Giải pháp Marketing mix cho sản phẩm của Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thuỷ sản Hà Nội Xuất khẩu vào thị trường Mỹ

Tài liệu Giải pháp Marketing mix cho sản phẩm của Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thuỷ sản Hà Nội Xuất khẩu vào thị trường Mỹ: LỜI MỞ ĐẦU 1- Tính cấp thiết của đề tài Cùng với quá trình phát triển chung của đất nước, Tổng công ty Cổ phần xuất nhập khẩu thuỷ sản Hà Nội (Seaprodex Hà Nội) cũng đang trên đà đổi mới và đi lên nhanh chóng. Từ khi được tách ra khỏi Tổng công ty Thuỷ sản Việt Nam (Seaprodex Việt Nam) và hoạt động dưới hình thức một công ty cổ phần thì công ty đã đạt được kết quả bước đầu như: sản lượng thuỷ sản xuất khẩu ngày càng tăng, tạo được uy tín và niềm tin với khách hàng tại một số thị trường chính ... Ebook Giải pháp Marketing mix cho sản phẩm của Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thuỷ sản Hà Nội Xuất khẩu vào thị trường Mỹ

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1725 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp Marketing mix cho sản phẩm của Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thuỷ sản Hà Nội Xuất khẩu vào thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
như Nhật Bản, EU. Bên cạnh đó công ty cũng xúc tiến việc tìm kiếm và mở rộng thêm những thị trường mới như : Hàn Quốc, Nam Phi, Nga...Tuy nhiên công ty cũng gặp phải một số khó khăn, rào cản khi xuất khẩu sang một số thị trường trọng điểm trong đó có thị trường Mỹ. Cũng như một số công ty khác trong toàn ngành thuỷ sản Việt Nam, năm 2005 sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của công ty đã bị Mỹ xem xét áp dụng mức thuế chống bán phá giá. Vì vậy đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của công ty sang thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng này. Do phải chịu một mức thuế cao hơn nên sản phẩm của công ty không có tính cạnh tranh cao tại thị trường Mỹ và hầu như công ty không (hoặc ít) xuất sang thị trường này trong hai năm trở lại đây. Thị trường thuỷ sản Mỹ là một thị trường lớn, sức tiêu thụ cao nên việc bị loại bỏ khỏi thị trường này là một khó khăn lớn trong quá trình phát triển của công ty trong tương lai. Việc tìm cách tháo gỡ khó khăn trên là một vấn đề cấp thiết của công ty hiện nay. Với mong muốn góp một phần công sức của mình trong việc cải thiện tình hình xuất khẩu của công ty vào thị trường Mỹ nên tôi đã chọn đề tài “Giải pháp Marketing – Mix cho sản phẩm của công ty Cổ phần XNK Thuỷ sản Hà Nội xuất khẩu vào thị trường Mỹ” 2- Mục đích nghiên cứu Với phạm vi và nội dung của đề tài này, tôi muốn gợi mở một số biện pháp nhằm tìm kiếm cơ hội giúp sản phẩm của công ty có thể xâm nhập và đứng vững tại thị trường Mỹ trong thời gian sắp tới. 3- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: hoạt động xuất nhập khẩu của công ty. - Phạm vi nghiên cứu: hoạt động xuất khẩu của công ty sang thị trường Mỹ trong vòng 5 năm trở lại đây (2001-2005). 4- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp, duy vật biện chứng. Ngoài phần mở đầu, danh mục các bảng biểu và các chữ viết tắt thì kết cấu đề tài gồm có 3 phần chính sau: Chương 1: Thị trường thuỷ sản Mỹ Chương 2: Thực trạng xuất khẩu của công ty Seaprodex Hà Nội vào thị trường Mỹ Chương 3: Giải pháp Marketing – Mix cho sản phẩm của công ty Seaprodex Hà Nội vào xuất khẩu vào thị trường Mỹ Chương 1 THỊ TRƯỜNG THUỶ SẢN MỸ 1.1. Tổng quan về thị trường Mỹ 1.1.1. Khái quát về nền kinh tế Mỹ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là một trong những quốc gia có diện tích lớn nhất thế giới, với tổng diện tích là 9.631.418 km2, chiếm 6,2 diện tích toàn cầu và dân số là 295,7 triệu người (năm 2005). Mỹ là một nước liên bang với 50 bang trong đó có 48 bang nằm liền kề với nhau trong phần lục địa Bắc Mỹ và hai bang nằm bên ngoài là Alaska và Hawai. Kể từ giữa thế kỷ XIX nước Mỹ đã có những bước tiến vượt bậc trong việc phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật, trở thành cường quốc kinh tế số một của thế giới. Hiện nay và trong nhiều thập kỷ nữa Mỹ vẫn là nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới. Năm 2005, GDP của Mỹ ước đạt xấp xỉ 12,5 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 28% tổng GDP của toàn thế giới. Tốc độ tăng trưởng GDP đạt trung bình 4,2%/năm. Thu nhập bình quân đầu người ở Mỹ năm 2005 đạt 42.000 USD. Mỹ là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, đồng thờì cũng là một trong ba nước thành viên sáng lập ra Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Mỹ đã có quan hệ buôn bán với hơn 230 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Năm 20005 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Mỹ ước đạt 2.570 tỷ USD bằng 20% GDP. Các bạn hàng lớn và quan trọng của Mỹ là Canada, Nhật Bản, Trung Quốc, Mêhicô.... Nền kinh tế của Mỹ rất mạnh và đóng vai trò chi phối nền kinh tế thế giới trong nhiều lĩnh vực quan trọng như: tài chính tiền tệ, thương mại điện tử, thông tin, tin học, y tế, giáo dục...Tuy nhiên, hiện nay mức độ phụ thuộc của nền kinh tế Mỹ vào mậu dịch quốc tế ngày càng tăng thể hiện trong cán cân thương mại với các nước khác. Năm 2005, thâm hụt cán cân thương mại hàng hoá quốc tế của Mỹ là 716,7 triệu USD tăng 17,5% so với năm 2004 và chủ yếu là do thâm hụt cán cân thương mại với Trung Quốc. Trong những năm tới ưu tiên trong chính sách ngoại thương của Mỹ là tăng cường việc khai phá và mở rộng những thị trường xuất nhập khẩu mới tiềm năng, trong đó có Việt Nam. Có thể nới với sự đa dạng về chủng tộc của dân Mỹ, thu nhập bình quân đầu người cao, sức mua lớn và tâm lý thích tiêu dùng của người dân thì Mỹ trở thành một thị trường khổng lồ cho tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ; tạo nên sức hút mạnh mẽ từ các nước xuất khâu trên toàn thế giới. 1.1.2. Quan hệ thương mại Việt Nam – Mỹ Việt Nam và Mỹ bắt đầu đàm phán chính thức về bình thường hoá quan hệ vào năm 1991. Tháng 2 năm 1994 Mỹ bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam, hai nước thiết lập lại quan hệ ngoại giao vào ngày 12/7/1995.Tháng 12 năm 2ô1 hiệp định thương mại song phương giữa hai nước (BTA) bắt đầu có hiệu lực. Gần đây nhất, ngày 20/12/2006 Tổng thống Bush đã ký luật thiết lập quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTA) với Việt Nam. Đây được coi là một mốc son quan trọng trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Song song với quan hệ chính trị và ngoại giao, quan hệ kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và Mỹ đã không ngừng phát triển trong thời gian vừa qua. Kim ngạch thương mại hàng hoá hai chiều giữa hai nước đã tăng tử 220 triệu USD năm 1994 lên 9,5 tỷ USD vào năm 2006. Hiện nay Việt Nam đã trở thành bạn hàng thương mại lớn thứ 40 của Mỹ. Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã tăng vọt từ khoảng 1 tỷ USD năm 2001 lên 8,5 tỷ USD năm 2006. Nếu tính riêng về xuất khẩu thì hiện nay, Việt Nam là nước xuất khẩu lớn thứ 35 vào thị trường Mỹ. