ĐỀ ÁN
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
vào thị trường EU thời kỳ hậu WTO
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU THỜI KỲ HẬU WTO
I. Cơ sở lý luận về thương mại quốc tế và xuất khẩu:
1. Lý luận chung về thương mại quốc tế và xuất khẩu:
1.1 Lý thuyết lợi thế tuyệt đối – Adam Smith (1723-1790):
1.1.1 Quan niệm lợi thế tuyệt đối:
1.1.2 Ưu, nhược điểm và khả năng áp dụng:
1.2 Lý thuyết về lợi
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU thời kỳ hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế so sánh – David Ricardo (1772-1823):
1.2.1 Quan niệm về lợi thế so sánh:
1.2.2 Ưu, nhược điểm và khả năng áp dụng:
1.3 Lý thuyết về sự ưu đãi của các yếu tố (Mô hình H-O):
2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xuất khẩu:
2.1 Các hình thức xuất khẩu:
2.1.1 Xuất khẩu trực tiếp:
2.1.2 Xuất khẩu uỷ thác:
2.1.3 Xuất khẩu tại chỗ:
2.1.4 Buôn bán đối lưu:
2.1.5 Tạm nhập tái xuất:
2.1.6 Gia công quốc tế:
2.2 Các nhân tố tác động đến xuất khẩu:
2.2.1 Nhân tố sản xuất:
2.2.2 Nhân tố thị trường:
II. Vai trò của xuất khẩu hàng hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội:
1. Phát huy lợi thế so sánh của đất nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
2. Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa đất nước:
3. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển:
4. Tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân:
5. Là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta:
III. Sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU thời kỳ hậu WTO:
1. Những cam kết của Việt Nam đối với EU trong điều kiện gia nhập WTO:
2. Sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU thời kỳ hậu WTO:
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU TRƯỚC VÀ SAU KHI GIA NHẬP WTO
I. Vài nét về Liên minh châu Âu và quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – EU:
1. Vài nét về Liên minh châu Âu:
2. Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – EU:
II. Tổng quan về thị trường EU:
2. Quy mô thị trường:
2.1 Dân số:
2.2 Nhu cầu tiêu dùng:
3. Tập quán và thị hiếu người tiêu dùng:
4. Kênh phân phối:
5. Chính sách thương mại:
5.1 Chính sách thương mại nội khối:
5.2 Chính sách ngoại thương:
5.2.1 Một số quy định hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu:
5.2.2 Tiêu chuẩn quản lý chất lượng:
III. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2001 - 2007:
1. Kim ngạch xuất khẩu và cơ cấu hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU giai đoạn từ năm 2001 đến thời điểm Việt Nam gia nhập WTO (tháng 11/2006):
1.1 Tổng hợp tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU trước khi Việt Nam gia nhập WTO:
1.2 Những khó khăn ngành dệt may gặp phải trong giai đoạn này và nguyên nhân:
1.3 Phương thức thâm nhập vào thị trường EU:
1.4 Cơ cấu các thị trường chính nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam
1.5 Cơ cấu các mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU:
2. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO: 50
2.1 Những kết quả đạt được và tồn tại của ngành dệt may trong năm 2007:
2.2 Những kết quả đạt được và hạn chế trong những tháng đầu năm 2008:
3. Những ảnh hưởng bất lợi chung đến hoạt động xuất khẩu dệt may Việt Nam vào thị trường EU:
3.1 Rào cản thuế và tiêu chuẩn kỹ thuật:
3.1.1 Chính sách thuế quan:
3.1.2 Tiêu chuẩn kỹ thuật:
3.2 Cạnh tranh từ phía Trung Quốc:
3.3 Nguyên phụ liệu cho ngành dệt may:
3.4 Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam:
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU THỜI KỲ HẬU WTO
I. Những cơ hội và thách thức cho xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU thời kỳ hậu WTO:
1. Cơ hội cho ngành dệt may Việt Nam:
1.1 Phát huy lợi thế so sánh của ngành dệt may Việt Nam:
1.2 Nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may của EU:
2. Thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp dệt may:
2.1 Sự cạnh tranh gay gắt của các quốc gia khi xuất khẩu vào EU:
2.2 Ảnh hưởng của xu thế tự do hoá thương mại:
II. Định hướng của xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU trong thời gian tới:
1. Định hướng phát triển ngành dệt may của Việt Nam đến năm 2020
1.1 Quan điểm phát triển:
1.2 Định hướng phát triển:
1.3 Mục tiêu phát triển:
1.4 Quy hoạch phát triển:
2. Định hướng và mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU
III. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU:
1. Giải pháp từ phía Chính Phủ:
1.1 Đàm phán với EU:
1.1.1 Duy trì tốt mối quan hệ về chính trị, kinh tế:
1.1.2 Tăng cường xúc tiến thương mại song phương với EU:
1.1.3 Nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước về hoạt động thương mại quốc tế:
1.2 Chính sách, cơ chế của Chính Phủ:
1.2.1 Chính sách tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất:
1.2.2 Quy hoạch và đầu tư xây dựng các khu công nghiệp dệt may:
1.2.3 Hỗ trợ các doanh nghiệp nhanh chóng đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế:
2. Giải pháp từ phía Hiệp hội dệt may:
3. Giải pháp từ phía các doanh nghiệp dệt may:
3.1 Hạ giá thành sản phẩm:
3.2 Không ngừng mở rộng thị trường, tạo dựng thương hiệu cũng như uy tín của sản phẩm đối với khách hàng:
3.3 Nâng cao tay nghề cho công nhân, trình độ và khả năng sáng tạo của đội ngũ thiết kế:
3.4 Đẩy mạnh đầu tư và thay thế máy móc, thiết bị sản xuất lạc hậu
4. Một số vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm để thành công trong việc xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU:
4.1 Xác định thị trường mục tiêu:
4.2 Khả năng thiết kế, quản lý chất lượng và trách nhiệm xã hội:
4.3 Chuyên môn hoá dây chuyền sản xuất và nâng cao khả năng quản lý:
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU THỜI KỲ HẬU WTO
***
I. lý luận về thương mại quốc tế và hoạt động xuất khẩu:
1. Lý luận chung về thương mại quốc tế và hoạt động xuất khẩu:
1.1 Lý thuyết lợi thế tuyệt đối – Adam Smith (1723-1790):
Tác giả của lý thuyết lợi thế tuyệt đối, Adam Smith là nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh và trên Thế giới. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Sự giàu có của các quốc gia” – The wealth of Nations (1776). Có thể nói phương pháp luận của ông là một phương pháp hai mặt mâu thuẫn, trộn lẫn các phần tử khoa học và tầm thường. Một mặt đi sâu vào mối liên hệ bên trong của chế độ tư bản và có thể nói là đi vào cơ cấu sinh lý của nó, mặt khác chỉ là mô tả, liệt kê, thuật lại bằng khái niệm có tính chất công thức những biểu hiện bên ngoài đời sống kinh tế. Trong lý thuyết lợi thế tuyệt đối, theo ông, nếu một quốc gia chuyên môn hóa vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối thì cho phép họ sản xuất sản phẩm với chi phí hiệu quả hơn nước khác.
1.1.1 Quan niệm lợi thế tuyệt đối:
A.Smith đã xây dựng mô hình thương mại đơn giản dựa trên ý tưởng về lợi thế tuyệt đối để giải thích thương mại quốc tế có lợi như thế nào đối với các quốc gia. Nếu quốc gia A có thể sản xuất mặt hàng X rẻ hơn so với nước B, và nước B có thể sản xuất mặt hàng Y rẻ hơn so với nước A, thì lúc đó mỗi quốc gia nên tập trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có hiệu quả hơn và xuất khẩu mặt hàng này sang quốc gia kia. Trong trường hợp này mỗi quốc gia được coi là có lợi thế tuyệt đối về sản xuất từng mặt hàng cụ thể. Nói cách khác, một quốc gia sẽ được coi là có lợi thế tuyệt đối về một mặt hàng nếu với cùng một đơn vị nguồn lực, quốc gia đó có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn, nghĩa là có năng suất cao hơn. Nhờ có chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi mà cả hai quốc gia đều trở nên sung túc hơn. Ý tưởng này có thể được minh họa bằng ví dụ sau đây:
Giả sử Thế giới chỉ có 2 nước (Việt Nam và Nga) và hai mặt hàng (quần áo và thép); chi phí vận chuyển bằng 0; lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và được di chuyển tự do giữa các ngành sản xuất trong nước, nhưng không di chuyển được giữa các quốc gia; cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên tất cả các thị trường. Số lượng sản phẩm có thể sản xuất ra với một đơn vị nguồn lực (lao động) ở mỗi quốc gia như sau:
Bảng 1: Mô hình giản đơn về lợi thế tuyệt đối
Quần áo (1 đơn vị)
Thép (1 đơn vị)
Việt Nam
10
6
Nga
5
10
Qua bảng trên có thể thấy Việt Nam có lợi thế trong việc sản xuất quần áo vì với cùng một đơn vị nguồn lực, Việt Nam sản xuất ra nhiều quần áo hơn (10 đơn vị) trong khi Nga chỉ làm ra 5 đơn vị. Ngược lại, Nga có lợi thế trong sản xuất thép.
