Mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài:
Kể từ đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, nước ta thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Đảng chủ trương đa dạng hoá hình thức sở hữu, trong đó có việc đổi mới DNNN mà cổ phần hoá là hình thức đem lại hiệu quả cao, kích thích, tạo động lực cho sản xuất kinh doanh phát triển.
Thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN đã bộc lộ nhiều bất cập, hoạt động kém hiệu quả,
97 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1364 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp thuộc tổng Công ty ximăng Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chưa thực sự xứng đáng với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. DNNN chiếm phần vốn đầu tư chủ yếu từ ngân sách. Đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực, cán bộ chuyên môn được đào tạo cũng tập trung chủ yếu ở DNNN. Các DNNN chiếm lĩnh các lĩnh vực quan trọng, then chốt của nền kinh tế như dầu khí, ngân hàng, điện, khai khoáng,v.v…. Với nhiều thế mạnh như vậy nhưng DNNN vẫn chưa thực sự phát huy được vai trò nàng cốt của chúng trong nền kinh tế. Việc sắp xếp, đổi mới DNNN để loại hình này thực sự trở thành động lực chủ yếu của nền kinh tế luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo. Đặc biệt khi nước ta hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đổi mới DNNN càng trở nên cập bách.
Xi măng là một trong những ngành quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội, là một trong các cân đối lớn của nền kinh tế, góp phần không nhỏ trong đẩy mạnh tiến độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đảm bảo an ninh quốc phòng của đất nước. Trong nhiều năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành sát sao và có hiệu quả của Chính phủ, Tổng công ty xi măng Việt Nam đã và đang tong bước trưởng thành, phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu xi măng của xã hội và đảm bảo vai trò điều tiết, dẫn dắt thị trường theo chỉ đạo của Chính phủ.
Từ năm 1998, Tổng công ty Xi măng Việt Nam bắt đầu triển khai việc CPH các doanh nghiệp với bước đI thử nghiệm đầu tiên và sau đó triển khai sâu rộng khắp trong Tổng công ty. Mục tiêu của Tổng công ty Xi măng Việt Nam là CPH hầu hết các DNNN thành viên không phân biệt quy mô với các mức độ khác nhau về cổ phần của nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế thời gian qua, việc tiến hành CPH các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty còn diễn ra chậm chạp, hiệu quả thấp. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, một trong những nguyên nhân quan trọng là các doanh nghiệp chưa có giảI pháp xúc tiến CPH doanh nghiệp. Đó cũng là lý do tác giả lựa chọn đề tài: “Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam” để tìm hiểu các nguyên nhân làm chem. tiến trình CPH.
Tình hình nghiên cứu:
Cổ phần hoá DNNN là vấn đề mới không chỉ với Việt Nam mà còn với cả nhiều nước trên thế giới nói chung. Là nước đang phát triển với những bước chuyển đổi ban đầu sang nền kinh tế thị trường nên quá trình CPH của Việt Nam chủ yếu đang thực hiện với các doanh nghiệp quy mô nhỏ. Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề CPH DNNN đang được quan tâm.
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về CPH DNNN, nhưng nghiên cứu về những giải pháp nhằm đẩy mạnh CPH DNNN thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay – khi đã có nhiều thay đổi trong chính sách của Nhà nước cho phù hợp thực tiễn thì chưa có tác giả nào đề cập đến.
Với luận văn này, tác giả xin được trình bày hệ thống và toàn diện vấn đề nêu trên dưới góc độ kinh tế chính trị.
Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu cơ sở khoa học, kinh nghiệm CPH DNNN của nước ngoài và Việt Nam và thực trạng CPH DNNN trong Tổng công ty Xi măng Việt Nam hiện nay để đưa ra giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy tiến trình CPH DNNN thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Lấy việc CPH DNNN thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam là đối tượng nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu các giảI pháp nhằm đẩy mạnh CPH DNNN trong Tổng công ty Xi măng Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp phân tích tổng hợp.
Những đóng góp của luận văn:
- Thấy rõ thực trạng, những bất cập, tồn tại cản trở tiến trình CPH DNNN trong Tổng công ty Xi măng Việt Nam.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình CPH DNNN thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam.
Tên và kết cấu của luận văn:
- Tên luận văn: “Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam”.
- Kết cấu luận văn: Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, được chia thành 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề cơ bản về cổ phần hoá doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam
Chương 2. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc tổng công ty Xi măng Việt Nam
Chương 3. Phương hướng và những giải pháp nhằm đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam
Chương 1
Một số vấn đề cơ bản về cổ phần hoá doanh nghiệp thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam
Cổ phần hoá và tính tất yếu khách quan cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Quan niệm về cổ phần hóa và thực chất cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước
1.1.1. 1. Quan niệm về cổ phần hóa
Công ty cổ phần đã xuất hiện từ lâu, trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Khi sản xuất phát triển, nhiều xí nghiệp lớn hiện đại xuất hiện, đòi hỏi phải có nhiều vốn đầu tư, nhiều tư bản cố định và thời hạn xây dựng kéo dài, do đó tín dụng ngân hàng không thể đáp ứng được. Tín dụng ngân hàng chỉ có thể cho một nhà tư bản vay một số vốn không vượt quá số tài sản riêng của nhà tư bản đó. Để khắc phục những hạn chế của tín dụng ngân hàng, cần phải có một hình thức tập trung tư bản khác - đó là hình thức công ty cổ phần. Trong chủ nghĩa tư bản, để hình thành công ty cổ phần thì tư bản phải được cổ phần hóa.
