Dự thảo tóm tắt Luận án - Nghiên cứu họ dơi lá mũi (chiroptera: rhinolophidae) ở Việt Nam

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN HOÀNG TRUNG THÀNH NGHIÊN CỨU HỌ DƠI LÁ MŨI (CHIROPTERA: RHINOLOPHIDAE) Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Động vật học Mã số: 62420103 DỰ THẢO TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC Hà Nội - 2017 Công trình đƣợc hoàn thành tại: Bộ môn Động vật có xương sống, Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN. Người hướng dẫn khoa học: - PGS. TS. Vũ Đình Thống - PGS. TS. Nguyễn Xuân Huấn Phản biện: . . . . . . .

pdf27 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 05/01/2022 | Lượt xem: 390 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Dự thảo tóm tắt Luận án - Nghiên cứu họ dơi lá mũi (chiroptera: rhinolophidae) ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Phản biện: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Phản biện: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Đại học Quốc gia chấm luận án tiến sĩ họp tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . vào hồi giờ ngày tháng năm 20... Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam; - Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội MỞ ĐẦU Bô Dơi là bộ thú duy nhất bao gô m như ng loa i thú có khả năng bay thực sự. Với khả năng bay, dơi cũng là nhóm thú có khả năng phát tán tốt nhất [Kunz & Pierson, 1994]. Dơi có vai trò đặc biệt quan trọng trong các “dịch vụ” hệ sinh thái tư nhiên, như thụ phấn và phát tán nhiê u loa i thực vật; go p phâ n quan trọng trong việc duy trì và tái sinh rừng tư nhiên sau khi bị tàn phá. Măt kha c, dơi săn bắt và tiêu thụ một số lượng lớn côn trùng và nh ng động vật c nh ; đồng thời, chúng là thức ăn của một số loài chim, bò sát và thú [Kunz (ed.), 2009]. Bên cạnh nh ng vai trò quan trọng trong các hệ sinh thái, nhiều loài dơi đã được xác định là vật chủ trung gian có thể truyền một số bệnh, trong đó có nh ng bệnh cực kỳ nguy hiểm đối với các loài động vật và con người như bệnh Nipah, Ebola, SARS, tiêu chảy [Li, 2005; Calisher, 2006; Chu, 2008]. Một số loài dơi đã được xác định có mang các chủng thuộc nhóm coronavirus gây bệnh SARS, trong đó có các loài R. pearsoni, R. pusillus, R. macrotis [Li, 2005], R. sinicus [Lau, 2005; Wang, 2006]. Cho đến nay, họ Dơi lá mũi Rhinolophidae được xác định là một trong hai họ dơi có số lượng loài nhiều nhất ở Việt Nam, với 19 loài trong tổng số 123 loài dơi đã được ghi nhận ở nước ta [Furey và cộng sự, 2009; Kruskop, 2013; Gorfol và cộng sự, 2014; Nguyen Truong Son và cộng sự, 2015; Vuong Tan Tu và cộng sự, 2015, 2017]. Mặc dù đã có một số nghiên cứu về dơi nói chung và dơi lá mũi nói riêng, nhưng vẫn chưa có một nghiên cứu đầy đủ về dơi lá mũi ở Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào kiểm chứng thông tin về sự tồn tại của một số loài dơi lá mũi ở nước ta khi các nghiên cứu trước vẫn chưa đủ cơ sở để khẳng định. Ngoài ra, mới chỉ có một số ít thông tin về đặc điểm nhận dạng, phân bố, đặc điểm sinh học và hiện trạng của một số loài. Trước thực tế đó, đề tài "Nghiên cứu họ Dơi lá mũi (Chiroptera: Rhinolophidae) ở Việt Nam" được thực hiện nhằm làm rõ vị trí phân loại của một số taxon còn đang nghi ngờ về mặt phân loại học, trên cơ sở kết hợp các phương pháp định loại bằng so sánh hình thái, di truyền phân tử và siêu âm. Bên cạnh việc xác định chính xác thành phần loài, nghiên cứu cũng cung cấp các thông tin về đặc điểm nhận dạng, một số đặc điểm sinh học và sinh thái học, phân bố, hiện trạng của nh ng loài có giá trị bảo tồn, Kết quả của nghiên cứu này hy vọng sẽ cung cấp nh ng thông tin cơ bản cần thiết cho các nghiên cứu sau này khi nghiên cứu về thành phần loài, nghiên cứu về đặc điểm