Theo A.Smith, thương mại còn có thể làm tăng khối lượng sản xuất và tiêu dùng của toàn Thế giới do mỗi nước thực hiện chuyên môn hóa sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối. Giả sử Việt Nam sẽ chuyển một đơn vị lao động từ ngành sản xuất thép sang ngành sản xuất quần áo, ngược lại, Nga chuyển một đơn vị lao động từ ngành sản xuất quần áo sang ngành sản xuất thép. Những thay đổi về sản lượng của mỗi quốc gia như sau:
Bảng 2: Mô hình giản đơn về lợi thế tuyệt đối thay đổi do
chuyên môn hóa
Quần áo (1 đơn vị)
Thép (1 đơn vị)
Nga
-5
+10
Việt Nam
+10
-6
Tổng số
+5
+4
Như vậy Việt Nam và Nga chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm mà mình có lợi thế sẽ làm tăng sản lượng của cả 2 loại hàng hóa. Ở ví dụ này, sản lượng trên Thế giới sẽ tăng 5 đơn vị quần áo và 4 đơn vị thép, trên toàn Thế giới sẽ có lợi ích do chuyên môn hóa. Càng có nhiều sự chuyển đổi nguồn lực sang sản xuất quần áo ở Việt Nam và càng có nhiều sự chuyển đổi nguồn lực sang sản xuất thép ở Nga thì lợi ích thu được càng lớn.
Nguồn gốc lợi thế tuyệt đối:
A.Smith cho rằng lợi thế của một nước có thể là lợi thế tự nhiên hay do nỗ lực của nước đó:
+ Lợi thế tự nhiên liên quan đến các điều kiện khí hậu và tự nhiên. Điều kiện tự nhiên có thể đóng vai trò quyết định trong việc sản xuất có hiệu quả rất nhiều sản phẩm như: cà phê, chè, cao su, dừa … các loại khoáng sản.
+ Lợi thế do nỗ lực là lợi thế có được do sự phát triển của công nghệ và sự lành nghề (nhờ chuyên môn hóa). Đối với các sản phẩm chế tạo, quy trình sản xuất phần lớn phụ thuộc vào “lợi thế do nỗ lực” thường là kỹ thuật chế biến là khả năng sản xuất các loại sản phẩm khác nhau, khác biệt với những thứ khác. Nhờ chuyên môn hóa, các nước có thể gia tăng hiệu quả do: i) người lao động sẽ lành nghề hơn do họ lặp lại cùng một thao tác nhiều lần; ii) người lao động không phải mất thời gian chuyển từ việc sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác và iii) do làm một công việc lâu dài người lao động sẽ nảy sinh các sáng kiến, đề xuất các phương pháp làm việc tốt hơn. Lợi thế về công nghệ là khả năng chế tạo các sản phẩm đồng nhất có hiệu quả hơn, tức là tốn ít đầu vào hơn cho một đơn vị sản phẩm đầu ra.
1.1.2 Ưu, nhược điểm và khả năng áp dụng:
Trong một số trường hợp, lợi thế tuyệt đối là cơ sở để các quốc gia xác định hướng chuyên môn hóa và trao đổi các mặt hàng. Mô hình thương mại nói trên có thể giúp giải thích cho một phần nhỏ của thương mại quốc tế, cụ thể nếu một quốc gia không có được điều kiện tự nhiên thích hợp thì buộc phải nhập khẩu các sản phẩm này từ nước ngoài. Tuy nhiên, mô hình này không giải thích được trường hợp tại sao thương mại vẫn có thể diễn ra khi một quốc gia có lợi thế tuyệt đối (hoặc có mức bất lợi tuyệt đối) về tất cả các mặt hàng.
1.2 Lý thuyết về lợi thế so sánh – David Ricardo (1772-1823):
David Ricardo sinh ra trong một gia đình giàu có làm nghề chứng khoán, sau khi nghiên cứu khoa học tự nhiên (toán học, vật lý học, địa chất học …) ông chuyển sang nghiên cứu kinh tế chính trị từ năm 1807. Năm 1817 ông viết cuốn “Những nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế khóa” không chỉ để phát triển học thuyết của A.Smith mà còn chỉ ra những mâu thuẫn của nó. Về phương pháp luận, K.Marx đã nhận xét “nếu A.Smith còn dao động giữa phương pháp khoa học và tầm thường thì D.Ricardo đã nhất quán kết cấu toàn bộ khoa học kinh tế chính trị bằng một nguyên lý thống nhất: thời gian lao động quyết định giá trị, tức là lấy giá trị lao động làm cơ sở cho toàn bộ học thuyết kinh tế của ông”. Đặc trưng trong phương pháp luận của ông là muốn trình bày sự vận động bên trong của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và đã sử dụng rộng rãi, thành thục phương pháp trừu tượng hóa để nắm bản chất các hiện tượng kinh tế, để nắm quy luật chi phối các hiện tượng đó. Ông đã đứng trên lập trường duy vật (chủ nghĩa duy vật máy móc) để đi tìm quy luật kinh tế. Tư tưởng về quy luật khách quan trong sự phát triển kinh tế đã quán triệt trong toàn bộ học thuyết của ông.
1.2.1 Quan niệm về lợi thế so sánh:
Khi mỗi nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về một loại hàng hóa thì lợi ích của ngoại thương là rõ ràng. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu một nước có thể sản xuất có hiệu quả hơn nước kia trong hầu hết các mặt hàng? Hoặc những nước không có lợi thế tuyệt đối nào cả thì ngoại thương sẽ diễn ra như thế nào với những nước này? Đó là những câu hỏi D.Ricardo đưa ra và chính ông đã trả lời chúng trong tác phẩm nổi tiếng của mình “Những nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế khóa” (1817). Trong tác phẩm này, ông đã đưa ra một lý thuyết tổng quát chính xác hơn về cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế, đó là lý thuyết về lợi thế so sánh. Nếu như khái niệm lợi thế tuyệt đối được xây dựng trên cơ sở sự khác biệt về hiệu quả sản xuất tuyệt đối thì lợi thế so sánh lại xuất phát từ hiệu quả sản xuất tương đối.
Xét một ví dụ sau (với giả thiết hiệu suất không đổi theo quy mô): trong bảng dưới đây cho biết số đơn vị sản phẩm có thể được sản xuất ra với cùng một đơn vị nguồn lực ở Việt Nam và Nga. Có thể thấy Việt Nam là nước bất lợi tuyệt đối về cả 2 mặt hàng thép và quần áo, còn Nga là nước có lợi thế tuyệt đối về cả 2 mặt hàng. Trong trường hợp này, nếu theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối thì sẽ không có thương mại quốc tế.
Bảng 3: Mô hình giản đơn về lợi thế so sánh
Quần áo (1 đơn vị)
Thép (1 đơn vị)
Việt Nam
5
4
Nga
9
10
Tuy nhiên theo D.Ricardo thì mức độ bất lợi của Việt Nam về quần áo nhỏ hơn thép thể hiện qua bất đẳng thức 4/10 9/5). Do đó, Việt Nam có lợi thế so sánh về quần áo còn Nga có lợi thế so sánh về thép. Mỗi nước sẽ chuyên môn hóa mặt hàng mình có lợi thế so sánh, sau đó đem trao đổi lấy mặt hàng mình không có lợi thế so sánh.
Có thể phát biểu quy luật lợi thế so sánh như sau: “Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng có giá cả thấp hơn một cách tương đối so với quốc gia kia. Nói cách khác, một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà quốc gia đó có thể sản xuất với hiệu quả cao hơn một cách tương đối so với quốc gia kia”.
Giả sử Việt Nam chuyển 2 giờ lao động từ ngành thép sang ngành quần áo còn Nga chuyển 1 giờ lao động từ ngành quần áo sang ngành thép. Kết quả được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 4: Mô hình giản đơn về lợi thế so sánh thay đổi do chuyên môn hóa
Quần áo (1 đơn vị)
Thép (1 đơn vị)
Việt Nam
+10
-8
Nga
-9
+10
Tổng:
+1
+2
Như vậy, xét chung cả 2 quốc gia thì lượng quần áo tăng 1 đơn vị và lượng thép tăng 2 đơn vị. Điều này chứng tỏ chuyên môn hóa và thương mại quốc tế đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia.