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong những năm qua chủ yếu gồm: dệt may, giày dép, đồ gỗ, thuỷ sản, nông sản... 1.2. Khái quát về ngành thuỷ sản Mỹ Mỹ là một trong những quốc gia có nguồn lợi thuỷ hải sản rất phong phú vàđa dạng. Nhờ vào hệ thống quản lý khoa học và hiện đại của nhà nước đối với các nguồn lợi trên mà ngành thuỷ sản Mỹ cũng rất phát triển. Mỹ tập trung vào khai thác và nuôi trồng các loại thuỷ hải sản có giá trị cao, mang lại lợi nhuận lớn và rất được ưa chuộng tại Mỹ cũng như trên toàn thế giới. Xu hướng trong những năm tới của ngành thuỷ sản Mỹ là hạn chế hoạt động đánh bắt đồng thời tăng cường hoạt động nuôi trồng thuỷ sản nhằm góp phần bảo vệ nguồn lợi hải sản đang ngày càng cạn kiệt như hiện nay. 1.2.1. Hoạt động khai thác thuỷ sản Mỹ là nước có đường bờ biển dài tiếp giáp với hai đại dương lớn là Thái Bình Dương và Đại Tây Dương với trữ lượng thuỷ hải sản rất phong phú. Bên cạnh đó với sự trợ giúp của khoa học kĩ thuật hiện đại nên hoạt động khai thác thuỷ sản của Mỹ diễn ra rất sôi động và đạt năng suất cao. Các sản phẩm đánh bắt chủ yếu là cá và tôm. Hạm tàu cá của Mỹ được phân bố hợp lý ở cả 3 tuyến ven bờ, xa bờ và viễn dương, được trang bị máy móc hiện đại tối tân với đội ngũ thợ thuyền và thuỷ thủ tay nghề cao. Hạm tàu cá của Mỹ có trên 30000 tàu với tổng trọng tải đăng ký trên 1,6 triệu tấn. Trong các sản phẩm cá khai thác thì cá Hồi là một trong những mặt hàng đem lai doanh thu cao nhất. Mỹ là nước đứng thứ hau thế giới về sản lượng cũng như giá trị khai thác cá Hồi chỉ sau Nhật Bản. Sản lượng khai thác chủ yếu tập trung ở hai loài là: cá Hồi bắc Thái Bình Dương và cá Hồi Đỏ Thái Bình Dương. Hoạt động khai thác tôm cũng diễn ra sôi động không kém với đội tàu đánh bắt xa bờ rất hiện đại. Sản phẩm khai thác chủ yếu là tôm he nâu và tôm he bạc. Tôm hùm là nguồn lợi quý hiếm của Mỹ và được bảo vệ đặc biệt. Mỹ là nước khai thác tôm hùm lớn thứ hai trên thế giới sau Canada. Hoạt động khai thác tôm hùm của Mỹ chủ yếu diễn ra ở vùng biển phía đông Đại Tây Dương. Từ năm 1980 trở lại đây sản lượng khai thác tôm hùm của Mỹ liên tục tăng, chiếm 68% sản lượng tôm hùm khai thác của thế giới. Tổng sản lượng khai thác thuỷ sản của Mỹ chiếm 6% tổng sản lượng của thế giới, đứng thứ 5 sau các nước Trung Quốc, Pêru, Chi lê, Nhật Bản. Trong những năm gần đây sản lượng khai thác thuỷ sản nói chung của Mỹ có xu hướng giảm dần do chính sách hạn chế của Nhà nước nhằm bảo vệ nguồn lợi thuỷ hải sản và môi trường biển. 1.2.2. Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản Mỹ là một trong 10 nước có sản lượng nuôi trồng thuỷ sản lớn nhất thế giới. Nuôi trồng thuỷ sản ở Mỹ rất chú trọng vấn đề chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái. Thời gian tới Mỹ vẫn tiếp tục theo đuổi chính sách nuôi trồng thuỷ sản theo hướng phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái và không chú trọng tới việc tăng sản lượng. Trong vòng 10 năm từ 1990 đến 1999 sản lượng thuỷ sản nuôi trồng của Mỹ chỉ tăng có 1,3 lần (từ 350000 tấn lên 460000 tấn). Bảng 1.1: Sản lượng nuôi trồng của ngành thuỷ sản Mỹ Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Sản lượng (1000 tấn) 460 468 479 497 544 558 563 Giá trị (triệu USD) 798 887 935 866 806 786 779 Nguồn: CFA ( Casfish Farmers of America) - Hiệp hội Cá nheo Mỹ (2006) Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản của Mỹ tập trung chủ yếu vào một số loài có nhu cầu cao trên thế giới như cá nheo (chiếm trên 60% sản lượng nuôi trồng), cá hồi (12%), tôm nước ngọt (7%), nhuyễn thể hai mảnh vỏ (ngao, vẹm, hàu) chiếm khoảng 5%, các loài thuỷ sản khác chỉ chiếm khoảng 15%. Trong những năm tới, các nhà nuôi trồng thuỷ sản Mỹ sẽ tập trung vào sản xuất, nuôi trồng các loại sản phẩm sạch đang rất được ưa chuộng hiện nay. 1.2.3. Hoạt động chế biến thuỷ sản Chế biến thuỷ sản là hoạt động quan trọng nhất của ngàng thuỷ sản Mỹ. Mạng lưới các cơ sở chế biến thuỷ sản có mặt ở khắp nơi với tổng số khoảng 1300 cơ sở. Các cơ sở này đều được trang bị máy móc rất hiện đại với năng lực vào khoảng 740000 tấn thuỷ sản mỗi năm. Ngành chế biến thuỷ sản Mỹ vừa là để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước vừa để xuất khẩu. Do người tiêu dùng Mỹ ưa dùng các sản phẩm tinh chế và các sản phẩm có giá trị gia tăng cao nên các cơ sở chế biến thuỷ sản chú trọng áp dụng khoa học kĩ thuật, công nghệ hiện đại vào sản xuất. Các sản phẩm chế biến chủ yếu bao gồm: sản phẩm tươi và đông lạnh, thuỷ sản đóng hộp và các sản phẩm phi thực phẩm (sản phẩm kỹ thuật). 1.3. Tình hình nhập khẩu hàng thuỷ sản của Mỹ 1.3.1. Tình hình tiêu thụ một số loại sản phẩm thuỷ sản chính tại Mỹ - Tôm: là mặt hàng thuỷ sản được ưa thích nhất tại Mỹ và có khối lượng tiêu thụ rất lớn và cao hơn hẳn so với các loại thuỷ sản khác. Trong khi đó khả năng nuôi trồng và khai thác tôm tự nhiên của Mỹ là rất thấp. Vì vậy, trong nhiều năm qua nguồn cung cấp tôm chủ yếu cho thị trường Mỹ chủ yếu là hàng nhập khẩu. Mỗi năm Mỹ nhập khẩu tôm trị giá gần 4 tỷ USD chiếm khoảng 88% lượng tôm tiêu thụ tại Mỹ và chiếm 37% giá trị nhập khẩu tất cả các loại thuỷ sản. - Cá ngừ: thị trường Mỹ hàng năm tiêu thụ khoảng 1/3 trong tổng số 2,2 tỷ hộp cá ngừ được bán ra trên toàn thế giới. Cá ngừ hộp không đắt và dễ chế biến nên tiêu thụ rất mạnh. Tuy nhiên, gần đây người tiêu dùng Mỹ ngày càng ưa thích cá ngừ tươi sống hơn. - Cá hồi, cua biển và một số loại thuỷ sản khác: cá hồi, cua biển là hai loại thuỷ sản cao cấp có giá trị cao và tiêu thụ ổn định trên thị trường Mỹ. Cá da trơn, cua ghẹ, trai sò... ngày càng tiêu thụ mạnh. Bảng 1.2: 10 sản phẩm tiêu thụ hàng đầu tại thị trường Mỹ Đơn vị: pound/người STT Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Sản phẩm Mức tiêu thụ Sản phẩm Mức tiêu thụ Sản phẩm Mức tiêu thụ 1 Tôm 3,7 Tôm 4 Tôm 4,2 2 Cá ngừ hộp 3,1 Cá ngừ hộp 3,4 Cá ngừ hộp 3,3 3 Cá hồi 2,02 Cá hồi 2,219 Cá hồi 2.154 4 Cá minh thái 1,557 Cá minh thái 1,706 Cá minh thái 1,277 5 Cá da trơn 1,103 Cá da trơn 1,137 Cá da trơn 1,091 6 Cá rô phi 0,658 Cá tuyết 0,644 Cá tuyết 0,696 7 Cua/ghẹ 0,568 Cua/ghẹ 0,609 Ngao/nghêu 0,626 8 Cá tuyết 0,545 Cá rô phi 0,541 Cua/ghẹ 0,603 9 Ngao/nghêu 0,401 Ngao/nghêu 0,525 Cá dẹt 0,471 10 0,317 Điệp 0,33 Cá rô phi 0,332 Tổng 15,5 16,3 16,6 Nguồn: Trung tâm thông tin - Bộ Thương Mại (2005) 1.3.2. Sản lượng nhập khẩu ·         Đặc điểm quan trọng của ngoại thương thuỷ sản Hoa Kỳ là thâm hụt ngoại thương ngày càng lớn. Sự thâm hụt thương mại thuỷ sản (thể hiện trong bảng 1) đã tăng từ 2,5 tỷ USD năm 1990 lên 3,9 tỷ USD năm 1996 và tăng đáng kể từ năm 1997 với 5,2 tỷ USD lên 7,8 tỷ USD năm 2003 cho thấy nhu cầu cần thiết nhập khẩu thuỷ sản của nước này.  Trong cơ cấu nhập khẩu hàng thuỷ sản của Mỹ ta sẽ nhận thấy rõ sự chênh lệch, khác biệt giữa các sản phẩm cũng như thị trường nhập khẩu khác nhau. Nó chủ yếu tập trung vào một số loại sản phẩm chính như tôm... và từ các thị trường xuất khẩu lớn trên thế giới như Trung Quốc...     Bảng 1.3: Giá trị thương mại thuỷ sản của Hoa Kỳ. Đơn vị: nghìn USD Năm Nhập khẩu Xuất khẩu 1990 5.573.241 3.019.861 1991 5.999.580 3.281.746 1992 6.024.064 3.582.545 1993 6.290.233 3.179.474 1994 7.043.431 3.229.585 1995 7.141.428 3.383.589 1996 7.080.411 3.177.858 1997 8.138.840 2.850.311 1998 8.578.766 2.400.338 1999 9.407.307 2.945.014 2000 10.453.251 3.055.261 2001 10.150.160 3.319.600 2002 10.121.262 3.119.651 2003 11.095.475 3.266.487                             Nguồn : Thống kê nghề cá của FAO   Trung bình người Mỹ tiêu dùng khoảng 16,3 pound thuỷ sản/người (trong đó 11,4 pound hàng tươi và đông lạnh) trong năm 2003, tăng 0,7 pound so với năm 2002. Hiện nay, người tiêu dùng Mỹ sử dụng gần 8% tổng sản lượng thuỷ sản thế giới từ các nguồn đánh bắt, nuôi trồng trong nước và nhập khẩu. Hơn một nửa lượng thuỷ sản tiêu dùng ở Hoa Kỳ có nguồn gốc từ nhập khẩu. Năm 1992, Hoa Kỳ nhập 6,02 tỷ USD, năm 1995 tăng lên 7,14 tỷ USD, năm 1998 là 8,45 tỷ USD. Trước năm 1998, nhập khẩu tôm vào Hoa Kỳ thấp hơn Nhật Bản, nhưng từ năm 1998 Hoa Kỳ đã vượt lên thành thị trường nhập khẩu tôm lớn nhất thế giới. Năm 1999, tổng nhập khẩu thực phẩm thuỷ sản đạt giá trị 9,3 tỷ USD. Các nhà cung cấp châu Á đã chiếm 40% thị phần trong giá trị nhập khẩu của Hoa Kỳ. Theo công bố của Hoa Kỳ, năm 2000 tổng giá trị nhập khẩu đạt 10,45 tỷ, chiếm 17,4% tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản thế giới, năm 2001 là 10,15 tỷ USD, năm 2002 là 10,12 tỷ USD.  1.3.3. Cơ cấu sản phẩm nhập khẩu Người tiêu dùng ở Hoa Kỳ thuộc nhiều nguồn gốc và tầng lớp, rất phân biệt về văn hoá và thu nhập nên các sản phẩm thuỷ sản tiêu thụ ở Hoa Kỳ cũng rất đa dạng cả về chất lượng cũng như số lượng, có phần dễ tính hơn, không quá khắt khe như châu Âu và Nhật Bản. Hoa Kỳ nhập hơn 100 mặt hàng thuỷ sản các loại từ cao cấp nhất đến thấp nhất, với đủ loại giá cả khác nhau.   