DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Viết đủ
1. NHTM
Ngân hàng thương mại
2. NHCT
Ngân hàng công thương
3. NH NN&PTNT
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
4. CPH
Cổ phần hoá
5. DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
6. TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
7. SXKD
Sản xuất kinh doanh
8. TSCĐ
Tài sản cố định
9. KH
Khấu hao
10. VCSH
Vốn chủ sở hữu
11. TCT
Tổng công ty
DANH MỤC BẢNG, BIỀU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Trang
Bảng 1: Thực trạng đội tàu công ty vận tải Biển Bắc………………………….31
Bảng 2: Sơ đồ bộ
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng hoạt động huy động vốn tại Công ty vận tải Biển Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
máy quản lý nhà nước của công ty vận tải Biển Bắc……….38
Bảng 3: Bảng cân đối kế toán công ty vận tải Biển Bắc……………………….39
Bảng 4: Kết quả hoạt động SXKD công ty vận tải Biển Bắc…………………..41
Bảng 5: Các chỉ tiêu tài chính phản ánh kết quả hoạt động của công ty……….42
Bảng 6: Tình hình thực hiện kế hoạch năm 2006………………………………44
Bảng 7: Cơ cấu nguồn vốn công ty vận tải Biển Bắc…………………………..45
Bảng 8: KQKD công ty vận tải Biển Bắc………………………………………47
Bảng 9: Các khoản vay từ các TCTD của công ty vận tải Biển Bắc…………...48
Bảng 10: Các khoản tín dụng thương mại của công ty vận tải Biển Bắc………49
Bảng 11: Dự kiến kết quả SXKD giai đoạn 2007 –2009……………………….58
Bảng 12: Kế hoạch đầu tư TSCĐ năm 2007 của công ty……………………….60
MỤC LỤC
Trang
A. Lời nói đầu………………………………………………………..5
B. Nội dung
Chương 1: Tổng quan về vốn và công tác huy động vốn của DN
1.1. Nguồn vốn của doanh nghiệp…………………………………………….7
1.1.1. Khái niệm vốn…………………………………………………………....7
1.1.2. Phân loại vốn…………………………………………………………….9
1.1.3. Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp. …………………11
1.2. Công tác huy động vốn của doanh nghiệp……………………................12
1.2.1. Sự cần thiết của công tác huy động vốn đối với hoạt động của DN…..12
1.2.2. Cơ cấu vốn và các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp…….13
1.1.2.1. Vai trò của VCSH và các phương thức huy động nguồn VCSH……….13
1.1.2.2. Vai trò của vốn nợ và các phương thức huy động nguồn vốn nợ............19
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của doanh nghiệp…25.
1.2.3.1. Yếu tố chủ quan…………………………………………………………25
1.2.3.2. Yếu tố khách quan………………………………………………………29
Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại công ty vận tải Biển Bắc.
2.1. Tổng quan về công ty vận tải Biển Bắc
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty vận tải Biển Bắc………31.
2.1.2.Đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty……....................................................................................................................34
2.1.3. Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty……………………………………...35
2.1.3.1. Mô hình quản lý của công ty……………………………………………35.
2.1.3.2.Tổ chức phân công trong quản lý……………………………………….36
2.1.3.3.Tổ chức công tác kế toán tài chính của công ty. ……………………….37.
2.1.4. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong 1 số năm….39
2.2. Thực trang công tác huy động vốn tại công ty vận tải Biển Bắc
2.2.1. Đặc điểm nguồn vốn của công ty…………………………………………45
2.2.2. Thực trạng công tác huy động vốn của công ty………………………….46
2.2.2.2. Huy động vốn chủ sở hữu………………………………………………..46
2.2.2.3. Huy động vốn nợ………………………………………………………...47
2.2.3. Đánh giá công tác huy động vốn tại công ty…………………………….49
2.2.3.1. Kết quả…………………………………………………………………..49
2.2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân………………………………………………..50
Chương 3: Một số giải pháp mở rộng hoạt động huy động vốn tại công ty vận tải Biển Bắc
3.1. Nhu cầu vốn của công ty…………………………………………………..56
3.1.1. Kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty giai đoạn 2007 – 2010…….56
3.1.2. Nhu cầu vốn và kế hoạch huy động vốn của công ty……………………59
3.2. Một số giải pháp mở rộng hoạt động huy động vốn tại công ty vận tải Biển Bắc
3.2.1. Khai thác tối đa nguồn vốn trong nội bộ công ty………………………….60
3.2.1.1. Xây dựng phương án bổ sung lợi nhuận vào vốn………………………..61
3.2.1.2. Đẩy mạnh huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu……………………..61
3.2.2. Tăng cường huy động nợ………………………………………………….63
3.2.2.1. Duy trì và phát huy nguồn vốn tín dụng ngân hàng…………………….63
3.2.2.2. Tăng cường phương thức tín dụng thương mại…………………………64
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng thương mại………………………………….65
3.3.2. Kiến nghị với cơ quan quản lý cấp trên…………………………………66
C. Kết luận……………………………………………………………69
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để tiến hành bất cứ một hoạt động nào như đầu tư, sản xuất thì vốn luôn là yếu tố rất quan trọng tác động đến việc có ra quyết định hay không. Và đối với hoạt động của các doanh nghiệp thì vốn lại càng có ý nghĩa quan trọng, đóng vai trò tiên quyết và là điều kiện đầu tiên khi muốn thành lập doanh nghiệp. Số vốn ban đầu này sẽ giúp doanh nghiệp đầu tư cơ sở vật chất, nguyên vật liệu và đưa sản xuất vào hoạt động. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động tiếp theo doanh nghiệp phải tiếp tục huy động thêm những nguồn vốn mới và mở rộng nguồn vốn cũ đẻ đáp ứng những thay đổi liên tục của thị trường. Chính vì vây, hoạt động huy động vốn trong doanh nghiệp luôn được coi trọng. Thực hiện tốt hoạt động này sẽ giúp doanh nghiệp huy động được những nguốn vốn tốt với chi phí hợp lý, từ đó xây dựng nên cơ cấu vốn hợp lý, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong các hoạt động sản xuất một cách thuận lợi.
Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ làm cho mỗi doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới để ứng phó được trước sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong nước và cả những doanh nghiệp nước ngoài. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có quy mô vốn lớn để vượt lên trên các đối thủ và giành giật thị trường. Muốn làm được vậy, hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp phải thực sự có hiệu quả. Đây là vấn đề đặt ra đối với rất nhiều doanh nghiệp hiện nay và Công ty vận tải Bỉên Bắc cũng không phải là ngoại lệ. Cùng với sự phát triển của thị trường, nhu cầu vốn của công ty ngày càng gia tăng. Chính vì vây, trong thời gian tới công ty cần nghiên cứu để đưa ra những phương thức huy động để tìm kiếm được những nguồn vốn tốt, tài trợ có hiệu quả cho các kế hoạch phát triển của mình. Với mục tiêu đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn đó, em đã chọn đề tài “ Giải pháp mở rộng hoạt động huy động vốn tại công ty vận tải Biển Bắc”làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Do còn nhiều hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên chuyên đề của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong có sự góp ý và chỉ bảo của thầy cô và các bạn.
Em cũng xin chân thành cảm ơn cô giáo – Th.S Nguyễn Thị Thuỳ Dương và các cô chú, anh chị đang công tác tại Công ty vận tải Biển Bắc đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo giúp em hoàn thành chuyên đề này.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VỐN VÀ CÔNG TÁC
HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Nguồn vốn của doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm vốn.
Vốn là một phạm trù kinh tế, nó gắn liền với quá trình sản xuất hàng hoá và đóng vai trò quan trọng, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thuận lợi theo đúng kế hoạch đã định.
Đã có rất nhiều quan điểm về vốn. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển thì vốn là một trong các yếu tố đầu vào để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh. Theo quan điểm này, vốn được xem xét dưới góc độ hiện vật là chủ yếu, chưa xem xét dưới góc độ tài chính - phần cơ bản nhất của vốn. Tuy nhiên, quan điểm này có rất nhiều ưu điểm như đơn giản, dể hiểu và phù hợp với trình độ sản xuất và quản lý thời sơ khai.
Theo quan điểm của một số nhà tài chính thì vốn lại là tổng số tiền của các cổ đông đóng góp và họ được hưởng phần thu nhập của công ty tương ứng với số vốn đã đóng góp. Theo quan điểm này, vốn được xem xét dưới góc độ tài chính là chủ yếu, đồng thời làm rõ được nguồn gốc cơ bản của vốn doanh nghiệp. Quan điểm này có ưu điểm là kích thích các nhà đầu tư tăng cường đầu tư vốn cho doanh nghiệp để mở rộng sản xuất để tăng thu nhập. Tuy nhiên, quan điểm này lại không cho thấy trạng thái và quá trình sử dụng vốn, do đó làm giảm vai trò và ý nghĩa của công tác quản lý vốn.
