV) sẽ làm cho các muối này phân rã và mất
khả năng kết nối. Trong quá trình diazo, phim được đưa ra phóng xạ
bằng cách in trực tiếp từ bản gốc. Các axít được sử dụng trong lớp phủ
ngoài nhằm ngăn cản phản ứng liên kết bằng cách đặt vào chất kiềm
mạnh (thường là a-mô-ni-ắc) và thuốc nhuộm hình thành trong những
vùng không bị kiềm. Hình ảnh được sao trực tiếp từ bản gốc. Phim diazo
có trên thị trường gồm nhiều loại mầu khác nhau, kể cả màu đen. Phim
này có thể làm trên cả hai loại chất liệu acetate hoặc polyester, mặc dù
polyester ngày càng phổ biến hơn nhờ sự ổn định và chống chịu được
những tác nhân của môi trường. Khả năng chống mờ phim phụ thuộc
vào việc lựa chọn muốn và nốt liên kết thuốc nhuộm; màu đen đòi hỏi
kết hợp các thuốc nhuộm. Phim diazo màu đen đã được xử lý trông
giống như phim bạc galetin nhưng bóng ở cả hai mặt. Phim diazo khá ổn
định nhưng rốt cuộc vẫn bị mờ, ngay cả trong bóng tối. Phim càng mờ
nhanh hơn khi để phim bị chiếu sáng kéo dài (chẳng hạn trong máy đọc
phim).
Phim có lỗ
Loại phim này tận dụng một thực tế là các muối diazonium tạo ra nitơ
khi các muối này phân huỷ dưới bức xạ cực tím. Trong phim có lỗ, lớp
muối diazonium phủ ngoài được kẹp giữa hai lớp nền. Phim được rọi
sáng thông qua in trực tiếp từ bản gốc, và hình ảnh được tạo thành bằng
cách hơ nóng tấm phim. Động tác này ngay lập tức làm mềm chất liệu
nền và khiến cho nitơ lan rộng tạo thành những bong bóng (hoặc lỗ
hổng) và những bong bóng này tồn tại khi phim được làm nguội. Thông
thường, chất cảm quang còn dư sau đó được khắc phục bằng cách đặt
phim dưới bức xạ cực tím, làm cho các muối diazonium phân huỷ hoàn
toàn. Ánh sáng tình cờ chiếu qua các vùng trắng của phim nhưng bị
phân tán và bị các bong bóng phản chiếu làm cho những vùng có lỗ hổng
trở nên dày đặc. Hình ảnh sẽ luôn thể hiện những vùng hơi nổi lên. Chất
liệu phim luôn làm bằng polyester bởi vì acetate không thể chịu được
nhiệt sử dụng trong quá trình xử lý. Phim có lỗ dễ bị hỏng do sức ép cơ
học vì sức ép này làm những bong bóng vỡ ra. Một đặc tính rất mong
manh khác của phim có lỗ là sự dịch chuyển của các bong bóng. ở nhiệt
độ cao chất liệu phim mềm đi cho phép khí chứa trong bóng bóng toả ra.
Khi các bong bóng lớn lên, chúng bị tan đi, để lại những đốm phim trắng
nơi mà hình ảnh trước đó vẫn còn nhìn thấy. Phim có lỗ có thể bị hư
hỏng ở nhiệt độ dưới 167°F, mức nhiệt độ cho phép đối với các máy đọc
phim theo Viện Tiêu chuẩn Quốc gia Hoa Kỳ; vì vậy cần phải lưu tâm
đặc biệt khi phim này được sử dụng bằng máy đọc phim.
Các loại vi dạng khác
Trong những năm gần đây, giới bảo quan ngày càng quan tâm hơn đến
các vi dạng màu và đều vi dạng có tông màu liên tục. Sau đây là tóm tắt
về những loại vi dạng này.
Vi phim màu và vi thẻ
Mặc dù có nhiều khả năng ứng dụng đối với các vi dạng màu, việc sử
dụng công nghệ này không thể thực sự được coi là chiến lược bảo quản
bởi vì tuổi thọ của phim màu 35mm còn lâu mới đạt được mục tiêu bảo
quản. Tuy nhiên, có một loại phim (dương bản) màu trong suốt là
Ilfochrome được coi là khá hứa hẹn đối với công tác bảo quản. Không
giống như các loại vi phim màu khác, những loại phim tạo ra hình ảnh
trong quá trình xử lý, loại phim này có các lớp màu được đặt trực tiếp
trên chất bắt sáng của phim. Kiểm nghiệm ở Viện Image Permanence
Institute (Rochester, New York) chỉ ra rằng tuổi thọ của thuốc nhuộm
rất cao - khoảng 300 đến 500 năm - khi phim được chiếu sáng. Tuy
nhiên, nghiên cứu cũng cho thấy chất liệu nền polyester của phim có thể
kém chống chịu được sự xuống cấp hơn so với một số chất liệu polyester
khác. Nhưng ngay cả như vậy, tuổi thọ của chất liệu nền có cũng thể đạt
tới 200 năm hoặc hơn. Chưa có kiểm nghiệm nào được thực hiện về độ
ổn định sáng (vốn rất quan trọng để dự đoán độ bền khi sử dụng).
Vi phim có tông màu liên tục
Chụp vi phim đen trắng có chất lượng tạo ra được âm bản có độ tương
phản cao và độ nét tuyệt vời đối với văn bản. Tiếc là, phim có độ tương
phản cao thông thường không thể bắt được một dải rộng những tông
màu xám; vì vậy, những gì thu nhận được ở độ nét của văn bản sẽ mất
khi tái tạo các ảnh chụp hoặc minh hoạ bán sắc. Vi phim có tông màu
liên tục cố gắng tái tạo dải màu xám tối đa mà không làm mất độ nét của
văn bản. Có rất nhiều các khác nhau để tạo ra vi phim có tông màu liên
tục. Chẳng hạn, một nhà cung cấp vi phim bảo quản sử dụng phim
Kodak 2470 để sao trực tiếp vi phim bạc galetin trong máy chụp và đặt
phim trong một thời gian dài dưới các đèn halogen (thời gian có thể dao
động). Một nhà cung cấp khác sử dụng phim Fuji SuperHR20 ở tốc độc
màn chập bình thường và thu được sản phẩm có tông màu liên tục chủ
nhiếu nhờ xử lý trong một máy tráng có độ tương phản thấp với tốc độ
xử lý chậm hơn bình thường. Trong cả hai trường hợp, một khoảng rộng
các tông màu xám có thể được bắt vào trong phim một cách hiệu quả.
Người phụ trách
Các tiêu chuẩn đối với vi dạng
Các vi dạng sử dụng để bao quản thông tin lâu dài đòi hỏi phải được sản
xuất cẩn thận, đồng thời phải được bảo quản và thao tác tốt trong những
điều kiện môi trường có kiểm soát. Những người phụ trách và quản lý
các kho tài liệu sử dụng vi dạng cần thiết lập những yêu cầu kỹ thuật để
đảm bảo rằng các nhà cung cấp bán cho mình loại phim đáp ứng được
các nhu cầu sử dụng và bảo quản của mình. Các tiêu chuẩn chung của
Viện Tiêu chuẩn Quốc gia Hoa Kỳ (ANSI)/Hiệp hội Quản lý Thông tin
và Hình ảnh (AIIM), cùng các yêu cầu kỹ thuật do Nhóm Các thư viện
Nghiên cứu (RLG) và Thư viện Quốc hội Mỹ xây dựng là những hướng
dẫn bổ ích. Mỗi đơn vị sẽ có những yêu cầu kỹ thuật khác nhau, tuy
nhiên những yêu cầu này cần phải được nêu rõ trong hợp đồng và được
theo dõi một cách có hệ thống nhằm bảo vệ chính những kho tài liệu
cũng như lợi ích của đơn vị.
Bộ tiêu chuẩn AIIM có thể tìm được trên mạng tại địa chỉ:
Kiểm soát chất lượng
Để đảm bảo rằng những yêu cầu cụ thể trong hợp đồng liên quan tới
chất lượng phim đã được đáp ứng, nhà cung cấp vi phim cần kiểm tra
thế hệ phim đầu tiên được xử lý, bao gồm: kiểm tra từng khuôn hình
một để phát hiện lỗi chụp phim (ví dụ, các vấn đề về độ nét, những hình
ảnh quá sáng hoặc thiếu sáng, v.v..), lỗi hiển thị (ví dụ, dấu vân tay, vết
xước, v.v..), những trang bị thiếu, và số điểm ghép nối trên từng cuộn
phim; kiểm tra độ phân giải sử dụng Chỉ mục Chất lượng hoặc phương
pháp kiểm tra độ phân giải hệ thống mô tả trong tiêu chẩu ANSI/AIIM
MS23-1998; các số độ mật độ, được hiểu theo những hướng dẫn trong Sổ
tay Bảo quan Vi phim của RLG; và kiểm tra bằng giấy kiềm xanh để thử
xem có chất thiosulfate dư không (xem tiêu chuẩn ANSI/NAPM IT9.1-
1996). Nhà cung cấp vi phim cũng cần lấy số đo mật độ phim trên tất cả
các bản sao thế hệ hai hoặc thế hệ ba nhằm đảm bảo sự tuân thủ đối với
các yêu cầu kỹ thuật, và đem tất cả các bản sao kiểm tra trong hộp sáng
để xem độ rõ ràng và tương phản. Kết quả của toàn bộ việc kiểm tra
chất lượng mà nhà cung cấp thực hiện cần được gửi lên cho đơn vị ký
hợp đồng theo mẫu báo cáo chất lượng.