Biểu đồ 1.1: Tỷ trọng sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu vào Mỹ năm 2003 Nguồn: Báo cáo thường niên Bộ Thương Mại Mỹ (2003) - Tôm: Là mặt hàng ưa thích nhất tại Hoa Kỳ và được tiêu thụ với khối lượng rất lớn. Mỗi năm Hoa Kỳ nhập khẩu tôm trị giá gần 4 tỷ USD chiếm khoảng 88% lượng tôm tiêu thụ tại Hoa Kỳ và 37% giá trị nhập khẩu thuỷ sản. Chỉ tính riêng năm 2001, giá trị nhập khẩu tôm tươi, đông lạnh và chế biến đạt 3,6 tỷ USD. Hoa Kỳ nhập khẩu 19 loại sản phẩm tôm khác nhau, nhưng chỉ có 3 sản phẩm cho giá trị lớn nhất là tôm bóc vỏ còn đuôi, tôm chế biến và tôm vỏ bỏ đầu. Tiêu thụ tôm của người Mỹ năm 2002 đạt mức kỷ lục 3,7 pound/ người, vượt cả cá ngừ vốn là sản phẩm thuỷ sản có lượng tiêu thụ cao nhất trong nhiều năm liền (2,9 pound/ người). Năm 2002, nhập khẩu tôm đạt 3,4 tỷ USD, năm 2003 tăng lên 3,8 tỷ USD, chiếm 34% tổng giá trị nhập khẩu. Tôm hùm ngày càng được người Mỹ ưa chuộng và là một trong những sản phẩm thuỷ sản cao cấp. Giá trị nhập khẩu tôm hùm năm 2000 đạt mức kỷ lục 870 triệu USD, đứng hàng thứ ba về giá trị và chiếm gần 9% tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản. Riêng nhập khẩu tôm hùm đông nguyên con đạt 530 triệu USD, tôm hùm sống đạt 205 triệu USD. Các nước cung cấp chính là Canađa, Mêhicô, Braxin, Ôtxtrâylia… - Cá hồi: Người Mỹ ưa chuộng cá hồi Đại Tây Dương nuôi do Na Uy và Chilê cung cấp hơn là cá hồi Thái Bình Dương. Nhập khẩu các sản  phẩm cá hồi có giá trị lớn thứ tư và năm 2000 đạt 853 triệu USD.  do sản lượng khai thác cá ngừ kém. Thái Lan là nhà cung cấp chính cá ngừ đóng hộp cho thị trường Hoa Kỳ, tiếp đến là Philippin và Inđônêxia. Giá trị nhập khẩu các sản phẩm cá ngừ năm 2000 là 778 triệu USD, chiếm 8% giá trị nhập khẩu thuỷ sản thực phẩm. Trong đó nhập khẩu cá ngừ từ Việt Nam đạt 10 triệu USD, cá vây vàng tươi là 8,9 triệu USD (1.483 tấn), cá ngừ đóng hộp đạt 0,5 triệu USD. - Cá rô phi : Năm 2001 khối lượng nhập khẩu cá rô phi tăng mạnh. Tổng lượng nhập khẩu năm 2001 đạt 124 triệu pound, tăng 3,9% ( gần 35 triệu pound) so với năm 2000. Tất cả các sản phẩm chế biến từ cá rô phi đều tăng. Nhập khẩu cá nguyên con đông lạnh tăng 39% và chiếm 69% tổng lượng nhập khẩu cá rô phi. Nhập khẩu cá philê tươi đạt 22,6 triệu pound tăng 36%, cá philê đông lạnh tăng mạnh nhất với 42%. 1.3.4. Cơ cấu thị trường nhập khẩu Mỹ nhập khẩu thuỷ sản từ 130 nước trong đó dẫn đầu là Thái Lan, Êcuađo,Canađa, Trung Quốc, Chilê, Mêhicô và Ấn Độ… Biểu đồ 1.2: Các nước xuất khẩu thuỷ sản chính sang Mỹ năm 2000 - 2003                                                                                       Đơn vị: triệu USD    Nguồn: Bộ Thương Mại Mỹ năm 2003 - Thái Lan: là nước xuất khẩu tôm số 1 vào thị trường Hoa Kỳ với khối lượng kỷ lục là 136.078 tấn, giá trị 1.266 triệu USD năm 2000, chiếm thị phần tương ứng là 34% và 25%. Giá trị tôm xuất khẩu vào Hoa Kỳ chiếm 57,3% tổng giá trị xuất khẩu tôm của Thái Lan năm 2001. Riêng mặt hàng tôm sú đông lạnh bóc vỏ chiếm 35% tổng giá trị xuất khẩu tôm. Đây là mặt hàng nhập khẩu lớn nhất về tôm của Mỹ, được người tiêu dùng ưa chuộng nhất. - Êcuađo: là bạn hàng lâu đời của Hoa Kỳ với sản phẩm quen thuộc là tôm chân trắng nuôi. Trước đây, khi Thái Lan chưa chiếm lĩnh thị trường thì tôm chân trắng Êcuađo luôn chiếm thị phần lớn nhất. Họ bị mất vị trí số 1 từ năm 1998 về tay Thái Lan do sản lượng nuôi bị giảm sút mạnh vì dịch bệnh, nguồn cung cấp không đủ đáp ứng nhu cầu khiến người tiêu dùng phải chuyển sang sử dụng tôm sú thay cho tôm chân trắng. Năm 2000, xuất khẩu tôm của Êcuađo lại giảm mạnh do dịch bệnh đốm trắng gây tổn thất nặng nề cho tôm nuôi. Lượng xuất khẩu năm 2000 chỉ còn 19.098 tấn, nhưng đã tăng lên 26.760 tấn vào năm 2001 và đứng hàng thứ 6 về khối lượng, hàng thứ 5 về giá trị ở thị trường tôm Hoa Kỳ (224 triệu USD). - Canada: coi Hoa Kỳ là “thị trường nhà” vì họ cũng là thành viên quan trọng của “Hiệp ước tự do mậu dịch Bắc Mỹ”. Hoa Kỳ luôn chiếm trên 60% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Canađa. Năm 2000 vị trí độc tôn của Canađa lần đầu tiên bị Thái Lan uy hiếp, nhưng vẫn còn chiếm 19,3% thị phần. Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Canađa là cá philê, tôm hùm. - Trung Quốc: đứng thứ 5 về khối lượng tôm xuất khẩu sang Mỹ, đứng thứ 6 về giá trị vì tôm Trung Quốc có giá thấp. Sản phẩm tôm của Trung Quốc xuất sang Mỹ năm 2001 phần lớn là tôm chân trắng nhập nội được nuôi phổ biến ở tỉnh Quảng Đông và một số địa phương khác. - Một số nước châu Á khác: Năm 2000, có thể nói  tôm đông lạnh của châu Á đã chiếm lĩnh thị trường Hoa Kỳ do tôm nuôi Mỹ La tinh bị dịch bệnh đốm trắng tàn phá và bị thiệt hại nặng như Êcuađo, Mêhicô, Panama… Do vậy xuất khẩu của các nước châu Á vào Hoa Kỳ tăng nhanh đáng kể. Thái Lan tăng 12 nghìn tấn và là nước cung cấp tôm chính cho thị trường Hoa Kỳ, Trung Quốc - 10 nghìn tấn, Việt Nam - 8 nghìn tấn, Ấn Độ - 7 nghìn tấn. Việt Nam tuy chỉ đứng thứ bảy về khối lượng xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ, nhưng do tôm có chất lượng cao nên về giá trị xuất khẩu tôm vươn lên vị trí thứ ba (235 triệu USD). Tuy đã có mức tăng trưởng nhanh, nhưng thị phần của tôm đông lạnh Việt Nam tại Hoa Kỳ còn rất nhỏ (6,2% về giá trị). Trong năm 2000 & 2001, nhập khẩu tôm đông lạnh tăng mạnh từ những nước sản xuất tôm ở Châu Á. Năm 2003, khối lượng nhập khẩu tăng mạnh từ Trung Quốc (+ 61%), Việt Nam ( + 46%), tăng nhẹ từ những nước cung cấp chính như Thái Lan ( + 4%) và Ấn Độ ( + 1%). 1.4. Kênh phân phối hàng thuỷ sản trên thị trường Mỹ Hệ thống phân phối thuỷ sản Mỹ có quy mô đồ sộ, tiên tiến và khoa học. Hiệp hội các nhà phân phối thuỷ sản Mỹ bao gồm 300000 nhà hàng và 26000 cửa hàng bán lẻ trong nước. Hệ thống phân phối hàng thuỷ sản trên thị trường Mỹ được chia làm hai loại: thị trường bán buôn và thị trường bán lẻ. Đặc trưng của phân phối hàng thuỷ sản ở Mỹ là chịu sự chi phối của công đoàn bán lẻ thông qua hệ thống siêu thị, cửa hàng, cửa hiệu và sự phát triển của ngành công nghiệp nhà hàng. 1.4.1. Kênh bán buôn Kênh bán buôn của thị trường thuỷ sản Mỹ được đảm nhiệm bởi những công ty thuỷ sản hàng đầu. Thông qua hệ thống bán buôn hàng thuỷ sản được cung cấp cho trên 1300 cơ sở chế biến thuỷ sản trên toàn quốc và hệ thống siêu thị, các đại lý lớn, các nhà phân phối chính và các nhà bán lẻ. Quá trình vận hành và điều phối hàng thuỷ sản tại thị trường Mỹ được diễn ra như sau: hàng thuỷ sản được cung ứng từ các nhà xuất khẩu hoặc từ các cơ sở đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản trong nước đến các nhà chế biến thuỷ sản. Sau khi chế biến thành các sản phẩm tinh chế hoặc các sản phẩm giá trị gia tăng có giá trị cao, thuỷ sản được chuyển trực tiếp đến các nhà đại lý lớn trong nước. Từ các đại lý này thuỷ sản tiếp tục được chuyển đến các nhà bán lẻ để cung cấp đến tay người tiêu dùng thông qua hệ thống các siêu thị, nhà hàng. Hoặc thuỷ sản đã chế biến đến tay các nhà nhập khẩu và các đại lý lớn, sau đó đến các nhà phân phối chính và các nhà bán lẻ. Để trở thành nhà cung cấp cho kênh bán buôn thuỷ sản của Mỹ thì các công ty phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau: - Khả năng cung cấp hàng với số lượng lớn và ổn định. - Sản phẩm phải đa dạng về chủng loại và mẫu mã để có thể thoả mãn nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng ở nhiều vùng và khu vực khác nhau trên toàn nước Mỹ. - Giá cả cung cấp cho các nhà bán buôn phải là giá cạnh tranh. - Có uy tín trên thị trường, đáng tin cậy và sẵn sàng hợp tác lâu dài. Hình 1.1: Sơ đồ kênh bán buôn thuỷ sản tại thị trường Mỹ Nhà XK Nhà chế biến Nhà NK Đại lý Nhà phân phối Nhà bán lẻ Nguồn: Báo cáo hội thảo thị trường thuỷ sản Mỹ, Bộ Thuỷ Sản (2002) 1.5.2. Kênh bán lẻ Sản phẩm thuỷ sản tiêu thụ qua kênh bán lẻ chiếm tới trên 50% tổng giá trị tiêu thụ tại thị trường Mỹ, trung bình hàng năm đạt doanh số khoảng 13 tỷ USD. Hệ thống