1.2.2 Ưu, nhược điểm và khả năng áp dụng:
Mô hình thương mại quốc tế dựa trên lợi thế so sánh của D.Ricardo là một công cụ hữu ích để giải thích nguyên nhân của thương mại quốc tế và nó đem lại lợi ích cho cả 2 quốc gia như thế nào. Đây cũng là ưu điểm so với mô hình lợi thế tuyệt đối của A.Smith. Tuy nhiên, bên cạnh đó mô hình của D.Ricardo vẫn còn chứa đựng hạn chế nhất định như: đã dự đoán một mức độ chuyên môn hóa hoàn toàn, tức là mỗi nước sẽ tập trung vào một mặt hàng mà mình có lợi thế. Nhưng trên thực tế mỗi nước sản xuất không chỉ một mà là nhiều mặt hàng trong đó có cả những mặt hàng cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
1.3 Lý thuyết về sự ưu đãi của các yếu tố (Mô hình H-O):
Vào đầu thế kỷ 20, hai nhà kinh tế học người Thụy Điển là Eli Heckscher (1879 – 1952) và Bertil Ohlin (1899 – 1979) đã nhận thấy rằng mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất ở các quốc gia khác nhau và mức độ sử dụng các yếu tố sản xuất để làm ra các mặt hàng khác nhau mới là những nhân tố quan trọng quyết định thương mại. Chính vì vậy họ đã xây dựng lý thuyết Heckscher – Ohlin (viết tắt là lý thuyết H-O) hay lý thuyết Tân cổ điển về thương mại quốc tế. Nội dung tóm tắt của lý thuyết H-O như sau: Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào của quốc gia đó. Các giả thiết của mô hình:
Thế giới chỉ gồm 2 quốc gia, 2 yếu tố sản xuất và 2 mặt hàng
Công nghệ sản xuất là giống nhau giữa 2 quốc gia.
Hiệu suất không đổi theo quy mô, cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên cả thị trường hàng hóa và thị trường yếu tố sản xuất.
Thương mại là tự do và chi phí vận chuyển bằng 0
Các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do trong mỗi quốc gia nhưng không thể di chuyển giữa các quốc gia.
Xét một ví dụ sau (thoả mãn các giả thiết trên): Nước A có 20 chiếc máy và 200 lao động, nước B có 300 máy và 1500 lao động. Hai nước chỉ sản xuất vải và thép, trong đó vải là mặt hàng cần nhiều lao động, thép là mặt hàng cần nhiều vốn. Lúc đó A sẽ là nước dồi dào tương đối về lao động bởi vì:
Tổng số lao động của Anh
=
200
>
Tổng số lao động của Mỹ
=
1500
Tổng số vốn của Anh
20
Tổng số vốn của Mỹ
300
Ngược lại B là nước dồi dào tương đối về vốn:
Tổng số vốn của Mỹ
=
300
>
Tổng số vốn của Anh
=
20
Tổng số lao động của Mỹ
1500
Tổng số lao động của Anh
200
Như vậy theo lý thuyết H-O thì A sẽ sản xuất và xuất khẩu vải, là mặt hàng cần nhiều lao động và B sẽ sản xuất và xuất khẩu thép, là mặt hàng cần nhiều vốn. Có thể thấy trên thực tế những nước giàu tài nguyên thiên nhiên sẽ xuất khẩu chúng trên thị trường Thế giới, ví dụ như: Arập Xê út xuất khẩu dầu lửa, Zambia xuất khẩu đồng, Jamaica xuất khẩu quặng bô xít…
2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xuất khẩu:
Xuất khẩu là việc bán hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong nước ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, góp phần tăng tích luỹ cho Ngân sách Nhà nước và là cơ sở để nhập khẩu máy móc, thiết bị đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng của nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động phức tạp và là nơi diễn ra các quan hệ giao dịch, buôn bán giữa những người có quốc tịch khác nhau trên một thị trường rộng lớn. Hàng hóa được vận chuyển ra khỏi biên giới quốc gia trong đó đồng tiền thanh toán là ngoại tệ được quy định giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu. Đồng thời các hoạt động giao dịch này phải tuân theo những tập quán, thông lệ của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ cũng như luật lệ quốc tế.
Hoạt động xuất khẩu được thực hiện với nhiều nghiệp vụ phức tạp từ việc nghiên cứu thị trường, lựa chọn mặt hàng xuất khẩu, giao dịch và đàm phán, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hóa chuyển giao quyền sở hữu cho người mua và hoàn thành các thủ tục thanh toán. Mỗi một nghiệp vụ đều phải được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng trên cơ sở tận dụng các lợi thế so sánh, tôn trọng nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi nhằm đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao nhất cả về mặt kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia.
2.1 Các hình thức xuất khẩu:
2.1.1 Xuất khẩu trực tiếp:
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu mà các đơn vị xuất khẩu ký kết hợp đồng trực tiếp bán hàng hóa do mình sản xuất ra hoặc mua hàng hóa của các đơn vị trong nước cho các đối tác nước ngoài. Ưu điểm của hính thức này là đơn vị xuất khẩu được tiếp cận với thị trường quốc tế, đạt được hiệu quả kinh doanh cao hơn các hình thức khác. Nếu làm tốt thì uy tín của đơn vị ngày càng được nâng cao trên thị trường quốc tế. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ được rèn luyện qua thực tiễn, năng động, sáng tạo và thích ứng với cơ chế kinh tế thị trường ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi đơn vị phải có số vốn lớn để thực hiện những hợp đồng có giá trị và có thể gặp rủi ro do đồng tiền nước đó tăng giá so với đồng ngoại tệ trong hợp đồng đã ký kết hoặc hàng bị trả lại do chất lượng không đạt tiêu chuẩn, không đảm bảo thời gian giao hàng.
2.1.2 Xuất khẩu uỷ thác:
Trong hình thức này, các đơn vị xuất khẩu đứng ra với vai trò trung gian xuất khẩu làm thủ tục cần thiết để xuất khẩu và hưởng tỷ lệ nhất định phí uỷ thác theo giá trị hàng hóa xuất khẩu (thường từ 1 - 3% giá trị lô hàng). Hình thức này có ưu điểm là mức độ rủi ro thấp, trách nhiệm ít, người đứng ra xuất khẩu không phải là người đứng ra chịu trách nhiệm cuối cùng và đặc biệt không cần vốn để mua hàng mà chủ yếu dựa vào uy tín của đơn vị tuy doanh nghiệp được hưởng lợi ít nhưng chắc chắn không bị rủi ro.
2.1.3 Xuất khẩu tại chỗ:
Đây là một hình thức xuất khẩu mới nhưng ngày càng phát triển trong nền kinh tế thị trường mở cửa, loại hình này ở Việt Nam chủ yếu diễn ra dưới hình thức bán hàng hóa cho các khu chế xuất. Hình thức xuất khẩu này có đặc điểm là hàng hóa không bắt buộc phải vượt qua biên giới quốc gia mới đến tay của khách hàng. Ngoài ra, các thủ tục xuất khẩu thì đơn giản hơn, chi phí xuất khẩu cũng như rủi ro thấp hơn.
2.1.4 Buôn bán đối lưu:
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch buôn bán mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng hóa trao đổi luôn tương đương với nhau về giá trị. Mục đích xuất khẩu ở đây không phải là thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hóa cần thiết có giá trị xấp xỉ lô hàng xuất khẩu. Hình thức này chủ yếu xuất hiện ở các nước có nhu cầu nhập khẩu cao trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế. Việt Nam có nhu cầu nhập khẩu lượng lớn về máy móc thiết bị của một số nước công nghiệp phát triển nên đã khắc phục bằng cách thông qua việc các nước này nhập khẩu một số mặt hàng do khó khăn về thị trường tiêu thụ như: gạo, cà phê, cao su ...
2.1.5 Tạm nhập tái xuất:
Đây là hình thức mà hàng hóa xuất khẩu đi qua một số nước trung gian rồi mới đến nước nhập khẩu và trong đó nước tái xuất sẽ thu được một khoản chênh lệch giữa khoản tiền bỏ ra để nhập khẩu và khoản tiền thu được khi xuất khẩu. Ngoài ra nước này cũng có thể hưởng lợi nhuận do sử dụng đồng tiền chiếm dụng vì đã thu của nước nhập khẩu nhưng chưa thanh toán cho nước xuất khẩu.
2.1.6 Gia công quốc tế:
Gia công quốc tế là hình thức trong đó bên nhận gia công sẽ nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên đặt gia công để sản xuất ra thành phẩm rồi giao lại cho bên đặt gia công và hưởng phí gia công. Ở Việt Nam hình thức này chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực gia công dệt may, giày dép. Bên cạnh đó, hình thức này tạo điều kiện cho người lao động có công ăn việc làm, thu nhập và tiếp cận với công nghệ mới. Mặt khác, Việt Nam không phải bỏ nhiều vốn và không lo thiếu thị trường tiêu thụ. Có thể nói, đây là hình thức xuất khẩu cần được các doanh nghiệp Việt Nam chú ý hơn nữa bởi lợi ích mà nó đem lại là tương đối lớn.