Trách nhiệm kiểm soát chất lượng không nên chỉ coi là việc của nhà
cung cấp. Đơn vị cũng cần thực hiện việc kiểm tra riêng để khẳng định
sự tuân thủ các yêu cầu đặt ra trong hợp đồng. Một hướng dẫn hữu
dụng để thực hiện có thể tìm được tại Phụ lục 18 của Sổ tay Bảo quản Vi
phim của RLG.
Môi trường bảo quản
Nhiệt độ và độ ẩm tương đối
Nhìn chung, những yêu cầu đối với vi dạng giống như những yêu cầu đối
với tài liệu ảnh khác. Độ ẩm tương đối quanh năm thấp hơn 50% là phù
hợp đối với tất cả các loại phim. Đối với các phim bạc gelatin, độ ẩm
tương đối không nên vượt quá 40% nhằm giảm thiểu nguy cơ tạo ra các
vết ố rất nhỏ do ô-xy hoá bạc (đôi khi người ta gọi là "bệnh sởi"). Nhiệt
độ không nên vượt quá 70oF; nhiệt độ càng thấp càng tốt. Phim gốc nên
lưu trữ ở nhiệt độ cao nhất 65oF, độ ẩm tương đối cao nhất 35%, sai số
±5%. Các tiêu chuẩn ANSI/NAPM IT9.11-1993 và ANSI/PIMA IT9.2-
1998 có quy định về những điều kiện chính xác cho việc lưu giữ phim.
Nếu duy trì được giữ nhiệt độ thấp khi lưu trữ các kho tài liệu, và nếu
máy đọc phim được đặt ở bên ngoài khu vực kho, cần phải có thời gian
điều hoà lại nhiệt độ để phim đang lạnh ấm dần lên trước khi đưa vào
máy đọc. Đưa phim ngay từ nơi lạnh đến nơi ấm có thể làm cho nước tụ
lại trên bề mặt phim.
Các hệ thống hút ẩm nên là loại máy hút làm lạnh. Các hệ thống làm khô
có thể tạo ra các hạt bụi mịn có thể làm xước bề mặt phim. Các tủ dựng
có hệ thống sấy khô không nên dùng cho các kho vi dạng; độ ẩm tương
đối trong một hệ thống như vậy rất khó theo dõi và kiểm soát, và bụi có
thể làm xước bề mặt phim. Nếu việc làm ẩm là cần thiết để làm ổn định
những biến động trong môi trường lưu giữ, khí ẩm cần được phun từ
một hệ thống có nguồn nước không nhiễm bẩn. Các chất khống chế ăn
mòn được sử dụng trong rất nhiều hệ thống lớn có thể lưu lại các dư chất
có phản ứng ngược trong các tài liệu thư viện và lưu trữ. Phim đặc biệt
dễ nhạy cảm đối với các hư hỏng hoá học và ăn mòn từ nguồn hoá chất
này. Các khay nước hoặc dung môi hoá học không nên sử dụng trong các
chống ẩm.
Cũng giống như trường hợp của di vật khảo cổ bằng giấy, phải kiểm soát
được những biến động về nhiệt độ và độ ẩm tương đối mới bảo quản
được lâu dài. Độ ẩm tưởng đối và nhiệt độ đối với các kho vi dạng đang
sử dụng không nên dao động quá ±5%, và ±3% là thích hợp nhất. Bảo
quản dưới nhiệt độ càng lạnh và kiểm soát được độ ẩm tương đối càng
tốt thì tuổi thọ của phim càng dài.
Ô nhiễm
Các hạt bụi ô nhiễm trong không khí là nguồn dễ thấy nhất gây ra các
vết xước và ăn mòn đối với vi phim. Các phim bạc galetin đặc biệt dễ gặp
phải những tác hại này. Việc lau nhà, bao gồm cả hút bụi thường xuyên,
trong khu vực kho và khu vực sử dụng là rất quan trọng.
Các chất gây ô nhiễm dạng khí, ví dụ như ô-xít lưu hình hoặc ô-xít nitơ,
hơi sơn, a-mô-ni-ắc, peroxides, ô-zôn, và formaldehyde, làm hư hỏng cả
chất liệu nền nhũ tương trên bề mặt. Những chất ô nhiễm này có thể tạo
ra quá trình ô-xít hoá hoặc những tác động hãm gây ra những vết ố nhỏ
trên phim bạc gelatin; vì vậy phải lưu ý để giảm nguy cơ tác động của
những chất này. Không nên lưu trữ vi dạng ở gần các máy photocopy vì
chúng có thể là nguồn tạo ra ô-zôn. Vi dạng cũng nên di rời khỏi những
nơi đang được sơn; nên mở cửa và dùng quạt để gió lưu thông tốt, đồng
thời nên để sơn bám chắc trong 3 tháng trước khi đưa phim quay trở lại.
Không nên dùng giá gỗ hoặc tủ gỗ ở những nơi bảo quản các tài liệu vi
dạng có giá trị lâu dài.
Các phim diazo, phim có lỗ, phim bạc gelatin không nên cuộn vào trong
cùng một cuộn, không nên bọc trong cùng một bao, hoặc (lý tưởng nhất)
là không lưu trữ trong cùng một hộp. Hạn chế về không gian và việc truy
cập thường khiến cho việc dành riêng tủ để lưu giữ các loại phim khác
nhau là không thực tế, những lưu trong các cuộn riêng hoặc đặt trong
các bao đựng thẻ riêng nên luôn được áp dụng. Ngoài ra, các phim có lỗ
lâu năm có thể là một nguồn chứa axít gây hại. Những loại phim này nên
được tách biệt hoàn toàn với những loại phim khác và nên được sắp xếp
có hệ thống.
Sao thành nhiều bản
Mặc dù môi trường lưu giữ được kiểm soát hoàn hảo là lý tưởng, việc
sao thành nhiều bản vi dạng là giải pháp thực dụng đối với việc bảo quản
tài liệu lưu trữ. Phần lớn các kho tài liệu phim có giá trị lâu dài sử dụng
một hệ thống ba thế hệ phim để tạo ra sự linh hoạt trong các yêu cầu về
lưu giữ.
Bản gốc âm bản
Nên tạo ra bản phim thế hệ đầu (hay bản gốc âm bản) trên phim âm bản
bạc gelatin từ tài liệu gốc và xử lý theo các tiêu chuẩn được nêu trong bộ
tiêu chuẩn ANSI/AIMM MS23-1998. Đây là bản sao để lưu trữ và được
dùng để tạo ra một bản sao âm bản (xem phần dưới) để từ đó tạo ra thế
hệ các bản sao sử dụng. Bản gốc âm bản cần được lưu giữ ở một một nơi
khác nơi lưu giữ phim thế hệ hai và trong những điều kiện càng gần mức
lý tưởng càng tốt. Có một số kho lưu trữ cho thuê không gian để lưu giữ
vi phim. Nên lưu giữ tại những nơi này, nhưng người thuê phải chắc
chắn rằng những điều kiện lưu giữ tại nơi lựa chọn phải đáp ứng những
tiêu chuẩn của ANSI nêu trong tiêu chuẩn ANSI/NAPM IT9.11-1993.
Chỉ sử dụng bản gốc âm bản lần tiếp theo để tạo ra bản sao âm bản bị
mất do hư hỏng hoặc thảm hoạ.
Bản sao âm bản (hay bản in từ bản gốc âm bản)
Bản sao này luôn sử dụng loại phim bạc gelatin. Bản sao âm bản được sử
dụng để tạo ra các bản sao để sử dụng (xem phần dưới) để truy cập kho
tài liệu. Bản sao này cần được lưu giữ trong những điều kiện tốt nhất có
thể, bởi vì nó đóng vai trò như một bản gốc đang dùng, nhằm bảo vệ bản
gốc âm bản. Lý tưởng nhất là lưu giữ nó tách biệt về mặt vật lý với các
bản sao để sử dụng.
Các bản sao sử dụng (hay các bản sao phục vụ)
Bất cứ phương tiện lưu trữ hoặc định dạng nào đều có thể chấp nhận
được, và các ảnh tạo ra có thể là dương bản hoặc âm bản. Việc lưu giữ
và thao tác phù hợp sẽ kéo dài tuổi thọ của các bản sao sử dụng, nhờ đó
mà bảo vệ được những thế hệ trước của vi dạng.