phân phối thuỷ sản bán lẻ của Mỹ được vận hành như sau: thuỷ sản có nguồn gốc nước ngoài hoặc các sản phẩm chế biến tại Mỹ được phân phối đến các công ty thương mại lớn, hệ thống siêu thị, các nhà nhập khẩu hoặc các đại lý lớn. Từ các đại lý thuỷ sản này lại đến các nhà hàng lớn. Hình 1.2: Sơ đồ kênh bán lẻ thuỷ sản tại thị trường Mỹ Nhà NK Nhà chế biến Nhà phân phối Nhà NK Đại lý DV công cộng Nhà bán lẻ Nhà hàng lớn Nguồn: Báo cáo hội thảo thị trường thuỷ sản Mỹ, Bộ Thuỷ Sản (2002) Các nhà phân phối thuỷ sản chủ yếu đưa hàng đến hệ thống dịch vụ công cộng hay các nhà hàng nhỏ phục vụ nơi công cộng. Đây là một quy trình có nhiều tầng, cấp được xây dựng một cách khoa học phù hợp với đặc điểm thị trường Mỹ. Hai nhân tố quan trọng trong hệ thống bán lẻ thuỷ sản Mỹ là hệ thống siêu thị và các nhà hàng. - Bán qua hệ thống siêu thị: hệ thống siêu thị tiêu thụ trên 40% giá trị bán lẻ hàng thuỷ sản. Hàng thuỷ sản tại các siêu thị rất đa dạng và phong phú, không chỉ có hàng thuỷ sản đông lạnh mà còn có sản phẩm tươi sống thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng. - Bán qua hệ thống các nhà hàng, nhà hàng công cộng và dịch vụ ăn nhanh: thuỷ sản bán qua hệ thống này chiếm gần 60% giá trị bán lẻ và đang có xu hướng ngày càng tăng. Chương 2 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THUỶ SẢN CỦA CÔNG TY SEPRODEX HÀ NỘI VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ 2.1. Tổng quan về công ty Seaprodex Hà Nội 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Công ty cổ phần XNK Thuỷ sản Hà Nội (SEAPRODEX HANOI), doanh nghiệp được chuyển đổi từ doanh nghiệp Nhà nước là Công ty XNK Thuỷ sản Hà Nội sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103012492 do sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà Nội cấp ngày 22/12/2006. Công ty XNK Thuỷ sản Hà Nội được thành lập lần đầu theo quyết định số 544HS/QĐ của Bộ trưởng Bộ Hải sản  ngày 05/7/1980 với tên gọi là Chi nhánh xuất nhập khẩu Hải sản Hà Nội thuộc Công ty XNK Hải sản Việt Nam (Seaprodex Vietnam); Sau đó được đổi tên thành Công ty XNK Thuỷ sản Hà Nội (Seaprodex Hanoi) bằng quyết định số 126 TS/QĐ ngày 16 tháng 4 năm 1992 của Bộ trưởng Bộ Thuỷ sản và được thành lập lại theo quyết định số 251/QĐ-TC ngày 31/3/1993 của Bộ trưởng Bộ Thuỷ sản, là đơn vị thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng Công ty Thuỷ sản Việt Nam- Bộ Thuỷ sản.  -Ngành nghề kinh doanh:           Khai thác đánh bắt, nuôi trồng, thu mua, chế biến, kinh doanh các mặt hàng thuỷ hải sản, nông lâm sản, thực phẩm và các mặt hàng may mặc, tiêu dùng khác.           Sản xuất, mua bán các loại: Vật liệu xây dựng, kim khí hoá chất, ngư lưới cụ, máy móc thiết bị, phụ tùng, phương tiện vận tải, bao bì đóng gói.           Kinh doanh kho lạnh, giao nhận, bốc xếp, vận chuyển hàng hoá đường bộ đường biển và đường hàng không. Kinh doanh, dịch vụ nhà ở, cơ sở hạ tầng, văn phòng làm việc, nhà xưởng, kho bãi, nhà hàng, khách sạn, siêu thị, du lịch, bệnh viện và các loại bất động sản khác. Đào tạo và cung ứng nguồn lao động.  -Chủ tịch Hội đồng quản trị: Ông Đặng Đình Bảo- Đại diện theo pháp luật của Công ty.  -Tổng Giám đốc: Bà Trần Minh Hà.  -Trụ sở chính Công ty: Địa chỉ: 20 Láng Hạ, Đống Đa, Hà Nội. Điện Thoại: +84.4.8345678 /8343146. Fax: +84.4.8354125 Email: seahn@seaprodexhanoi.com.vn Website: www.seaprodexhanoi.com.vn 2.1.2. Cơ cấu bộ máy quản lý Hình 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty Seaprodex Hà Nội ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ BAN TỔNG GIÁM ĐỐC BAN KIỂM SOÁT CÁC ĐƠN VỊ TRỰC THUỘC CÁC PHÒNG KINH DOANH CÁC PHÒNG QUẢN LÝ XNCB Thuỷ Đặc Sản Hà Nội XN giao nhận TSXK Hải Phòng Chi nhánh TP HCM Phòng KD XNK Thuỷ Sản Phòng KD Thuỷ Sản Nội Địa Phòng Kinh tế Tài Chính Phòng Hành Chính Tổ chức Tổ Tổng Hợp Chi nhánh Quảng Ninh XNCB thuỷ sản Xuân THuỷ 2.1.3. Nguồn lực: 2.1.3.1. Vốn và cơ cấu vốn: Kể từ ngày đầu mới thành lập 5/7/1980 đến năm 2006, Seaprodex Hà Nội không ngừng phát triển và lớn mạnh, từ một chi nhánh XNK Thuỷ sản với số vốn và quy mô nhỏ hoạt động theo cơ chế tự kinh doanh, tự trang trải (Giai đoạn 1980 đến 1992) đã phát triển thành một công ty XNK thuỷ sản hàng đầu khu vực phía Bắc với số vốn là 34,705 tỷ đồng (Theo quyết định số 251/QĐ-TC ngày 31/3/1993). Giai đoạn từ 1993 đến 2006 là thời kỳ Công ty phát triển mạnh mẽ và đã trở thành Doanh nghiệp XNK Thuỷ sản có uy tín và vị thế cao trên thị trường trong và ngoài nước. Công ty đã không ngừng phát triển cả về quy mô và nguồn lực Tài chính. Từ ban đầu Công ty chỉ có 2 xí nghiệp trực thuộc đến năm 2000 thì công ty đã có 5 đơn vị trực thuộc. Các nhà máy được trang bị các thiết bị hiện đại. Số vốn của Công ty không ngừng tăng trưởng, từ 34,705 tỷ đồng năm 1993 thì đến năm 2006 đã lên tới 70 tỷ đồng. Từ ngày 1/1/2007 Seaprodex chính thức hoạt động dưới hình thức là một công ty cổ phần với số vốn điều lệ ban đầu là 100 tỷ đồng. Sau khi cổ phần hoá, cơ cấu cổ đông trong Công ty như sau: Nhà nước năm 59%, người lao động năm 4,74%, nhà đầu tư chiến lược nắm 8,2% và chổ đông bên ngoài nắm 28,06%. Biểu đồ 2.1: Cơ cấu cổ đông của Seaprodex Hà Nội Ngày 10.11 tới đây, Công ty XNK Thuỷ sản Hà Nội sẽ bán ra công chúng 2.806.000 cổ phần, tương đương với 28,06 tỷ đồng tính theo mệnh giá với mức giá khởi điểm 10.300 đồng/CP tại TTGDCK Hà Nội. Đây là đợt phát hành cổ phần lần đầu của Công ty nhằm huy động vốn đầu tư. 2.1.3.2. Lao động: Để chuẩn bị cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp, công ty Seaprodex đã thực hiện việc cắt giảm số lao động, tổ chức sắp xếp lại các bộ phận.Trong khoảng thời gian 3 năm trước cổ phẩn hoá, bình quân mỗi năm số lượng lao động giảm đi khoảng 50%. Hiện nay, công ty vẫn còn đang trong quá trình tổ chức sắp xếp lại nhân sự tại các phòng theo hướng gọn nhẹ và hiệu quả hơn. Bảng 2.1 : Số lượng lao động của Công ty Seaprodex qua các năm Năm Tổng số lao động (người) 2004 1750 2005 1100 2006 724 2007 545 2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh 2.1.4.1. Doanh thu Công ty đã gặp phải một số khó khăn trong mô hình quản lý khi chuyển đổi sang hình thức CTCP. Thêm vào đó khâu nguyên vật liệu đầu vào chưa thực sự ổn định, trong khi những vụ kiện bán chống phá giá của Mỹ vừa qua cũng ảnh hưởng ít nhiều đến kết quả kinh doanh. Mặt khác, việc kinh doanh sắt thép vừa qua chịu tác động lớn của thị trường trong và ngoài nước, đã ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của Công ty. Trong những năm đầu khi mới chuyển sang hình thức công ty cổ phần, công ty phấn đấu tăng nhanh nguồn vốn, đầu tư mạnh cho cơ sở vật chất nên chấp nhận doanh thu sẽ giảm hoặc thấp hơn trong 3 năm đầu và sẽ tăng dần. Biểu đồ 2.2: Doanh thu của công ty Seaprodex Hà Nội 2.1.4.2. Lợi nhuận: Lợi nhuận sau thuế của công ty hàng năm tăng với tốc độ trên 10%/năm. Trong đó tăng cao nhất là năm 2005 với tốc độ 14% đạt 2.54 tỷ đồng. Biểu đồ 2.3: Lợi nhuận của công ty Seaprodex Hà Nội 2.1.4.3. Kết quả hoạt động xuất nhập khẩu Kết quả hoạt động xuất nhập khẩu ( lĩnh vực kinh doanh chính của công ty) không chỉ tăng về sản lượng xuất khẩu mà còn tăng mạnh cả về giá trị và tỷ trọng thị phần xuất khẩu mà công ty chiếm giữ được tại các thị trường. Bảng 2.2: Sản lượng và giá trị XNK của công ty Seprodex Hà Nội Năm 2003 2004 2005 2006 Sản lượng (tấn) 2350 2000 2500 2600 Giá trị (triệu USD) 15,7 12 14,6 15 Sản phẩm của công ty hiện nay đã có mặt ở rất nhiều thị trường khác nhau trên thế giới trong đó nhiều nhất là thị trường Nhật Bản chiếm tỉ lệ 70,7% tổng giá trị xuất khẩu của công ty, tiêp đến là các thị trường EU (6,6%), Hồng Kông (6,6) và các thị trường khác là 18,18%. Hình 2.3 : Kênh phân phối sản phẩm của Seaprodex Hà Nội Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của công ty bao gồm: tôm chiếm 65,58%, tiếp đến là thân mềm là 15,25% và các loại khác là 19,17%. Biểu đồ 2.5: Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Seaprodex Hà Nội Trong thời gian qua đội ngũ cán bộ kỹ sư của công ty đã không ngừng nghiên cứu, thử nghiêm nhằm đưa vào nuôi trồng đại trà nhiều loại giống mới trong đó có giống tôm thẻ chân trắng mới được đưa v._.