Công ty cổ phần là hình thức tổ chức sản xuất và kinh doanh có hiệu quả đã từng thúc đẩy kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Mác từng cho rằng, kinh tế cổ phần là sản phẩm tất yếu của sự vận động mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hàng hoá và hoạt động tín dụng.
ở nước ta, công ty cổ phần hình thành bằng ba con đường:
Một là, ngay từ đầu thành lập là công ty cổ phần;
Hai là, chuyển công ty tư nhân thành công ty cổ phần;
Ba là, CPH doanh nghiệp nhà nước.
Cổ phần hoá phù hợp với thực trạng và yêu cầu phát triển nền kinh tế nước ta. Nước ta lực lượng sản xuất còn lạc hậu, trong lúc đó chế độ sở hữu chỉ là sở hữu nhà nước. Do đó quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Những thành tựu của công cuộc đổi mới kinh tế cho thấy rằng bên cạnh hình thức sở hữu nhà nước, các hình thức khác (tư nhân hay hỗn hợp), nếu tạo được những điều kiện tồn tại thuận lợi cũng phát huy vai trò tích cực trong đời sống kinh tế. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền cạnh tranh bình đẳng với nhau, những rào cản thuế quan, bảo hộ hay bao cấp dần được xoá bỏ, số lượng các DNNN cũng được giảm dần theo hướng Nhà nước chỉ giữ lại những doanh nghiệp then chốt, cần có sự chi phối của Nhà nước. Việc đa dạng hoá các hình thức sử hữu cho phép thực hiện triệt để các nguyên tắc kinh tế, nâng cao quyền tự chủ tài chính và khả năng tự quản lý sản xuất kinh doanh, nâng cao tinh thần trách nhiệm cũng như óc sáng tạo của lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động. Bằng việc đa dạng hoá các hình thức kinh tế tư bản nhà nước, cổ phần hoá một bộ phận DNNN sẽ làm giảm số DNNN không cần giữ hình thức này, thu hút thêm các nguồn vốn tập trung xây dựng các DNNN ở các ngành, các khâu quan trọng và đảm bảo những điều kiện, động lực ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả. CPH sẽ phân biệt rõ ràng giữa sở hữu nhà nước và hình thức DNNN. Tài sản và vốn thuộc sỡ hữu nhà nước được sử dụng dưới nhiều hình thức, vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội cao, vừa tăng cường khả năng thúc đẩy và kiểm soát trực tiếp của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế như: Nhà nước đầu tư vốn hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối.
Một trong những hình thức sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp đem lại hiệu quả cao là cổ phần hoá các DNNN. Khái niệm CPH DNNN trong nhiều năm qua được hiểu khác nhau. Có ý kiến cho rằng CPH thực chất là tư nhân hoá, CPH là nhằm xác định lại chủ sở hữu thực, cụ thể của doanh nghiệp, CPH thực chất là quá trình xã hội hoá các DNNN.
Trước hết, CPH và tư nhân hoá là hai khái niệm khác nhau. Tư nhân hoá là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu từ nhà nước sang tư nhân, đồng thời chuyển các lĩnh vực sản xuất kinh doanh từ nhà nước độc quyền sang cho tư nhân đảm nhiệm theo nguyên tắc thị trường (cung, cầu, cạnh tranh). Để đạt được sự chuyển đổi này, chúng ta đã thấy nhiều cách thức khác nhau được thực hiện ở Liên Xô cũ và Đông Âu như trả lại tài sản cho các chủ cũ hay tái tư nhân hoá, đấu giá, bán toàn bộ doanh nghiệp nhà nước cho tư nhân (CPH). Phương thức tư nhân hoá này thực chất là loại bỏ thành phần kinh tế công đến mức tối đa. Những phưpng thức này cũng đã được quy định trong các văn bản chính phủ của Việt Nam hoặc đã được thi hành. Như vậy, mặc nhiên CPH chỉ là một trong nhiều cách để tư nhân hoá một phần tài sản của doanh nghiệp nhà nước. CPH là khái niệm hẹp hơn tư nhân hoá. Trong CPH tài sản của DNNN được bán lại cho nhiều đối tượng khác nhau bao gồm: Các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp, giữ lại một tỷ lệ cổ phần cho nhà nước trong chính doanh nghiệp cổ phần đó. Như vậy, hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ Nhà nước duy nhất sang hỗn hợp, từ đây dẫn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chức, quản lý cũng như phương hướng hoạt động của Công ty. DNNN sau khi CPH trở thành công ty cổ phần điều lệ và thể thức hoạt động theo luật công ty. Còn DNNN sau tư nhân hoá trở thành doanh nghiệp tư nhân và thể thức hoạt động theo luật doanh nghiệp tư nhân.
Như vậy, về bản chất, CPH là đa dạng hóa sở hữu; là chuyển từ sở hữu đơn nhất sang đa sở hữu; là chuyển từ sở hữu một chủ thành sở hữu nhiều chủ; là xã hội hóa trên cả ba mặt: xã hội hóa về mặt kinh tế – xã hội, xã hội hóa về mặt kinh tế- kỹ thuật và xã hội hóa về mặt kinh tế- tổ chức.