Bao hộp đựng phim
Việc bao bọc các phim polyester cẩn thất là rất quan trọng vì, với những
công nghệ hiện có, rất khó có thể loại bỏ hoàn toàn các chất gây ô nhiễm
dạng khí. (Tuy nhiên, các loại phim acetate lâu năm có thể thải ra khí
axít axêtíc và vì vậy nên để thoáng khí hoặc bọc bằng giấy có lỗ thoát khí
nhỏ. Nếu các bản gốc âm bản buộc phải lưu giữ trong môi trường khó
kiểm soát, có thể đặt phim trong các hộp bằng sắc có nắp hoặc các hộp
nhựa trơ về mặt hoá học. Tài liệu của Kodak số D-31, Lưu giữ và Bảo
quản Vi phim (Công ty Kodak Eastman, Rochester, New York 14650) có
thể cung cấp những chỉ dẫn có giá trị về việc sử dụng các hộp có nắp.
Giải pháp này không phải là một liều thuốc tiên và cần phải sử dụng một
cách thận trọng. Các hộp phù hợp phải đáp ứng được những yêu cầu về
cấu tạo hoá học. Cũng cần phải kiểm tra phim thường định kỳ để đảm
bảo rằng phim không bị xuống cấp. Hướng dẫn kiểm tra phim bạc
gelatin có trong tiêu chuẩn ANSI/AIIM MS45-1990. Nếu không thấy
xuống cấp, có thể bỏ phim trở lại trong hộp. Phương tiện tối ưu để lưu
giữ phim gốc là sử dụng hộp đủ chất lượng bảo quản và đặt ở nơi có thể
kiểm soát được nhiệt độ và độ ẩm tương đối.
Các bao hộp đựng phim nên được chọn theo những hướng dẫn đã được
xây dựng trong lưu trữ và cần phải qua được tất cả các Kiểm tra Hoạt
tính ảnh như Viện Bảo tồn ảnh (Image Permanence Institute). Trung
tâm Bảo tồn Tài liệu Đông Bắc khuyến cáo rằng bao giấy nên được làm
từ giấy chất lượng cao, không chứa than chì, có đệm và trung tính. Hộp
đựng MicroChamber (do Công ty Conservation Resources International,
Inc., Springfield, bang Virginia sản xuất) được làm từ giấy bồi tẩm
zeolite có tác dụng trung hoà các chất ô nhiễm dạng khí. Sử dụng những
hộp này có thể tăng đáng kể tuổi thọ của phim trong những môi trường
bị ô nhiễm nặng do ô-zôn, peroxide, hoặc các hợp chất khác tấn công
phim; loại hộp này cũng có thể giúp làm chậm quá trình xuống cấp do
các hoá chất từ phim lâu năm không đủ chất lượng bảo quản thải ra.
Nếu độ ẩm tương đối của môi trường bảo quản ổn định và dưới 50%, các
bao đựng phim có đệm hiếm đặt ra nguy cơ đối với phim. Nên tránh sử
dụng keo dính bất cứ khi nào có thể. Các loại nhựa an toàn như
polyester, polyethylene, hoặc polypropylene có thể chấp nhận được, trừ
polyvinylchloride (PVC) hay vinyl. Vi thẻ cần được bọc sao cho mặt
phim chứa chất bắt sáng không chạm vào các mép trong của túi đựng để
tránh trầy xước; điều này cũng giúp chống bị bám keo dính ở các mép
gập của bao. Các cuộn vi phim cần được đóng từng hộp riêng, phim
được đặt ở tư thế cuộn và được giữ bằng một thẻ đủ chất lượng bảo
quản và được buộc bằng một sợi dây và dây thắt nút. Dây chun bằng cao
su chứa dư chất lưu huỳnh là nguồn gây hại cho phim và chất cảm
quang và vì thế không được sử dụng. Các tủ đựng bằng thép là phù hợp
nhất đối với việc lưu trữ phim, tuy nhiên các hộp đựng bằng nhựa trơ
cũng có thể sử dụng trong nội bộ thư viện. Tấm phân cách và biển ký
hiệu xếp giá không nên làm bằng chất liệu có độ pH trung tính. Không
được ép vi phim khi xếp giá, và sử dụng tấm phân cách để chống quăn.
Như đã nêu, các loại phim khác nhau cần được bảo quản trong các hộp
đựng khác nhau để tránh các tương tác hoá học. Các hệ thống sắp đặt
phim cần phải được thiết kế nhằm giảm thiểu thao tác và các tủ đựng
cần phải dễ dàng cho việc định vị và truy xuất thông tin. Sự sút giảm
chất lượng là không thể tránh khỏi đối với các kho tài liệu cũ, tuy nhiên
tốc độ và mức độ giảm sút có thể kiểm soát được.
Thao tác với phim
Người sử dụng bao giờ cũng nên đeo găng tay khi thao tác với các bản
gốc âm bản bởi vì các dầu chứa axít và vân tay có thể làm hỏng phim.
Tất cả các phim đều nên cầm bằng mép hoặc đầu phim. Mỗi lần chỉ nên
lấy một vi dạng ra khỏi vỏ bọc. Vi thẻ nên được đưa lại vào túi đựng
ngay sau khi sử dụng; phim cuộn cũng nên bỏ lại vào hộp ngay lập tức.
Ngoài ra, không nên cuộn phim quá chặt lên ống cuộn bởi vì điều này có
thể gây xước phim. Giáo dục nhân viên và độc giả thao thác đúng cách
đối với các vi dạng là rất quan trọng đối với tuổi thọ của phim.
Thiết bị
Sử dụng và bảo trì dễ dàng là yếu tố cần được quan tâm khi lựa chọn
thiết bị. Các máy đọc vi dạng thường thải ra nhiệt; các tiêu chuẩn của
ANSI quy định nhiệt độ trên mặt phim cao nhất cho phép là 167oF. Một
số phim diazo bị hỏng ở nhiệt độ này, và vì vậy tránh để các khu vực nhỏ
của phim (ví dụ một khuôn hình) bị nóng quá lâu. Như đã đề cập ở trên,
phim có lỗ có thể bị hỏng ở nhiệt độ dưới mức giới hạn nói trên của
ANSI, vì vậy phim này cần phải quan tâm đặc biệt. Nên tắt các máy đọc
vi dạng nếu bạn đọc không còn sử dụng máy.
Kích thước ống kính của máy đọc phim cần phải tính đến các tỷ lệ thu
nhỏ khi chụp phim. Trong chụp vi phim để bảo quản, hình ảnh thường
được thu nhỏ khoảng từ 8 lần đến 14 lần, vì vậy độ phóng đại của ống
kính cũng nên ở tỷ lệ tương tự. Các kính phóng to thu nhỏ cho phép thay
đổi độ phóng đại hiện cũng có bán trên thị trường.
Thiết bị cần được kiểm tra hàng tuần và được bảo trì hàng ngày. Thiết
bị bám bụi bẩn sẽ làm giảm chất lượng hình ảnh. Nên giao hẳn trách
nhiệm bảo trì máy cho một nhân viên và nhân viên này được đội ngũ kỹ
thuật của nhà sản xuất đào tạo. Bụi trên các tấm kính sẽ phóng to bởi
các ống kính của máy đọc. Bụi cũng có thể bám vào vi phim và có thể
làm mờ đi các chi tiết, thậm chí làm hỏng phim. Nên dùng vải phủ bụi
bất cứ khi nào máy đọc phim không sử dụng. Bụi bẩn có thể dầy lên ở
mép của các tấm kính cũng tạo ra một nguồn có thể gây xước phim. Vì lý
do này, các tấm kính và đỡ phim cần được lau chùi hàng ngày. Cũng nên
thiết lập một lịch thường xuyên đối với việc lau ống kính, gương chiếu,
và mặt mờ của màn hình hiển thị, nhưng công việc này cần được làm hết
sức cẩn trọng vì các bộ phần này có thể dễ bị hư hỏng và/hoặc bị làm
trông như bị vấy bẩn hoặc hoặc lấm chấm. Chỉ dẫn đối với việc bảo trì
thiết bị vượt quá phạm vi của bài viết này. Các chỉ dẫn chung được đề
cập trong bài viết Vi dạng trong các Thư viện của tác giả Francis
Spreitzer (xem danh mục tài liệu tham khảo dưới đây).
Lên kế hoạch phòng thảm hoạ
Lên kế hoạch phòng thảm hoạ cực kỳ quan trọng đối với các kho tài liệu
vi dạng. Vi dạng rất dễ bị hư hỏng khi gặp nước. Vi dạng phải được bảo
vệ trước nguy cơ lũ lụt hoặc vỡ ống nước. Một khi đã bị ướt, không được
làm khô tài liệu ở dạng cuộn hoặc trong bao đựng vì nó sẽ dính với nhau
và dính vào trong bao đựng. Vi dạng bị ướt phải được lấy ra khỏi bao
đựng. Phim cuộn phải được tháo ra để làm khôn phim. Làm khô bằng
không khí có thể chấp nhận được, nhưng hiệu quả nhất là trước đó tìm
một hiệu xử lý phim có thể cung cấp dịch vụ này khi tình huống khẩn
cấp xảy ra. Có thể làm khô vi thẻ bằng cách đặt mặt chứa chất bắt quang
hướng lên trên theo một lớp đơn hoặc treo lên dây ở phần mép không có
hình ảnh nào.
Diazo dễ bị lấm tấm nước và vì vậy nên sử dụng nùi cao su hoặc tấm vải
không có xơ để lau nước đọng trên phim.