Theo một số nhà kinh tế học hiện đại thì vốn được xem xét dưới cả góc độ vốn hiện vật và vốn tài chính. Theo quan điểm này, vốn là một loại hàng hoá nhưng được tiếp tục sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo. Ở đây, chúng ta đã thấy rõ nguồn gốc hình thành và trạng thái biểu hiện của vốn, nhưng những mục đích sử dụng của vốn vẫn chưa được thể hiện trong quan điểm này.
Theo quan điểm của Mác, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất. Tuy định nghĩa của Mác mang một tầm khái quát lớn nhưng do bị hạn chế bởi những điều kiện khách quan lúc bấy giờ nên ông đã quan niệm chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước bao cấp hoàn toàn về vốn thông qua cơ chế cấp vốn của Ngân sách nhà nước và hệ thống tín dụng Ngân hàng. Với cơ chế này, các doanh nghiệp nhà nước chỉ có chức năng sản xuất mà không có chức năng kinh doanh. Vì vậy mà phạm trù vốn kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước không được đặt ra.
Trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, ngoài chức năng sản xuất ra sản phẩm và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho xã hội, doanh nghiệp Nhà nước có thêm chức năng kinh doanh với mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận. Phạm trù vốn kinh doanh ra đời trong bối cảnh này, bởi vì muốn tiến hành hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần thiết phải có vốn, trong đó, ngoài nguồn vốn của Nhà nước, còn có nguồn vốn do doanh nghiệp huy động để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của đơn vị mình.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không ngừng vận động và tồn tại ở nhiều hình thái vật chất khác nhau nhằm tạo ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ tiêu thụ trên thị trường. Chúng ta có thể khái quát vòng luân chuyển của vốn qua sơ đồ: T – H – T’ ( T’> T). Qua sơ đồ này ta thấy từ những đồng vốn ban đầu doanh nghiệp mua sắm các trang thiết bị, vật tư, nhân công…để phục vụ cho quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm, vốn lại trở về hình thái ban đầu là tiền ( doanh thu bán hàng ), kết thúc một vòng luân chuyển vốn và bắt đầu vòng luân chuyển mới. Số tiền mà doanh nghiệp thu về sau khi tiêu thụ được sản phẩm phải lớn hơn số tiền ban đầu doanh nghiệp bỏ ra, như thế mới có thể bù đắp được chi phí và đảm bảo có lãi. Như vậy, vốn sẽ được tái đầu tư vào kinh doanh với quy mô lớn hơn, làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển.
Từ những phân tích trên, ta có thể đưa ra một số khái niệm về vốn như sau: “Vốn là một phạm trù kinh tế cơ bản. Vốn sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được sử dụng đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi”
1.1.2. Phân loại vốn.
Có nhiều cách để phân loại vốn và tuỳ thuộc vào mỗi tiêu thức phân loại, mục đích nghiên cứu mà ta có các loại vốn khác nhau. Tuy nhiên, các cách phân loại phổ biến hiện nay là căn cứ theo hình thức chu chuyển, nguồn hình thành, theo thời gian và hình thức sở hữu.
* Phân loại theo hình thức chu chuyển:
Theo hình thức chu chuyển của vốn, ta sẽ có vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định là bộ phận của vốn mà doanh nghiệp đã đầu tư vào vào TSCĐ và đặc điểm của nó là luân chuyển giá trị dần dần từng phần một và cũng được thu hồi dần dần trong suốt quá trình sử dụng TSCĐ.
Vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn ứng trước để hình thành nên TSLĐ. Vốn lưu động chu chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần và được thu hồi khi kết thúc một vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ kinh doanh.
*Phân loại theo nguồn hình thành:
Theo tiêu thức phân loại này, ta sẽ có vốn của doanh nghiệp gồm 2 bộ phận là vốn góp ban đầu và vốn bổ sung.
Vốn góp ban đầu là số vốn do chủ sở hữu đã bỏ ra khi doanh nghiệp bắt đầu tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vốn bổ sung là số vốn tăng thêm trong quá trình hoạt động nhằm mục đích duy trì và tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn này có thể hình thành từ các nguồn: Lợi nhuận giữ lại, nguồn vốn vay hay vốn huy động thêm từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
* Phân loại theo thời gian:
Nếu chia vốn theo độ dài thời gian, ta có vốn ngắn hạn và vốn trung và dài hạn.
Vốn ngắn hạn là loại vốn có thời gian sử dụng dưới một năm. Các khoản vốn ngắn hạn thường được hình thành từ các khoản vay ngắn hạn hoặc chiếm dụng ngắn hạn của doanh nghiệp.
Vốn trung và dài hạn là vốn có thời gian sử dụng trên một năm. Đây là loại vốn thường được dùng để đầu tư vào các TSCĐ của doanh nghiệp và thường do chủ doanh nghiệp bỏ ra hoặc vay dài hạn từ các tổ chức tín dụng hay từ dân cư thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
* Phân loại theo hình thức sở hữu:
Với tiêu chí này, nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và vốn nợ.
Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp, bao gồm: vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia và vốn từ phát hành cổ phiếu.
Vốn nợ là phần vốn không thuộc sở hữu của doanh nghiệp và thường là các khoản mà doanh nghiệp có nghĩa vụ phải trả cho người khác. Đó có thể là phần vốn mà doanh nghiệp đang chiếm dụng của bạn hàng (tín dụng thương mại) hay các khoản vay từ các tổ chức tín dụng và phải trả lãi ( tín dụng ngân hàng). Đến một thời hạn nhất định, doanh nghiệp sẽ phải hoàn trả lại các khoản vốn này cho những chủ nợ của mình.
Đây là tiêu chí phân loại đang được các doanh nghiệp sử dụng phổ biến nhất để quản lý nguồn vốn của mình bởi cách phân loại này phù hợp với mục tiêu quan trọng nhất của quản trị tài chính doanh nghiệp là “ tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu”. Việc phân loại vốn thành vốn chủ và vốn nợ giúp cho chủ doanh nghiệp có thể nhận thức rõ những gì là của họ và những gì không, từ đó sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để có hiệu quả cao nhất. Trong phạm vi của đề tài này, cách phân loại theo tính chất sở hữu được sử dụng để nghiên cứu hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp. Theo đó, vốn được chia thành: vốn chủ và vốn nợ.
1.1.3. Vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để tiến hành bất cứ một hoạt động nào như đầu tư, sản xuất thì vốn luôn là yếu tố rất quan trọng tác động đến việc có ra quyết định hay không. Và đối với hoạt động của các doanh nghiệp thì vốn lại càng có ý nghĩa quan trọng, đóng vai trò tiên quyết cho mỗi quyết định đầu tư và tác động tới toàn bộ quá trình sản xuất. Ta có thể tóm tắt vai trò của vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp qua một số điểm chính sau:
Trước hết, vốn là tiền đề, là nền tảng cơ bản cho doanh nghiệp khi muốn tiến hành sản xuất kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp khi mới thành lập và đi vào sản xuất, đều cần phải có một số vốn ban đầu để đầu tư các yếu tố cần thiết. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp sản xuất thì vốn càng có ý nghĩa đặc biệt. Không như các doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ, các yếu tố đầu vào như mua sắm máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đều phải mua bằng tiền, không có hoặc có ít vốn cũng đồng nghĩa với việc gặp nhiều khó khăn khi tiến hành kinh doanh.
Hơn nữa, vốn còn là yếu tố cần thiết để hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành một các liên tục và có hiệu quả. Trước hết, để duy trì được hoạt động sản xuất bình thường, giữ vững được những kết quả đã đạt được thì số vốn đầu tư ban đầu phải được quay vòng liên tục và bảo toàn sau mỗi chu kỳ luân chuyển. Có như vậy doanh nghiệp mới có vốn để tiếp tục mua sắm các tư liệu sản xuất cho những chu kỳ tiếp theo. Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả hoạt động, bên cạnh việc duy trì những cái hiện có thì doanh nghiệp cũng cần cải tạo, đưa công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất, đào tạo nâng cao trình độ CBNV…Để làm đươc những việc đó, doanh nghiệp cũng cần phải có vốn.