sinh học và sinh thái học, xây dựng kế hoạch quản lý và bảo tồn cũng như kiểm soát các dịch bệnh có liên quan đối với một số loài dơi lá mũi. Mục tiêu của luận án 1. Xem xét đánh giá sự đa dạng của các loài dơi thuộc họ Dơi lá mũi ở Việt Nam; 1 2. Kiểm định/tu chỉnh vị trí phân loại của các loài còn nghi ngờ dựa trên các đặc điểm phân loại hình thái, di truyền phân tử và siêu âm; 3. Bổ sung dẫn liệu sinh học, sinh thái học và hiện trạng bảo tồn của một số loài thuộc họ Dơi lá mũi ở Việt Nam. Nội dung nghiên cứu 1. Xác định thành phần loài, đánh giá hiện trạng phân loại của họ Dơi lá mũi (Rhinolophidae) ở Việt Nam; mô tả các loài và xây dựng khóa định loại cho các loài thuộc họ Dơi lá mũi hiện biết ở Việt Nam; 2. Đánh giá khả năng định loại các loài thuộc họ Dơi lá mũi bằng di truyền phân tử, phân tích đặc điểm di truyền phân tử, xác định khoảng cách di truyền, quan hệ phát sinh gi a các loài được ghi nhận; 3. Đánh giá khả năng định loại các loài dơi lá mũi bằng siêu âm, xác định đặc điểm siêu âm của họ Dơi lá mũi ở Việt Nam, phân tích mối tương quan gi a tần số siêu âm với một số chỉ số về hình thái, kích thước; 4. Xác định vùng phân bố, đặc điểm phân bố địa lý của các loài thuộc họ họ Dơi lá mũi ở Việt Nam. 5. Đánh giá hiện trạng của một số loài dơi lá mũi ở Việt Nam có giá trị bảo tồn. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 1. Luận án đã cung cấp nhiều dẫn liệu mới và đầy đủ nhất về tính đa dạng và hiện trạng phân loại; khả năng sử dụng di truyền phân tử và siêu âm trong định loại; đặc điểm di truyền phân tử và siêu âm của họ Dơi lá mũi ở Việt Nam; bổ sung dẫn liệu sinh học, sinh thái học và hiện trạng của một số loài thuộc họ Dơi lá mũi ở Việt Nam có giá trị bảo tồn. 2. Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp nh ng thông tin cơ bản cần thiết cho các nghiên cứu sau này khi nghiên cứu về thành phần loài, nghiên cứu về đặc điểm sinh học và sinh thái học, xây dựng kế hoạch quản lý và bảo tồn cũng như kiểm soát các dịch bệnh có liên quan đối với một số loài dơi lá mũi ở Việt Nam. Những đóng góp của luận án 1. Đã xác định được danh sách gồm 20 loài thuộc họ Dơi lá mũi Rhinolophiadae ở Việt Nam. Đã chính thức bổ sung thêm loài R. osgoodi vào thành phần loài dơi ở Việt Nam, chính thức khẳng định sự có mặt của loài R. pusillus, làm rõ sự có mặt của loài R. siamensis, góp phần bổ sung 7 dạng loài vào thành phần loài dơi lá mũi ở nước ta, gồm 2 dạng loài của R. affinis; 1 dạng loài của R. malayanus, 1 dạng loài của R. thomasi, 1 dạng loài của R. macrotis, 1 dạng loài của R. paradoxolophus và 1 dạng loài của R. marshalli. Đã mô tả đặc điểm nhận dạng và xây dựng khóa định loại chi tiết cho các loài và dạng loài kể trên. 2. Lần đầu tiên có nghiên cứu đầy đủ nhất về tần số siêu âm và sử dụng tần số siêu âm trong định loại họ các loài thuộc họ dơi lá mũi ở Việt Nam. Trong đó, lần đầu tiên công bố chính thức về tần số siêu âm của loài R. 2 osgoodi và R. subbadius; đánh giá tương quan gi a tần số siêu âm với kích thước cơ thể và chiều cao tai của các loài thuộc họ Dơi lá mũi ở Việt Nam. 3. Lần đầu tiên sử dụng di truyền phân tử trong định loại hầu hết các loài thuộc họ Dơi lá mũi ở Việt Nam; đánh giá về quan hệ phát sinh và xác định khoảng cách di truyền gi a các loài. Trên cơ sở đó, đã xác định được khoảng cách di truyền trong trình tự gene COI gi a các loài; xác định các nhóm quan hệ di truyền trong họ Dơi lá mũi ở Việt Nam. 4. Lần đầu tiên có phân tích về đặc điểm phân bố địa lý của các loài dơi lá mũi ở Việt Nam theo 5 vùng địa lý sinh vật: Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, và Nam Bộ. 5. Đã đánh giá hiện trạng số lượng, phân bố của một số loài dơi lá mũi có giá trị bảo tồn ở Việt Nam. Cấu trúc của luận án Luận