Các vi dạng bị ẩm không nên làm lạnh hoặc làm khô ở nhiệt độ thấp vì
các lớp vi có thể rời nhau và khó có thể tránh được hư hỏng khi thao tác.
Nếu không thể làm khô vi dạng ngay lập tức bằng không khí, cần ngâm
vi dạng vào trong nước lạnh và sạch, sau đó gửi tới phòng ảnh để rửa và
làm khô một cách an toàn. Phải ngăn không cho nấm mốc phát triển trên
tất cả các loại phim. Phim diazo hoặc có lỗ bị mốc có thể lau bằng vải
không xơ hơi ẩm; nếu nấm nhiễm vào phim bạc gelatin, nên tìm kiếm sự
giúp đỡ của những nhà chuyên môn.
Lựa chọn nhà cung cấp vi dạng
Các công ty chụp vi phim thương mại thường không phải là lựa chọn
hiệu quả về mặt chi phí cho việc chuyển sách và tài liệu sang vi dạng.
Như đã nêu ở trên, mỗi đơn vị cần phải xây dựng những tiêu chuẩn cho
vi phim của mình, và những tiêu chuẩn này cần phải trở thành một phần
trong hợp đồng cung cấp dịch vụ. Tới thăm công ty cung cấp vi dạng là
một ý tưởng tốt dể đảm bảo rằng vấn đề kiểm soát môi trường, chống
cháy, quản lý cơ sở vật chất và an ninh đáp ứng nhu cầu của các kho tài
liệu sẽ được chụp phim. Điều này đặc biệt quan trọng trong việc tránh
hư hỏng đối tài liệu gốc, những tài liệu sau đó sẽ được trả về kho chứ
không phải bỏ đi.
Trong một số trường hợp, chọn một công ty cung cấp dịch vụ chụp phim
đặc biệt là phù hợp. Nhiều tài liệu được chụp phim bởi vì nó quá dễ hỏng
khi những nhà nghiên cứu sử dụng. Trong trường hợp đó, hoặc nếu đơn
vị muốn giữ nguyên các tài liệu đã đóng bìa ở nguyên hình dáng ban
đầu, thì nên cân nhắc lựa chọn một nhà cung cấp dịch vụ chụp phim đặc
biệt. Các công ty chụp vi phim thương mại số lượng lớn thiếu thiết bị,
thời gian và chuyên môn để có thể xử lý các tài liệu dễ hỏng mà không
gây hư hại cho giấy sách ròn hoặc bìa sách đã xuống cấp. Chi phí cho
dịch vụ đặc biệt có thể cao hơn, nhưng những tài liệu có tính khoả cổ có
giá trị hoặc những tài liệu gốc khó chụp (ví dụ: những sách bộ đóng chặt
và mép đóng hẹp hoặc những tài liệu mờ hoặc không có độ tương phản
phù hợp) có thể đòi hỏi phải chi tiêu như vậy. Nên liên hệ với một chuyên
gia về bảo quản để xin tư vấn.
Danh mục tài liệu tham khảo chọn lọc dành cho những người quản lý tài
liệu vi dạng
American National Standard for Imaging Materials--Ammonia
Processed Diazo Film--Specifications for Stability, ANSI/NAPM IT9.5-
1996.
American National Standard for Imaging Materials--Processed Silver
Gelatin Type Black and White Film--Specifications for Stability,
ANSI/NAPM IT9.1-1996.
American National Standard for Imaging Media--Photographic
Processed Films, Plates, and Papers--Filing Enclosures and Storage
Containers, ANSI/PIMA IT9.2-1998.
American National Standard for Imaging Media--Processed Safety
Photographic Films--Storage, ANSI/NAPM IT9.11-1993.*
Association for Information and Image Management. Practice for
Operational Procedures/Inspection and Quality Control of First-
Generation, Silver Gelatin Microfilm of Documents, ANSI/AIIM MS23-
1998 Revised.**
Association for Information and Image Management. Recommended
Practice for the Inspection of Stored Silver Gelatin Microforms for
Evidence of Deterioration, ANSI/AIIM MS45-1990.
Borck, Helga. "Preparing Material for Microfilming: A Bibliography."
Microform Review 14 (Fall 1985): 241-43.
Chace, Myron B. "Preservation Microfiche: A Matter of Standards."
Library Resources & Technical Services 35.2 (April 1991): 186-90.
Child, Margaret S. "The Future of Cooperative Preservation
Microfilming." Library Resources & Technical Services 29.1 (Jan.-
March 1985): 94-101.
Cox, Richard J. "Selecting Historical Records for Microfilming: Some
Suggested Procedures for Repositories." Library and Archival Security
9.2 (1989): 21-41.
Diaz, A.J., ed. Microforms in Libraries: A Reader. Westport, CT:
Microform Review, 1975, 443 pp.
Elkington, Nancy E., ed. RLG Archives Microfilming Manual. Mountain
View, CA: Research Libraries Group, 1994, 218 pp.
Elkington, Nancy E., ed. RLG Preservation Microfilming Handbook.
Mountain View, CA: Research Libraries Group, 1992, 203 pp.
Fox, Lisa L., ed. Preservation Microfilming: A Guide for Librarians and
Archivists, 2nd ed. Chicago: American Library Association, 1996, 394
pp.
Johnson, A.K A Guide for the Selection and Development of Local
Government Records Storage Facilities. New York: NAGARA, 1989.
Library of Congress. Specifications for the Microfilming of Manuscripts.
Washington, DC: Library of Congress, 1980, 21 pp.
McKern, Debra, and Sherry Byrne. ALA Target Packet for Use in
Preservation Microfilming. Chicago: American Library Association,
1991.
Preservation Microfilming: Planning & Production. Papers from the
RTSD Preservation Microfilming Institute, New Haven, Conn., April 21-
23, 1988. Chicago: Association for Library Collections & Technical
Services, ALA, 1989, 72 pp.
RLIN Preservation Masterfile. A CD-ROM listing of microfilmed books
and journals. Compiled from the RLIN database and others. Available
from Chadwick-Healey, Inc. for $750 a year; updated twice annually.
Recommended Practice for Operational Procedures/Inspection and
Quality Control of Duplicate Microforms of Documents and from COM,
ANSI/AIIM MS43-1998.
Recordak. Storage and Preservation of Microfilms. Kodak pamphlet no.
P-108. Rochester, NY: Eastman Kodak Company, 1985.
Reilly, James, et al. "Stability of Black-and-White Photographic Images,
with Special Reference to Microfilm...ã lưu
trữ. Tuy nhiên, quá trình trông đơn giản này lại ẩn chứa
đằng sau nó sự phức tạp đáng kể ở tất cả các giai đoạn
của quá trình tạo ảnh.
- Nguồn: Các thư viện và trung tâm lưu trữ có nhiều vô
số các kho tài liệu phức tạp và đa dạng thích hợp để
chuyển sang dữ liệu số. Các nguồn đa dạng về kích cỡ,
định dạng, chất liệu và điều kiện bảo quản; các nguồn có
thể chủ yếu dưới dạng chữ; tài liệu có thể có ảnh minh
hoạ mà bản thân các ảnh minh hoạ này có thể rất đa
dạng về tính chất. Các nguồn cũng có thể có những nội
dung quan trọng được in màu.
Không phải tất cả việc chuyển đổi dữ liệu sang dạng số
đều được thực hiện từ những nguồn dữ liệu gốc. Việc sử
dụng phim làm trung gian ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong một hệ thống tạo hình ảnh số. Các dạng
trung gian đa dạng về chủng loại, từ các tờ chiếu màu 35
mm (35 mm color slides) và vi phim có độ tương phản
cao (high-contrast microfilm) đến các vi thẻ toàn cảnh
(full-frame microfiche) và phim âm bản khổ lớn. Michael
Ester đã từng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nắm
rõ các đặc điểm của các phim trung gian. "ảnh số chỉ có
thể đẹp được như ảnh nguồn của nó mà thôi; nếu các chi
tiết hoặc đường nét của hình ảnh không có trong ảnh
trung gian, nó cũng sẽ không xuất hiện trong ảnh số".
- Chuyển dạng: Con người và máy móc quan trọng như
nhau trong việc chuyển dạng các tài liệu nguồn. Các cấu
hình của thiết bị khá phức tạp và phát triển nhanh về
mặt tính năng. Các cấu hình này gồm phần cứng, phần
mềm, vi chương trình (phần mềm cấy trên con chip) và
hệ thống lưu trữ. Các hệ thống tạo hình ảnh có sự khác
nhau về độ tinh vi trong chế tạo, về chất lượng của các
thiết bị cảm biến, về đặc tính của phần mềm được tạo ra
để đơn giản hoá quá trình tạo ảnh và về tốc độ chuyển
dạng một nguồn hoặc một tập hợp nguồn nhất định mà
hệ thống có thể thực hiện được. Thử nghiệm các cấu hình
thiết bị trước khi mua hoặc thuê là hết sức quan trọng.