Cuối cùng, vốn là công cụ quan trọng phản ánh sự vận động của tài sản. Thông qua các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn giúp các nhà quản trị doanh nghiệp biết được thực trạng công tác sử dụng vốn tại doanh nghiệp mình và từ đó sẽ có những quyết định phù hợp. Một doanh nghiệp hoạt động tốt là doanh nghiệp có thể sử dụng hiệu quả mỗi đồng vốn của mình để đem lại kết quả cao nhất, với mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu.
Như vây, ta thấy rằng vốn có vai trò đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng tới mọi thành công hay thất bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp trên thị trường. Chính vì vậy, trong quản trị tài chính doanh nghiệp thì công tác quản lý nguồn vốn luôn được các doanh nghiệp chú trọng.
1.2. Huy động vốn của doanh nghiệp.
1.2.1. Sự cần thiết của công tác huy động vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp khi mới thành lập đều có một số vốn ban đầu. Số vốn này sẽ giúp doanh nghiệp đầu tư cơ sở vật chất, nguyên vật liệu và đưa sản xuất vào hoạt động. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động tiếp theo doanh nghiệp phải tiếp tục huy động thêm những nguồn vốn mới và mở rộng nguồn vốn cũ bởi những nguyên nhân sau:
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ làm cho mỗi doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới để ứng phó được trước sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong nước và cả những doanh nghiệp nước ngoài. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có quy mô vốn lớn để vượt lên trên các đối thủ và giành giật thị trường. Quy mô vốn lớn sẽ cho phép doanh nghiệp có nhiều điều kiện để đầu tư, áp dụng những công nghệ hiện đại vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, tạo ra bước đột phá trong chất lượng, mẫu mã của sản phẩm truyền thống hay nghiên cứu và sản xuất những sản phẩm mới. Vốn lớn cũng giúp doanh nghiệp có khả năng theo đuổi những dự án dài hạn có thể đem lại lợi nhuận lớn trong tương lai. Hơn nữa, một doanh nghiệp có vốn lớn cũng thường dễ dàng đa dạng hoá lĩnh vực kinh doanh mà vẫn có thể chuyên nghiệp hoá trong từng ngành nghề, giúp doanh nghiệp hạn chế được những rủi ro mang tính đặc trưng ngành. Khi môi trường kinh doanh của một ngành nghề, lĩnh vực nào đó có những biến động bất lợi thì những doanh nghiệp vốn lớn với ngành nghề đa dạng sẽ dễ dàng chuyển hướng sang lĩnh vực thuận lợi và đảm bảo cho doanh nghiệp vẫn hoạt động bình thường. Khi đó, doanh nghiệp có thể sử dụng lợi nhuận của ngành kinh doanh phát đạt để bù đắp cho các lĩnh vực kinh doanh đang gặp khó khăn, từ đó tăng khả năng trụ vững của doanh nghiệp trước những đối thủ có quy mô vốn nhỏ, phạm vi kinh doanh hẹp hơn.
Quy mô vốn lớn cũng giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín trên thương trường bởi uy tín của doanh nghiệp trước tiên là khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn. Một doanh nghiệp có quy mô nhỏ dễ đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán và có thể dẫn tới phá sản doanh nghiệp. Chính vì vậy, các doanh nghiệp rất khó có thể tiếp cận đến những nguồn vốn quy mô lớn từ phía ngân hàng và các đối tác. Trong khi đó, doanh nghiệp vốn lớn có thể nợ nhiều hơn nhưng lại dễ dàng hơn doanh nghiệp nhỏ trong việc điều động các khoản vốn khác để chi trả nợ đến hạn bởi quan niệm những công ty lớn là những thực thể kinh doanh vững mạnh và đáng tin cậy, không dễ dàng phá sản như những doanh nghiệp có quy mô nhỏ.
Như vậy, quy mô vốn của doanh nghiệp có tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó mỗi doanh nghiệp đều luôn quan tâm đến công tác huy động vốn nhằm không ngừng mở rộng nguồn vốn của doanh nghiệp mình để có thể đáp ứng được những đòi hỏi liên tục của thị trường.
1.2.2. Cơ cấu vốn và các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp.
1.1.2.1. Vai trò của VCSH và các phương thức huy động VCSH
Như phân tích ở trên, vốn là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời là cơ sở để phân phối và đánh giá hiệu quả các hoạt động kinh tế. Vốn là điều kiện không thể thiếu để thành lập một doanh nghiệp. Để duy trì và mở rộng sản xuất, doanh nghiệp có thể dựa vào hai nguồn vốn cơ bản là vốn chủ và nợ vay. Tuy nhiên, không một doanh nghiệp nào có thể tồn tại vững chắc nếu chỉ dựa vào nguồn vốn đi vay bởi vốn chủ là một nguồn vốn quan trọng, là lá chắn cho doanh nghiệp trước những biến cố bất lợi của thị trường. Cụ thể:
Trong điều kiện môi trường kinh doanh có nhiều biến động, doanh nghiệp có thể gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh. Khi đó, nếu doanh nghiệp sử dụng quá nhiều nợ sẽ gặp rất nhiều khó khăn do phải đối mặt với việc chi trả nợ và lãi vay trong khi sản xuất không hiệu quả. Nếu không có một lượng tiền đủ lớn đến thanh toán các khoản nợ, đồng nghĩa có thể đẩy doanh nghiệp tới nguy cơ mất khả năng thanh toán và đứng trước bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu doanh nghiệp có một số vốn chủ đủ lớn, sản xuất không phụ thuộc nhiều vào nợ vay có thể giúp doanh nghiệp không phải đối mặt với những dòng tiền ra trong tương lai gần, giúp doanh nghiệp có thể trụ vững và vượt qua thời đỉểm khó khăn.
Việc sử dụng vốn chủ cũng giúp doanh nghiệp có thể chủ động trong kinh doanh. Tuy sử dụng vốn nợ thường có chi phí rẻ hơn nhưng kèm theo đó có thể là những điều kiện ràng buộc đối với doanh nghiệp. Chẳng hạn, nếu vay vốn từ các tổ chức tín dung, doanh nghiệp có thể phải chịu sự kiểm tra, giám sát đối với mục đích và quá trình sử dụng vốn. Ngoài ra để được vay vốn, doanh nghiệp còn phải đáp ứng những yêu cầu khá khắt khe của ngân hàng về điều kiện tín dụng, điều kiện đảm bảo tiền vay….Nếu là các khoản vay tín dụng thương mại với các bạn hàng doanh nghiệp có thể phải chấp nhận những điều kiện từ phía đối tác. Đặc biệt, trường hợp doanh nghiệp có các khoản tín dụng thương mại lớn, nếu các đối thủ bắt tay với nhau để gây sức ép thì có thể đẩy doanh nghiệp tới nguy cơ mất khả năng thanh toán và phá sản. Trong khi đó với việc sử dụng vốn chủ, doanh nghiệp có thể chủ động hơn nhiều trong việc ra quyết định liên quan đến hoạt động sản xuất và đầu tư mà không bị chịu sự chi phối nhiều từ các chủ thể kinh tế bên ngoài.
Hơn nữa, một doanh nghiệp có quy mô vốn lớn, đặc biệt là vốn chủ sở hữu sẽ dễ dàng hơn trong việc gây dựng uy tín trên thị trường. Quy mô vốn chủ lớn là tấm bình phong cho doanh nghiệp có thể tạo niềm tin với bạn hàng và các chủ thể kinh tế khác về khả năng hoạt động, đặc biệt là khả năng thanh toán. Chính vì vậy, các ngân hàng thường dành nhiều ưu ái hơn cho các doanh nghiệp có quy mô vốn chủ lớn, có tài sản thế chấp giá trị cao bởi quan niệm những doanh nghiệp này sẽ có khả năng phá sản khó hơn những doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ. Các bạn hàng, đối tác cũng dễ dàng chấp nhận cho mua chịu với số lượng nhiều hơn, quy mô lớn hơn đối với các doanh nghiệp có vốn chủ lớn. Quy mô vốn lớn, uy tín cao sẽ giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận tới những nguồn vốn khác từ các tầng lớp dân cư thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Tóm lại, vốn chủ giúp doanh nghiệp có thể hoạt động một cách thuận lợi, dễ dàng và chủ động hơn , góp phần tạo ra vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Chính vì vậy, các doanh nghiệp bên cạnh tìm kiếm những nguồn vốn nợ vẫn phải chú trọng đến công tác huy động mở rộng nguồn vốn chủ sở hữu, với mục tiêu đảm bảo sự tồn tại vững chắc và ổn định của doanh nghiệp.
Các phương thức huy động nguồn VCSH.
Đối với mọi loại hình doanh nghiệp, VCSH đều bao gồm các bộ phận chính là vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia và tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu.