ào nuôi thử tại Việt Nam. Theo bà tổng giám đốc Trần Minh Hà thì việc phát triển các loại sản phẩm mới là hướng đi có tính chiến lược của công ty trong thời gian tới nhằm đáp ứng những nhu cầu đa dạng của khách hàng trong và ngoài nước. 2.1.5. Hoạt động Marketing-Mix Sản phẩm Số lượng, chủng loại sản phẩm: sản phẩm của công ty rất nhỉều về số lượng, đa dạng và phong phú về chủng loại mẫu mã. Hiện nay, công ty đang kinh doanh khoảng 10 mặt hàng khác nhau với trên 50 loại sản phẩm thuộc nhiều kích cỡ như: tôm đông lạnh, cá đông lạnh, mực, đồ hộp... Chất lượng sản phẩm: Công ty luôn nhận thức rõ được tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm đặc biệt là với mặt hàng thực phẩm thuỷ hải sản. Vì vậy công ty luôn cố gắng kiểm soát chặt chẽ chất lượng sản phẩm ngay từ khâu nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và bảo quản sản phẩm nhằm đảm bảo cung cấp đến tay người tiêu dùng những sản phẩm tươi ngon và an toàn nhất. Hiện nay, công ty đã nhận được các chứng chỉ công nhận về chất lượng sản phẩm cả trong và ngoài nước như: chứng nhận chất lượng HACCP của Mỹ, chứng nhận EU Code của liên minh Châu Âu EU...Công ty cũng tổ chức bộ phận Quản lý chất lượng riêng với đội ngũ kĩ sư gồm khoảng 6 người nhằm tìm hiểu, xây dựng các quy trình quản lý chất lượng mới, quản lý chất lượng sản phẩm bán cho khách hàng, thực hiện việc đăng ký kiểm tra chất lượng với cơ quan quản lý nhà nước.. Bao bì sản phẩm: Công ty sử dụng nhiều kiểu bao bì khác nhau là do yêu cầu bảo quản các sản phẩm là rất khác nhau. Loại thùng Carton là để đóng gói các sản phẩm khô, loại khay hay hộp nhựa đựng các sản phẩm tươi sống và sản phẩm đông lạnh. Kích cỡ các thùng, khay cũng có nhiều loại như: có thùng 20 kg, thùng 10 kg, khay 1kg, khay 2 kg....Việc trang trí, trình bày bên ngoài của các loại bao bì cũng đựoc công ty rất chú ý vì nó còn thực hiện nhiều chức năng khác nhau như: chức năng thông tin, chức năng quảng cáo....Mặt trước của thùng hàng luôn ghi rõ tên giao dịch SEAPRODEX HANOI và biểu tượng của công ty. Tuỳ theo loại sản phẩm còn có hình ảnh về nó như hình 2 con tôm tượng trưng cho sản phẩm tôm....Hai mặt bên ghi các thông tin về kích cỡ sản phẩm, hạn sử dụng, khối lượng thùng hàng. -Xây dựng thương hiệu: Công ty CP XNK Thuỷ sản Hà Nội ( Seaprodex Hà Nội) là một trong những doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản lớn của Việt Nam. Riêng tại thị trường phía Bắc, Seaprodex Hà Nội là công ty lớn mạnh nhất, có sản lượng cũng như giá trị xuất khẩu cao nhất trong cả vùng. Công ty được thành lập từ rất lâu ( năm 1980) và lại là một công ty nhà nước nên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển trong những năm qua. Sản phẩm của công ty được xuất đi nhiều nước trên thế giới, tạo được uy tín và niềm tin đối với người tiêu dùng cả trong và ngoài nước. Công ty luôn ý thức được ý nghĩa của việc xây dựng thương hiệu lòng tin đối với người tiêu dùng bởi đặc thù của ngành kinh doanh thuỷ sản. Theo Công ty thì để xây dựng được thương hiệu phải bắt đầu từ việc xây dựng và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Vì sản phẩm của công ty là những loại thực phẩm phục vụ tiêu dùng hàng ngày, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ người tiêu dùng nên chất lượng, độ an toàn của sản phẩm luôn được đặt lên hàng đầu. Trong những năm qua công ty đã không ngừng phấn đấu để đạt được những tiêu chuẩn cả trong và ngoài nước về vệ sinh an toàn sản xuất như: tiêu chuẩn HACCP của Mỹ, tiêu chuẩn Code EU của Liên minh châu Âu (EU). Qua đó cũng góp phần tạo dựng hình ảnh, tạo sự nhận biết tốt của khách hàng về Công ty. Ngoài ra, Công ty cũng đã tạo sự nhận biết rõ ràng cho khách hàng về hình ảnh doanh nghiệp thông qua việc xây dựng các tín hiệu nhận biết như Logo, biểu trưng...Logo này được in trên tất cả các văn bản giấy tờ, hợp đồng kinh tế, bao bì sản phẩm, biển hiệu cửa hàng, đại lý.... Ý nghĩa của Logo trên là: - Nền Logo có màu xanh nước biển tượng trương cho lĩnh vực hoạt động của công ty là các sản phẩm từ biển, thuỷ sản nước ngọt.. - Hình hai con tôm màu xanh nằm đối xứng với nhau. Đây là sản phẩm xuất khẩu chính của công ty trong những năm vừa qua. - Chữ cái “ S” và dòng chữ SEAPRODEX là nhằm chỉ Seaprodex Hà Nội trước đây là một thành viên, công ty con trực thuộc Tổng công ty thuỷ sản Việt Nam ( SEAPRODEX VIỆT NAM ). Hiện nay, tuy công ty đã chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần hoạch toán độc lập về kinh tế song nó vẫn chịu sự quản lý về hành chính của Tổng công ty thuỷ sản Việt Nam. Giá cả Tuỳ theo yêu cầu về phương thức thanh toán của khách hàng mà công ty có các cách tính giá bán khác nhau ví dụ như tính theo giá FOB hay giá CIF. Sản phẩm của công ty chủ yếu xuất qua đường cảng biển vì vậy chịu ảnh hưởng rất nhiều của giá cước vận chưyển. Trong mấy năm gần đây do chịu tác động của việc tăng giá xăng dầu nên cước phí vận chuyển đã tăng khá cao làm ảnh hưởng không nhỏ tới giá bán sản phẩm của công ty tại các thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó chi phí về nhân công, ngưyên liệu chế biến trong nước cũng không ngừng tăng nhanh làm độn chi phí sản xuất sản phẩm lên cao. Sản lượng đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết. Trong vài năm gần đây thường xuyên xảy ra bão, lũ...làm giảm sản lượng thuỷ sản gây lên tình trạng khan hiếm nguồn hàng cho xuất khẩu. Kênh phân phối Kênh phân phối của công ty được tổ chức bao gồm cả kênh quốc tế và kênh nội địa. Tuy nhiên, kênh phân phối quốc tế hay hoạt động xuất khẩu sẽ được ưu tiên phát triển hơn. Hình 2.3 : Kênh phân phối sản phẩm của Seaprodex Hà Nội SEAPRODEX HÀ NỘI Phòng kinh doanh XNK Thuỷ sản Phòng Thuỷ sản Nội địa Nhà nhập khẩu nước ngoài Các cửa hàng, đại lý trong nước Các cửa hàng, đại lý tại nước ngoài Khách hàng Trong các nhà nhập khẩu thì thị trường Nhật Bản chiếm tỷ trọng lớn nhất với trên 70% sản lượng xuất khẩu của công ty. Khi xuất sang thị trường Nhật công ty thông qua một số nhà phân phối lớn trong đó lớn nhất là công ty Nichirei. Đây là bạn hàng truyền thống quen thuộc từ nhiều năm nay của công ty khi thâm nhập tại thị trường Nhật. Nichirei luôn chiếm một tỷ lệ rất lớn trong cả sản lượng cũng như giá trị xuất của công ty. Định hướng trong các năm tới của công ty là tập trung mọi nỗ lực cho các thị trường truyền thống đồng thời mở rộng phát triển thêm các thị trường mới như: thị trường Nam Phi, Hàn Quốc....Ngoài ra công ty cũng chuyển hướng hoạt động sang thị trường nội địa nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong nước về mặt hàng thuỷ sản đang ngày càng tăng cao. Xúc tiến hỗn hợp - Quảng cáo: công ty thường xuyên quảng cáo qua nhiều kênh và phương tiện khác nhau như: Tạp chí Thuỷ sản, Tạp chí Nông nghiệp Việt Nam. Trang web của công ty đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc nhanh chóng của khách hàng và người tiêu dùng. Tại địa chỉ website: www.seaprodexhanoi.com.vn khách hàng có thể trực tiếp liên hệ tìm hiểu thông tin về sản phẩm và thực hiện việc giao dịch ban đầu là đặt hàng trước qua địa chỉ email sau đó đến công ty liên hệ sau. - Hoạt động tuyên truyền và PR: Hàng năm công ty thường xuyên tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước nhằm giới thiệu về sản phẩm của công ty tới đông đảo người tiêu dùng như: Hội chợ Vietfish, Hội chợ Xuân... 2.2. Môi trường Marketing tại thị trường Mỹ 2.2.1. Môi trường kinh tế 2.2.1.1. Thông tin kinh tế chung - GDP: 11.750 tỷ USD (năm 2004). - GDP/đầu người: 40.100 USD/đầu người (năm 2004). - Dân số: trên 200 triệu người ( năm 2004). - Thông tin kinh tế khác: Là nước có nền kinh tế năng động, cường quốc số một thế giới về kinh tế. Ngành công nghiệp chiếm 