Một giải pháp tốt để hiểu xem các hệ thống hoạt động
như thế nào là đi thăm các thư viện, các trung tâm lưu
trữ, các trung tâm dịch vụ hoặc các tổ chức khác có các
hệ thống tương tự.
Công việc chuyển dạng sang dữ liệu số đòi hỏi rất nhiều
nhân lực. Hiện nay, chất lượng và khả năng truy cập của
sản phẩm số hoá phụ thuộc nhiều vào các kỹ năng và
năng lực mà con người sử dụng trong quá trình khảo sát,
quét ảnh, xây dựng chỉ mục (indexing), và quản lý các
tệp dữ liệu. Nếu nỗ lực đúng mức có thể thu nhận và duy
trì những kỹ năng này ngay tại đơn vị. Tuy nhiên, so với
trước đây, ngày nay việc ký hợp với các công ty chuyên
về các dịch vụ chuyển dạng ảnh chất lượng cao linh hoạt
hơn nhiều.
Truy cập: Ở một mức độ trừu tượng nhất định, một sản
phẩm số chỉ tồn tại nếu nó có thể tìm thấy và xem được.
Các hệ thống truy cập sản phẩm số ít nhất cũng phức tạp
chẳng kém các hệ thống hỗ trợ việc chuyển dạng. Các
công nghệ nền (PC, Unix, Mac) khác nhau về tính năng;
sự phù hợp của một cấu trúc mạng có thể tạo nên hoặc
phá vỡ một hệ thống truy cập. Tương tự như vậy, công
nghệ hiển thị (màn hình và máy in) là cực kỳ quan trọng
để sử dụng tốt nhất sản phẩm số.
Công nghệ là một trong những mắt xích yếu nhất trong
toàn bộ hệ thống. Công nghệ chuyển dạng giờ đây có khả
năng tạo ra dữ liệu lớn hơn nhiều so với khả năng có thể
hiển thị một cách hữu dụng của phần lớn các màn hình
máy hính hiện nay.
Sơ đồ 7 là một minh hoạ dạng biểu đồ của các thành
phần trong mô hình xử lý. Quan trọng là cần nhận thấy
rằng sự phức tạp của một hệ thống công nghệ ảnh số chỉ
liên quan một phần đến sự phức tạp của các bộ phận đơn
lẻ. Các thành phần của quá trình tương tác với nhau làm
tăng thêm sự phức tạp.
Mô hình sản phẩm ảnh số
Quá trình tạo hình ảnh số tạo ra sản phẩm có những đặc
trưng riêng khác với những đặc trưng của nguồn ảnh
gốc. Thách thức lớn nhất trong việc tạo ra một sản phẩm
ảnh số là dung hoà giữa ba vấn đề: các thuộc tính của
nguồn; các khả năng của công nghệ chuyển dạng và
những mục đích hoặc tính năng sử dụng của sản phẩm
đầu cuối.
Sơ đồ 8 là một giản đồ xác định những vấn đề và nêu ra
một tập hợp các quan hệ có thể quản lý được nhằm tạo
ra một sản phẩm ảnh số có đủ giá trị xứng đáng với chi
phí và sự nỗ lực để đảm bảo việc bảo quản lâu dài.
Trong số 3 tập hợp các vấn đề (nguồn, công nghệ, mục
đích sử dụng) trong hệ thống, khái niệm các mục đích sử
dụng khác nhau có lẽ ít được nhất trí hơn cả. Một số nhà
nghiên cứu trong lĩnh vực này đã bắt đầu khuyến cáo
rằng chất lượng của sản phẩm đầu cuối có thể được tạo
dựng theo cách nào đó thông qua việc tham khảo một
trong ba mục đích mà sản phẩm có thể phục vụ người sử
dụng cuối cùng.
Bảo vệ tài liệu gốc. ứng dụng cơ bản nhất của công nghệ
số vào thư viện hoặc trung tâm lưu trữ là nhằm tạo ra
những bản sao dạng số có đủ chất lượng để có thể dùng
tham khảo thay thế cho việc tra tìm cẩu thả các tài liệu
gốc. Các tệp tin tham khảo là ảnh của các bộ sưu tập
ảnh, các tập bài cắt báo dùng hoặc các tệp hồ sơ mỏng
cho phép định danh từng tài liệu đơn lẻ cần nghiên cứu
sâu hơn là các ví dụ của ứng dụng này. Các mục tiêu bảo
quản do đó đã được đáp ứng vì những tài liệu gốc có thể
được bảo vệ nhờ hạn chế việc tiếp cận chúng.
Thể hiện bản gốc. Hệ thống công nghệ số có thể được xây
dựng để hiển thị nội dung thông tin của những tài liệu
gốc ở mức chi tiết mà hệ thống đó có thể sử dụng để khai
thác phần lớn, nếu không nói là tất cả, tiềm năng nghiên
cứu và học tập của các tài liệu gốc. Các hệ thống có độ
phân giải cao cố gắng thể hiện đầy đủ và hoàn chỉnh nội
dung, cố gắng đạt được "sự thu nhận đầy đủ thông tin"
dựa trên những tiêu chuẩn mới đưa ra và tốt nhất, là các
hệ thống phù hợp với định nghĩa này. Các hệ thống ở
mức chất lượng tầm trung này mở ra những hướng đi
mới cho việc nghiên cứu và sử dụng đồng thời có khả
năng tạo ra tác động có tính chuyển đổi trong sứ mệnh
phục vụ của những người làm ra những sản phẩm đó.
Vượt qua bản gốc. Trong một số ít các ứng dụng, công
nghệ ảnh số hứa hẹn tạo ra sản phẩm có thể sử dụng cho
những mục đích mà sử dụng tài liệu gốc không thể đạt
được. Mảng ứng dụng này bao gồm cả công nghệ ảnh sử
dụng chiếu sáng đặc biệt để vẽ ra những chi tiết bị mờ đi
do thời gian, do sử dụng hoặc do tác hại của môi trường;
công nghệ ảnh sử dụng các trung gian ảnh chuyên dụng;
hoặc công nghệ ảnh có độ phân giải cao đến mức có thể
tiến hành nghiên cứu những đặc điểm khảo cổ.
Mỗi một trong những ứng dụng này đặt ra những đòi hỏi
riêng biệt nhưng ngày càng khắt khe đối với công nghệ
số. Trong mỗi trường hợp, việc sử dụng phim hoặc bản
sao trên giấy làm trung gian để tiện cho quá trình quét
ảnh là cần thiết và nên làm. Tóm lại, việc sắp xếp các tài
liệu gốc (bao gồm cả việc tiến hành các biện pháp bảo
quản trước hoặc sau khi chuyển dạng) là một vấn đề
hoàn toàn khác. Suy cho cùng, mục đích của sản phẩm số
bị chi phối bỏi các mục tiêu tiếp cận tài liệu, trong khi đó
việc bảo quản các tài liệu gốc cần được quyết định dựa
trên nhu cầu bảo quản những nguồn tài liệu này.
Những vấn đề đặt ra
Tài liệu này đã nêu ra một số vấn đề những mà các thư
viện viên và nhân viên lưu trữ phải vật lộn với chúng nếu
muốn các dự án số hoá của họ có giá trị lâu dài. Sau đây
là năm vấn đề vượt khỏi tầm những đặc trưng của công
nghệ ảnh số.
Công nghệ. Công nghệ ảnh số là con voi hay chỉ là cái
đuôi con voi?
Các công ty chào bán công nghệ ảnh số thường ưa dùng
thuật ngữ "giải pháp" để mô tả giá trị các sản phẩm của
họ. Thuật ngữ này hàm ý rằng khách hàng xác định vấn
đề của mình và mua một giải pháp về công nghệ. Các
công nghệ số là một tập hợp công cụ đưa ra rất nhiều lựa
chọn và rất ít giải pháp. Có lẽ hợp lý hơn cả là nên phân
biệt giữa các dự án công nghệ ảnh số nhằm thử nghiệm
các năng lực của công nghệ (và kết quả là sự học hỏi) với
những dự án làm thay đổi thực sự về chất các chiến lược
quản lý thông tin của chúng ta.
Kiểm soát (Control). Liệu nó có phải là một từ bốn chữ
cái (Ctrl)?
Công nghệ số cơ bản là khá ổn định. Tuy nhiên, thị
trường công nghệ ảnh số lớn, phức tạp và luôn trong quá
trình phát triển không ngừng. Các thư viện và trung tâm
lưu trữ chỉ chiếm một phần nhỏ trong thị trường này.
Điều đó bắt buộc chúng ta phải tìm cách xác định những
thành phần nào của công nghệ số mà chúng ta có thể
kiểm soát, lĩnh vực nào mà chuyên môn của chúng ta là
một trong rất nhiều ảnh hưởng quan trọng, và khi nào
chúng ta chấp nhận các quá trình và sản phẩm của thế
giới mà chúng ta đang sống.
Lựa chọn. Các kho tài liệu số của chúng ta vô dụng hay
hữu dụng?