* Vốn góp ban đầu
Mỗi doanh nghiệp ngay từ khi thành lập đều đòi hỏi phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông - chủ sở hữu - cổ đông đóng góp. Tuy nhiên với mỗi loại hình doanh nghiệp có hình thức sở hữu khác nhau sẽ có đặc điểm, tính chất của nguồn VCSH khác nhau bởi hình thức sở hữu sẽ quyết định đến hình thức tạo vốn của doanh nghiệp. Cụ thể:
Với doanh nghiệp Nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước và Nhà nước cũng là chủ sở hữu của doanh nghiệp. Hiện nay, cơ chế quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn của doanh nghiệp Nhà nước đang có những thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế.
Đối với các loại hình Doanh nghiệp khác, chủ doanh nghiệp phải có một số vốn ban đầu để đăng ký thành lập theo quy định. Số vốn ban đầu này lớn hay nhỏ sẽ phụ thuộc vào lĩnh vực mà doanh nghiệp tham gia hoạt động và loại hình tổ chức của doanh nghiệp.
Đối với công ty cổ phần, vốn góp ban đầu là do cổ đông đóng góp và mỗi cổ đông đều có vai trò là chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn với các vấn để của công ty trên phạm vi số vốn góp của mình.
Đối với doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp chỉ cần đăng ký với cơ quan chuyên trách về số vốn tự có ban đầu để xin cấp giấy phép kinh doanh. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực kinh doanh như ngân hàng, vàng bạc đá quý…thì đòi hỏi phải có một số vốn pháp định theo quy định của pháp luật.
Đối với các loại hình doanh nghiệp khác như công ty TNHH, công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thì nguồn vốn góp ban đầu cũng tương tự như trên, tức là vốn có thể do chủ đầu tư bỏ ra, do các bên tham gia, các đối tác góp…Tỷ lệ và quy mô góp vốn của các bên tham gia công ty phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau (như luật pháp, đặc điểm ngành kinh tế - kỹ thuật, cơ cấu liên doanh).
* Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia
Mỗi doanh nghiệp có một quy mô vốn ban đầu nhất định và thông thường, số vốn này sẽ được tăng thêm cùng với sự phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình kinh doanh, một doanh nghiệp hoạt động hiệu quả sẽ có điều kiện giữ lại một phần lợi nhuận không chia để tăng vốn. Từ đó doanh nghiệp có thể tái đầu tư , mở rộng phạm vi và quy mô kinh doanh.
Việc tài trợ bằng lợi nhuận không chia là một phương thức huy động vốn quan trọng và khá hấp dẫn với các doanh nghiệp bởi doanh nghiệp có thể chủ động trong việc huy động và sử dụng, hạn chế sự phụ thuộc vào chủ thể cung cấp vốn khác và giảm được chi phí do huy động vốn từ bên ngoài. Bên canh đó, việc sử dụng lợi nhuận không chia còn giúp doanh nghiệp giảm được tỷ lệ nợ/ Tổng nguồn vốn, tăng cường khả năng thanh toán cho doanh nghiệp và đặc biệt, có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tạo sự tín nhiệm với các tổ chức tín dụng.
Quy mô của nguồn vốn này phụ thuộc vào hai yếu tố chính là tổng lợi nhuận thu được trong kỳ và chính sách giữ lại lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đạt được lợi nhuận cao trong kỳ có thể trích một phần đáng kể để bổ sung vào vốn. Ngược lại, trong điều kiện hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn, không có lợi nhuận hoặc thua lỗ thì doanh nghiệp không thể bổ sung thêm vào vốn. Chính sách giữ lại lợi nhuận của doanh nghiệp cho cổ đông nhiều hay ít cũng ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ lợi nhuận giữ lại tái đầu tư, quyết định đến quy mô phần lợi nhuận để lại.
* Phát hành cổ phiếu
Các doanh nghiệp cũng có thể tăng nguồn VCSH của mình thông qua hoạt động phát hành cổ phiểu mới. Những người nắm giữ cổ phiếu sẽ trở thành cổ đông và là chủ sở hữu của doanh nghiệp. Đặc điểm quan trọng của nguồn vốn này là đây là nguồn tài chính dài hạn phát hành cổ phiếu được coi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có thể phát hành hai loại cổ phiếu, đó là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu tiên.
Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu điểm khi phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu thường không phải là chứng khoán có lượng giao dịch lớn nhất thị trường nhưng luôn được các nhà đầu tư coi là chứng khoán quan trọng nhất. Các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thông thường chính là những người chủ sở hữu của doanh nghiệp và họ có quyền tham gia kiểm soát và điều khiển các công việc của doanh nghiệp, có quyền đối với tài sản và sự phân chia tài sản hoặc thu nhập của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp phá sản thì các cổ đông chỉ được đền bù sau khi doanh nghiệp đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán đối với các chủ nợ nên rủi ro của các cổ đông là lớn hơn so với các chủ nợ.
Cổ phiếu ưu tiên là loại cổ phiếu ít thông dụng hơn so với cổ phiếu thường và chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu ưu tiên lại thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức cố định. Người nắm giữ cổ phiếu ưu tiên được hưởng quyền lợi là được thanh toán lãi trước cổ đông thường, tức là nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó. Đối với mỗi doanh nghiệp cổ phần thì quyền lợi dành cho các cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi có thể khác nhau và chính sách ưu đãi cho cổ phiếu ưu tiên được nêu rõ trong điều lệ của từng doanh nghiệp.
Như vậy, loại hình doanh nghiệp cổ phần có được ưu điểm là quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng một cách tương đối nên bộ máy quản lý doanh nghiệp có thể chủ động sử dụng có hiệu quả số vốn của doanh nghiệp. Hơn nữa trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có thể huy động thêm vốn chủ một cách thuận lợi thông qua hoạt động phát hành cổ phiếu mới. Tuy vây, việc tăng thêm vốn bằng phát hàng cổ phiếu mới cũng có một số hạn chế. Đó là không phải doanh nghiệp cổ phần nào cũng có khả năng tiếp cận tới nguồn vốn này mà chỉ những doanh nghiệp cổ phần đạt được một số tiêu chí về tài chính mới được phát hành cổ phiếu bổ sung. Ngoài ra, việc dùng hình thức này có thể dẫn đến “hiệu ứng pha loãng”, làm giảm giá trị cổ phần của cổ đông cũ từ đó làm suy giảm lòng tin của cổ đông cũ và cả những nhà đầu tư.
1.1.2.2. Vai trò của nợ và các phương thức huy động nguồn vốn nợ.
Như đã phân tích ở trên, nguồn VCSH có vai trò quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển, rất khó để cho một doanh nghiệp có thể hoạt động hiệu quả nếu chỉ dựa vào nguồn VCSH mà không sử dụng các nguồn vốn nợ bởi nguồn vốn này cũng có những đóng góp quan trọng, giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ đạt kết quả cao, đó là:
Nếu doanh nghiệp huy động vốn qua các tổ chức tín dụng với hình thức nợ vay ngắn và dài hạn thì chi phí lãi vay sẽ được tính vào chi phí hợp lý của doanh nghiệp và nó có thể đem lại cho doanh nghiệp một khoản tiết kiệm từ thuế. Hơn nữa, việc sử dụng nợ vay thể hiện rõ nguyên tắc đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro cho doanh nghiệp. Sử dụng nợ vay có thể đem lại rủi ro lớn hơn do có thể làm doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nhưng bù lại, có thể mang lại hiệu quả lớn hơn so với VCSH. Chính vì vậy, trong bối cảnh thị trường thuận lợi, doanh nghiệp ít phải đối mặt với nhiều rủi ro trong kinh doanh thì sử dụng nợ vay sẽ là kênh huy động vốn hiệu quả cho doanh nghiệp bởi chi phí nợ vay thường thấp hơn. Việc sử dụng nợ vay lại có thể tạo đòn bẩy tài chính, làm tăng EPS đồng nghĩa với việc làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu – mục đích hàng đầu cho hoạt động của doanh nghiệp.
Ngoài nguồn vốn nợ chủ yếu từ các ngân hàng, doanh nghiệp còn có thể sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại với ưu điểm là mộ._.t phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh. Hơn nữa, nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền giữa doanh nghiệp và các bạn hàng. Chính vì vậy, nếu doanh nghiệp sử dụng và có thể quản lý tốt nguồn vốn này thì sẽ giúp doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các phương thức huy động nguồn vốn nợ
Trong quá trình hoạt động thì ngoài nguồn VCSH, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ để bổ sung cho quá trình sản xuất kinh doanh từ các nguồn: Tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu công ty.