2.2 Các nhân tố tác động đến xuất khẩu:
2.2.1 Nhân tố sản xuất:
Để có xuất khẩu thì một quốc gia phải có nền sản xuất hàng hóa với trình độ phát triển nhất định bởi vì xuất khẩu chỉ có thể được đẩy mạnh trên cơ sở sự phát triển của sản xuất. Nhân tố sản xuất ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu trên những khía cạnh sau: sản lượng hàng hóa, chất lượng hàng hóa, giá cả hàng hóa, nhu cầu của thị trường quốc tế về mặt hàng đó. Tất cả những điều đó đòi hỏi sản xuất trong nước phải gắn với thị trường Thế giới, tức là phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường Thế giới để định hướng, tổ chức sản xuất. Nhìn chung mỗi quốc gia cũng như từng địa phương đều tập trung sản xuất các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trên cơ sở tiềm năng và thế mạnh của mình. Một mặt hàng xuất khẩu chủ lực cần thoả mãn ba yếu tố cơ bản sau đây: có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn cạnh tranh được trên thị trường đó. Yếu tố thứ hai là có nguồn lực để tổ chức sản xuất và sản xuất với chi phí thấp để tăng sức cạnh tranh và thu được lợi nhuận khi xuất khẩu. Và cuối cùng, mặt hàng đó phải chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Ngoài ra, cũng cần nhận thức rằng mặt hàng xuất khẩu chủ lực không nhất thiết phải cố định mà cần thay đổi tuỳ theo xu hướng tiêu dùng của thị trường. Để xây dựng được một danh mục mặt hàng xuất khẩu chủ lực đòi hỏi mỗi quốc gia và từng địa phương cần có những biện pháp thúc đẩy sản xuất phát triển đúng hướng.
2.2.2 Nhân tố thị trường:
Thị trường là nơi diễn ra các quá trình trao đổi, mua bán các hàng hóa và dịch vụ và thông qua thị trường ta có thể nắm bắt được quy luật vận động của hàng hóa. Trên thị trường mỗi loại hàng hóa đều có quy luật vận động riêng thông qua sự thay đổi về cung - cầu và giá cả của hàng hóa đó. Khi đã nắm được quy luật của thị trường, doanh nghiệp sẽ biết được khả năng nhu cầu tiêu thụ của thị trường, thái độ cũng như thị hiếu của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, điều quan trọng hơn cả là phải nắm bắt được xu thế phát triển của thị trường, từ đó có những hình thức và giải pháp hợp lý để thâm nhập thị trường. Khi nghiên cứu nhân tố thị trường ảnh hưởng đến xuất khẩu cần nghiên cứu vấn đề dung lượng thị trường của từng loại hàng hóa, đó là khối lượng của một loại hàng hóa nào đó được giao dịch trên thị trường trong một thời gian nhất định. Thêm vào đó, dung lượng thị trường còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác như: chính sách của Nhà nước, thị hiếu, tập quán tiêu dùng. Qua thực tế có thể thấy chỉ khi nào nghiên cứu tốt thị trường xuất khẩu thì doanh nghiệp mới có các giải pháp tích cực để mở rộng khả năng tiêu thụ hàng hóa xuất khẩu và nâng cao khả năng tiếp cận thị trường cũng như phát triển sản xuất phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của thị trường.
II. Vai trò của xuất khẩu hàng hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội:
1. Phát huy lợi thế so sánh của đất nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
Các nhà kinh tế học hiện đại đều cho rằng thương mại quốc tế đem lại lợi ích cho tất cả các quốc gia khi mở cửa giao lưu kinh tế với bên ngoài cho dù các nguồn lực sản xuất có lợi thế tuyệt đối hay không. Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu như: nằm ở khu vực kinh tế phát triển năng động của Thế giới có sức thu hút các nhà đầu tư nước ngoài; bờ biển dài hàng nghìn kilômét có tiềm năng lớn về khai thác xuất khẩu của sản phẩm từ biển như: hải sản, dầu thô và thuận lợi trong giao lưu kinh tế bằng vận tải đường biển. Đất đai màu mỡ, phì nhiêu, khí hậu nhiệt đới gió mùa nên có thể xuất khẩu các sản phẩm nông sản như: gạo, cà phê, hạt tiêu, cao su … Bên cạnh đó Việt Nam cũng có một lực lượng lao động dồi dào, cần cù, chịu khó, thông minh là điều kiện tốt để phát triển các mặt hàng xuất khẩu cần nhiều lao động như: hàng may mặc, giầy dép .... Với những tiềm năng trên, lợi thế của Việt Nam đang được khai thác và phát huy hiệu quả, trong tương lai Việt Nam sẽ có nhiều mặt hàng xuất khẩu sẽ được khai thác tốt hơn, tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. Điều này càng khẳng định vai trò quan trọng của xuất khẩu trong việc khai thác và phát huy các lợi thế so sánh.
2. Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa đất nước:
Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hóa đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như:
- Xuất khẩu hàng hóa
- Đầu tư nước ngoài
- Vay nợ, viện trợ
- Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ
- Xuất khẩu sức lao động …
Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ tuy quan trọng nhưng cuối cùng cũng phải hoàn trả. Nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hóa đất nước là xuất khẩu. Có thể nói, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
3. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển:
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên Thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế Thế giới là tất yếu đối với nước ta.
Có thể thấy có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
+ Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn nhỏ bé, manh mún và tăng trưởng thấp. Từ đó sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp.
+ Coi thị trường, đặc biệt là thị trường Thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu của thị trường Thế giới để định hướng sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động thể hiện ở những điểm sau:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ, khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như: bông, sợi hay thuốc nhuộm, công nghiệp tạo mẫu … Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu, dầu thực vật, chè … có thể sẽ kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và đi vào ổn định.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này có nghĩa xuất khẩu là phương tiện quan trọng đưa vốn và kỹ thuật, công nghệ từ Thế giới vào Việt Nam, nhằm hiện đại hóa nền kinh tế và tạo ra một năng lực sản xuất mới.
Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của nước ta sẽ tham gia vào quá trình cạnh tranh trên thị trường Thế giới về giá cả, chất lượng. Trong quá trình này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi một cách nhanh nhất với thị trường.
Xuất khẩu còn đặt ra yêu cầu đối với các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường.
4. Tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân:
Tác động của xuất khẩu đến việc làm và đời sống bao gồm rất nhiều mặt, trước hết sản xuất, chế biến và dịch vụ hàng xuất khẩu đang trực tiếp là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập tương đối cao. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ trực tiếp đời sống và đáp ứn._.g ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Quan trọng hơn cả là việc xuất khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất làm cho cả quy mô và tốc độ sản xuất tăng lên, các ngành nghề cũ được khôi phục, ngành nghề mới ra đời, sự phân công lao động mới đòi hỏi lao động được sử dụng nhiều hơn, năng suất lao động cao và đời sống nhân dân được cải thiện.
5. Là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta:
Có thể thấy xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu có thể xuất hiện sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế … Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
III. Sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU thời kỳ hậu WTO:
1. Những cam kết của Việt Nam đối với EU trong điều kiện gia nhập WTO:
Trước khi Việt Nam gia nhập WTO, chúng ta đang được hưởng mức thuế ưu đãi GSP khi xuất khẩu hàng hóa trong đó có hàng dệt may sang 25 nước thuộc Liên minh châu Âu. Trong năm 2004, xuất khẩu hàng có hạn ngạch chiếm khoảng 90%, không có hạn ngạch khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu đi EU. Nhìn chung, các thị trường có hạn ngạch như: EU, Hoa Kỳ, Canada và Thổ Nhĩ Kỳ chiếm 70% và thị trường không hạn ngạch chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, trong đó xuất khẩu đi EU đạt gần 800 triệu USD, chiếm 18,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 40% so với năm 2003, xuất khẩu hàng dệt - may năm 2004 đạt kim ngạch cao, vượt kế hoạch đặt ra. Tuy nhiên, từ ngày 31-12-2004, Hiệp định thương mại về dệt - may (ATC) kết thúc, dỡ bỏ hạn ngạch dệt - may giữa các thành viên WTO, trong khi nước ta chưa trở thành thành viên của tổ chức này đã và đang là thử thách lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đi EU.
Sang đầu năm 2005, căn cứ vào Thỏa thuận về việc bãi bỏ hạn ngạch hàng dệt - may Việt Nam từ ngày 1-1-2005 giữa Chính phủ Việt Nam và Cộng đồng châu Âu ký tắt ngày 3-12-2004, Bộ Thương mại tuyên bố việc xuất khẩu hàng dệt - may Việt Nam sang thị trường EU từ năm 2005 không còn quản lý hạn ngạch. Bộ Thương mại khuyến khích thương nhân Việt Nam chủ động ký kết hợp đồng sản xuất, xuất khẩu hàng dệt - may sang EU với số lượng và chủng loại hàng (cat) không hạn chế.