1.1.1.2. Thực chất cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước
Xét về hình thức, CPH DNNN là việc Nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong doanh nghiệp cho các đối tượng tổ chức hoặc cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán để hình thành các công ty cổ phần.
Xét về bản chất, CPH DNNN là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu duy nhất Nhà nước trong doanh nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều chủ sỡ hữu để tạo ra mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu của kinh doanh hiện đại.
Như vậy, CPH DNNN đáp ứng được yêu cầu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường. Bởi vì nó gắn sở hữu với lợi ích kinh tế, tránh được trường hợp “cha chung không ai khóc” như trước đây.Vì thế, đối với nước ta, cổ phần hoá DNNN là một biện pháp hữu hiệu, đáp ứng được yêu cầu bức thiết của cuộc cải cách DNNN.
Cổ phần hoá DNNN làm thay đổi căn bản đối với DNNN, vì:
- Chuyển từ đơn sở hữu sang đa sở hữu doanh nghiệp, đảm bảo quyền làm chủ thực sự của những người góp vốn để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xác đinh được chủ đích thực của DNNN: Đó là các cổ đông sở hữu cổ phần và Nhà nước chỉ là một trong các cổ đông của Công ty cổ phần; Tháo gỡ những khó khăn cho ngân sách nhà nước trong việc hỗ trợ cho các DNNN kinh doanh thua lỗ; Chuyển một phần quyền sở hữu về tài sản của Nhà nước thành sở hữu các cổ đông, từ đó tập trung vốn vào các lĩnh vực quan trọng để tái cơ cấu nền kinh tế; đồng thời huy động được nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội vào đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển SXKD.
- Làm thay đổi căn bản về tổ chức các quan hệ quản lý nội bộ doanh nghiệp, tạo động lực mới trong quản lý doanh nghiệp: CPH đã xác định rõ chủ của doanh nghiệp (Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị), những người chịu trách nhiệm quyết phương hướng phát triển, điều hành SXKD, bảo toàn và phát triển vốn, bảo đảm quyền lợi chính đáng của người lao động, từ đó tạo điều kiện để người lao động tăng thêm thu nhập; quyền tự chủ kinh doanh được mở rộng và tính chịu trách nhiệm được đề cao.
Cổ phần hoá làm tăng khả năng huy động vốn tạo động lực thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản nhà nước ngày càng tăng. CPH không phải là tư nhân hoá mà khuyến khích sở hữu cổ phần đại chúng, tạo điều kiện để cho người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự. Thay đổi phương thức quản lý nhằm cải thiện và tăng cường hiệu quả kinh tế của tài sản quốc gia.
CPH được tiến hành theo cách thức sau đây:
- Một là, giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp;
- Hai là, bán một phần thuộc vốn giá trị nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc bán một phần kết hợp phát hành thêm cổ phiếu;
- Ba là, tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để CPH;
- Bốn là, bán toàn bộ giá trị thuộc vốn nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần.
Như vậy, về thực chất, CPH DNNN là chuyển từ đơn sở hữu (sở hữu Nhà nước) sang đa sở hữu; là xã hội hóa trên cả ba mặt phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất.
Một là, xã hội hóa về mặt kinh tế - xã hội. Đây là đa dạng hóa sở hữu tư liệu sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất của các DNNN, đáp ứng yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Hai là, xã hội hóa về mặt kinh tế - kỹ thuật. Do đáp ứng được yêu cầu quy luật quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nên CPH DNNN thúc đẩy phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế phát triển .
Ba là, xã hội hóa về mặt kinh tế - tổ chức. CPH DNNN tạo điều kiện quản lý sản xuất kinh doanh phù hợp với sự trình độ lực lượng sản xuất của doanh nghiệp
Tóm lại, CPH DNNN đáp ứng được yêu cầu quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, qua đó thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, thực hiện được xã hội hóa thực tế. Đó là đảm bảo lợi ích kinh tế của các chủ sở hữu vốn doanh nghiệp.
1.1.2. Tính tất yếu khách quan cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước
Một là, CPH DNNN đáp ứng được yêu cầu đa dạng hóa sở hữu của kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường thuần tuý, quá trình vận hành của nó sẽ phát sinh những vấn đề trục trặc mà khu vực kinh tế tư nhân không có khả năng giải quyết, nó chỉ có thể giải quyết được trong khu vực kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước được hiểu là khu vực kinh tế bao gồm những DNNN nắm toàn bộ hoặc một phần sở hữu và Nhà nước kiểm soát tới mức độ nhất định quá trình ra quyết định của doanh nghiệp. Sự tồn tại kinh tế Nhà nước ở hầu hết các nước. Khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò như một công cụ kinh tế của Nhà nước vừa thực hiện chức năng kinh tế vừa làm một phần chức năng xã hội, thực hiện việc tăng trưởng và ổn định kinh tế mỗi nước. Tuy nhiên, khi đề cao khu vực kinh tế Nhà nước bằng sự can thiệp quá giới hạn của Nhà nước vào sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì nó lại kìm hãm sự tăng trưởng và làm cho nền kinh tế thị trường của nhiều nước rơi vào sự trì trệ kéo dài. Riêng đối với các nước có khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng tuyệt đối thực hiện kê hoạch hoá tập trung và loại bỏ kinh tế thị trường thì đã đẩy nền kinh tế rơi vào khủng hoảng.