Lựa chọn là yếu tố trung tâm của các ứng dụng công
nghệ số; việc lựa chọn công nghệ mới chỉ là bước khởi
đầu. Lựa chọn nội dung cũng không kém phần quan
trọng. Không giống như các chiến lược xây dựng kho tài
liệu của các thư viện và trung tâm lưu trữ truyền thống,
những chiến lược dẫn đến một quyết sách đối với việc
thu nhận và một quyết sách khác đối với việc bảo quản
trong nhiều năm sau đó, việc lựa chọn trong thế giới số là
một quá trình nhận định và đánh giá liên tục. Hầu như
không có kho tài liệu số nào đảm bảo được các chi phí
liên quan đến việc duy trì truy cập trong thời gian dài mà
không tính đến giá trị và tính chất của việc sử dụng
chúng.
Chất lượng. Bạn có sẵn sàng và độc giả có trả chi phí cho
chất lượng?
Trong vòng 5 năm qua, các nhân viên thư viện và lưu trữ
đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc xác định những
kỳ vọng của họ đối với chất lượng của các sản phẩm công
nghệ ảnh số được tạo thành từ nhiều nguồn tài liệu khác
nhau. Chất lượng là giá trị mà chúng ta gia tăng thêm
vào các sản phẩm ảnh công nghệ số. Mặc dù vẫn còn tồn
tại những vấn đề quan trọng về thước đo chất lượng,
những trở ngại đối với việc đạt được chất lượng lại
dường như không nằm ở chính bản thân công nghệ.
Đúng hơn là chi phí để tạo ra và duy trì các sản phẩm số
vẫn còn cao; người ta vẫn còn chưa chắc chắn là liệu các
chi phí tổng thể để tạo ra một sản phẩm có giảm bớt đi
không.
Bảo quản. Có chương trình số hoá nào Không để bảo
quản hay không?
Chi phí cao đồng nghĩa với nguy cơ thiệt hại cao. Công
tác bảo quản trong thế giới số là biết cách điều chỉnh
những khái niệm về bảo quản nhằm quản lý được nguy
cơ trong bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh chóng. Công
nghệ ảnh số không chỉ là một lựa chọn chuyển tài liệu
sang dạng khác. Công nghệ ảnh liên quan đến việc
chuyển đổi khái niệm định dạng, chứ không chỉ nhằm
tạo ra một bức tranh chính xác về một cuốn sách, một tài
liệu, một tấm ảnh, hoặc một bản đồ lên một phương tiện
khác. Cũng như việc sáng chế ra ống chân không mở ra
một dạng truyền thông đại chúng hoàn toàn mới - phát
thanh - thay vì chỉ đơn giản tạo ra khả năng truyền
không dây thông điệp từ điểm này tới điểm kia, các công
nghệ ảnh số tạo ra một dạng thông tin hoàn toàn mới.
Paul Conway - Chủ nhiệm khoa bảo quản, Thư viện Đại học
Yale
Tóm tắt
Bảo quản hiện nay vẫn còn là một khái niệm mơ hồ khi áp
dụng vào việc xây dựng các dự án và các kho tài liệu thư viện
kỹ thuật số. Tài liệu kỹ thuật nêu nêu lên một khuôn khổ cho
việc nhận thức về công tác bảo quản trong môi trường kĩ thuật
số bằng cách tạo ra cầu nối giữa năm nguyên lý cơ bản của
công tác bảo quản truyền thống là: tuổi thọ, lựa chọn, chất
lượng, toàn vẹn và truy cập. Bài viết trình bày về sự mở rộng
những mục đích của công tác bảo quản. Bài viết cũng mô tả
quá trình chuyển đổi của nguyên lý bảo quản và nêu lên quan
điểm khẳng định sự cần thiết của công tác bảo quản trong thế
giới kỹ thuật số. Bài viết được bắt nguồn từ hai tài liệu: báo
cáo “Công tác bảo quản trong thế giới kỹ thuật số” của tác giả,
một loạt thuyết trình tại "School for Scanning” của NEDDC
tuần tự từ 1996 đến 1999.
Giới thiệu
Bảo quản không chỉ dành cho các tài liệu bằng giấy.
Chúng ta đều biết rằng công nghệ ảnh số, tự thân nó,
không dễ đưa đáp ứng được những vấn đề đặt ra của công
tác bảo quản. Thật vậy, xác định một cách đơn giản ý
nghĩa của công tác bảo quản trong môi trưởng ảnh kỹ
thuật số đã là một thách thức; đáp ứng được nội dung mà
một định nghĩa như vậy có thể nêu ra còn khó khăn hơn
nhiều. Thế giới kỹ thuật số đặt ra những thách thức lớn
lao đối với việc bảo quản một cách hiệu quả nhưng cũng
không vì thế mà xoá đi nhu cầu đó.
Khi một thư viện, một trung tâm lưu trữ, một hội sử học,
một bảo tàng hoặc bất cứ một cơ quan văn hoá nào được
giao một nhiệm vụ bảo quản, ngừng tiến hành việc thử
nghiệm với công nghệ kỹ thuật số và quyết định dùng nó
để cải tiến các dịch vụ hoặc thay đổi các hoạt động của
mình thì cơ quan đó đã dấn thân vào đường mòn truyền
thống của công tác bảo quản. Các công nghệ ảnh số đòi hỏi
một sự đầu tư nguồn lực lớn trong bối cảnh ngân sách
không thay đổi. Nguy cơ tổn thất cao hơn nhiều so với tất
cả các chức năng khác của công tác bảo quản. Vòng xoay
muôn thuở của sự phát triển sản phẩm kích thích nhận
thức của chúng ta về sự cải tiến khiến cho nguy cơ ngày
càng lớn hơn. Biết được rủi ro nằm ở đâu và tạo ra sự
chung sức của cả cơ quan để giảm nhẹ nó chính là công tác
bảo quản trong thế giới kĩ thuật số.
Thay đổi mục đích của công tác bảo quản
Thuật ngữ “bảo quản” là một cái ô che mà dưới đó là
phần lớn các thủ thư, cán bộ lưu trữ tập hợp xung quanh
tất cả những chính sách và giải pháp hành động, bao gồm
cả các biện pháp bảo tồn. Từ lâu, trách nhiệm của cán bộ
thư viện và lưu trữ - vàvcả các thư ký, lục sự đã từng làm
trước họ - là tập hợp và sắp xếp tài liệu ghi lại hoạt động
của loại người vào những nơi có thể bảo vệ và sử dụng
chúng. Lý luận về bảo quản với tư cách là một hành động
phối hợp và có ý thức nhằm tăng khả năng gìn giữ những
bằng chứng về cuộc sống, trí tuệ và thành tựu của loài
người là một hiện tượng còn khá mới mẻ. Công tác bảo
quản truyền thống được coi như là "trông giữ có trách
nhiệm" chỉ thành công khi giá trị của những bằng chứng
đó lớn hơn các chi phí lưu giữ chúng, khi mà bằng chứng
đó ở dạng vật lý và khi mà vai trò của người sáng tạo ra
bằng chứng, những người trông giữ bằng chứng và những
người sử dụng bằng chứng củng cố lẫn nhau.
Tinh thần cốt lõi của việc quản lý công tác bảo quản là
phân bổ nguồn lực. Con người, kinh phí và tài liệu phải
được thu nhận, được tổ chức và chuyển thành hoạt động
nghiệp vụ nhằm chống lại sự xuống cấp hoặc nhằm tái tạo
khả năng sử dụng của các nhóm tài liệu được lựa chọn.
Công tác bảo quản phần lớn liên quan đến chứng tích
được bao hàm trong gần như vô số các dạng và định dạng
tài liệu khác nhau. Những người đảm nhận trách nhiệm đó
đã từng phải xác định rằng một phần nhỏ nào đó trong
biển thông tin rộng bao la được tổ chức thành những bộ
sưu tập tài liệu, sách và "những thứ khác" phải giữ được
giá trị nghiên cứu vượt qua thời gian và những ý đồ của
những người sáng tạo hoặc xuất bản nó. Sự khác biệt giữa
giá trị của nội dung (thường là chữ viết và hình minh hoạ)
với giá trị của chứng tích có trong đối tượng là trung tâm
của quá trình ra quyết định mà bản thân quá trình này lại
là yếu tố then chốt trong việc quản lý hiệu quả tài liệu của
thư viện truyền thống cũng như thư viện kỹ thuật số.
Chúng ta có thể phân biệt giữa ba ứng dụng công nghệ số
khác nhau nhưng không loại trừ lẫn nhau, được xác định
một phần bởi những mục đích khả thi mà sản phẩm phục
vụ cho người sử dụng cuối cùng.
+ Bảo vệ bản gốc. ứng dụng phổ biến nhất của công nghệ
kỹ thuật số trong các thư viện hoặc trung tâm lưu trữ là
tạo ra các bản sao kỹ thuật số có đủ chất lượng để tham
khảo thay cho việc lục tìm tuỳ tiện trong các nguồn tài liệu
gốc. Các mục đích bảo quản được đáp ứng vì các tư liệu
gốc được bảo vệ bằng cách hạn chế truy cập. Các tệp tin
tham khảo là ảnh của các bộ sưu tập ảnh, các tập bài cắt
báo dùng hoặc các tệp hồ sơ mỏng cho phép định danh
từng tài liệu đơn lẻ cần nghiên cứu chi tiết hơn là các ví dụ
của ứng dụng này. Thứ tự sắp xếp của một bộ sưu tập,
một cuốn sách sẽ “đóng băng” giống như các hình ảnh của
một cuốn vi phim được sắp xếp thành dẫy. ứng dụng của
công nghệ này trong bảo quản đã trở thành một động lực
buộc các trung tâm lưu trữ và thư viện tiến hành nhiều
thử nghiệm trên các khả năng của các phần cứng và phần
mềm.