Theo Hiệp định hàng dệt - may (ATC) từ 1-1-2005 các nước thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là các quốc gia nhập khẩu hàng dệt - may phải ngừng áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt - may nhập khẩu từ các nước thành viên WTO khác. Việt Nam bị giới hạn số lượng bằng Quota sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh không bình đẳng và nguy cơ bị mất dần khách hàng, thị phần có thể xảy ra. Ðó sẽ là một điều bất lợi đối với xuất khẩu dệt - may Việt Nam bởi các nhà nhập khẩu sẽ tìm kiếm nguồn hàng cung cấp ổn định ở những nước không bị hạn ngạch do họ chủ động được số lượng, như vậy nguồn cầu về mặt hàng dệt - may của Việt Nam sẽ bị giảm đi, sẽ có nguy cơ mất dần thị phần do các nhà nhập khẩu sẽ di chuyển đơn đặt hàng đến các nước xuất khẩu không bị áp đặt hạn ngạch nữa. Ðiều đó có nghĩa, nhịp độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt - may sang các thị trường truyền thống có áp đặt hạn ngạch khó có thể duy trì như hiện nay. Vừa qua, Việt Nam đã áp dụng việc bãi bỏ lệ phí hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt - may sang thị trường EU và Canada, đây là một thuận lợi để các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU giảm chi phí trong xuất khẩu hàng hóa.
Trong lộ trình Việt Nam gia nhập WTO, với việc thực hiện các cam kết về thuế quan theo các văn bản đàm phán, thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với mức thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ 17,4% xuống còn 13,4%). Tuy nhiên, chúng ta sẽ có một thời gian để thực hiện lộ trình này từ 5 đến 7 năm.
Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng (chiếm 34,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc theo mức thuế trần - cao hơn mức thuế suất hiện hành với 3.170 dòng thuế (chiếm 30% số dòng của Biểu thuế), chủ yếu là đối với các nhóm hàng như: xăng dầu, kim loại, hoá chất, một số phương tiện vận tải.
Một số mặt hàng đang có thuế suất cao từ trên 20%, 30% sẽ được cắt giảm thuế ngay khi gia nhập. Những nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm từ cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc thiết bị điện - điện tử.
Ngoài ra, với việc Việt Nam tham gia Hiệp định dệt may (thực hiện đa phương hoá mức thuế đã cam kết theo các Hiệp định dệt may với EU, Hoa kỳ) cũng dẫn đến giảm thuế đáng kể đối với các mặt hàng này: vải từ 40% xuống 12%, quần áo từ 50% xuống 20%, sợi từ 20% xuống 5%.
Có thể nói, việc Việt Nam gia nhập WTO là một cơ hội lớn cho ngành Dệt – May để nâng cao kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU. Tuy nhiên, EU cũng có thể đặt ra nhiều thách thức mới cho quá trình phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư giữa Việt Nam với các nước trong khu vực thị trường rộng lớn này. Nổi lên là, tự do hóa thương mại thông qua việc giảm dần thuế quan, tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế hợp lệ đối với hàng nhập khẩu như hàng rào kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh, bảo vệ môi trường, sản phẩm từ mọi xuất xứ đều được cạnh tranh bình đẳng ở trong cùng điều kiện thương mại quốc tế. Do đó đòi hỏi Chính phủ cùng với các doanh nghiệp dệt may phải có sự phối hợp chặt chẽ để đưa ra những chính sách hợp lý nhằm phát triển và tận dụng tiềm năng của hàng dệt may.
2. Sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU thời kỳ hậu WTO:
EU bao gồm 27 quốc gia chủ yếu là các nước châu Âu với diện tích gần 4 triệu km2 và 456 triệu dân có thu nhập cao chắc chắn là một thị trường tiêu thụ rộng lớn mà hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cần quan tâm hơn nữa. Ngoài ra, tổng kim ngạch ngoại thương của thị trường EU đạt gần 1.400 tỷ USD chiếm khoảng 20% thương mại toàn cầu; đứng thứ 2 Thế giới về nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, chiếm gần 43% nhu cầu nhập khẩu của Thế giới. Trong số các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu vào EU thì hàng dệt may cùng với thủy sản, cao su tự nhiên, đồ gỗ, cà phê, túi sách, thủ công mỹ nghệ, điện tử vi tính, sản phẩm nhựa sẽ là những mặt hàng chủ lực trong thời gian tới.
Theo đánh giá của Tổ chức dệt may Thế giới thì EU là khu vực đứng đầu về nhập khẩu sản phẩm dệt may của toàn Thế giới, cụ thể chiếm hơn 49% tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Thế giới. Nhu cầu nhập khẩu hàng năm của EU vào khoảng 110 tỷ USD bao gồm quần áo may sẵn và sản phẩm dệt các loại, đem đến cơ hội lớn cho các nước có tiềm năng phát triển ngành dệt may, trong đó có Việt Nam. Cơ hội này càng trở nên rõ rệt hơn khi EU đang có xu hướng chuyển nguồn nhập khẩu sang các nước đang phát triển nhằm tận dụng nguồn lao động giá rẻ của các nước này.
Bên cạnh đó, giá trị buôn bán giữa Việt Nam và EU tăng nhanh trong những năm gần đây, từ 3,6 tỷ USD năm 1999 lên 11,5 tỷ USD năm 2007, trong đó Việt Nam xuất khẩu 6,9 tỷ USD chiếm 17,4% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, chủ yếu gồm: giầy dép 2,09 tỷ USD, dệt may 1,49 tỷ USD, cà phê 621,4 triệu USD, chè 10 triệu USD, hạt tiêu 62 triệu USD, xe đạp và phụ tùng 54,8 triệu USD, sản phẩm nhựa 164,3 triệu USD, cao su 233,2 triệu USD, thủ công mỹ nghệ 192 triệu USD, hải sản 1095,7 triệu USD, đồ gỗ 509 triệu USD...
Các nhóm hàng xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng cao trong năm 2007 là thuỷ sản, đồ gỗ, dệt may, sản phẩm cao su, sản phẩm cơ khí, điện dân dụng và sản phẩm công nghệ thông tin, đồ chơi trẻ em.
Ngoài ra, EU còn là nhà cung cấp nguyên phụ liệu dệt may cho Việt Nam, năm 2007 Việt Nam nhập khẩu 106,7 triệu USD chiếm khoảng 6,5% kim ngạch nhập khẩu. Có thể nói EU chính là thị trường xuất nhập khẩu giữ vai trò chiến lược quan trọng đối với dệt may Việt Nam.
Bảng 5: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ EU
(Đơn vị: triệu USD)
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Nguyên phụ liệu dệt may
83.3
66.2
76.3
89.4
107.5
92.5
106.7
guồn: Tổng cục Hải quan, 2008
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU TRƯỚC VÀ SAU KHI GIA NHẬP WTO
***
I. Vài nét về Liên minh châu Âu và quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – EU:
1. Vài nét về Liên minh châu Âu:
Đại chiến thứ II kết thúc, một số chính khách thấy rằng châu Âu cần được liên kết chặt chẽ, trước hết là kinh tế và chính trị để có vị trí xứng đáng hơn, tiến tới thành lập Hợp chủng quốc châu Âu từng bước cạnh tranh với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ hùng mạnh. Nỗ lực nhất thể hóa châu Âu được hình thành từ những năm 50 thế kỷ 20. Hiệp ước thành lập Cộng đồng Than Thép ký năm 1952 đã đặt nền móng cho việc hình thành Liên minh châu Âu rộng lớn ngày nay.
Liên minh châu Âu (EU) là hình thức hội nhập khu vực ở trình độ cao với nhiều triển vọng tốt đẹp cho các nước thành viên và cho toàn châu Âu, đang phát triển sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực phấn đấu trở thành khu vực phát triển nhất hành tinh, đủ sức đối phó với các thách thức toàn cầu trong thế kỷ 21, có lợi cho xu thế hoà bình và hợp tác phát triển toàn cầu....