Đối với nước ta trước khi chuyển sang kinh tế thị trường, kinh tế Nhà nước bao trùm tất cả mọi lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân. Mở rộng và phát triển khu vực kinh tế Nhà nước là mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, khu vực kinh tế Nhà nước đã phát triển nhanh chóng. Các DNNN ở Việt Nam được hình thành năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 ở miền Nam. Hàng loạt các DNNN được ra đời và chỉ giảm dần vào cuối thập kỷ 80 lại đây, đến hết nay cả nước còn 1.720 DNNN.
Trong một thời gian dài nước ta thực hiện quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể đã cho thấy nền kinh tế hoạt động không có hiệu quả. Các DNNN được thành lập một cách tràn lan trước đây ngày càng bộc lộ những yếu kém trong quá trình hoạt động SXKD.
Hiệu quả hoạt động SXKD của DNNN thấp, nhiều doanh nghiệp thua lỗ kéo dài. Năm 2003, số DNNN làm ăn có lãi chiếm 77,2%, trong số đó có tới gần một nửa có mức lãi bằng hoặc thấp hơn mức lãi suất ngân hàng và các DNNN hiện tại nắm giữ tới 2/3 tài sản của nền kinh tế, nhưng chỉ đóng được 38% GDP trong khi các doanh nghiệp dân doanh với tiềm lực kinh tế yếu hơn nhưng đã đóng góp tới 42% GDP, tốc độ tăng trưởng của các DNNN thấp hơn tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp dân doanh 7-8%.
Kinh tế thị trường đã tạo ra những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ hoạt động của xã hội loài người. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và mạnh mẽ trên cơ sở coi trọng lợi ích cá nhân đã thôi thúc sự ra đời của các đơn vị kinh tế tư bản mới - các công ty từ nhỏ đến lớn. Cuộc tranh đua của chúng với các thành phần kinh tế truyền thống trước đó tuy đã làm nổi bật những ưu việt vốn có của nó trong hoàn cảnh mới, nhưng cũng phải qua nhiều lần chuyển dạng. Qua mỗi lần chuyển dạng lại xuất hiện một thể chế kinh tế mới trên cơ sở kế thừa và phát triển của thể chế kinh tế khác. Các thể chế kinh tế lần lượt đi từ kinh tế thị trường tự do và hiện tại là kinh tế hỗn hợp.
Kinh tế thị trường tự do hình thành và phát triển mạnh mẽ trước đại chiến thế giới thứ hai. Đặc trưng của nền kinh tế này là các doanh nghiệp hoạt động và phát triển tự do. Sự phát triển vô tổ chức, cạnh tranh khốc liệt không lành mạnh cộng với độc quyền tư nhân đã dẫn đến hậu quả là những cuộc khủng hoảng kinh tế liên tiếp xẩy ra trong những năm 30 của thế kỷ này làm suy tàn nền kinh tế của nhiều quốc gia và của cả nền kinh tế thế giới.
Kinh tế kế hoạch hoá tập trung ra đời gắn liền với sự xuất hiện của nhà nước XHCN về căn bản đã được giải quyết được những yếu điểm của nền kinh tế thị trường tự do. Chính vì vậy, mô hình kinh tế này đã trở thành mô hình phổ biến của nhân loại trong những năm 50, 60 và 70. Tuy nhiên, với đặc điểm là một nền kinh tế chỉ huy, Nhà nước can thiệp sâu vào hoạt động của các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp hoạt động phụ thuộc vào các cơ quan chính quyền nhà nước: sản xuất theo kế hoạch, nguyên liệu được Nhà nước cung cấp, sản phẩm được bao tiêu, không chịu trách nhiệm lỗ lãi cộng với độc quyền Nhà nước đã đánh mất động lực phát triển và nền kinh tế sớm rơi vào sự trì trệ và suy thoái.
Xuất phát từ sự yếu kém không thể khắc phục của các thế chế kinh tế nói trên đã đưa đến sự ra đời của nền kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế nhiều thành phần xuất hiện mang tính khách quan, là hiện thân của sự kế thừa những mặt ưu việt: thiết lập môi trường kinh doanh bình đẳng, có tổ chức, cùng nhau phát triển của các đơn vị kinh tế và giảm bớt đến mức tối thiểu sự can thiệp của Nhà nước.
Đặc trưng của nền kinh tế nhiều thành phần là chế độ đa sở hữu trong cùng một đơn vị kinh tế. Các loại hình doanh nghiệp nhiều chủ như Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty liên doanh và CTCP cũng xuất hiện. Như vậy, kinh tế nhiều thành phần ra đời là cơ sở cho sự xuất hiện và phát triển của CTCP và CTCP chính là hiện thân bậc cao của kinh tế hỗn hợp. Sự tiên tiến, hiện đại của loại hình doanh nghiệp này chính là sự đúc kết những mặt ưu việt của nền kinh tế nhiều thành phần. Có thể lấy những ưu việt của CTCP so với các loại hình doanh nghiệp khác là:
- Khả năng huy động vốn với quy mô lớn, nhanh cho đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Sự thống nhất về mục tiêu giữa những người góp vốn.