* Tín dụng ngân hàng
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển, rất khó để cho một doanh nghiệp có thể hoạt động hiệu nếu chỉ dựa trên nguồn VCSH. Để đáp ứng yêu cầu vốn cho việc duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh thì nhiều doanh nghiệp đã tiếp cận tới nguồn vốn vay ngân hàng và đây được coi là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Các doanh nghiệp tìm đến nguồn vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng những mục tiêu khác nhau như thoả mãn nhu cầu đầu tư tài sản cố định, vốn lưu động, … Tương ứng với mỗi mục đích sử dụng đó, ngân hàng có thể phân loại vay thành các loại như: cho vay đầu tư tài sản cố định, cho vay đầu tư tài sản lưu động, cho vay để đầu tư dự án,…Còn nếu phân loại theo thời hạn vay thì vốn vay ngân hàng thường được phân thành vay dài hạn (thường từ 3 năm trở lên, có nơi là 5 năm trở lên), vay trung hạn (từ 1 đến 3 năm), vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Tuy nhiên, tiêu chuẩn và quan niệm về thời gian để phân loại không giống nhau giữa các nước và có thể khác nhau giữa các ngân hàng thương mại.
Như vậy, không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Tuy nhiên, để có thể tiếp cận tới nguồn vốn này cũng không phải là điều đơn giản bởi doanh nghiệp sẽ phải chấp nhận những điều kiện chặt chẽ như điều kiện tín dụng khắt khe, việc kiểm soát của ngân hàng hay chi phí sử dụng vốn cao.
Điều kiện tín dụng: là những yêu cầu của ngân hàng đối với các doanh nghiệp khi muốn vay vốn tại các ngân hàng nhằm đảm bảo an toán tín dụng của ngân hàng. Doanh nghiệp sẽ phải xuất trình hồ sơ vay vốn cùng những thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu. Để ra quyết định có cho vay hay không, ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh giá các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp.
Điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, các ngân hàng thường yêu cầu các doanh nghiệp đi vay phải có các bảo đảm tiền vay mà phổ biến nhất là tài sản thế chấp. Điều kiện này khiến cho nhiều đối tượng không thể đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng, kể cả những thủ tục pháp lý liên quan…Đây cũng là một trong những rào cản khiến cho các doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ gặp nhiều khó khăn khi muốn tiếp cận tới nguồn vốn này.
Sự kiểm soát của ngân hàng: Khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự kiê soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay. Sự kiểm soát này thường không gây khó khăn cho doanh nghiệp, tuy nhiên trong một số trường hợp, điều này làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị “kiểm soát”.
Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất cho vay của ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất này quá cao thì doanh nghiệp sẽ phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và ảnh hưởng thu nhập của doanh nghiệp.
*Tín dụng thương mại
Ngoài nguồn vốn ngân hàng, doanh nghiệp có thể khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại. Đây là nguồn vốn hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp giữa các doanh nghiệp bạn hàng. Chi phí của việc sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại được ẩn dưới hình thức thay đổi mức giá, tuỳ thuộc quan hệ và thoả thuận cụ thể giữa các bên. Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh. Hơn nữa, nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần nhận thấy tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ quá lớn có thể khiến doanh nghiệp đối mặt với nguy cơ mất khả năng thanh toán.
*Phát hành trái phiếu
Trái phiếu là tên gọi chung của giấy vay nợ dài hạn và trung hạn mà người phát hành đảm bảo sẽ chi trả cho người sở hữu trái phiếu một khoản tiền nhất định sau một khoảng thời gian xác định. Khi doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn từ thị trường, doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu công ty. Tuy nhiên, doanh nghiệp sẽ phải nghiên cứu để lựa chọn loại trái phiếu phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình và thị trường tài chính. Việc lựa chọn các loại trái phiếu khác nhau sẽ ảnh hưởng đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, tính thanh khoản và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước, hiện nay thường lưu hành những loại trái phiếu doanh nghiêp sau:
Trái phiếu có lãi suất cố định
Đây là loại trái phiếu thường được sử dụng nhiều nhất và phổ biến nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suất kỳ hạn của trái phiếu. Như vậy cả doanh nghiệp (người đi vay) và người giữ trái phiếu (người cho vay) đều biết rõ mức lãi suất danh nghĩa của khoản nợ trong suốt kỳ hạn của trái phiếu. Việc xác định rõ mức lãi suất của khoản nợ sẽ giúp doanh nghiệp có thể chủ động trong kế hoạch thanh toán.
Để huy động vốn trên thị trường bằng trái phiếu, doanh nghiệp phải tính đến mức đọ hấp dẫn của trái phiếu đối với nhà đầu tư. Tính hấp dẫn phụ thuộc vào những yếu tố sau:
Lãi suất của trái phiếu: Nhà đầu tư luôn ưu thích những trái phiếu có lãi suất cao. Tuy nhiên doanh nghiệp phát hành phải cân nhắc mức lãi suất có thể chấp nhận được do lãi suất trái phiếu tác động tới chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Lãi suất của trái phiếu doanh nghiệp cũng phải được đặt trong tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt phải tính đến sự cạnh tranh của trái phiếu các công tay khác và trái phiếu chính phủ.
Kỳ hạn của trái triếu: Đây là yếu tố rất quan trọng đối với cả doanh nghiệp phát hành và nhà đầu tư. Tuỳ vào mỗi thời kỳ khác nhau của nền kinh tế và tâm lý của nhà đầu tư mà trái phiếu có kỳ hạn khác nhau sẽ được ưu thích khác nhau. Chính vì vậy khi phát hành, doanh nghiệp phải căn cứ vào tình hình thị trường vốn và tâm lý dân cư mới có thể xác định kỳ hạn hợp lý. Thông thường, kỳ hạn của trái phiếu càng dài, rủi ro đối với nhà đầu tư càng cao và lãi suất để bù đắp rủi ro sẽ phải cao tương ứng.
Uy tín của doanh nghiệp: Doanh nghiệp có uy tín tốt, được nhiều người biết đến thì sẽ dễ dàng hơn trong việc phát hành trái phiếu để huy động vốn. Ngược lại, những doanh nghiệp có ít tiếng tăm trên thị trường sẽ gặp nhiều khó khăn để có thể thu hút nhà đầu tư mua trái phiếu của doanh nghiệp mình.
Ngoài ra, mệnh giá của trái phiếu cũng ảnh hưởng đến sức mua của dân chúng. Trái phiếu có mức giá vừa phải sẽ là điều kiện cho nhiều người có thể mua được, tạo sự lưu thông dễ dàng cho trái phiếu trên thị trường.
Trái phiếu có lãi suất thay đổi
Đây là loại trái phiếu mà lãi suất của nó phụ thuộc vào một số nhân tố như mức lãi suất cơ bản, tỷ lệ lợi nhuận của công ty,…Doanh nghiệp thường phát hành loại trái phiếu này trong điều kiện mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định. Sự biến động của lạm phát sẽ kéo theo sự dao động cảu lãi suất thực và các nhà đầu tư muốn được hưởng một lãi suất thoả đáng khi so sánh với tình hình thị trường. Khi đó, nhiều nhà đầu tư ưu thích trái phiếu có lãi suất thả nổi hơn là nắm giữ trái phiếu có lãi suất cố định. Tuy nhiên, về phía doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn cho việc lập kế hoạch tài chính do không biết chắc chắc về chi phí lãi vay của trái phiếu và việc quản lý trái phiếu cũng đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất.
Trái phiếu có thể thu hồi
Một số doanh nghiệp có thể lựa chọn phát hành loại trái phiếu này sau đó có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Khi phát hành ra công chúng, doanh nghiệp phải thông báo và quy định rõ về thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp chuộc loại trái phiếu để người mua trái phiếu được biết. Sử dụng loại trái phiếu này giúp cho doanh nghiệp có thể dễ dàng hơn khi muốn điều chỉnh lượng vốn sử dụng. Khi cần thiết, doanh nghiệp có thể mua lại các trái phiếu để giảm số vốn vay.
Trái phiếu có thể chuyển đổi được
Nhằm tăng tính hấp dẫn và giảm rủi ro cho người nắm giữ trái phiếu, doanh nghiệp có thể phát hành loại trái phiếu này. Nó có thể chuyển đổi thành số lượng nhất định các cổ phiếu thường. Nhà đầu tư còn có thể nắm giữ giấy bảo đảm để có thể mua một số lượng cổ phiếu thường theo mức giá và thời gian xác định và nếu thị giá của cổ phiếu tăng lên thì người nắm giữ trái phiếu sẽ có cơ may nhận được lợi nhuận cao.