Vị thế chính trị, tiềm lực kinh tế, thương mại, tài chính, khả năng phòng thủ của EU không ngừng tăng sau mỗi lần mở rộng. EU chính thức thành lập ngày 1 tháng 11 năm 1993, đây là kết quả của việc hình thành một loạt các tổ chức hợp tác châu Âu mà bắt đầu là Cộng đồng Than Thép châu Âu (ECSC) năm 1952, Cộng đồng năng lượng nguyên tử và Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) hợp nhất thành Cộng đồng châu Âu (EC) năm 1967. Các thành viên của EC bao gồm: Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Đức, Hy Lạp, Italia, Luxembourg, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Anh và Tây Ban Nha. Năm 1991, Liên minh châu Âu được hình thành dựa trên hiệp ước Maastricht đã ký của Chính phủ 12 quốc gia thành viên EC. Năm 1995, các quốc gia gồm: Áo, Phần Lan và Thụy Điển gia nhập EU, tăng số thành viên EU lên 15 nước. Cũng trong năm này, một loạt các quốc gia Đông Âu đã nộp đơn xin gia nhập EU nhưng đến năm 2002, EU mới quyết định chấp nhận kết nạp them 10 quốc gia gồm: Séc, Hungary, Ba Lan, Slovenia, Slovakia, Latvia, Estonia, Lithuania, Malta, Đảo Síp. Đến ngày 1/5/2004, 10 quốc gia này chính thức trở thành thành viên của EU nâng tổng số thành viên lên 25 quốc gia. Đặc biệt EU mở rộng lần thứ VI thêm 2 thành viên mới ở Đông và Nam Âu. Việc này đặt ra cho tất cả các thành viên EU, châu Âu và Thế giới rất nhiều vấn đề cần được nghiên cứu xử lý, không chỉ kinh tế thương mại.
Bảng 6: Thời gian gia nhập EU của các quốc gia thành viên
Thời gian
Số quốc gia mới gia nhập
Tên các thành viên
1957
6
Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Lucxembourg
1973
3
Anh, Ailen, Đan Mạch
1981
1
Hy Lạp
1986
2
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha
1995
3
Áo, Thụy Điển, Phần Lan
2004
10
CH Séc, Hungari, Ba Lan, Slovenia, Litva, Latvia, Estonia, Slovakia, Malta, Đảo Síp
Nguồn: www.hoinhap.vn
Hiến pháp mới của EU được soạn thảo theo hướng minh bạch hơn, dân chủ hơn và hiệu quả hơn đang đứng trước nguy cơ sụp đổ do các bất đồng về quyền lực giữa nước lớn và nhỏ; giữa Chính phủ các quốc gia thành viên và bộ máy hành pháp của khối; giữa những thành viên cũ và mới về khoảng cách phát triển, về nhập cư, lao động, an sinh xã hội, thâm hụt ngân sách, chính sách đối ngoại, an ninh phòng thủ chung...
Bảng 7: Một số chỉ số kinh tế vĩ mô của EU
(%)
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tốc độ tăng GDP
1,2
1,2
2,4
1,5
2,5
2,4
Tốc độ tăng tiêu dùng
1,6
1,6
2,1
1,6
1,6
2,1
Tốc độ tăng tổng đầu tư
-1,2
0,8
3,0
2,3
3,5
3,6
Tốc độ tăng việc làm
0,4
0,2
0,6
0,9
1,0
1,0
Tỷ lệ thất nghiệp
8,7
9,0
9,0
8,7
8,5
8,1
Tỷ lệ lạm phát
2,1
1,9
2,1
2,3
2,2
1,9
Nợ chính phủ (% GDP)
61,4
63,0
63,4
64,1
64,2
64,3
Cán cân tài khoản vãng lai (% GDP)
0,3
0,1
0,0
-0,3
-0,4
-0,3
Nguồn: www.gso.gov.vn
2. Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam – EU:
Nhìn chung quan hệ Việt Nam - EU phát triển toàn diện theo hướng tích cực đặc biệt về kinh tế thương mại phù hợp với lợi ích và chiến luợc của nước ta, góp phần tạo thế cân bằng tích cực với các đối tác khác. Chính sách của EU với Việt Nam nằm trong chính sách với các nước đang phát triển, hợp tác trong khuôn khổ Việt Nam là thành viên của ASEAN, WTO. Chính sách này được hình thành rõ nét trong những năm gần đây và đang trong quá trình vừa hoàn thiện vừa khai thác. Mặc dù có thiện cảm về chính trị, ủng hộ giúp đỡ nhiều mặt, đặc biệt viện trợ phát triển cho đại bộ phận hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam được hưởng ưu đãi GSP, nhưng EU chưa công nhận Việt Nam là nước kinh tế thị trường.
Quan hệ kinh tế thương mại của Việt Nam với các nước thành viên và với thể chế EU đã hình thành từ lâu, phát triển mạnh vào những năm đầu của thập kỷ 1990, nhất là sau khi hai bên ký các Hiệp định về Hợp tác kinh tế, Thương mại, Khoa học kỹ thuật với các mục tiêu: (1) Đảm bảo các điều kiện cần thiết thúc đẩy phát triển thương mại, đầu tư trên cơ sở cùng có lợi và dành cho nhau quy chế tối huệ quốc; (2) Trợ giúp phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam, đặc biệt chú trọng cải thiện đời sống cho các tầng lớp dân cư nghèo. (3) Trợ giúp các nỗ lực của Việt Nam trong việc cơ cấu lại nền kinh tế theo cơ chế thị trường. (4) Trợ giúp nhằm bảo vệ môi trường và sử dụng lâu dài nguồn tài nguyên thiên nhiên theo hướng phát triển bền vững.
Cùng với các Hiệp định về hàng dệt may và giầy dép, Thoả thuận về mở cửa thị trường trong đó có việc xóa bỏ hạn ngạch dệt may cho Việt Nam từ 01/01/2005 và Thoả thuận Việt Nam gia nhập WTO ký năm 2004, quan hệ kinh tế thương mại giữa EU với Việt Nam đã bước sang thời kỳ phát triển mới, mạnh mẽ và toàn diện hơn.
Ngoài ra, EU cũng đồng thời là nhà cung cấp ODA lớn thứ ba (sau Nhật Bản và Ngân hàng Thế giới) cho Việt Nam trong nhiều lĩnh vực gồm các dự án quản lý kinh tế, quản trị phát triển, tài nguyên, nông lâm thuỷ sản, phát triển vùng, công nghiệp, năng lượng, thương mại, vận tải, truyền thông, xã hội, y tế, phòng chống thiên tai, viện trợ nhân đạo, hỗ trợ về giới tính v.v…Trong đó, các lĩnh vực/ngành nghề được tài trợ nhiều nhất là nông lâm thủy sản (17,58%), tài nguyên (13,15%), y tế (9,59%), phát triển xã hội (9,58%). Ngoài ra, các nước thành viên EU còn cung cấp vốn ODA thông qua các tổ chức tài chính đa phương. Hiện nay 19 trong số 27 nước thành viên EU có các dự án đầu tư vào Việt Nam. Tính đến 3/2006, EU có 551 dự án với tổng vốn đăng ký 7,34 tỷ USD, thực hiện 4,06 tỷ USD. Trong đó, Pháp dẫn đầu với 168 dự án tổng vốn đầu tư 2,8 tỷ USD, tiếp theo là Hà Lan 62 dự án với tổng vốn đăng ký gần 2 tỷ, Anh 70 dự án, tổng vốn đăng ký là 1,28 tỷ USD. Các nhà đầu tư EU đó có mặt tại hầu hết các ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam nhưng tập trung nhiều nhất vào công nghiệp và xây dựng (280 dự án với tổng vốn đầu tư là 4,18 tỷ USD, chiếm 54,8 % số dự án và 59,8 % tổng vốn đầu tư), trong đó công nghiệp nặng có 118 dự án với tổng vốn đầu tư gần 1,97 tỷ USD, tiếp theo là khai thác dầu khí 6 dự án với 1,32 tỷ USD. Trong lĩnh vực dịch vụ, EU có 181 dự án với tổng vốn 2,43 tỷ USD (chiếm 35,4 % số dự án và 34,6 % tổng vốn đầu tư). Còn lại là nông, lâm nghiệp - 50 dự án với tổng vốn đầu tư là 457,6 triệu USD. Nhìn chung, các nhà đầu tư châu Âu có ưu thế về công nghệ, vì vậy đã góp phần tích cực trong việc tạo ra một số ngành nghề mới và sản phẩm mới có hàm lượng công nghệ cao. Một số tập đoàn lớn của EU đang hoạt động có hiệu quả tại Việt Nam như: BP (Anh), Shell Group (Hà Lan), Total Elf Fina (Pháp Bỉ), Daimler Chrysler (Đức), Siemen, Alcatel Comvik (Thụy Điển)…. Xu thế đầu tư của EU chủ yếu vẫn tập trung vào các ngành công nghiệp công nghệ cao, tuy nhiên, gần đây có xu hướng phát triển tập trung hơn vào các ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, văn phòng cho thuê, bán lẻ). Tính đến hết tháng 3/2006, Việt Nam đã có 12 dự án đầu tư sang CHLB Đức, CH Séc, Ba lan, Luxembourg, Bỉ Anh và Pháp với tổng vốn đầu tư 7,26 triệu USD, thực hiện 192.647 USD.