- Sự liên tục và không hạn định về thời gian hoạt động.
- Phương thức quản lý vừa khoa học, chặt chẽ lại vừa linh hoạt, năng động.
- Sự phân tán cao độ những rủi ro, mạo hiểm.
Thể chế kinh tế nhiều thành phần xuất hiện đã làm thức tỉnh và đưa ra lối thoát cho Chính phủ nhiều quốc gia trong việc chống đỡ gánh nặng, cũng như sự suy thoái của khu vực kinh tế nhà nước. Song sự lựa chọn hướng chuyển đổi khu vực kinh tế đó như thế nào để đảm bảo tiền vốn của chủ sở hữu Nhà nước được an toàn và không bị rủi ro, mất mát luôn được Chính phủ các nước quan tâm lựa chọn.
Nhờ những ưu thế riêng có, CTCP được Chính phủ của nhiều quốc gia trên thế giới chọn làm mô hình chuyển đổi khu vực kinh tế nhà nước kém hiệu quả và đầy rủi ro. Sự vận hành của các CTCP cho phép Chính phủ các nước hy vọng nâng cao hiệu quả của đồng vốn mà họ đã bỏ ra. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự lựa chọn ban đầu mà sự lựa chọn bao giờ cũng dễ dàng hơn so với khi thực hiện. Tham vọng của Chính phủ các nước không phải chỉ có duy nhất mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế đồng vốn đầu tư mà nó còn bao gồm rất nhiều mục tiêu phát triển nền kinh tế khác, dẫn đến trường hợp các mục tiêu chèn ép và triệt tiêu lẫn nhau. Chính vì vậy, việc chuyển đổi các DNNN thành CTCP phải gắn liền với chương trình phát triển tổng thể nền kinh tế nói chung và phải kết hợp nhiều biện pháp khác nhau.
Hai là, CPH DNNN là một trong những giải pháp cơ bản để đổi mới hệ thống DNNN
DNNN ở nước ta đứng trước nhiều mâu thuẫn lớn là khu vực DNNN nhiều về số lượng nhưng kém về chất lượng, DNNN muốn mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ nhưng ngân sách Nhà nước không có khả năng bao cấp toàn bộ cho các nhu cầu cần thiết đó, doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả trong khi phải đảm nhận vai trò đầu tầu kinh tế, vai trò định hướng XHCN. Những mâu thuẫn này đòi hỏi Nhà nước phải có một giải pháp cải tổ lại hệ thống DNNN một cách triệt để.
Việc tổ chức các Tổng Công ty theo mô hình 90, 91 cũng đã giúp xác định mức độ cao hơn chủ sở hữu của các doanh nghiệp thông qua Hội đồng quản trị và tạo quy mô lớn theo hướng tập đoàn với sự đầu tư chiều sâu cả về vốn, công nghệ, thị trường và người lao động. Mục tiêu đặt ra đối với Tổng Công ty là lớn nhưng mới đạt được ở giai đoạn đầu.
Phần lớn các Tổng Công ty được thành lập vẫn dựa trên việc cộng số học của các đơn vị sản xuất kinh doanh cùng ngành, dựa vào thế độc quyền, chưa có thay đổi về chất. Các Tổng Công ty chưa thực sự củng cố, phát triển theo hướng cạnh tranh và giảm dần sự bảo trợ độc quyền của Nhà nước. Các Tổng Công ty nhiều khi lại trở thành nơi trói buộc các đơn vị thành viên.
Việc tiến hành giao, bán, khoán, cho thuê cũng là một giải pháp cải cách DNNN. Tuy nhiên, nó chỉ có thể áp dụng thí điểm với những doanh nghiệp nhỏ, thua lỗ, chưa thể áp dụng được đại trà. Mặt khác, thực tế tại các doanh nghiệp muôn hình muôn vẻ. Làm thế nào để xác định mức bán, khoán, cho thuê và căn cứ để giao. Trong trường hợp giao nhầm đối tượng, hậu quả sẽ như thế nào? Đây là vấn đề mới bắt đầu, vừa triển khai, vừa nghiên cứu.
Giải pháp CPH sẽ là giải pháp cơ bản, bởi vì, có thể tiến hành với phạm vi, quy mô rộng, áp dụng được nhiều doanh nghiệp cùng lúc để chuyển doanh nghiệp từ sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần, trong đó tồn tại một phần sở hữu Nhà nước. Với lợi thế của CTCP như huy động vốn lớn, nhanh, phân tán được rủi ro và cơ chế quản lý đã tách quyền sở hữu khỏi quyền sử dụng, nó đã hút được nguồn lực tài chính của các tầng lớp dân cư bỏ vào sản xuất kinh doanh thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu. Mặt khác, nó tạo sự tăng trưởng tốt hơn trong từng doanh nghiệp thông qua sự giám sát chặt chẽ của các cổ đông.