án gồm 149 trang, chia thành 3 chương với 6 bảng, 49 hình, 219 tài liệu tham khảo. Phần phụ lục gồm 7 Phụ lục, cung cấp thêm các thông tin chi tiết, số liệu bổ sung và thông tin về các mẫu vật sử dụng trong nghiên cứu. Chƣơng 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. KHÁI QUÁT VỀ BỘ DƠI CHIROPTERA Bộ Dơi (Chiroptera) gồm nh ng loài thú có khả năng phát tán tốt nhất và là một trong hai bộ thú có số lượng loài nhiều nhất. Chúng thường tạo thành nh ng tập hợp cá thể lớn và có thể là bộ thú có số lượng cá thể phong phú nhất trong số các bộ thú hiện có trên Trái đất. Bô Dơi cũng là bộ duy nhất bao gồ m nh ng loà i thú có khả năng bay lượn thực sự. Khả năng bay góp phần làm tăng tính đa dạng về đặc điểm sinh học và sinh thái học của dơi như tính đa dạng về thức ăn, tập tính ngủ nghỉ, các chiến lược sinh sản và tập tính xã hội của dơi [Kunz & Pierson, 1994]. Dơi phân bố ở tất cả các lục địa trên thế giới và chỉ không có mặt ở các vùng cực và một số đảo đại dương bị cách ly [Kunz & Pierson, 1994]. 1.2. KHÁI QUÁT VỀ HỌ DƠI LÁ MŨI RHINOLOPHIDAE 1.2.1. Tính đa dạng và phạm vi phân bố Theo Csorba và cộng sự [2003], họ Dơi lá mũi Rhinolophidae chỉ có duy nhất một giống Rhinolophus. Cho đến nay, các nhà khoa học đã xác định được 95 loài dơi lá mũi thuôc 23 nhó m loà i biết trên toàn thế giới [Csorba và cộng hiên sự, 2003; Simmons, 2005; Yoshiyuki & Lim 2005; Soisook và cộng sự, 2008; Sun và cộng sự, 2008; Wu và cộng sự, 2008, 2009; Zhou và cộng sự, 2009; Wu & Vu Dinh Thong 2011, Chattopadhyay và cộng sự, 2012; Taylor và cộng sự, 3 2012; Benda & Vallo, 2012; Peterhans và cộng sự, 2013; Soisook và cộng sự, 2015, 2016]. Họ Dơi lá mũi phân bố rộng khắp cựu lục địa, từ Tây Âu và châu Phi đến Đông Nam Á, Nhật Bản, Philippine, New Guinea và Australia [Corbet & Hill 1992; Csorba và cộng sự, 2003]. Dơi lá mũi chủ yếu phân bố ở vùng nhiệt đới, nhưng một số loài có thể chịu đựng được nhiệt độ thấp ở vùng ôn đới bằng cách ngủ đông, một đặc điểm rất hiếm gặp ở nh ng loài dơi nhiệt đới [Altringham, 1996]. 1.2.2. Đặc điểm hình thái Một trong nh ng đặc điểm đặc trưng của họ Dơi lá mũi là chúng có các lá mũi, gồm một số chóp da kỳ dị, phức tạp và phần da ở phần lá mũi mở rộng tạo thành hình móng ngựa bao quanh hai lỗ mũi. Các nếp da này được chia làm ba phần, gồm lá mũi trước (horseshoe), lá mũi gi a (sella) và lá mũi sau (lancet). Hình dạng và sắp xếp của các lá mũi thay đổi tùy thuộc vào từng nhóm loài và từng loài khác nhau [Nowak, 1994]. 1.2.3. Đặc điểm siêu âm Họ Dơi lá mũi Rhinolophidae có hệ thống thu phát âm thanh mang tính đặc trưng giúp chúng có khả năng phát và thu âm đồng thời. Các lá mũi phức tạp cùng các xoang mũi rộng liên quan đến việc phát và truyền tín hiệu, trong khi vành tai lớn và cấu tạo ốc tai giúp chúng thu nhận các tín hiệu hồi âm [Csorba và cộng sự, 2003]. Tín hiệu âm thanh của dơi lá mũi được đặc trưng bởi một đoạn ổn định CF (constant-frequency), một đoạn khởi đầu iFM (initial frequency- modulated) và đoạn kết thúc tFM (terminal frequency-modulated) (hình 1.2) [Altringham, 1996; Csorba và cộng sự, 2003]. 1.3. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI 1.3.1. Nghiên cứu về phân loại học họ Dơi lá mũi trên thế giới Họ Dơi lá mũi Rhinolophidae hiện nay chỉ gồm các loài thuộc giống duy nhất Rhinolophus [Csorba và cộng sự, 2003]. Giống này được đề xuất và sử dụng đầu tiên bởi Lacépède vào năm 1799, thuộc họ Vespertilionidae [Servent và cộng sự, 2003]. Năm 1825, Gray chia họ Vespertilionidae thành 5 phân họ, trong đó có phân họ Rhinolophina. Năm 1907, Miller nâng bậc phân loại của các phân họ Rhinolophinae và Phyllorhininae thành bậc họ. Trong đó, họ Rhinolophidae có một giống duy nhất Rhinolophus. Bên cạnh việc mô tả rất nhiều loài mới và dạng mới thuộc giống Rhinolphus, Andersen [1905b-e], căn cứ vào một số đặc điểm như: kích thước và hình dạng của lá mũi, kích thước và hình dạng của tai, chiều dài khẩu cái, chiều dài tương đối của các xương ngón tay, các đốt ngón để chia giống Rhinolophus thành 6 nhóm loài (group) khác nhau. Sau đó, có nhiều tác giả bổ sung, phân chia lại hoặc sắp xếp lại các nhóm loài trên cơ sở sắp xếp ban đầu của Andersen, nhưng không có sự thay đổi nhiều [Servent và cộng sự, 2003]. 