Tuy nhiên, những kết quả trên chưa tương xứng với tiềm năng của Việt Nam và EU. Chính vì vậy, để khơi dậy và khai thác các tiềm năng trong quan hệ với EU, ngày 26/5/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Đề án tổng thể quan hệ Việt Nam – EU và Chương trình hành động của Chính phủ đến 2015. Đây là các định hướng quan trọng định ra các giải pháp chung và riêng đối với tất cả các lĩnh vực, trọng tâm là kinh tế và thương mại và kinh tế và thương mại là nền tảng và là điều kiện vật chất thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác khác có hiệu quả, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ký với EU hiệp định hợp tác mới sâu rộng hơn vào thời điểm thích hợp.
II. Tổng quan về thị trường EU:
2. Quy mô thị trường:
2.1 Dân số:
Về dân số, Đức là nước có dân số đông nhất trong các nước thành viên, dân số Đức năm 2006 là 82,4 triệu người sau đó là Anh, Italia và Pháp. Tổng dân số EU hiện nay khoảng 456 triệu người. Với một quy mô dân số tương đối lớn cùng với thu nhập cao, EU chắc chắn sẽ là một thị trường lý tưởng cho tất cả các nhà xuất khẩu trong đó có các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
Bảng 8: Quy mô dân số một số nước thành viên EU năm 2006
(Đơn vị: triệu người)
TT
Quốc gia
Tổng dân số
1
Đức
82.4
2
Anh
60.5
3
Pháp
61.2
4
Italia
59
5
Tây Ban Nha
45.5
6
Hà Lan
16.4
7
Hy Lạp
11.1
8
Bỉ
10.5
9
Bồ Đào Nha
10.6
10
Thụy Điển
9.1
11
Áo
8.3
12
Đan Mạch
5.4
13
Phần Lan
5.3
Nguồn: www.gso.gov.vn
2.2 Nhu cầu tiêu dùng:
EU có nền thương mại lớn thứ 2 Thế giới, là thị trường xuất khẩu lớn nhất và thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 (sau Mỹ). Hàng năm EU nhập khẩu một lượng lớn hàng hoá từ khắp các nước trên Thế giới. Kim ngạch nhập khẩu không ngừng được gia tăng từ 622,48 tỷ USD năm 1994 lên tới 2298 tỷ USD năm 2000 và 4600 tỷ USD năm 2006 trong đó 60% là nhập khẩu giữa các quốc gia thành viên và 40% là nhập khẩu từ ngoài EU (khoảng 900 tỷ). Giá trị nhập khẩu từ các quốc gia đang phát triển là 534,12 tỷ, chiếm 11,8% trong tổng nhập khẩu năm 2006 của EU.
Có thể thấy cơ cấu nhập khẩu chung của EU trong những năm qua bao gồm: sản phẩm thô chiếm 29,74%, sản phẩm chế tạo chiếm trên 67,19%, các sản phẩm khác chiếm 3,07% tổng kim ngạch nhập khẩu. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: nông sản chiếm 11,79%, khoáng sản chiếm 17,33%, máy móc chiếm khoảng 24,27%, thiết bị vận tải chiếm trên 8% .... Một số mặt hàng EU có nhu cầu nhập khẩu cao và cũng là những mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế là: giày dép, dệt may, thủy sản, nông sản rau quả, thủ công mỹ nghệ và cao su tự nhiên.
3. Tập quán và thị hiếu người tiêu dùng:
EU là một thị trường thống nhất trong đó hàng hoá được tự do lưu thông giữa 27 nước thành viên tuy vậy EU lại được tạo bởi 27 quốc gia có những phong tục, tập quán, đặc điểm văn hoá xã hội và tôn giáo khác nhau. Chẳng hạn, doanh nghiệp Pháp chủ yếu quan tâm đến giá cả và họ thích gắn mác lên hàng hoá theo kiểu Pháp; doanh nghiệp Đức không chấp nhận mua hàng qua catalo trong khi các doanh nghiệp Anh lại rất quan tâm đến chất lượng và rất sòng phẳng, luôn tuân theo những luật lệ một cách chính xác. Tuy nhiên, thị trường EU cũng có những yêu cầu và tập quán khá thống nhất, ưa chuộng hàng có nguồn gốc tự nhiên, đảm bảo an toàn như: thuỷ hải sản phải đảm bảo vệ sinh, không nhiễm độc môi trường; hàng may mặc và giày dép có chất lượng và hợp thời trang, không có nguồn gốc hoá chất, mẫu mã thay đổi liên tục, xu hướng dùng giày vải thay cho giày da đang thịnh hành.
Bên cạnh đó, mức sống của người dân châu Âu tương đối cao nên vấn đề được họ chú ý là chất lượng, mẫu mã, chủng loại chứ không phải là giá cả. Họ sẵn sàng chấp nhận giá cao khi hàng đạt yêu cầu về thị hiếu và chất lượng theo ý họ. Hàng hoá của các nước đang phát triển ở châu Á trong đó có Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Malaysia và các nước ASEAN khác là loại chất lượng trung bình, phù hợp với người dân có mức sống trung bình (chiếm khoảng 65 - 70% dân số) và nhóm người có mức sống thấp (chiếm khoảng 10% dân số). Xu hướng tiêu dùng thay đổi từ hàng lâu bền trước đây sang hàng sử dụng ngắn ngày, rẻ hơn chút ít, nhưng chất liệu có nguồn gốc tự nhiên như: dùng bông sợi tự nhiên thay cho sợi tổng hợp, đồ gỗ chứ không phải đồ nhựa …
4. Kênh phân phối:
Có thể thấy hệ thống phân phối EU về cơ bản cũng giống như hệ thống phân phối của một quốc gia, bao gồm mạng lưới bán buôn và mạng lưới bán lẻ; tham gia vào hệ thống phân phối này là các công ty xuyên quốc gia, hệ thống các cửa hàng, siêu thị, các công ty bán lẻ độc lập … Trong đó, hình thức tổ chức phổ biến nhất của các kênh phân phối trên thị trường EU là theo tập đoàn và không theo tập đoàn. Kênh phân phối theo tập đoàn có nghĩa là các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu của một tập đoàn chỉ cung cấp hàng hoá cho hệ thống các cửa hàng và siêu thị của tập đoàn này mà không cung cấp hàng cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác. Ngược lại, đối với kênh phân phối không theo tập đoàn thì các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu của tập đoàn này không những cung cấp hàng hoá cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn mình mà còn cung cấp hàng hoá cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác và các công ty bán lẻ độc lập. Và đặc biệt, rất ít trường hợp các siêu thị lớn hoặc các công ty bán lẻ độc lập mua hàng trực tiếp từ các nhà xuất khẩu nước ngoài. Mối quan hệ bạn hàng giữa các nhà bán buôn và bán lẻ trên thị trường EU phần lớn là do có quan hệ tín dụng và mua cổ phần của nhau. Các nhà bán buôn và bán lẻ trong hệ thống phân phối của EU thường có quan hệ làm ăn lâu đời và rất ít khi mua hàng của các nhà cung cấp không quen biết cho dù giá hàng có rẻ hơn nhiều, vì uy tín kinh doanh với khách hàng được họ đặt lên hàng đầu mà muốn giữ được điều này thì hàng phải đảm bảo chất lượng và nguồn cung cấp ổn định. Họ liên kết với nhau chặt chẽ thành một chuỗi trong kinh doanh bằng các hợp đồng kinh tế. Các cam kết trong hợp đồng được giám sát nghiêm ngặt bởi các quy định của luật kinh tế. Vì vậy mà các nhà nhập khẩu của EU yêu cầu rất cao về việc tuân thủ chặt chẽ các điều khoản của hợp đồng, đặc biệt là chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật và thời gian giao hàng.
5. Chính sách thương mại:
5.1 Chính sách thương mại nội khối:
Chính sách thương mại nội khối của EU chủ yếu tập trung vào việc xây dựng và vận hành thị trường chung châu Âu nhằm xoá bỏ việc kiểm soát biên giới quốc gia để tự do lưu thông hàng hóa, vốn và lao động, điều hòa các chính sách kinh tế và xã hội của các nước thành viên. Các nước thuộc EU đã thoả thuận tiến hành phương châm 4 xóa để tự do lưu thông hàng hóa trong thị trường chung, đó là: xóa bỏ hoàn toàn mọi loại thuế quan đánh vào hàng xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên; xóa bỏ hạn ngạch áp dụng trong thương mại nội khối; xóa bỏ tất cả các “biện pháp tương tự” hạn chế số lượng, các biện pháp hạn chế dưới hình thức là các quy chế và quy định về cấu thành sản phẩm, đóng gói, tiêu chuẩn công nghệ và an toàn kỹ thuật thông qua vận dụng hai nguyên tắc điều hoà và công nhận lẫn nhau; xóa bỏ tất cả các rào cản về thuế giữa các nước thành viên mà thực chất là việc đổi mới thủ tục thu thuế, chuyển chức năng kiểm soát thuế từ biên giới thuế tới các hãng.