Qua việc chuyển đổi DNNN thành CTCP, DNNN đã thay đổi hoàn toàn về chất. Doanh nghiệp đã được trả lại hoàn toàn chức năng vốn có là chức năng kinh doanh vì lợi nhuận, doanh nghiệp được tự chủ, tự quyết định hoạt động của mình. Đối với khó khăn về vốn, công nghệ và trình độ quản lý trong các DNNN ở nước ta hiện nay thì giải pháp CPH mang tính hữu hiệu và khả thi. Có thể huy động lượng vốn từ bên ngoài lớn thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ đầu tư để đổi mới công nghệ nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
Mặt khác, Nhà nước còn có khả năng rút vốn từ các DNNN thông qua việc CPH. Nhà nước dùng vốn để đầu tư hạ tầng cơ sở làm nền tảng cho kinh tế phát triển như hệ thống giao thông, thuỷ lợi, thông tin, Nhà nước có thể đầu tư thêm để thành lập các doanh nghiệp mới với kỹ thuật tiên tiến hiện đại, đáp ứng yêu cầu đầu tư có trọng điểm tránh tràn lan, phân tán, đảm bảo giữ vững và mở rộng vai trò chủ đạo, nắm giữ những vị trí then chốt của nền kinh tế.
Như vậy, việc lựa chọn CPH sẽ là một giải pháp phù hợp, góp phần thiết lập một hệ thống DNNN có sức mạnh không phải dựa trên số lượng mà là năng lực sản xuất hiệu quả. Điều này càng cần thiết hơn trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập với thế giới mà đòi hỏi hàng đầu là năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp.
Ba là, CPH DNNN làm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Sau một giai đoạn nền kinh tế vận hành trong sự quản lý theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, nước ta xác định phải chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Từ khi thay đổi cơ chế, nền kinh tế đã có bước phát triển vượt bậc. Với nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ quản lý vĩ mô, giảm sự can thiệp vi mô vào các chủ thể kinh tế.Với thực trạng yếu kém của cả hệ thống DNNN như ở trên đã phân tích, việc thực hiện CPH chuyển phần lớn DNNN sang loại hình CTCP mới đáp ứng được sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp, trong môi trường cạnh tranh gay gắt, thông qua những ưu việt cơ bản của CTCP.
CTCP là doanh nghiệp trong đó các cổ đông cùng góp vốn kinh doanh và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần góp vốn của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận, các cổ đông cùng quản lý, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp.
- Loại hình CTCP có khả năng huy động vốn với quy mô lớn, nhanh cho đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu bằng cách phát hành trái phiếu và cổ phiếu để huy động vốn đầu tư vào những công trình đòi hỏi số lượng vốn lớn và dài hạn mà từng cá nhân hoặc doanh nghiệp cá thể không có khả năng tích luỹ được.
CTCP huy động vốn của các tầng lớp dân cư trong xã hội để đầu tư phát triển doanh nghiệp. Mọi người mua cổ phiếu của các công ty trở thành cổ đông để được hưởng lợi tức cổ phần, ngoài ra cổ đông còn được hưởng khoản thu nhập ''tiềm năng'' nhờ việc gia tăng giá trị cổ phiếu. Các cổ đông được tham gia quyết định những vấn đề cơ bản của công ty thông qua Đại hội cổ đông. Chính vì vậy nó hấp dẫn dân chúng đầu tư bằng việc mua cổ phiếu thay vì gửi tiền nhàn rỗi vào ngân hàng. Khi cần chuyển đổi ra tiền mặt, cổ đông chỉ việc bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
- CTCP tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh.
CTCP là nơi tập trung vốn của rất nhiều người với khối lượng lớn, điều đó không chỉ tạo điều kiện thuận lợi và nhanh chóng sử dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới mà còn thúc đẩy các doanh nghiệp phải ra sức hoàn thiện tổ chức quản lý cho phù hợp với việc sản xuất kinh doanh, phù hợp với yêu cầu của người góp vốn. Các cổ đông đều được tham gia giám sát và quyết định việc hoạt động của các công ty thông qua Đại hội cổ đông. Chính những yêu cầu khắt khe này, các doanh nghiệp sẽ phải do những người có khả năng điều hành, từng nhà quản lý cũng phải hoàn thiện, tạo tính năng động sáng tạo, tạo sức sản xuất mới cho từng doanh nghiệp cũng như cho toàn xã hội. Xét về cơ cấu kinh tế, CTCP phát triển cũng sẽ làm biến đổi cơ cấu kinh tế trên cơ sở sử dụng đồng vốn, khai thác tiềm năng lao động của đất nước, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
- CTCP tạo ra một cơ chế phân tán rủi ro hạn chế những tác động tiêu cực về mặt kinh tế xã hội.
Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh khốc liệt, chính từng công ty cũng có thể mua cổ phiếu của các công ty khác để tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Nói chung người đầu tư có thể mua cổ phiếu, trái phiếu ở nhiều công ty khác nhau, do đó sự rủi ro được phân tán, làm giảm bớt thiệt hại của người đầu tư vào một công ty khi công ty bị phá sản. Cơ chế phân tán rủi ro này sẽ tạo điều kiện cho những người có vốn mạnh dạn hùn vốn sau khi đã tính toán, cân nhắc để lựa chọn vào công ty mà họ tín nhiệm, làm cho nền kinh tế phát triển và ổn định.
- CTCP tách rời quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh.
Như vậy, công ty sẽ huy động mặt mạnh của từng đối tượng: người có tiền và người có tài quản lý kinh doanh, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ, những khả năng này không đan xen cản trở nhau mà hỗ trợ nhau phát triển. Giám đốc kinh doanh trở thành một nghề không cần phải mang chức vụ hành chính.