18%, nông nghiệp chiếm 2% và dịch vụ chiếm 80% GDP. Nhập khẩu năm 2003 đạt 1.500 tỷ USD (tăng 8,3% so với năm 2002), xuất khẩu đạt 1.000 tỷ USD (tăng 4,6 % so với năm 2002). Từ các số liệu sơ bộ chung trên chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm chung của môi trường kinh tế Mỹ như: Quy mô thị trường: thị trường Mỹ rất rộng lớn với số dân đông, nhu cầu đa dạng và phong phú về chủng loại, cơ cấu sản phẩm tiêu dùng. Bên cạnh đó do người dân Mỹ có thu nhập bình quân đầu người cao nên khả năng chi trả cũng rất cao, tần suất mua cao. Tốc độ tăng trưởng của thị trường: Mặc dù có những khó khăn nhất định trong thời gian vừa qua nhưng thị trường Mỹ vẫn đạt tốc độ tăng trưởng dương và chất lượng tăng trưởng tốt. Nếu xét về gí trị tăng trưởng thực thì Mỹ vẫn có giá trị tăng trưởng cao nhất thế giới. Mức độ hấp dẫn của thị trường: Thị trường Mỹ rất rộng lớn và tiềm năng với tất cả các loại sản phẩm và các nhà xuất khẩu trên toàn thế giới. Vì vậy, tất cả đều coi thị trường Mỹ là thị trường tiềm năng ở hiện tại hoặc là mục tiêu hướng đến trong tương lai. Do đó mức độ cạnh tranh tại thị trường này với tất cả các loại sản phẩm là rất gay gắt.  2.2.1.2. Hệ thống tiêu thụ Hệ thống tiêu thụ thuỷ sản của Hoa Kỳ rất tiện lợi, trong đó có các hệ thống cung ứng nhà hàng, hệ thống cung ứng cho các cơ sở ăn uống công cộng ở các trường học, các chợ bán cá cho các hộ gia đình. Hệ thống phân phối hiện đại, sử dụng kho lạnh đảm bảo việc cung ứng hải sản sản xuất trong nước và hải sản nhập khẩu vừa đáp ứng về thời gian, vừa đảm bảo chất lượng cao. Hệ thống bán lẻ gồm các chuỗi siêu thị, các cửa hàng bán lẻ, các chợ, cửa hàng, câu lạc bộ và các chợ cá. Hệ thống phân phối đến các nhà hàng và cửa hàng bán lẻ trên cả nước thông qua khoảng 2.800 cơ sở phân phối và các nhà buôn. Nhà nhập khẩu cũng có thể là các chủ tàu hoặc công ty đánh bắt thuỷ sản ở trong nước cũng như ngoài nước. Họ có thể cũng là chủ nhà máy sơ chế. Hệ thống trung gian gồm các công ty thương mại hoặc hệ thống bán lẻ có nhu cầu gia công hàng tại các cơ sở chế biến. Nhà máy chế biến cũng có thể là nhà phân phối.  2.2.1.2 Mức tiêu thụ Những năm qua, người tiêu dùng Hoa Kỳ ngày càng ưa chuộng sản phẩm tôm chế biến và tôm đông lạnh. Trong thực đơn của nhiều nhà hàng, các món ăn chế biến từ tôm ngày càng phổ biến. Mức chi tiêu cho thuỷ sản tại các nhà hàng và cửa hàng bán lẻ năm 2003 của người tiêu dùng đạt 61,2 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2002- mức tăng hàng năm cao nhất kể từ năm 1997. Năm 2002, người tiêu dùng Hoa Kỳ chi khoảng 55,1 tỷ USD cho thuỷ sản, trong đó 38,4 tỷ USD tại các cơ sở dịch vụ thực phẩm và 16,4 tỷ USD tại các cơ sở bán lẻ. Doanh số bán sản phẩm giá trị gia tăng (GTGT) năm 2002 đạt 283,1 triệu USD. Theo Cục nghề cá biển Hoa Kỳ, năm 2003 người tiêu dùng Hoa Kỳ chi 42 tỷ USD cho thuỷ sản tại các cơ sở dịch vụ thực phẩm và 18,9 tỷ USD tại các cửa hàng bán lẻ. Doanh số bán sản phẩm GTGT đạt 290,4 triệu USD. 2.2.2. Môi trường luật pháp 1.2.2.1. Hàng rào thuế quan Các luật thuế Luật thuế 1930: Luật này ra đời nhằm điều tiết hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ, chống việc nhập khẩu hàng giả. Hiện nay những điều khoản của luật này vẫn còn hiệu lực tuy nhiên mức thuế suất đã giảm đi nhiều. Luật thương mại năm 1974: Luật này định hướng cho các hoạt động buôn bán, cho phép việc đền bù cho các ngành công nghiệp của Mỹ bị cạnh tranh bởi hàng hoá nhập khẩu. Hiệp định Thương mại năm 1979: bao gồm các điều khoản về sự bảo trợ của Chính phủ về các hàng rào kỹ thuật trong buôn bán, các sửa đổi thuế bù trừ và thuế chống hàng thừa, ế. Luật tổng hợp thương mại và cạnh tranh năm 1988: Luật này uỷ nhiệm tổng thống Mỹ tham gia vòng đàm phán Urugoay, đồng thời thiết lập thủ tục đặc biệt cho phép Mỹ áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với các quyết định không chịu mở cửa cho hàng hoá của Mỹ thâm nhập thị trường và vi phạm Quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ. Quy định mới của Mỹ về việc đặt cọc tiền thuế đối với hàng nhập khẩu bị đánh thuế chống bán phá giá khi nhập khẩu sang thị trường này: Theo quy định mới, khoản tiền đặt cọc sẽ tương đương với giá trị thuế chống bán phá giá tính trên tổng lượng hàng hoá mà một công ty nhập khẩu (từ nước bị áp thuế chống bán phá giá) trong vòng 12 tháng. Luật đền bù phá giá và trợ giá tiếp diễn năm 2000: Luật này cho phép trực tiếp rót các khoản tiền thu được từ việc áp thuế chống bán phá giá hoặc thuế chống trợ giá cho các công ty Mỹ đã tham gia khởi kiện bán phá giá để đòi phải áp đặt các loại thuế này. Mức thuế Mức thuế tối huệ quốc (MFN) hay còn gọi là mức thuế dành cho các nước có quan hệ thương mại bình thường (NTR), được áp dụng với những nước thành viên WTO và những nước chưa phải là thành viên của WTO nhưng đã ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ. Mức thuế MFN nằm trong phạm vi từ dưới 1% đến gần 40% trong đó hầu hết các mặt hàng đều chịu thuế từ 4% đến 7%. Mức thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN) được áp dụng đối với những nước chưa phải là thành viên của WTO và chưa ký hiệp định thương mai song phương với Mỹ như Lào, Cuba, Triều Tiên. Mức thuế suất Non-MFN nằm trong khoảng từ 20% đến 110% vao hơn nhiều so với mức thuế MFN. Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (Generalized System of Preferences-GSP). Một số hàng hoá nhập khẩu từ một số nước đang phát triển được Mỹ cho hưởng GSP nên được miễn thuế nhập khẩu hàng hoá vào Mỹ. Các ưu đãi thuế quan khác: Mỹ còn dành ưu đãi thuế quan cho những hàng hoá nhập khẩu thuộc diện hưởng lợi của Luật thương mại các sản phẩm Ô tô, máy bay dân dụng, sản phẩm Dược... 1.2.2.2. Hàng rào phi thuế quan Quy định về Vệ sinh an toàn thực phẩm Theo luật tất cả các loại thực phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu từ nước ngoài đều chịu sự điều tiết của các luật Liên bang như: Luật về Thực phẩm-Dược phẩm, Luật về Bao bì và Nhãn hàng và một số phần của luật về Dịch vụ y tế. Ngoài hệ thống pháp luật liên bang thì mỗi bang hoặc khu hành chính đều có hệ thống pháp luật và các quy định riêng. Bất cứ hàng hoá nào khi nhập khẩu vào Mỹ đều phải đảm bảo các tiêu chuẩn về chất lượng, độ an toàn ...như các sản phẩm nội địa. Riêng với các sản phẩm thuỷ sản, các doanh nghiệp muốn xuất khẩu vào thị trường Mỹ thì phải áp dụng tiêu chuẩn HACCP cho các sản phẩm của mình. HACCP là một tiêu chuẩn quản lý chất lượng theo cách tiếp cận mang tính phòng ngừa nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và chất lượng thực phẩm thông qua việc phân tích mối nguy và thực hiện các biện pháp kiểm soát tại các điểm kiểm soát tới hạn. US FDA là cơ quan có thẩm quyền kiểm tra tiêu chuẩn HACCP. Các quy định về kiểm dịch: bao gồm các quy định về chất phụ gia, chất kháng sinh và phẩm mầu thực phẩm. Quy định về nhãn mác Luật pháp Mỹ quy định các nhãn hiệu hàng hoá phải được đăng ký tại Cục Hải quan Mỹ. Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép một nhãn hiệu đã đã đăng ký bản quyền đều bị cấm nhập khẩu vào Mỹ. Kể từ ngày 1/1/2006, bất kỳ loại thực phẩm nào có chứa các thành phần trong đó có protein trong cá và thuỷ sản có vỏ sẽ phải được ghi nhãn rõ ràng theo quy định mới của Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội Thị trường Mỹ thường yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá vào thị trường này thực hiện một số tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, trong đó quan trọng nhất là tiêu chuẩn SA800. Mục tiêu của tiêu chuẩn này là cải thiện điều kiện lao động cho người lao động trên quy mô toàn cầu. Quy định về bảo vệ môi trường và nguồn lợi Mỹ đưa ra một số luật chủ yếu nhằm bảo vệ môi trường có sử dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu đối với những nước xuất khẩu vào thị trường này. Đạo luật năm 1973 về các loài động vật có nguy cơ bị tiệt chủng: theo luật này thì Mỹ cấm nhập khẩu một số loài được cho là đang có nguy cơ bị tiệt chủng. Luật bảo vệ động vật hoang dã Luật thực thi lệnh cấm đánh bắt ngoài khơi xa bằng lưới quét Gần đây Mỹ cũng đã cấm nhập khẩu tôm tự nhiên. . Quy định liên quan đến bình đẳng thương mại - Luật chống bán phá giá Luật này quy định những biện pháp trừng phạt đối với một quốc gia hay một doanh nghiệp đã bán sản phẩm của mình với giá thấp hơn giá thành của sản phẩm đó. Luật chống bán phá giá còn cho phép các doanh nghiệp của Mỹ được đệ trình khiếu nại về hoạt động bán phá giá ở nước thứ ba. Luật thuế chống bán phá giá được sử dụng rộng rãi hơn Luật thuế chống trợ giá. Thuế chống phá giá được áp dụng đối với hàng hoá khi nó được xác định là hàng nước ngoài đã hoặc sẽ bán phá giá vào thị trường Mỹ với giá “ thấp hơn giá trị thông thường”. Thấp hơn giá trị thông thường có nghĩa là giá xuất khẩu vào Mỹ thấp hơn giá bán của hàng hoá đó ở nước xuất xứ hoặc ở nước thứ ba thay thế thích hợp. - Chống vi phạm sở hữu trí tuệ, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, thương hiệu hàng hoá - Chống cạnh tranh không bình đẳng 2.3. Tình hình xuất khẩu sản phẩm của công ty vào thị trường Mỹ 2.3.1.Tình hình xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Mỹ Trước năm 1994, do chính sách cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam không thể xuất trực tiếp sang Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thuỷ sản Việt Nam vẫn xuất sang Hoa Kỳ thông qua nước hoặc vùng lãnh thổ thứ ba mà chủ yếu là Xingapo và Hồng Kông. Tháng 2 năm 1994 Hoa Kỳ chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế với Việt Nam. Tháng 7 năm 1994 lô hàng thuỷ sản đầu tiên của Việt Nam do Công ty Cafatex xuất khẩu cập cảng tiểu bang Florida, mở đầu cho một giai đoạn mới trong quan hệ thương mại thuỷ sản giữa hai nước. Năm 1995 Hoa Kỳ và Việt Nam chính thức bình thường hoá quan hệ và quan hệ ngoại giao giữa hai nước chính thức được thiết lập. Kể từ đó Việt Nam và Hoa Kỳ đã hình thành và phát triển quan hệ hợp tác trong lĩnh vực thuỷ sản, cả về quản lý, khoa học công nghệ và thương mại. Bộ Thuỷ sản Việt Nam, Hiệp hội chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) thường xuyên có liên hệ, trao đổi với Cục nghề cá biển Hoa Kỳ (MNFS), Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm (FDA). Phía Hoa Kỳ đã cử nhiều đoàn đại biểu sang làm việc với Việt Nam và toạ đàm về áp dụng HACCP đối với các cơ sở chế biến xuất khẩu. Năm 1998, hai nước đã ký biên bản thoả thuận hợp tác giữa nghề cá hai nước và kể từ đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ đã tăng đáng kể.              Sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Mỹ có hiệu lực tháng 12/2001, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Mỹ đã phát triển nhảy vọt. Hiệp định đã tác động rất lớn tới việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ, đưa Mỹ trở thành một trong những thị trường nhập khẩu thuỷ sản hàng đầu của Việt Nam. 2.3.1.1. Kết quả Ngay sau khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực hầu như tất cả các công ty xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đều chuyển hướng sang thị trường Mỹ và đã đạt được những kết quả bước đầu đáng kể về nhiều mặt và mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Năm 1998, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản từ Việt Nam sang Mỹ đạt trên 80 triệu USD, tăng gấp đôi năm 1997 (40 triệu USD). Năm 1999 kim ngạch thuỷ sản xuất khẩu sang Mỹ vượt qua ngưỡng 100 triệu USD, đạt 130 triệu USD, tăng 62,5% so với năm 1998.  Bảng 2.3 : Mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Mỹ năm 2000 - 2004 Đơn vị : Nghìn USD Mặt hàng 2000 2001 2002 2003 2004 Tôm nước lợ 185,12 308,70 368,62 468,93 277,45 Cá sống 175 216 201 271 357 Cá Cá sấy khô, ướp muối, hun khói 374 596 722 1,005 3,549 Hải sản thân mềm, nhuyễn thể 8,17 6,16 5,82 7,44 6,18 Cá đông lạnh 6,80 10,22 9,23 10,70 14,71 Cá tươi 9,59 16,64 24,67 23,66 25,38 Cá filê, cá thịt tươi khác 32,61 41,72 69,17 56,45 78,36 Nguồn : Số liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ Năm 2000, cơ cấu thị trường nhập khẩu Mỹ có sự điều chỉnh mạnh và Việt Nam đã nắm bắt cơ hội chen chân vào thị trường rộng lớn này. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ tăng đột ngột lên 2,14 lần so với năm 1999 và là mức tăng nhanh nhất trong số các quốc gia xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ. Trong các mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Mỹ, tôm chiếm tỷ trọng chính 74% tổng giá trị hàng thuỷ sản xuất khẩu. Việt Nam vươn lên vị trí thứ tư về giá trị xuất khẩu tôm sang Mỹ (về khối lượng đứng hàng thứ 7). Cá tra, ba sa philê đông lạnh là mặt hàng độc đáo của Việt Nam tại thị trường Mỹ. Năm 2001, Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ với khối lượng 70.930 tấn thuỷ sản các loại, trị giá 489.03 triệu USD. Năm 2002, khối lượng các mặt hàng xuất khẩu đã tăng lên 98.664 tấn, đạt 654.98 triệu USD, chiếm 32,4% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng hải sản (kể cả chế biến) đạt 777.66 triệu USD, tiếp tục xếp vị trí thứ hai sau hàng dệt may trong bảng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ, chiếm 35,3% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Trong nhóm hàng thuỷ sản, tôm đông lạnh đạt kim ngạch 469 triệu, chiếm 64% tổng kim ngạch nhóm hàng thuỷ sản. Tôm và cua chế biến đạt 162 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu cá phi lê giảm khoảng 19% so với trước do tác động của thuế chống bán phá giá. Năm 2004, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu vào Mỹ các mặt hàng như mực đông lạnh, bạch tuộc đông lạnh, tôm đông lạnh, cá ngừ, cá đông lạnh, mực khô, các khô và các mặt hàng khác với tổng số lượng đạt 91.380.6 tấn, trị giá là 602.9 triệu USD. Mỹ chiếm 25,1% thị phần xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Trong đó, tôm đông lạnh đạt 37.060 tấn, trị giá 397 triệu USD, cá đông lạnh đạt 33.680 tấn, trị giá 119 triệu USD. Năm 2005, do tác động đồng thời của việc áp thuế chống bán phá giá cá tra, cá ba sa philê đông lạnh và tôm đông lạnh, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ có phần giảm sút, giá trị xuất khẩu sang thị trường Mỹ chỉ chiếm 23% trong tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. 2.3.1.2. Thuận lợi Nguồn lợi thuỷ sản phong phú, sản lượng nuôi trồng lớn: Việt Nam có biển Đông rộng lớn lại nằm trong vùng biển có khí hậu nhiệt đới nóng ấm là nơi sinh sống của rất nhiều loại thuỷ hải sản như: tôm, cá, mực. Đây chính là điều kiện lý tưởng cho hoạt động đánh bắt thuỷ sản, đặc biệt là đánh bắt xa bờ. Được hưởng nhiều ưu đãi về thương mại sau khi gia nhập WTO, đăc biệt là sau sự kiện Mỹ ký hiệp định phê chuẩn về quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam (PNTR). Thuế suất nhập khẩu hàng hoá của chúng ta vào các thị trường lớn trong đó có thị trường Mỹ đã giảm đáng kể. Hàng hoá Việt Nam trong đó có sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu không còn phải chịu chế độ hạn ngạch nữa. Điều đó đã góp phần đáng kể làm tăng kim ngạch xuất khẩu hang thuỷ sản vào thị trường Mỹ trong thời gian vừa qua. 2.3.1.3. Khó khăn Về khoảng cách địa lý: Mỹ vàViệt Nam ở cách nhau khá xa, khoảng 12 múi giờ. Đối với hoạt động xuất khẩu thuỷ sản, khoảng cách địa lý có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động kinh doanh đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu. Mọi giao dịch, trao đổi thông tin, đàm phán thương mại, vận chuyển hàng hoá bằng các phương tiện công cộng đều cần các bên đối tác phải đầu tư thêm thời gian, công sức và tiền bạc. Do khoảng cách xa nên chi phí vận tải đường không, đường biển từ Việt Nam đến Mỹ khá cao, thời gian giao hàng chậm hơn so với các thị trường khác. Đối với mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu thì càng khó khăn hơn rất nhiều. Ngoài chi phí vận chuyển cao, thời gian giao hàng chậm