Như vậy, phát hành trái phiếu là một phương thức huy động vốn hiệu quả cho nhiều doanh nghiệp trong bối cảnh không muốn phát hành cổ phiếu (lo sợ mất quyền kiểm soát bởi cổ đông bên ngoài). Tuy nhiên, hiện nay rất ít doanh nghiệp sử dụng kênh huy động này bởi một số nguyên nhân như: thị trường giao dịch trái phiếu còn kém phát triển khiến tính thanh khoản của trái phiếu không cao nên rất khó phát hành. Hơn nữa, sự hiểu biết của doanh nghiệp về các công cụ tài chính chưa cao nên doanh nghiệp vẫn chưa thấy hết được những lợi thế của việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của doanh nghiệp.
Như phân tích ở trên, quy mô vốn của doanh nghiệp có tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó mỗi doanh nghiệp đều luôn quan tâm đến công tác huy động vốn nhằm không ngừng mở rộng nguồn vốn của doanh nghiệp mình để có thể đáp ứng được những yêu cầu của thị trường. Tuy nhiên khi tiến hành hoạt động huy động vốn, mỗi doanh nghiệp lại phải giải quyết những vấn đề khác nhau do các yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động này, đó là:
1.2.3.1. Yếu tố chủ quan.
*Hình thức sở hữu của doanh nghiệp.
Hình thức sở hữu của doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp bởi hình thức sở hữu sẽ quyết định tới sự đánh giá của các chủ thể kinh tế khác (nhà đầu tư, ngân hàng…) đối với doanh nghiệp. Do đó sẽ tác động đến khả năng tiếp cận của doanh nghiệp tới các nguồn vốn khác nhau trong nền kinh tế.
Đối với doanh nghiệp cổ phần thì huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu là hai hình thức huy động rất linh động và được nhiều doanh nghiệp đang sử dụng. Hình thức huy động này giúp doanh nghiệp có thể chủ động trong việc huy động vốn với quy mô và thời gian sử dụng có thể xác định trước một cách tương đối chính xác. Trong khi đó, lợi nhuận giữ lại tái đầu tư của doanh nghiệp cổ phần có thể thay đổi theo từng năm, tuỳ vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp trong từng giai đoạn. Ở giai đoạn tăng trường, cần nhiều vốn mở rộng sản xuất thì doanh nghiệp thường chia cổ tức ở mức thấp hoặc không chia và giữ lại phần lớn lợi nhuận để tái đầu tư. Ngược lại, trong giai đoạn có ít nhu cầu về vốn, doanh nghiệp thường có chính sách chia cổ tức cao và để lại rất ít lợi nhuận.
Đối với doanh nghiệp tư nhân thì huy nợ không phải là sự lựa chọn ưa thích bởi có tính rủi ro cao, đặc biệt trong thời kỳ kinh tế suy thoái. Hơn nữa, doanh nghiệp tư nhân cũng gặp khó khăn khi muốn vay vốn, nhất là các khoản vay lớn và dài hạn tại các tổ chức tín dụng bởi họ không dành được nhiều ưu ái từ các tổ chức tín dụng, lại thường không có tài sản thế chấp có giá trị lớn. Trong điều kiện đó thì số vốn góp ban đầu và lợi nhuận giữ lại sẽ là hai nguồn huy động vốn quan trọng và hay được sử dụng nhất của các doanh nghiệp tư nhân.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, do thường có quy mô lớn lại được sự bảo lãnh của Nhà nước nên sẽ được ưu ái khi muốn vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Do vậy, vốn góp ban đầu ( do Nhà nước bỏ ra) và vốn vay từ các tổ chức tín dụng là hai nguồn quan trọng nhất. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhà nước do quen sự bao cấp của nhà nước, thường kém linh hoạt trước những biến động của thị trường nên kết quả kinh doanh thường không cao, lợi nhuận để lại tái đầu tư không có hoặc thấp.
Như vậy, hình thức sở hữu có tác động trực tiếp tới công tác huy động vốn của doanh nghiệp trong việc xác định nguồn và phương thức huy động. Do đó, mỗi doanh nghiệp khi có nhu cầu mở rộng nguồn vốn sẽ dựa vào hình thức sở hữu của doanh nghiệp mình mà có những chính sách huy động vốn phù hợp, nhằm phát huy tối đa hiệu quả công tác huy động vốn.
* Quy mô, kết quả hoạt động và uy tín của doanh nghiệp.
Muốn huy động được nguồn vốn tốt không chỉ do ý muốn chủ quan của doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào quyết định của các chủ thể kinh tế (nhà đầu tư, ngân hàng…) có sẵn lòng cấp vốn cho doanh nghiệp hay không. Một trong những yếu tố hàng đầu tác động đến quyết định của nhà đầu tư chính là quy mô và uy tín của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có quy mô lớn thường thuận lợi hơn trong việc huy động vốn, đặc biệt là các khoản vốn lớn. Doanh nghiệp quy mô lớn sẽ dễ dàng tiếp cận vốn vay từ các tổ chức tín dụng bởi doanh nghiệp này thường có đầy đủ tài sản thế chấp để đảm bảo cho các khoản vay của họ.Công chúng cũng sẽ quan tâm và sẵn lòng mua cổ phiếu và trái phiếu của doanh nghiệp lớn hơn là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ bởi quan niệm các doanh nghiệp lớn sẽ có khả năng trụ vững trước sự biến động của thị trường nên khó phá sản hơn các doanh nghiệp nhỏ.
Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Việc doanh nghiệp có kết quả kinh doanh tốt đồng nghĩa với doanh nghiệp đang sử dụng đồng vốn có hiệu quả. Như vậy, trước hết doanh nghiệp sẽ có thể có một khoản lợi nhuận giữ lại đáng kể để tái đầu tư. Đây là nguồn vốn quan trọng bởi rủi ro thấp và thường có chi phí thấp hơn khi huy động từ bên ngoài. Hơn nữa, việc có kết quả kinh doanh tốt là một chi tiêu luôn được các nhà đầu tư quan tâm để ra quyết định đầu tư. Vì vậy các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả luôn là sự lựa chọn của các nhà đầu tư bởi doanh nghiệp này hứa hẹn một khả năng sinh lời ổn dịnh và khả năng trả nợ tốt. Ngược lại khi kết quả kinh doanh không tốt, doanh nghiệp sẽ không có hoặc có ít khoản lợi nhuận giữ lại tái đầu tư đồng thời khó thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư tới doanh nghiệp mình.
Các tổ chức tín dụng cũng sử dụng kết quả hoạt động là một tiêu chí để ra quyết định cho vay đối với doanh nghiệp bởi doanh nghiệp có kết quả kinh doanh tốt, lợi nhuận cao sẽ có nhiều khả năng trả được nợ và lãi vay đúng hạn.Ngược lại, các tổ chức tín dụng rất hạn chế cho vay đối với các doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, hoạt động kém hiệu quả.
Ngoài ra, một số yếu tố khác liên quan đến uy tín của doanh nghiệp như doanh nghiệp luôn có trách nhiệm với khách hàng và bạn hàng, luôn thực hiện tốt các cam kết, doanh nghiệp lại có vị trí, tên tuổi trên thị trường. Điều đó sẽ tạo thiện cảm với các nhà đầu tư, từ đó tác động đến hiệu quả công tác huy động, mở rộng nguồn vốn của doanh nghiệp.
* Chính sách huy động vốn của doanh nghiệp.
Tùy vào mục tiêu, kế hoạch của mỗi doanh nghiệp mà các doanh nghiệp sẽ tự hoạch định chính sách huy động vốn cho riêng doanh nghiệp mình. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động mở rộng nguồn vốn của doanh nghiệp bởi chính sách huy động vốn sẽ quyết định khối lượng vốn, nguồn vốn và các hình thức huy động mà doanh nghiệp sử dụng. Tuy vậy, dù có theo đuổi chính sách huy động vốn khác nhau thì định hướng của mỗi doanh nghiệp là đều phải đảm bảo những mục tiêu cơ bản. Đó là khối lượng nguồn vốn dự tính huy động được phải đảm bảo đáp ứng đủ và kịp thời cho nhu cầu sản xuất cũng như kế hoạch đầu tư của doanh nghiệp. Hơn nữa, nguồn vốn huy động phải phù hợp với đặc điểm, quy mô của doanh nghiệp để công tác huy động vốn vừa đạt hiệu quả cao và vẫn đảm bảo cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có chính sách huy động vốn hợp lý thì hiệu quả của công tác mở rộng nguồn vốn sẽ đạt được kết quả cao.