- CTCP tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán ra đời thúc đẩy hoàn thiện cơ chế thị trường. Với việc phát hành các loại chứng khoán và mua bán chứng khoán đến một mức độ nhất định, CTCP tạo điều kiện cho sự ra đời của thị trường chứng khoán. CTCP là nền tảng của công nghệ chứng khoán; ngược lại không có thị trường chứng khoán thì CTCP khó có khả năng phát triển. CTCP và thị trường chứng khoán là hai định chế kinh tế, tài chính đặc trưng của nền kinh tế thị trường.
Với những ưu việt trên, với vốn lớn kỹ thuật tiên tiến hiện đại, lại có cơ chế quản lý kích thích được tinh thần hăng say lao động vì gắn bó với quyền lợi của doanh nghiệp nên CTCP sẽ sản xuất, cung cấp những sản phẩm với chất lượng cao, phong phú và giá thành hạ, từng doanh nghiệp phát triển, cả hệ thống doanh nghiệp phát triển sẽ kéo toàn bộ nền kinh tế phát triển theo.
Do những ưu điểm của CTCP, ngày nay nó là loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh phổ biến trên toàn thế giới mà nhất là nước có nền kinh tế phát triển.
Bốn là, CPH DNNN góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh - yếu tố quyết định sự tồn tại, phát triển của các doanh nghiệp.
Với tình trạng kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp thành viên, tích luỹ nội bộ thấp, một số đơn vị chưa đủ khả năng chi trả số nợ đến hạn và quá hạn. Mặt khác, khả năng vay vốn nước ngoài cũng không phải thuận lợi. Để có thể cạnh tranh, đứng vững khi mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp cần đầu tư lớn để đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất. Muốn vậy cần một lượng vốn lớn. CPH để thu hút nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển là hướng đi tốt nhất. Từ thực tế cho thấy rằng, không ít các tổ chứ._.c, doanh nhân có nhu cầu đầu tư. Không ít trong số này sẵn sàng đầu tư thông qua mua cổ phần của các DNNN. Nếu DNNN không thực hiện CPH, các đối tượng này buộc phải đầu tư thông qua các hình thức khác. Như vậy, vô hình trung đây sẽ là lực lượng cạnh tranh khốc liệt cho DNNN.
Như vậy, CPH các DNNN là đáp ứng xu thế chung của sự phát triển kinh tế thị trường, là đòi hỏi tất yếu, là hướng đi tốt nhất cho các DNNN để tồn tại và phát triển.
1.2. Một số vấn đề cơ bản về cổ phần hoá doanh nghiệp thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam
1.2.1. Đặc điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam
Xi măng là ngành sản xuất chịu ảnh hưởng nhiều của nguồn tài nguyên thiên nhiên, chỉ các doanh nghiệp đảm bảo được nguồn tài nguyên thiên nhiên mới có khả năng sản xuất kinh doanh xi măng vững chắc, lâu dài. Thực trạng một vài đơn vị kinh doanh xi măng từ nguồn bán thành phẩm nhập khẩu cho thấy tính cạnh tranh kém do nguồn bán thành phẩm nhập khẩu và chi phí vận tải quá cao. Do vậy, có thể nói xi măng là ngành độc quyền nhóm – chỉ một ít doanh nghiệp có được nguồn tài nguyên tham gia thị trường xi măng.
Trong nhiều năm qua, xi măng vẫn được coi là ngành tham gia bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô và giữ vai trò ổn định thị trường. Cho đến năm 2007, Tổng công ty Xi măng Việt Nam vẫn quyết định giá bán của các đơn vị thành viên. Tính thị trường trong sản xuất kinh doanh xi măng, do đó, còn hạn chế.
Chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp xi măng chịu ảnh hưởng lớn bởi chi phí điện và than. Đây lại là các ngành đang mang nặng độc quyền: Nó đảm bảo tính ổn định chi phí đầu vào cho ngành xi măng nhưng lại hạn chế tính thị trường, tính cạnh tranh.
Sản phẩm xi măng là vật liệu đầu vào tạo tài sản cố định cho nhiều ngành sản xuất, trên 50% sản phẩm được các dự án đầu tư xây dựng của nhà nước và các thành phần kinh tế tiêu thụ. Tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ xi măng gắn liền với tăng trưởng kinh tế - đặc biệt đối với Việt Nam đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, tính co giãn trong cung cầu xi măng thấp, ngành xi măng có được sự bảo đảm ổn định cao trong tiêu thụ sản phẩm.
Sản phẩm xi măng có khối lượng lớn nhưng thời gian sử dụng ngắn trong khi địa bàn tiêu thụ rộng: Một nhà máy xi măng trung bình mỗi ngày sản xuất 5.000 tấn xi măng (cần khoảng 150 xe vận tải) cho địa bàn tiều thụ hàng ngàn km trong khi sản phẩm xi măng chỉ có thời hạn sử dụng tốt nhất là 60 ngày.
Do đặc điểm của ngành xi măng như vậy nên các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xi măng thường có quy mô lớn, thiết bị mang tính đồng bộ, phức tạp, hầu hết các thiết bị, phụ tùng đều phải nhập khẩu. Do tính phức tạp của hệ thống thiết bị của ngành xi măng, tính đặc thù cao của thiết bị nên kèm theo đó dự trữ phụ tùng thay thế lớn.