+ Thể hiện bản gốc. Hệ thống công nghệ số có thể được
xây dựng để hiển thị nội dung thông tin của những tài liệu
gốc ở mức chi tiết mà hệ thống đó có thể sử dụng để khai
thác phần lớn, nếu không nói là tất cả, tiềm năng nghiên
cứu và học tập của các tài liệu gốc. Các hệ thống có độ
phân giải cao cố gắng thể hiện đầy đủ và hoàn chỉnh nội
dung, cố gắng đạt được "sự thu nhận đầy đủ thông tin"
dựa trên những tiêu chuẩn mới đưa ra và tốt nhất, là các
hệ thống phù hợp với định nghĩa này. Các hệ thống ở mức
chất lượng tầm trung này mở ra những hướng đi mới cho
việc nghiên cứu và sử dụng đồng thời có khả năng tạo ra
tác động có tính chuyển đổi trong sứ mệnh phục vụ của
những người làm ra những sản phẩm đó.
+ Vượt qua bản gốc. Trong một số ít các ứng dụng, công
nghệ ảnh số hứa hẹn tạo ra sản phẩm có thể sử dụng cho
những mục đích mà sử dụng tài liệu gốc không thể đạt
được. Mảng ứng dụng này bao gồm cả công nghệ ảnh sử
dụng chiếu sáng đặc biệt để vẽ ra những chi tiết bị mờ đi
do thời gian, do sử dụng hoặc do tác hại của môi trường;
công nghệ ảnh sử dụng các trung gian ảnh chuyên dụng;
hoặc công nghệ ảnh có độ phân giải cao đến mức có thể
tiến hành nghiên cứu những đặc điểm khảo cổ.
Mỗi một ứng dụng này đặt ra những đòi hỏi khác nhau và
ngày càng khắt khe đối với công nghệ số. Trong mỗi
trường hợp, việc sử dụng phim hoặc bản sao trên giấy để
thuận lợi cho quá trình quét ảnh có thể hoặc không cần
thiết hoặc không khuyến khích. Tóm lại, việc sắp xếp các
tài liệu gốc (bao gồm cả việc tiến hành các biện pháp bảo
quản trước hoặc sau khi chuyển dạng) là một vấn đề hoàn
toàn khác. Suy cho cùng, mục đích của sản phẩm số bị chi
phối bởi các mục tiêu tiếp cận tài liệu, trong khi đó việc
bảo quản các tài liệu gốc cần được quyết định dựa trên
nhu cầu bảo quản những nguồn tài liệu này.
Lãnh đạo trong quá trình chuyển đổi công tác bảo quản
Bảo quản trong thế giới kỹ thuật là một trong những vấn
đề trung tâm trong công tác lãnh đạo hiện nay. Một số cán
bộ thư viện và lưu trữ dường như nghĩ rằng lãnh đạo
trong các vấn đề công nghệ là vấn đề thiết lập sự kiểm soát
thông qua việc áp dụng các tiêu chuẩn và hướng dẫn mang
tính quy trình. Một số khác cho rằng sự thay đổi công
nghệ nhanh chóng và tính phức tạp của công nghệ khiến
cho cán bộ thư viện và lưu trữ không thể có ảnh hưởng gì
đối với các bước tiến về công nghệ. Cả hai quan điểm này
đều phiến diện. Những người hy vọng có thể kiểm soát
được việc ứng dụng công nghệ ảnh số trong các thư viện
và trung tâm lưu trữ cho rằng chỉ cần có sự thuyết phục về
tinh thần mà không cần đến một thị phần lớn. Những
người thích “ngồi chờ và theo dõi” xem công nghệ ảnh số
đem lại gì trước khi đưa ra những cam kết về mặt hành
chính nhằm đảm bảo công tác bảo quản lâu dài, luôn lẩn
tránh trách nhiệm làm rõ những khái niệm đang còn
tranh cãi.
Công tác bảo quản trong thế giới kĩ thuật số phải trở
thành mục tiêu chung mà những người lãnh đạo và những
người thừa hành cùng nhau đưa ra. Đó là trách nhiệm của
chung của nhiều người thuộc nhiều cơ quan khác nhau
thực hiện những vai trò khác nhau. Nhận thức về tác động
của sự khác biệt về vai trò đối với bảo quản tài liệu kỹ
thuật số này là hết sức quan trọng đối với việc xác định
những khía cạnh nào trong công nghệ kĩ thuật số mà
chúng ta có thể kiểm soát, những xu hướng nào chúng ta
có thể tác động được, và những mặt nào chúng ta phải từ
bỏ những mong đợi vô vọng đối với việc kiểm soát hay tác
động.
Trong hai thập kỉ qua, nội bộ những người trong nghề đã
tạo được sự nhất trí về những nguyên tắc cơ bản trong
công tác bảo quản để điều chỉnh việc quản lý các nguồn
lực sẵn có trong một chương trình bảo quản hoàn chỉnh.
Những nguyên tắc cơ bản về bảo quản trong thế giới kĩ
thuật số cũng giống như những nguyên tắc trong thế giới
kỹ thuật tương tự (analog), và quan trọng nhất là những
nguyên tắc này xác định ưu tiên cho việc kéo dài tuổi thọ
sử dụng của các nguồn lực thông tin. Những nguyên tắc cơ
bản này bao gồm: tuổi thọ, lựa chọn, chất lượng, toàn vẹn
và truy cập.
Sự chuyển đổi của nguyên tắc tuổi thọ
Mối quan tâm cốt lõi của công tác bảo quản truyền thống
là phương tiện lưu giữ thông tin. Ưu tiên cao nhất là kéo
dài tuổi thọ của các văn bản, phim, băng từ bằng cách giữ
ổn định cấu trúc của chúng và hạn chế các tác nhân bên
trong cũng như bên ngoài gây xuống cấp tài liệu. Đối hạn
chế tác nhân bên ngoài, người ta đưa ra các quy cách kĩ
thuật đối với việc kiểm soát môi trường phù hợp, các
hướng dẫn trong việc chăm sóc và xử lý sách, những quy
trình khắc phục thảm hoạ. Những nỗ lực nhằm kiểm soát
hoặc giảm nhẹ những tác nhân bên trong gây hư hỏng thể
hiện ở các tiêu chuẩn đối với giấy kiềm, ở các vi phim lưu
giữ có chất lượng, ở việc tiến hành khử axit hàng loạt, và ở
những vật liệu từ tính tốt hơn. Nhưng ngày nay, với việc
các cán bộ thư viện và lưu trữ đã xác định được những
vấn đề liên quan đến tuổi thọ của phương tiện lưu giữ, bản
thân khái niệm thuần tuý về tuổi thọ cũng đang trở nên
mờ nhạt với tư cách là một cơ sở lý luận của công tác bảo
quản.
Bảo quản tài liệu kỹ thuật số ít quan tâm tới tuổi thọ của
đĩa quang hay các loại phương tiện lưu trữ mới hơn và dễ
hỏng hơn. Khả năng tồn tại của các tệp tin ảnh kỹ thuật số
phụ thuộc nhiều hơn vào tuổi thọ của hệ thống truy cập -
một dây chuyền chỉ mạnh khi mắt xích yếu nhất của nó đủ
mạnh. Những phương tiện lưu trữ quang học ngày nay
chắc chắn sẽ có tuổi thọ lâu hơn rất nhiều so với khả năng
của các hệ thông trong việc truy xuất và thể hiện dữ liệu
được lưu giữ trên các phương tiện đó. Do chúng ta không
bao giờ có thể biết chắc chắn khi nào thì nhà cung cấp
không thể bảo trì hoặc hỗ trợ đối với một hệ thống, các
thư viện cần phải sẵn sàng để chuyển đổi những dữ liệu
ảnh có giá trị, những dữ liệu chỉ mục và phần mềm sang
những thế hệ công nghệ tiếp theo.
Các cán bộ thư viện có thể kiểm soát được tuổi thọ của các
dữ liệu ảnh kĩ thật số thông qua việc lựa chọn, xử lý kỹ
càng và lưu trữ trên trên những phương tiện lưu trữ bền
và đã qua kiểm nghiệm. Họ có thể tác động đến tuổi thọ
của thông tin bằng cách đảm bảo một nguồn kinh phí tại
chỗ luôn được cấp đều đặn ở mức độ phù hợp. Nhưng suy
cho cùng, chúng ta không thể nào kiểm soát được sự phát
triển của thị trường công nghệ ảnh, đặc biệt là hoạt động
nghiên cứu và phát triển của các công ty có tác động to lớn
đến tuổi thọ của các tệp tin ảnh kỹ thuật số mà chúng ta
tạo ra ngày hôm nay.