4 1.3.2. Nghiên cứu về di truyền phân tử Bên cạnh việc sử dụng nh ng phương pháp phân loại dựa vào các đặc điểm hình thái, trong nh ng năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu kết hợp sử dụng các phương pháp phân loại bằng di truyền phân tử trong nghiên cứu phân loại các nhóm sinh vật nói chung và nhóm dơi cũng như họ Dơi lá mũi nói riêng. Trong xu thế đó, DNA ty thể được sử dụng như một công cụ quan trọng trong nghiên cứu về phân loại học dơi. Nh ng phương pháp này đã góp phần bổ trợ cho phương pháp phân loại bằng hình thái trong việc định loại các loài, xác định vị trí phân loại của một số taxon có vị trí phân loại còn chưa rõ ràng [Thomas, 2000; Clare và cộng sự, 2006; Li và cộng sự, 2006; Soisook và cộng sự, 2008; Puechmaille và cộng sự, 2014; Ith và cộng sự, 2015], phát hiện nh ng loài ẩn sinh trong các tổ hợp loài có hình thái và kích thước gần tương tự nhau hoặc phân biệt nh ng loài có quan hệ họ hàng gần [Li và cộng sự, 2006; Clare và cộng sự, 2006 ; Sun và cộng sự, 2008, 2009; Boston và cộng sự, 2014], mô tả các loài mới cho khoa học [Mucedda và cộng sự, 2002; Zhou và cộng sự, 2009; Chattopadhyay và cộng sự, 2012; Taylor và cộng sự, 2012; Benda và Vallo, 2012; Peterhans và cộng sự, 2013; Gorfol và cộng sự, 2014; Soisook và cộng sự, 2015, 2016]. Các kỹ thuật trong di truyền phân tử cũng được áp dụng nhiều trong nghiên cứu sinh thái học và bảo tồn đối với một số loài [Rossiter và cộng sự, 2000, 2007; Francis và cộng sự, 2010; Bilgin, 2012, 2016; Dool và cộng sự, 2016]. 1.3.3. Nghiên cứu về siêu âm Cho đến nay, các nhà khoa học đã xác định được có khoảng hơn 70% số loài dơi sử dụng siêu âm [Surlykke & Moss 2000] trong khoảng 1.270 loài dơi đã biết [Herkta và cộng sự, 2016]. Các tần số được sử dụng trong siêu âm ở dơi thường nằm trong khoảng gi a 11 kHz (thí dụ ở loài Euderma maculatum) [Fullard và Dawson, 1997] và 210 kHz (loài Coelops frithii) [Vu Dinh Thong, 2011] hoặc đến 212 kHz (loài Cloeotis percivali) [Fenton và Bell, 1981]. Hiện nay, nh ng nghiên cứu về dơi trên thế giới thường sử dụng siêu âm các nghiên cứu về thành phần loài, định loại và mô tả loài mới [Sun và cộng sự, 2008; Soisook và cộng sự, 2008, 2010, 2015, 2016; Kruskop và cộng sự, 2010; Ith và cộng sự, 2011; 2015; Nesi và cộng sự, 2011; Chattopadhyay và cộng sự, 2012; Taylor và cộng sự, 2012; Zamora-Gutierrez và cộng sự, 2016]; mô tả đặc điểm tiếng kêu siêu âm của loài [Ing và cộng sự, 2016; Morni và cộng sự, 2016]; tập tính siêu âm của dơi [Surlykke & Moss, 2000; Fenton và cộng sự, 2011]; sinh học thần kinh của tiếng kêu siêu âm [Moss và cộng sự, 2003; Covey, 2005; Ulanovsky & Moss, 2008], tiến hóa và thích nghi trong tiếng kêu siêu âm của dơi [Fenton và cộng sự, 1995, 2012; Russo và cộng sự, 2007; Puechmaille và cộng sự, 2014; Jacob & Bastian, 2016]. 5 1.4. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM 1.4.1. Tình hình nghiên cứu phân loại học họ Dơi lá mũi ở Việt Nam Trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ XX trở về trước, nh ng nghiên cứu có liên quan đến dơi ở Việt Nam nói chung và Dơi lá mũi nói riêng là không nhiều. Dơi lá đuôi Rhinolophus affinis có lẽ là loài dơi lá mũi đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam, vào năm 1878, khi Dobson công bố kết quả phân tích các mẫu vật dơi trong bộ sưu tập của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Paris. Sau đó loài này được ghi nhận trong nhiều nghiên cứu khác: Thomas [1928], Osgood [1932], Delacour [1940]. Từ đó đến nay đã có nhiều công bố của các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về khu hệ thú hoặc khu hệ dơi nói chung, trong đó có nhắc đến các loài dơi lá mũi [Pousargues, 1904; Kloss 1921; Thomas, 1925; Kloss, 1926, Osgood, 1932; Van Peenen, 1969; Đào Văn Tiến, 1985; Đặng Huy Huỳnh và cộng sự, 1994; Hendrichsen và cộng sự, 2001; Lê Vũ Khôi, 2001; Đặng Ngọc Cần và cộng sự, 2008], hoặc trong các nghiên cứu vê dơi lá mũi [Sanborn, 1939; Bourret, 1951; Hill 1972b; Topal, 1974; Hill & Topal, 1990; Csorba và Jenkins, 1998; Soisoook và cộng sự, 2008; Nguyễn Trường Sơn và cộng sự, 2010]. Đến năm 2013, Kruskop cho rằng họ Rhinolophidae ở Việt Nam có 19 loài, trong tổng số 120 loài dơi có ở Việt Nam. Có thể nói, đây là nghiên cứu đầy đủ nhất đến thời điểm hiện tại về các loài dơi ở Việt Nam nói chung, trong đó có họ Dơi lá mũi nói riêng, với các thông tin về đặc điểm định loại, phân bố, đặc điểm sinh học và sinh thái học của các loài. 1.4.2. Tình hình nghiên cứu về di truyền phân tử Trong nh ng năm gần đây, ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu về di truyền phân tử kết hợp với phương pháp hình thái trong nghiên cứu về phân loại học, mô tả loài mới, nghiên cứu địa lý phát sinh, quan hệ phát sinh của các loài dơi ở Việt Nam và khu vực lân cận [Borisenko và cộng sự, 2008; Vuong Tan Tu và cộng sự, 2014, 2015; 2017]. Việc sử dụng phương pháp sinh học phân tử kết hợp với phương pháp phân tích hình thái cũng được tiến hành trên một số nghiên cứu khác do các nhà khoa học nước ngoài phối hợp với các nhà khoa học trong nước cũng đã phát hiện thêm các loài dơi mới [Gorfol và cộng sự, 2014], phân biệt nh ng loài có quan hệ họ hàng gần [Ith và cộng sự, 2011], phân biệt các dạng khác nhau của cùng một loài [Ith và cộng sự, 2015] cũng như nghiên cứu về thành phần loài [Vuong Tan Tu và cộng sự, 2015]. 1.4.3. Tình hình nghiên cứu về siêu âm Nghiên cứu về siêu âm của dơi – một mảng quan trọng đã được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm từ vài chục năm trước, đến nay cũng đã được thực hiện ở Việt Nam với một số nghiên cứu ban đầu về đặc điểm tiếng kêu siêu âm của một số loài [Vũ Đình Thống và cộng sự, 2007, 2011, 2012 a, b; Vu Dinh Thong, 2011, 2014a, b, 2015; Nguyễn Viết Thịnh và cộng sự, 2015; Nguyen Truong Son và cộng sự, 2015]. 6 Trong nh ng năm gần đây, nhiều taxon mới đã được công bố, nhiều loài ần sinh trong họ dơi này đã được ghi nhận bằng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Ở Việt Nam, phương pháp phân loại dơi nói chung và dơi lá mũi nói riêng vẫn chủ yếu dựa vào so sánh về hình thái, chỉ một số tác giả gần đây mới kết hợp phương pháp phân loại bằng hình thái với phân tích di truyền phân tử và siêu âm. Mặc dù đã có một số nghiên cứu về dơi nói chung và dơi lá mũi nói riêng, nhưng vẫn chưa có một nghiên cứu đầy đủ về họ Dơi lá mũi ở Việt Nam. Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào kiểm chứng thông tin về sự tồn tại của một số loài thuộc họ này ở Việt Nam khi các nghiên cứu trước vẫn chưa đủ cơ sở để khẳng định. Ngoài ra, mới chỉ có một số ít thông tin về đặc điểm nhận dạng, phân bố, đặc điểm sinh học và hiện trạng của một số loài. Chƣơng 2 VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU Trong giai đoạn 2013 – 2017, các đợt khảo sát về dơi lá mũi được tiến hành riêng rẽ hoặc kết hợp với các nghiên cứu khác tại 15 địa điểm và sử dụng các mẫu vật được thu thập từ trước từ 39 địa điểm khác nhau. 2.2. VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU Mẫu vật : Mẫu vật nghiên cứu gồm 1.140 mẫu dơi lá mũi hiện lưu tr tại lưu tr tại Phòng Động vật học có xương sống và Phòng Bảo tàng Động vật, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Bảo tàng Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trình tự di truyền: 21 trình tự gene COI từ nghiên cứu này và 67 trình tự gene COI của các loài dơi lá mũi được công bố trên GenBank. Danh sách các trình tự di truyền trình bày trong phụ lục 2 của luận án. Tín hiệu siêu âm: 300 file tín hiệu siêu âm của các loài dơi lá mũi ở Việt Nam. 2.3. CÁC PHƢƠNG PHÁP THU MẪU VÀ THU THẬP SỐ LIỆU 2.3.1. Bẫy bắt và xử lý mẫu vật Mẫu được thu bằng bẫy thụ cầm và lưới mờ. Bẫy thụ cầm được sử dụng có kích thước 1.6x1.8 và 1.8 x 2.0m với bốn dàn cước đặt song song, khoảng cách gi a các sợi cước là 2.5 cm. Lưới mờ được sử dụng gồm các kích thước: 3 x 4m; 3 x 6m, 3 x 9m, 3 x 12 m. Phương pháp đặt bẫy thụ cầm và lưới mờ theo Nguyễn Trường Sơn & Csorba [2007]; Kunz (ed.) [2009]; Vu Dinh Thong [2011]. 7 2.3.2. Ghi tín hiệu tiếng kêu siêu âm Tiếng kêu siêu âm của dơi được thu ở 3 trạng thái: cầm trên tay,bay trong màn bay (cao 2m x rộng 4m x dài 4m) và trong trạng thái đậu cố định trên vách màn. Tiếng kêu siêu âm được thu bởi 4 loại thiết bị khác nhau: Hệ thống PCTape, phần mềm Batman được sản xuất bởi Trườ ng Đai hoc Tổ ng Tuebingen, hơp CHLB Đứ c; máy dò siêu âm Pettersson D-240 (Pettersson Elecktronik, Thụy Điển); máy ghi siêu âm Echometer EM3 và máy ghi siêu âm Song Meter SM2BAT (Wildlife Acoustics, Hoa Kỳ), tùy từng đợt thực địa. 2.3.3. Đo các chỉ số hình thái ngoài, sọ-răng - Các chỉ số hình thái ngoài: (dùng thước kẹp cầm tay với độ chính xác đến 0.1mm). Các số đo được sử dụng trong định loại các loài dơi lá mũi, theo Bates và Harrison [1997], Csorba và cộng sự [2003]. 2.3.4. Tách chiết DNA, nhân dòng và đọc trình tự gene Mẫu để tách chiết DNA là mô cơ, lấy từ mô cơ ngực của mẫu vật. Việc tách chiết DNA, nhân dòng gene bằng phản ứng PCR được thực hiện tại phòng thí nghiệm Di truyền học, Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Sản phẩm sau khi tinh sạch được gửi cho công ty 1st Base Company (Singapore) để đọc trình tự. 2.4. CÁC PHƢƠNG PHÁP ĐỊNH LOẠI, PHÂN TÍCH SỐ LIỆU 2.4.1. Định loại bằng hình thái Tất cả các mẫu vật được lưu gi , kết hợp với ảnh chụp tương ứng, được định loại theo nh ng tài liệu đã được công bố về khu hệ dơi nói chung và dơi lá mũi nói riêng của Việt Nam và các nước lân cận. Các tài liệu này bao gồm công bố của Corbet & Hill [1992], Bates & Harrison [1997], Csorba và cộng sự, [2003], Borissenko & Kruskop [2003], Simmons [2005], Francis [2008], Kruskop [2013]. 2.4.2. Phân tích thống kê Nh ng khác biệt về hình thái, đặc biệt là các chỉ số kích thước ngoài và kích thước sọ-răng gi a các taxon được xác định bởi Phân tích Thành phần chính (Principle Components Analysis – PCA) thực hiện trên phần mềm PAST v3.14 (PAlaeontological Statistics) [Hammer và cộng sự, 2001]. 2.4.3. Phân tích tiếng kêu siêu âm Sau khi hoàn thành việc ghi âm, các file âm thanh được chuyển vào máy tính. Nh ng file được ghi bởi Hệ thống PCTape, Echometer EM3, và Song Meter SM2BAT được phân tích bằng phần mềm Avisoft SASLab Pro (Avisoft Bioacoustics, CHLB Đức). Nh ng file được ghi bởi máy dò siêu âm Peterson D240 được phân tích bởi phần mềm Wavesurfer (KTH Royal Institute of Technology, Thụy Điển). Sử dụng đồ họa ảnh phổ để xác định tần số ổn định (constant frequency) ở mức năng lượng cực đại (Frequency of maximum energy 8 (FMAXE) kHz). Trong tiếng kêu của mỗi cá thể, chọn đoạn âm thanh liên tục trong 5-s được thể hiện trên ảnh phổ màu với khoảng sai số trung bình 50-60Hz. 2.4.4. Phân tích di truyền Các trình tự thu được được kiểm chứng với d liệu từ GenBank bằng công cụ BLAST [Altschul