thì chi phí cho việc bảo quản sản phẩm còn rất cao, đặc biệt là các sản phẩm thuỷ sản tươi sống. Vì vậy làm cho chi phí chung của sản phẩm thuỷ sản Việt Nam khi nhập khẩu vào thị trường Mỹ là khá cao, làm giảm khả năng cạnh tranh. Về khả năng cạnh tranh: Thị trường thuỷ sản Mỹ rộng lớn, có sức hấp dẫn lớn với các nhà xuất khẩu trên toàn thế giới nên mức độ cạnh tranh tại thị trường này cũng rất gay gắt. Các đối thủ cạnh tranh chính của sản phẩm thuỷ sản Việt Nam tại thị trường Mỹ chủ yếu là Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ. Mỗi nước đều có những lợi thế cạnh tranh riêng về giá, chất lượng, kích cỡ và cơ cấu chủng loại sản phẩm. So với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh trên thì sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam có chất lượng tương đương, chi phí sản xuất thấp nên giá khá cạnh tranh, cơ cấu sản phẩm phong phú đa dạng với nhiều loại thuỷ sản khác nhau. Tuy nhiên, điểm yếu của thuỷ sản Việt Nam là vẫn chưa có khả năng thiết lập một hệ thống phân phối và bán hàng trực tiếp tại thị trường Mỹ. Điều này xuất phát từ thực tế khách quan là các sản phẩm của Việt Nam có mặt tại thị trường Mỹ khá chậm so với sản phẩm của các nước Thái Lan, Trung Quốc và một số nước khác. Hàng hoá Việt Nam mới thực sự xâm nhập thị trường Mỹ từ năm 2002 sau khi BTA có hiệu lực, trong khi các đối thủ cạnh tranh của chúng ta có hệ thống phân phối và bán hàng tại thị trường này từ rất lâu. Đây là một thách thức rất lớn đối với thuỷ sản Việt Nam nói chung khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Các biện pháp bảo hộ sản xuất nội địa của Mỹ đang có xu hướng gia tăng: Sản phẩm thuỷ sản của các nước xuất khẩu nói chung và của Việt Nam nói riêng đều đang chịu tác động lớn từ những chính sách bảo hộ này. Mỹ thường đơn phương áp dụng các chính sách bảo hộ thuỷ sản trong nước thông qua các luật, chế tài thương mại mà thực chất đây là một loại rào cản tinh vi. Luật chống bán phá giá của Mỹ được áp dụng rất linh hoạt với quy trình điều tra chống bán phá giá do DOC tiến hành ngày càng trở lên phức tạp, khó lường. DOC sử dụng rất nhiều quy tắccho phép xác định các mức giá mà cơ quan này cho là bán phá giá. Hải quan Mỹ yêu cầu các nhà nhập khẩu phía họ phải nộp tiền ký quỹ: Đây là một dạng mới của các rào cản thương mại mà phía Mỹ đặt ra nhằm cản trở hoạt động xuất nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam cũng như các nước khác vào thị trường Mỹ. Đó là khoản tiền đóng bảo lãnh thanh toán mà các nhà nhập khẩu phía Mỹ phải nộp khi nhập khẩu thuỷ sản từ các nước phải chịu thuế chống bán phá giá. Số tiền tương đương với giá trị nhập khẩu trong vòng một năm nhân với mức thuế chống bán phá giá mà doanh nghiệp hoặc nước xuất khẩu phải chịu. Khoản ký quỹ này được đóng theo từng năm, dựa vào giá trị xuất khẩu của năm trước và chỉ được hoàn trả lại sau 3 năm khi có được kết quả “review”. Trước tình hình này, các nhà nhập khẩu của Mỹ đã thay đổi phương thức mua hàng từ hình thức giá CIF trưyền thống sang hình thức mới là DDP (mua hàng ngay trên đất Mỹ). Vì vậy, các nhà xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam lại trở thành người mua hàng của chính mình ngay trên đất Mỹ và họ phải đóng khoản tiền ký quỹ đó thay cho nhà nhập khẩu của mình. Đây là một khó khăn thực sự đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vốn có tiềm lực kinh tế yếu. Họ không có đủ khả năng để nộp khoản ký quỹ hàng năm, do đó làm mất đơn hàng nhập khẩu. Về nguồn cung ứng chưa ổn định: ngoài nguồn nguyên liệu được cung cấp từ hoạt động đánh bắt chiếm tỉ lệ rất nhỏ thì chủ yếu nguồn cung sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu là từ các vùng nuôi nguyên liệu. Các vùng nuôi thuỷ sản của Việt Nam chưa được quy hoạch tôt mà vẫn càn mang tính tự phát, thiếu tính tập trung và tính chuyên môn hoá chưa cao cả trong khâu nuôi trồng, chăm sóc và thu hoạch sản phẩm. Do đó cũng làm giảm năng suất cũng như chất lượng thuỷ sản. Bên cạnh đó sản lượng đánh bắt cũng như nuôi trồng của chúng ta cũng chịu ảnh hưởng của điều kiện thời tiết rất lớn. Hàng năm có đến hàng chục trận bão, lũ lụt thường xuyên xảy ra làm thiệt hại lớn đến ngành thuỷ sản. Về hệ thống kênh phân phối tại thị trường Mỹ: Các doanh nghiệp Việt Nam chưa thể xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Mỹ mà phải xuất khẩu qua một nước thứ 3 như Hồng Kông, Singapo...Do điều kiện nguồn lực còn hạn hẹp nên hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam chưa thể triển khai các hoạt động xúc tiến bán tại thị trường Mỹ. Họ chủ yếu phân phối qua các công ty cỡ nhỏ, chưa tiếp cận được với hệ thống phân phối khổng lồ của Mỹ cũng như tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng Mỹ. Sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu tại thị trường Mỹ: thuỷ sản Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu dưới thương hiệu của một công ty nước ngoài hay thương hiệu nước ngoài. Người tiêu dùng Mỹ còn ít biết đến thương hiệu thuỷ sản Việt Nam mặc dù có thể họ đã sử dụng nhiều lần. Điều này làm giảm giá trị xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam. 2.3.2.Tình hình xuất khẩu của Seaprodex Hà Nội vào thị trường Mỹ 2.3.2.1. Kết quả Sau khi hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Mỹ có hiệu lực thì cũng như các doanh nghiệp thuỷ sản khác trong cả nước, công ty cũng đã xúc tiến hoạt động xuất khẩu vào thị trường đầy tiềm năng này. Bảng 2.4 : Kết quả xuất khẩu vào thị trường Mỹ của Seaprodex Hà Nội Năm Sản lượng (tấn) Giá trị (USD) 2004 342 2.463.000 2005 650 4.689.000 2006 120 816.000 Nguồn : Phòng Xuất nhập khẩu thuỷ sản Hiện nay, công ty vẫn đang tiến hành các hoạt động tìm hiểu thâm nhập sâu hơn nữa vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, bên cạnh một số thuận lợi thì hoạt động xuất khẩu của công ty vào thị trường này đang gặp phải một số khó khăn , vướng mắc. Ngoài những thuận lợi và khó khăn chung cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Mỹ thì công ty cũng có những thuận lợi và khó khăn riêng đặc thù của mình. 2.3.2.2. Thuận lợi Có được nguồn lực tài chính mạnh: đây vốn là công ty nhà nước được thành lập từ rất sớm và mới được cổ phần hoá nên nguồn vốn của công ty được bổ sung mạnh mẽ từ phía nhà nước cũng như sự đóng góp của các cổ đông. Có cơ sở vật chất tốt: các cơ sở của công ty bao gồm nhà máy chế biến thuỷ sản mới được xây dựng rất hiện đại tại Nam Định, nhà kho lạnh tại Hải Phòng có khả năng bảo quản sản phẩm tốt với công suất cao. Công ty có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản: trong thời kỳ còn bao cấp cũng như sau này công ty luôn là đơn vị dẫn đầu trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của toàn Miền Bắc. 2.3.2.3. Khó khăn Nguồn cung nguyên liệu chưa ổn định: sản phẩm xuất khẩu của công ty chủ yếu là được thu mua từ các cơ sở chế biến nhỏ trong miền Nam, sản lượng sản phẩm do công ty chế biến là rất ít. Vì vậy công ty khó có thể đảm bảo được nguồn cung cấp cũng như đảm bảo chất lượng sản phẩm đúng như ý mình. Hiện nay, thị trường Mỹ cũng đang đòi hỏi chất lượng sản phẩm rất cao. Vì vậy việc không chủ động được nguồn cung sẽ gây khó khăn cho công ty trong việc kiểm soát chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn của mình cũng như của thị trường nhập khẩu. Hiện nay, sản phẩm của công ty vẫn đang bị áp thuế chống bán phá giá khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ với mức thuế từ 3,5% đến 5,5%. Đây thực sự là một khó khăn lớn đối với họat động xuất khẩu của công ty vào thị trường Mỹ vì ngoài việc phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm của các nước xuất khẩu khác thì công ty còn phải cạnh tranh trực tiếp với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản trong nước không phải chịu thuế chống bán phá giá hoặc chịu mức thuế ít hơn. Cũng chính vì lý d._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10040.doc