Bên cạnh đó, EU còn áp dụng các biện pháp như: tháo dỡ tất cả các hạn chế về ngoại hối; thống nhất luật pháp và các nguyên tắc quản lý thị trường vốn của các nước thành viên; thanh toán tự do (việc thanh toán có thể thực hiện bằng bất cứ đồng tiền quốc gia của một thành viên nào) để thực hiện việc tự do lưu chuyển vốn trong nội bộ khối.
5.2 Chính sách ngoại thương:
Liên minh châu Âu đang cải cách sâu rộng và toàn diện thể chế và luật pháp cho phù hợp với tình hình mới. Nét đặc trưng trong chính sách thương mại của EU là bảo hộ nông nghiệp, bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. EU trợ cấp sản xuất nông nghiệp trong khối đồng thời đánh thuế cao và áp dụng hạn ngạch đối với một số nông sản nhập khẩu như gạo, đường, chuối, sắn lát ... Các yêu cầu về xuất xứ, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được thực hiện nghiêm ngặt. Bên cạnh cam kết với các nước thành viên WTO, EU ký nhiều hiệp định thương mại và các hiệp định ưu đãi khu vực và song phương và dành chế độ MFN toàn phần dành cho sản phẩm nhập khẩu từ Úc, Canada, Đài Loan, Hongkong, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Hoa Kỳ và các Hiệp định ngành hàng song phương khác.
Ngoài ra, EU duy trì hạn ngạch áp dụng thuế quan đối với một số sản phẩm, giảm dần trị giá và số lượng các sản phẩm được trợ cấp xuất khẩu. Trong một số lĩnh vực dịch vụ, EU đã có cam kết cụ thể thực hiện theo lịch trình chung của GATS, kể cả lĩnh vực viễn thông cơ bản, tài chính và dịch vụ nghe nhìn. EU áp dụng Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) dành cho 143 quốc gia và 36 vùng lãnh thổ, trong đó các nước chậm phát triển nhất được ưu đãi nhiều hơn theo sáng kiến “Mọi sản phẩm trừ vũ khí - EBA”. EU áp dụng nhiều biện pháp tác động trực tiếp đến nhập khẩu vào EU như thủ tục hải quan, quy tắc xuất xứ, thuế quan, thuế gián tiếp, giấy phép, biện pháp tự vệ, quy tắc và tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, chống bán phá giá...
Tất cả các nước thành viên EU áp dụng chính sách ngoại thương chung đối với ngoại khối. Uỷ ban châu Âu là người đại diện duy nhất cho Liên minh trong đàm phán, ký các Hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này. Chính sách ngoại thương của EU gồm chính sách thương mại tự trị (Autonomous Commercial) và chính sách thương mại dựa trên cơ sở Hiệp định (Treaty based Commercial policy), được xây dựng dựa trên các nguyên tắc không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng. Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn ngạch, hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu. EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hóa dưới hình thức đẩy mạnh tự do hóa thương mại (giảm dần thuế quan đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu và tiến tới xóa bỏ hạn ngạch, GSP). Hiện nay, 27 nước thành viên EU áp dụng một biểu thuế quan chung đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. Đối với hàng nhập khẩu, mức thuế trung bình đánh vào hàng nông sản là 18%, hàng công nghiệp là 2%.
5.2.1 Một số quy định hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu:
- Tự do lưu thông: Hàng hóa nhập khẩu vào EU được tự do lưu thông trên lãnh thổ 27 nước thành viên EU như hàng hóa được sản xuất tại EU sau khi đóng các khoản thuế nhập khẩu quy định.
- Gia công tại EU: Cho phép hàng bán thành phẩm hoặc nguyên liệu thô được nhập vào EU để gia công và được các nhà sản xuất của EU tái xuất khẩu trong EU mà các nhà sản xuất không cần phải nộp thuế hải quan và VAT đối với hàng hóa đó. Có hai cách liên quan đến thuế là miễn thuế hoặc đóng thuế trước và được hoàn thuế.
- Gia công dưới sự quản lý của hải quan: Nghĩa là hàng hóa được gia công phải chịu mức thuế thấp hơn trước khi đưa vào tự do lưu thông. Mức thuế nhập khẩu chệnh lệch sẽ dành cho việc bảo tồn hoặc thêm mới các hoạt động gia công tại cộng đồng.
- Kho hải quan: Kho hải quan cho phép doanh nghiệp giữ hàng nhập khẩu tại cộng đồng và lựa chọn thời gian đóng thuế hoặc tái xuất hàng hóa.
- Khu vực tự do: Khu vực tự do là khu vực đặc biệt trên lãnh thổ hải quan EU. Hàng hóa trong khu vực này được miễn thuế nhập khẩu, thuế VAT và các loại thuế nhập khẩu khác. Hàng hóa nhập khẩu được lưu lại khu vực này được coi là chưa nhập khẩu vào cộng đồng, hàng hóa của cộng động lưu tại đây được coi là đã xuất khẩu. Đối với hàng nhập khẩu, khu vực tự do được dùng như là nơi lưu kho đối với hàng hóa không có nguồn gốc cộng đồng cho đến khi hàng hóa này được đưa vào tự do lưu thông.
- Tạm nhập: Tạm nhập là hàng hóa có thể được sử dụng tại cộng đồng mà không phải nộp thuế nhập khẩu và thuế VAT theo một số điều kiện nhất định và phải tái xuất theo đúng tình trạng mà hàng hóa được nhập vào. Đối với loại này, EU cho phép sử dụng kê khai bằng lời (nghĩa là trả lời hải quan như trường hợp đối với hành lý xách tay). Tuy nhiên, hải quan có thể yêu cầu liệt kê danh sách hàng hóa để bổ sung cho việc khai bằng lời.
- Hàng quá cảnh: Luật Hải quan EU cho phép hàng hóa được quá cảnh qua lãnh thổ hải quan EU nếu đáp ứng các quy định về thủ tục quá cảnh: Các bảo lãnh riêng; Các phương tiện vận chuyển; Các bản khai theo quy định; Hoàn thành các thủ tục tại hải quan xuất phát, trên đường và tại điểm đến; Các thủ tục kiểm soát hàng xuất cảnh.
Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng các thủ tục quá cảnh được đơn giản hóa gồm: Sử dụng giấy bảo lãnh toàn diện hoặc gia hạn bảo lãnh; Sử dụng danh sách vận chuyển đặc biệt; Miễn áp dụng các quy định để sử dụng lộ trình theo yêu cầu; Quy chế người gửi hàng ủy quyền; Quy chế người nhận hàng ủy quyền; Các thủ tục đơn giản hóa áp dụng cho việc vận chuyển hàng bằng tầu hoặc các côngtennơ loại lớn; Các thủ tục đơn giản hóa áp dụng với hàng vận chuyển qua đường hàng không, hàng hải và qua ống dẫn…
- Quy tắc xuất xứ: Về xuất xứ từ nước được hưởng, EU quy định có 2 loại:
+ Đối với sản phẩm hoàn toàn được sản xuất tại lãnh thổ nước được hưởng ưu đãi như: khoáng sản, động thực vật, thuỷ sản đánh bắt trong lãnh hải và hàng hóa sản xuất từ sản phẩm đó được xem là có xuất xứ và được hưởng ưu đãi GSP.
+ Đối với các sản phẩm có thành phần nhập khẩu: EU quy định hàm lượng trị giá sản phẩm sáng tạo tại nước hưởng GSP (tính theo giá xuất xưởng) phải đạt 60% tổng giá trị hàng liên quan. Tuy nhiên, đối với một số nhóm mặt hàng, thì hàm lượng này thấp hơn. EU quy định cụ thể tỉ lệ trị giá và công đoạn gia công đối với một số nhóm hàng mà yêu cầu phần trị giá sáng tạo thấp hơn 60% (điều hòa nhiệt độ, tủ lạnh không dưới 40%; đồ trang trí làm từ kim loại không dưới 30%; giầy dép chỉ được hưởng GSP nếu các bộ phận như: mũi giầy, đế giầy...ở dạng rời có xuất xứ từ một nước thứ ba cũng được hưởng GSP hoặc nhập khẩu..). EU cũng quy định xuất xứ cộng gộp, theo đó hàng của một nước có thành phần xuất xứ từ một nước khác trong cùng một tổ chức khu vực cũng được hưởng GSP, thì các thành phần đó cũng được xem là có xuất xứ từ nước liên quan.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt:
Loại thuế này áp dụng đối với một số loại sản phẩm phụ thuộc vào ảnh hưởng của._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31782.doc