Sự chuyển đổi của nguyên tắc lựa chọn
Công tác bảo quản gia tăng thêm giá trị thông qua việc lựa
chọn. Lựa chọn liên quan đến việc xác định giá trị, nhận
ra nó ở đâu đó, và sau đó đáp ứng các nhu cầu bảo quản
nó theo cách thích hợp nhất đối với giá trị đó. Qua nhiều
thập kỉ, hoạt động bảo quản đã phát triển từ chỗ cứu tài
liệu khỏi bị lãng quên và xếp nó vào toà nhà bảo đảm an
toàn tới việc cung cấp những điều kiện bảo quản tối tân
hơn và nhận định giá trị kỹ càng hơn đối với các kho tài
liệu đã sưu tập. Việc lựa chọn để bảo quản trong các thư
viện từ lâu phần lớn được quyết định bởi nhu cầu sử dụng
nguồn lực hạn chế của mình theo cách khôn ngoan nhất có
thể, vì thế mới có châm ngôn rằng: "không tài liệu nào
được bảo quản hai lần". Kết quả cuối cùng là hình thành
một bộ sưu tập tài liệu đặc biệt "dạng ảo" không ngừng
phát triển được bảo quản bằng những kỹ thuật khác nhau,
đáng chú ý nhất là bằng chuyển dạng sang vi phim. Lựa
chọn có lẽ là thao tác khó nhất bởi vì nó việc lựa chọn ít
thay đổi và được những người thực hiện coi là hoặc tách
biệt hoàn toàn khỏi việc sử dụng hiện tại hoặc hoàn toàn
quyết định bởi nhu cầu.
Trong thế giới kỹ thuật số, việc lựa chọn không phải "chỉ
một lần là xong" cho tới tận cuối chu kỳ sử dụng của tài
liệu mà là một quá trình liên tục liên quan chặt chẽ tới việc
sử dụng các file kỹ thuật số. Việc định giá trị áp dụng khi
đưa ra quyết định chuyển các tài liệu từ giấy hoặc film
sang ảnh kỹ thuật số chỉ có giá trị khi thực hiện trong
khuôn khổ hệ thống ban đầu. Thực sự thì chính bộ sưu tập
tài liệu quý hiếm các file dữ liệu số, mới giúp phân định
được chi phí của một chiến lược chuyển đổi toàn diện.
Việc ra quyết định bảo quản không thể diễn ra nếu không
tính đến bối cảnh rộng hơn về mặt tri thức của các tệp dữ
liệu số đang được lưu trữ ở nơi khác và việc kết hợp chúng
phục vụ cho giảng dạy và học tập.
Ngay cả khi biết rằng các quyết định lựa chọn không thể
đưa ra mà không tính đến những yếu tố khác, các cán bộ
thư viện và lưu trữ vẫn có thể chuyển những cuốn sách,
bài báo, ảnh, phim hoặc các tài liệu khác từ giấy hoặc film
sang dạng số. Chúng ta cũng có thể tác động tới giá trị
trường tồn của các tệp tin ảnh số thông qua quyền quyết
định, với sự phối hợp chặt chẽ của các bộ phận liên quan,
thời điểm nào cần chuyển dữ liệu hình ảnh để đưa vào các
hệ thống truy cập và lưu trữ cho tương lai và khi nào thì
một tệp dữ liệu số hết giá trị đối với cơ quan đang có trách
nhiệm bảo quản nó. Điều mà chúng ta không thể kiểm soát
được là những những nhận định liên tục về giá trị này có
ảnh hưởng tới các khả năng tìm kiếm và sử dụng thông tin
dưới dạng số của độc giả hay không.
Sự chuyển đổi trong nguyên tắc chất lượng
Đạt được chất lượng cao nhất ở mọi công việc thực hiện là
phương châm quan trọng trong lĩnh vực bảo quản tới mức
mà rất ít người nêu nguyên tắc cơ bản này ra một cách
trực tiếp. Thay vào đó, các tài liệu về công tác bảo quản
hướng tới kết quả công việc có chất lượng cao bằng cách
nêu ra những tiêu chuẩn cho các biện pháp xử lý, các quá
trình chuyển dạng tài liệu, và các biện pháp phòng ngừa.
Việc đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng - hãy làm và làm
đúng - bao trùm tất cả các hoạt động bảo quản, bao gồm
các tiêu chuẩn đóng sách thư viện, các hướng dẫn làm
phim lưu trữ, các quy trình xử lý để bảo tồn, danh mục
các vật tư và nguyên liệu, và cả một mức chấp nhận sai sót
(dung sai) thấp. Sự phát triển của việc bảo quản bằng vi
phim như là một chiến lược then chốt trong việc bảo quản
các tài liệu giòn dễ gãy trong thư viện đã đặt tầm quan
trọng của phương tiện lưu giữ và chất lượng của hình ảnh
ngang bằng nhau. Để có được vi phim đủ chất lượng, các
đặc điểm của tài liệu được lựa chọn để bảo quản sẽ quyết
định mức độ dung hoà giữa độ trung thực của hình ảnh
với độ ổn định về mặt lưu trữ.
Chất lượng trong thế giới kỹ thuật số phụ thuộc đáng kể
vào những giới hạn của công nghệ thu nhận và hiển thị.
Việc chuyển dạng kỹ thuật số ít nhấn mạnh đến việc tạo ra
một bản sao trung thực nhằm mô tả tốt nhất bản gốc ở
dạng số. Các cơ chế và kỹ thuật để thẩm định chất lượng
các bản sao kỹ thuật số khác và phức tạp và so với thẩm
định chất lượng các bản sao bằng vi phim hay photocopy.
Ngoài ra, mục đích hàng đầu của chất lượng bảo quản là
thu nhận được tối đa nội dung hình ảnh và học thuật ở
mức công nghệ cho phép và sau đó cung cấp nội dung đó
cho độc giả theo những cách phù hợp nhất với nhu cầu của
họ.
Thị trường công nghệ ảnh đã biến đổi nguyên tắc duy trì
lâu dài chất lượng cao nhất có thể sang tìm kiếm mức chất
lượng tối thiểu có thể chấp nhận được đối với người sử
dụng hiện nay. Chúng ta phải khẳng định rằng chất lượng
hình ảnh vẫn là vấn đề cốt lõi của bảo quản tài liệu kỹ
thuật số. Điều này có nghĩa là tối đa hoá lượng dữ liệ thu
nhận được trong quá trình quét hình kỹ thuật số, trong
các kỹ thuật nâng cao chất lượng hình ảnh và xác định các
dạng nén tệp tin phổ biến mà không làm mất dữ liệu trong
quá trình truyền dữ liệu. Chúng ta có thể kiểm soát các
tiêu chuẩn chất lượng kỹ thuật số như chúng ta đã làm với
vi phim. Chúng ta chỉ có thể tác động được vào sự phát
triển của các tiêu chuẩn nén dữ liệu, truyền dữ liệu, hiển
thị dữ liệu và xuất dữ liệu. Cải tiến các khả năng công
nghệ của các thiết bị phần cứng cũng như phần mềm nằm
ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Chúng ta có nguy cơ tự
làm tăng thêm trở ngại bằng việc đặt ra những đòi hỏi quá
khắt khe đối với những khả năng của thiết bị.
Sự chuyển đổi của nguyên tắc toàn vẹn
Trong bảo quản truyền thống, khái niệm tính toàn vẹn bao
gồm hai khía cạnh, cả hai đều liên quan đến bản chất của
tài liệu. Tính toàn vẹn về vật lý đa phần liên quan tới tài
liệu cổ và thường diễn ra trực tiếp tại các phòng bảo tồn,
nơi các có kỹ năng dùng dung dịch keo, các kỹ thuật đóng
sách bằng tay lâu đời, những vật liệu chất lượng cao để
bảo vệ những bằng chứng lịch sử của việc sử dụng, những
biện pháp bảo tồn trong quá khứ, và những thay đổi vô
tình hay cố ý đối với cấu trúc của tài liệu. Bảo quản tính
toàn vẹn về mặt học thuật cũng dựa trên mối quan tâm về
chứng tích ở một góc độ khác. Tính xác thực, hay tính
trung thực, của nội dung thông tin của một tài liệu được
duy trì thông qua việc ghi lại cả nguồn gốc - chuỗi sở hữu -
và xử lý, là nội dung cốt lõi của tính toàn vẹn. Ngoài lịch
sử của từng tài liệu, việc bảo vệ và ghi lại mối quan hệ giữa
các tài liệu trong một bộ sưu tập cũng là một mối quan
tâm. Trong công tác bảo quản truyền thống, cái khái niệm
chất lượng và tính toàn vẹn bổ trợ lẫn nhau.
Trong thế giới kỹ thuật số, việc duy trì tính toàn vẹn của
một tệp dữ liệu ảnh số ít liên quan đến phương tiện lưu trữ
hơn là sự mất mát thông tin khi một tệp tin được tạo ra
ban đầu và sau đó được nén và truyền qua mạng. Trong
vấn đề tính toàn vẹn về mặt học thuật, các chỉ mục về cấu
trúc và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_chuyen_dang_tai_lieu.pdf