và cộng sự, 1997], sau đó tinh chỉnh bằng phần mềm Bioedit version 7.2.5 [Hall, 1999]. Các trình tự gene COI cùng với 68 trình tự gene tham khảo từ Genbank (phụ lục 2) sử dụng cho phân tích được được sắp xếp (alignment) bằng công cụ ClustalW trong MEGA 6 [Tamura và cộng sự, 2013]. Chƣơng 3 KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 3.1. THÀNH PHẦN LOÀI DƠI LÁ MŨI Ở VIỆT NAM 3.1.1. Đa dạng các loài dơi lá mũi ở Việt Nam Trên cơ sở phân tích 1.140 mẫu vật, cùng với các d liệu có liên quan, chúng tôi đã ghi nhận được ở Việt Nam có 20 loài dơi lá mũi thuộc họ Rhinolophidae, cùng với 7 dạng loài khác biệt so với nh ng taxon đã công bố trước đây ở Việt Nam (bảng 3.1). Năm 2013, Kruskop, trong tài liệu "Bats of Vietnam – Checklist and an identification manual" – công bố đầy đủ nhất về các loài dơi ở Việt Nam từ trước đến nay - cho rằng ở Việt Nam có khoảng 120 loài dơi, trong đó có 19 loài dơi lá mũi [Kruskop 2013], bao gồm: R. affinis, R. chaseni, R. malayanus, R. stheno, R. microglobosus, R. sinicus, R. thomasi, R. subbadius, R. pusillus, R. cf. lepidus, R. acuminatus, R. pearsonii, R. yunnanensis, R. shameli, R. macrotis, R. siamensis, R. luctus, R. paradoxolophus, R. marshalli. Trong số này có 16 loài có mẫu kiểm chứng, 2 loài tham khảo từ các công bố trước đó (R. yunanensis, R. siamensis). Ngoài ra, loài R. subbadius được đưa vào danh sách nhưng không có mẫu kiểm chứng và cũng không có nguồn thông tin trích dẫn. Tác giả có bàn luận về kết quả của một số nghiên cứu trước về loài R. subbadius nhưng là do định loại nhầm và không có thông tin thuyết phục về sự tồn tại của loài này ở Việt Nam. So với công bố của Kruskop [2013], nghiên cứu này đã bổ sung thêm một loài dơi lá mũi cho Việt Nam – loài Dơi lá Ô gút R. osgoodi. Bên cạnh đó, với các vật mẫu thu được, chúng tôi đã khẳng định sự có mặt của loài R. subbadius ở Việt Nam, làm rõ sự có mặt của loài R. siamensis, đồng thời góp phần bổ sung 7 dạng loài vào thành phần loài dơi lá mũi ở nước ta, gồm 2 dạng loài của R. affinis (R. cf. affinis 1 và R. cf. affinis 2); 1 dạng loài của R. malayanus (R. cf. malayanus), 1 dạng loài của R. thomasi (R. cf. thomasi), 1 dạng loài của R. macrotis (R. cf. macrotis), 1 dạng loài của R. paradoxolophus (R. cf. paradoxolophus) và 1 dạng loài của R. marshalli (R. cf. Marshalli 2). Nh ng taxon này đều có nh ng khác biệt đáng kể so với nh ng loài tương ứng đã được mô tả. Cơ sở khoa học của nh ng nhận định này và nh ng khác biệt cơ bản gi a các taxon mới được ghi nhận với loài tương ứng được thảo luận ở mục 3.1.2. Bảng 3.1. Các loài dơi lá mũi (Rhinolophus) được ghi nhận ở Việt Nam qua nghiên cứu này và trước đây (n: số lượng mẫu sử dụng trong nghiên cứu này) 9 ST Tình trạng bảo Tên loài Nguồn thông tin T tồn Các Nghiên IUCN nghiên SĐVN Tên Việt Nam Tên khoa học cứu Red List cứu 2007 này 2017 trƣớc "megaphyllus “ group 1. Dơi lá đuôi Rhinolophus affinis s.s. 8, 10, 11, x [n = 178] 13, 14, 15 R. cf. affinis 1 [n = 21] x R. cf. affinis 2 [n = 24] x 2. Dơi lá sa đen R. chaseni [n = 6] x 11, 13 R. malayanus s.s. [n = 71] x 10, 11, 13 3. Dơi lá mã lai R. cf. malayanus [n = 10] x Dơi lá mũi 4. R. stheno [n = 21] x 10, 11, 13 nam Dơi lá mũi 8, 10, 11, 5. R. microglobosus [n = 92] x bắc 13 "rouxii “ group Dơi lá trung R. sinicus [n = 20] 10, 11, 6. x hoa 13 7. Dơi lá tô ma VU R. thomasi s.s. [n = 86] x 10, 11, 13 (B2a) R. cf. thomasi [n = 24] x "pusillus“ group 8. Dơi lá nâu R. subbadius [n = 6] x 1, 13, 16 Dơi lá mũi 10, 11, 9. R. pusillus [n = 144] nh 13, 15 10. Dơi lá le pit R. lepidus [n = 46] x 10, 11, 13 11. Dơi lá ô gút R. osgoodi [n = 7] x DD Dơi lá mũi 12. R. acuminatus [n = 48] x 11, 13 nhọn "euryotis“ group 13. Dơi lá sa men R. shameli [n = 40] x 11, 13, 15 "pearsonii“ group Dơi lá pec 10, 11, 14. R. pearsonii [n = 138] x xôn 13, 15 Dơi lá đôp 15. R. yunnanensis [n = 27] x 12 xôn "philippinensis“ group 16. Dơi lá thái lan R. siamensis [n = 44] x 11, 13 Dơi lá tai dài R. macrotis s.s. [n = 16] x 1, 17 17. R. cf. macrotis [n = 3] x 17 10 ST Tình trạng bảo Tên loài Nguồn thông tin T tồn Các Nghiên IUCN nghiên SĐVN Tên Việt Nam Tên khoa học cứu Red List cứu 2007 này 2017 trƣớc 18. Dơi lá quạt R. paradoxolophus s.s. 2, 9, 10, VU x [n = 22] 11, 13 (D1) R. cf. paradoxolophus x [n = 1] 19. Dơi lá ma san 4, 6, 10, R. cf. marshalli 1 [n = 38] x 11, 13 R. cf. marshalli 2 [n = 2] x "trifoliatus“ group 5, 7, 10, 20. Dơi lá lớn R. luctus [n = 5] x 11, 13 x : kết quả của nghiên cứu này; 1 - Osgood [1932]; 2 - Bourret [1951]; 3 - Topal [1974]; 4 - Hill & Topal [1990]; 5 - Topal & Csorba [1992]; 6 - Csorba & Topal [1994]; 7 - Đặng Huy Huỳnh và cộng sự [1994]; 8 - Csorba & Jenkins [1998]; 9 - Eger & Theberge [1999]; 10 - Hendrichsen và cộng sự, [2001]; 11 - Đặng Ngọc Cần và cộng sự [2008]; 12 - Furey và cộng sự [2010]; 13 - Kruskop [2013]; 14 - Ith và cộng sự [2015]; 15 – Nguyen Truong Son và cộng sự [2016]; 16 - Corbet & Hill [1992]; 17 – Vuong Tan Tu và cộng sự (2016). Năm 1969, Van Peenen cho rằng các mẫu vật của phân loài R. blythi calidus trong công bố của Osgood (1932) thuộc về loài R. cornutus. Loài này được cho là hơi khác với R. pusillus bởi thùy liên kết rất dài, hình tam giác hẹp, hình dạng giống-sừng [Csorba và cộng sự, 2003; Kruskop, 2013]. Tuy nhiên, đặc điểm hình dạng thùy liên kết cũng biến đổi rất nhiều ở loài R. pusillus [Bates và Harrison, 1997; Vũ Đình Thống, 2014b]. Thông tin về loài R. cornutus sau đó được Đặng Huy Huỳnh và cộng sự [1994] kế thừa. Theo Csorba và cộng sự [2003], Sano và Amstrong [2010], loài R. cornutus chỉ có ở Nhật Bản. Kruskop [2013] đề nghị đưa loài này ra kh i danh sách các loài dơi ở Việt Nam. Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng chưa phát hiện được mẫu vật nào giống như mô tả đặc điểm của loài R. cornutus, do đó chúng tôi không đưa loài này vào danh sách các loài dơi lá mũi đã được ghi nhận ở Việt Nam. Chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm của Kruskop [2013], đề nghị đưa R. cornutus ra kh i danh sách các loài dơi ở Việt Nam khi chưa có bằng chứng rõ ràng về sự có mặt của loài này. Ngoài ra, theo Soisook và cộng sự [2015], loài R. francisi thuộc nhóm loài “trifoliatus”, một loài mới cho khoa học được mô tả năm 2015 cũng có thể có phân bố ở Việt Nam. Nhận định này được đưa ra trên cơ sở so sánh hình ảnh sọ và phân tích các trình tự gene được công bố trên genebank [Soisook, 2015]. Tuy nhiên, cần nghiên cứu thêm các đặc điểm chi tiết trên một số mẫu vật đã được 11 thu ở Việt Nam, đồng thời so sánh với đặc điểm của mẫu chuẩn loài R. francisi để làm rõ nhận định này. 3.1.2. Cơ sở khoa học của những ghi nhận mới 3.1.2.1. Dơi lá ô gút R. osgoodi Loài Dơi lá Ô gút đã được Đặng Huy Huỳnh và cộng sự xếp vào danh lục các loài thú Việt Nam (1994) dựa trên một công bố năm 1986 của Solokov, Đặng Huy Huỳnh và cộng sự. Tuy nhiên, trong công bố năm 1994, các tác giả vẫn đặt dấu h i về sự có mặt của loài ở Việt Nam và không có thông tin về nơi lưu tr vật mẫu [Đặng Huy Huỳnh và cộng sự, 1994]. Kết quả phân tích tiếng kêu siêu âm cũng cho thấy tần số siêu âm của R. osgoodi cũng thấp hơn so với R. lepidus (90-90.9 kHz so với 94 kHz). Đây là lần đầu tiên chính thức có công bố về loài này ở Việt Nam trên cơ sở các mẫu vật được kiểm chứng. Ngoài ra, đây là lần thứ hai chính thức có ghi nhận về R. osgoodi, sau một thời gian dài các nhà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdu_thao_tom_tat_luan_an_nghien_cuu_ho_doi_la_mui_chiroptera.pdf
Tài liệu liên quan