Như vậy, chính sách huy động vốn của mỗi doanh nghiệp sẽ tác động trực tiếp tới công tác huy động vốn của doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, chính sách huy động vốn lại phụ thuộc vào một số yếu tố, đó là những yếu tố khách quan (sẽ được phân tích kỹ ở phần sau) và yếu tố nội tại của doanh nghiệp, đó là quan điểm của nhà quản trị.
Do mỗi người có sự ưa thích rủi ro khác nhau nên các nhà quản trị của những doanh nghiệp khác nhau sẽ có những quyết định không giống nhau trong chính sách huy động vốn của doanh nghiệp mình. Quyết định này được dựa trên khả năng chấp nhận rủi ro của mỗi người. Những người có tính cẩn trọng, không muốn mạo hiểm mà thích sự ổn định sẽ có xu hướng sử dụng vốn chủ hơn do nó có tính an toàn cao hơn, không đe doạ tới khả năng thanh toán của doanh nghiệp khi xảy ra những yếu tố bất lợi. Ngược lại, những người ưa thích sự mạo hiểm lại có xu hướng sử dụng nợ vay bởi nguồn vốn này có khả năng sinh lời tốt hơn vốn chủ trong điều kiện kinh tế phát triển nhưng cũng nhiều rủi ro hơn, có thể khiến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán từ đó dẫn đến phá sản khi có những yếu tố bất lợi đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Như vậy, công tác huy động vốn của doanh nghiệp có thể được chi phối bởi rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau. Nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là giải quyết tốt các yếu tố để trên cơ sở đó, sẽ xây dựng nên một kế hoạch huy động vốn phù hợp nhằm đạt được những mục tiêu đã đề. Đó là huy động được nguồn vốn đủ về khối lượng và tốt về chất lượng, giá cả hợp lý nhằm phục vụ tốt cho quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
1.2.3.2. Yếu tố khách quan.
* Môi trường kinh tế
Sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế, của từng ngành kinh tế có tác động trực tiếp tới cơ cấu vốn và hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp. Cụ thể:
Nền kinh tế phát triển, nói chung sẽ làm cho hoạt động của các ngành kinh tế đều phát triển theo (có thể với tốc độ không giống nhau) và từ đó hoạt động của doanh nghiệp cũng trở nên thuận lợi hơn. Việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá dễ dàng hơn, kết quả sản xuất kinh doanh khả quan sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín, vị thế trên thị trường. Doanh nghiệp vừa có thêm nguồn vốn bổ sung từ lợi nhuận giữ lại, vừa có khả năng tiếp cận tới nhiều nguồn vốn huy động từ thị trường như vốn vay ngân hàng, vốn từ trong dân cư thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Như vậy, toàn nền kinh tế phát triển sẽ giúp cho hoạt động huy động của các doanh nghiệp trong đó trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn.
Nền kinh tế phát triển, tình hình chính trị xã hội ổn định thì doanh nghiệp sẽ có điều kiện tiến hành hoạt động sản xuất liên tục, ổn định và thường không phải đối mặt với nhiều yếu tố bất lợi từ thị trường, rủi ro kinh doanh thấp. Khi đó, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng sử dụng nhiều nợ bởi quan niệm của doanh nghiệp thì nợ là nguồn vốn có chi phí rẻ và khả năng sinh lời tốt hơn vốn chủ do sử dụng nợ để tạo đòn bẩy tài chính, làm tăng EPS đồng nghĩa với việc tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Đây chính là mục tiêu lớn nhất của mỗi doanh nghiệp. Ngược lại, trong điều kiện môi trường kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nền kinh tế có biểu hiện suy thoái thì sử dụng nợ lúc này lại chứa đựng nhiều rủi ro do gánh nặng thanh toán nợ và lãi vay trong điều kiện kinh doanh khó khăn, nguồn thu không đảm bảo. Khi đó, vốn vay sẽ không phải là sự lựa chọn ưu thích của doanh nghiệp so với các nguồn vốn khác an toàn hơn như vốn chủ.
Nền kinh tế phát triển sẽ kéo theo sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán. Đây là một kênh huy động vốn rất quan trọng cho doanh nghiệp bởi thông qua thị trường chứng khoán, công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu hay trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp mình. Thị trường chứng khoán cũng giúp nhà đầu tư có được những thông tin đầy đủ về các công ty thuộc nhiều ngành khác nhau trong nền kinh tế. Đây là một yếu tố rất thuận lợi cho những công ty có quy mô nhỏ nhưng đang hoạt động hiệu quả có thể quảng bá tên tuổi của mình tới nhà đầu tư, từ đó có thể dễ dàng hơn trong việc huy động vốn mở rộng sản xuất. Hơn nữa, thị trường chứng khoán sẽ là nơi cung cấp những dự báo về chu kỳ kinh doanh trong tương lai. Từ đó giúp doanh nghiệp có thể chủ động trong việc hoạch định các chính sách nói chung và chính sách huy động vốn nói riêng.
Hơn nữa, nền kinh tế phát triển sẽ làm đời sống nhân dân nói chung được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người sẽ tăng lên, chi tiêu có tăng lên nhưng khoản tiền tiết kiệm được cũng sẽ tăng lên tương ứng. Khi đó, doanh nghiệp sẽ có nhiều thuận lợi hơn khi muốn huy động nguồn vốn trong dân cư thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
* Môi trường pháp lý.
Hệ thống pháp luật chính là kim chỉ nam cho hoạt động của mọị chủ thể trong xã hội, trong đó có doanh nghiệp. Chính vì vậy, một môi trường pháp lý với hệ thống các quy định pháp luật chi tiết, đồng bộ và khoa học sẽ tạo điều kiện tốt cho hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và hoạt động vốn nói riêng được thuận lợi. Hệ thống phát luật với những quy định liên tục được nghiên cứu, sửa đổi để phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế sẽ giúp doanh nghiệp có thể chủ động phát huy hết khả năng của doanh nghiệp mình để huy động được tối đa các nguồn vốn trong nền kinh tế, phục vụ tốt cho các hoạt động của doanh nghiệp. Ngược lại, một hệ thống phát luật cứng nhắc, chậm sử đổi sẽ kìm hãm, gây khó khăn cho mọi hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là công tác huy động vốn.
Hơn nữa , khi có những quy định mới liên quan đến ngành, lĩnh vực doanh nghiệp đang hoạt động được sửa đổi cũng sẽ tác động trực tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp. Với công tác huy động vốn thì chính sách thuế sẽ có ảnh hưởng lớn bởi nó sẽ tác động trực tiếp tới chính sách huy động vốn của mỗi doanh nghiệp. Do lãi vay được ghi nhận là chi phí hợp lý của doanh nghiệp nên chính sách thuế sẽ ảnh hưởng tới chi phí của vốn nợ thông qua tiết kiệm nhờ thuế. Nếu thuế suất thu nhập doanh nghiệp cao sẽ có thể khuyến khích doanh nghiệp sử dụng nợ do lúc đó doanh nghiệp có khoản tiết kiệm nhờ thuế đáng kể. Doanh nghiệp sẽ có xu hướng đi vay từ dân cư (phát hành trái phiếu) hay vay trực tiếp từ các tổ chức tín dụng.
Như vậy, công tác huy động vốn của doanh nghiệp có thể được chi phối bởi rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau. Đó có thể là thuận lợi hay khó khăn đối với doanh nghiệp và nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là giải quyết tốt các yếu tố để trên cơ sở đó, sẽ xây dựng nên một kế hoạch huy động vốn phù hợp nhằm đạt được những mục tiêu đã đề. Đó là huy động được nguồn vốn đủ về khối lượng và tốt về chất lượng, giá cả hợp lý nhằm phục vụ tốt cho quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
TẠI CÔNG TY VẬN TẢI BIỂN BẮC
2.1. Tổng quan về công ty vận tải Biển Bắc.
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty vận tải Biển Bắc.
Công ty vận tải Biển Bắc là một doanh nghiệp Nhà nước chuyên ngành vận tải thuỷ, trực thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, có tên giao dịch quốc tế là Northnern Shipping Company, viết tắt là NOSCO, có trụ sở chính đặt tại 278 Tôn Đức Thắng, Hà Nội. Điện thoại: 048514755 – 048515805, Fax: 844516706.
Công ty vận tải Biển Bắc nguyên là văn phòng cục đường sông, rồi liên hiệp các xí nghiệp vận tải sông I và đến năm 1953 trở thành Tổng công ty vận tải sông I. Khi tổ chức ngành đường sông thay đổi vào năm 1993, bộ Giao thông vận tải đã chuyển đổi TCT vận tải sông I thành Công ty vận tải Thuỷ Bắc theo Quyết định số 284QĐ/TCCB-LĐ. Lúc này, công ty vận tải Thuỷ Bắc là doanh nghiệp Nhà nước theo Quyết định số 1108QĐ/TCCB-LĐ ngày 31/06/1993, là doanh nghiệp loại II theo Nghị định 338/TTg và được giới hạn doanh nghiệp theo Nghị định 50CP ngày 28/08/1996 của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, đến năm , công ty vận tải Thuỷ Bắc đã được đổi thành công ty vận tải Biển Bắc theo Quyết định 249/QĐ-HĐQT - Tổng công ty Hàng hải Việt Nam.
Khi mới thành lập, công ty vận tải Biển Bắc trực thuộc sự quản lý của Cục Đường sông Việt Nam. Tuy nhiên sau một thời gian hoạt động, theo Quyết định 598/TTg ngày 30/07/1997 của Thủ tướng Chính phủ, Công ty được chuyển làm thành viên của Tổng công ty Hàng hải Việt Nam. Lúc đầu, công ty chỉ có chức năng vận tải hàng hoá đường sông, đường biển và dịch vụ tổng hợp nhưng với sự cố gắng nỗ lực không ngừng của cán bộ công nhân viên công ty đã và đang mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Công ty cũng không ngừng phát triển đội tàu về cả chất lượng và số lượng, đã đem lại lợi ích kinh tế cao cho công ty, tăng thêm việc làm cho người lao động, giải quyết được chủ yếu phần chi phí quản lý văn phòng.. Hiện nay, công ty đang có 5 tàu biển hoạt động trong khu vực Đông Nam Á và Đông Bắc Á, 5 tàu sông hoạt động nội địa. Công ty đang đầu tư mua một tàu biển trọng tải 22.201 tấn, công ty sẽ có doanh thu của tàu này trong năm 2007. Ta có thể thấy được sự phát triển đội tàu tính đến T9/2006 của công ty qua bảng số liệu sau:
Bảng 1: Thực trạng đội tàu công ty vận tải Biển Bắc tính đến 31/9/2006
TT
Tên tàu
Trọng
tải
Năm đóng
Nơi đóng
GT
NT
CV
I
Tàu sông
1
Đoàn TB-01
800T
1987
VN
150
2
Đoàn TB-02
800 T
1996
VN
180
3
Đoàn TB-03
800 T
1998
VN
192
4
Đoàn TB-04
800 T
1998
VN
192
5
Đoàn TB-05
800 T
2000
VN
192
II
Tàu biển
1
Thiền Quang
6.130 T
1986
Nhật
4.096
2.212
2.800
2
Quốc Tử Giám
7.015 T
1985
Nhật
5.512
2.223
3.000
3
Long Biên
6.846 T
1989
Nhật
5.506
2.273
3.300
4
Ngọc Hà
3.760 T
2004
VN
2.498
1.462
2.000
5
Ngọc Sơn
6.500 T
2004
VN
4.095
2.448
3.600
III
Tàu khách
1
Thuỷ Bắc-Lim Băng
108 ghế
1991
Malay
1.600
2
Thuỷ Bắc-Fu Ling
149 ghế
1997
TQ
2.720
3
Thuỷ Bắc-Standrich
101 ghế
1994
TQ
2.372
(Nguồn: số liệu phòng Kỹ thuật vật tư – Công ty vận tải Biển Bắc)
2.1.2.Đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty.
Công ty vận tải Biển Bắc là một doanh nghiệp chuyên ngành vận tải thuỷ nhưng công ty với sự năng động, nhạy bén nắm bắt các nhu cầu của thị trường, công ty không chỉ đơn thuần thực hiện nguyên chức năng vận tải mà bên cạnh đó còn có một số chức năng khác. Theo giấy chứng nhận đang ký kinh doanh DNNN số 0106000214 cấp ngày 14/09/2005 của công ty vận tải Biển Bắc, hiện nay công ty đang thực hiện các ngành nghề kinh doanh:
- Vận tải hàng hoá đường sông, đường biển;
- Cung ứng vật tư phụ tùng, thiết bị chuyên ngành vận tải thuỷ;
- Đại lý dịch vụ vận tải và các dịch vụ khác;
- Xuất nhập khẩu trực tiếp vật tư, thiết bị, phụ tùng đường ngành sông;
- Sửa chữa, sản xuất, lắp đặt các loại phương tiện, thiết bị, công trình giao thông đường thuỷ;
- Khai thác, sản xuất kinh doanh cấu kiện bê tông đúc sẵn, vật liệu xây dựng;
- Vận tải hành khách bằng đường sông và ven biển;
- Đại lý và môi giới hàng hải phục vụ ngành giao thông vận tải;
- Cung ứng lao động nước ngoài;
- Kinh doanh dịch vụ du lịch;
- Kinh doanh lữ hành quốc tế;
- Dịch vụ - kinh doanh nhà khách;
- Đào tạo và giáo dục định hướng cho người lao động Việt Nam đi làm có thời hạn ở nước ngoài;
- Vận tải hành khách bằng đường bộ./.
Tuy nhiên để thấy rõ sự phát triển, không ngừng nắm bắt các nhu cầu của thị trường, ta có thể nghiên cứu quá trình mở rộng chức năng nhiệm vụ kinh doanh của công ty vận tải Biển Bắc
Năm 1993, công ty chỉ có chức năng vận tải hàng hoá đường sông, đường biển và dịch vụ tổng hợp
Năm 1995, bổ sung thêm chức năng XNK trực tiếp ngành đường thuỷ.
Năm 1996, bổ sung thêm chức năng vận tải hành khách bằng đường sông, đường biển.
Năm 1997, bổ sung chức năng sản xuất vật liệu xây dựng.
Năm 1998, bổ sung chức năng đại lý vật tải vả dịch vụ XK lao động.
Năm 2002, bổ sung chức năng dịch vụ du lịch lữ hành quốc tế. Công ty từng bước đi lên trước hết là xác định rõ phương hướng mục tiêu sản xuất kinh doanh lấy kinh doanh vận tải biển làm nhiệm vụ chính, đầu tư chắc chắn hiệu quả phương tiện thiết bị, mở rộng các ngành nghề khác mà nhu cầu thị trưởng đòi hỏi như xuất khẩu vật tư thiết bị phụ tùng chuyên ngành, đại lý môi giới hàng hải, xuất khẩu lao động, kinh doanh du lịch lữ hành trong nước và quốc tế đúng chủ trương đường lối của Đảng và Chính phủ
2.1.3. Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty.
2.1.3.1. Mô hình quản lý của công ty.
Về mô hình tổ chức, công ty vận tải Biển Bắc được tổ chức thành hai khối chính, bao gồm khối quản lý và khối chỉ đạo sản xuất.
Khối quản lý gồm 8 phòng ban: Văn phòng Tổng giám đốc, phòng tổ chức, phòng vận tải, phòng kỹ thuật vật tư, phòng tài chính kế toán, ban tàu sông, ban tàu khách, ban kế hoạch vật tư.
Khối chỉ đạo sản xuất gồm: 4 trung tâm, 3 chi nhánh, 1 xí nghiệp.
- 4 trung tâm: TH Đông Phong, TT dịch vụ tổng hợp, TT CKĐ, TT xuất khẩu lao động.
- 3 chi nhánh: chi nhánh tại Hải Phòng, chi nhánh tại Quảng Ninh và chi nhánh tại TP. Hồ Chí Minh.
- 1 xí nghiệp: Xí nghiệp cơ khí công ty vận tải Biển Bắc tại huyện Từ liêm – Hà Nội.
2.1.3.2.Tổ chức phân công trong quản lý.
Công ty vận tải Biển Bắc là một công ty vận tải thuỷ, đây là loại hình doanh nghiệp sản xuất vật chất đặc biệt, sản phẩm không mang một hình thái vật chất cụ thế mà đều mang tính chất vô hình. Nhận thức đặc điểm cơ bản của ngành vận tải, công ty đã tổ chức và dần hoàn thiện bộ máy quản lý, có sự phân công trong quản lý một cách rõ ràng.
Bộ máy quản lý của công ty đứng đầu là Tổng giám đốc, giúp đỡ cho Tổng giám đốc là các phó giám đốc, kế toán trưởng và các phòng ban chức năng.
- Văn phòng Tổng giám đốc: phụ trách các công việc hành chính sự nghiệp, giải quyết các thủ tục giấy tờ có liên quan đến hoạt động kinh doanh.
- Phòng tổ chức cán bộ lao động: thực hiện công tác quản lý tổ chức nhân sự, chế độ lương, thưởng, BHX._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0124.doc