Vốn đầu tư lớn, thời gian hoạt động dài. Các dự án đầu tư cho xi măng thường có vốn đầu tư 150 USD/tấn công suất, một nhà máy công suất 1,4 triệu tấn năm có tổng vốn đầu tư trên 3.000 tỷ đồng, thời gian hoạt động của một nhà máy xi măng thường là trên 50 năm. Vì vậy hiệu quả đầu tư xi măng thường được nhìn về dài hạn.
Lao động trong ngành xi măng mang tính đặc thù riêng, đặc biệt là lượng lao động trong dây chuyền sản xuất chính mang tính đồng bộ, công nghiệp hoá cao.
Do đặc trưng của ngành xi măng và các doanh nghiệp trong ngàng xi măng như vậy, nên cổ phần hoá các doanh nghiệp xi măng cũng có đặc điểm riêng. Đó là:
- Về đánh giá giá trị doanh nghiệp: Vốn đầu tư lớn cả về tài sản cố định và vật tư, phụ tùng dự phòng; nhiều chủng loại thiết bị mang tính đơn chiếc gây khó khăn cho việc đánh giá giá trị thực tế doanh nghiệp theo phương pháp tài sản, thời gian kiểm kê, đánh giá giá trị doanh nghiệp kéo dài. Vì vậy để đảm bảo thời gian cổ phần hoá theo quy định, các đơn vị cổ phần hoá phải triển khai kiểm kê tài sản trước ngày xác định giá trị doanh nghiệp.
- Chi phí sản xuất xi măng chiếm gần 50% là chi phí khấu hao và chi phí tài chính, do đó trong ngắn hạn, phương án kinh doanh thường chỉ đem lại cổ tức dưới 20%, vốn đầu tư lớn nên phần đông các nhà đầu tư không đủ khả năng nắm giữ lượng cổ phần để có tiếng nói đối với công ty cổ phần - những lý do này gây khó khăn cho các đơn vị sản xuất xi măng khi tiến hành cổ phần hoá - sức hấp dẫn đầu tư xã hội thấp. Bên chạnh đó tính ổn định của thị trường xi măng, những lợi thế của độc quyền nhóm giúp khẳng định tính hiệu quả trong đầu tư dài hạn cho ngành xi măng.
- Do mang tính đặc thù riêng có của lao động ngành xi măng, việc tổ chức lại sản xuất cần thời gian để đào tạo lại lực lượng lao động. Một số đơn vị do lịch sử trước đây sử dụng một số lượng lớn lao động thực sự không cần thiết. Khi cổ phần hoá, nhất thiết phải tổ chức lại lao động, để vừa hợp lý hoá sản xuất, đảm bảo hiệu quả nhất cho công ty cổ phần, vừa đảm bảo không vì cổ phần hoá mà một lực lượng lớn lao động bị mất việc làm, các đơn vị cổ phần hoá cần có phương án mở rộng thêm ngành nghề, đặc biệt là các ngành gắn bó với ngành sản xuất chính để vừa tăng lợi nhuận cho công ty cổ phần, vừa đảm bảo việc làm, thu nhập cho người lao động.
1.2.2. Nội dung cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam
Một là, xác định và thực hiện đúng đối tượng và hình thức cổ phần hoá DNNN trong Tổng công ty Xi măng Việt Nam.
- Về đối tượng cổ phần hoá DNNN
Nghị quyết Hội nghị BCH TW lần thứ 3 khoá IX đã chỉ rõ: ''Đối tượng CPH là những DNNN hiện có mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, căn cứ vào điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp mà quyết định chuyển DNNN hiện có thành CTCP, trong đó Nhà nước có cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, cổ phần ở mức thấp hoặc Nhà nước không giữ cổ phần''. Trước CPH, Tổng công ty Xi măng Việt Nam 100% vốn Nhà nước. Đây là Tổng công ty mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn.
Thực tiễn cổ phần hoá DNNN trong mấy năm gần đây, nhiều DNNN chọn làm đối tượng để CPH thường là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, độ hấp dẫn đối với người mua cổ phiếu chưa cao, do vậy làm chậm nhịp độ CPH, làm cho mặc dù số lượng DNNN được CPH nhiều nhưng với tổng vốn điều lệ không lớn. Tổng công ty Xi măng Việt Nam là tổng công ty lớn, do đó có điều kiện thuận lợi để thực hiện CPH.
Trong thời gian tới, đối tượng cổ phần hoá DNNN chắc sẽ thay đổi theo hướng: Một là, đối tượng cổ phần hoá DNNN không chỉ là các DNNN loại vừa và nhỏ mà còn có cả các DNNN loại lớn, các Tổng công ty, các Tập đoàn kinh tế. Hai là, đối tượng cổ phần hoá DNNN không chỉ là các DNNN thuộc lĩnh vực kinh tế mà còn có cả các DNNN thuộc các ngành kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội.
- Về hình thức cổ phần hoá DN Tổng công ty Xi măng Việt Nam trong bao gồm:
Thứ nhất : Giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn.
Thứ hai: Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp cho các cổ đông, hoặc bán một phần kết hợp phát hành thêm cổ phiếu.
Thứ ba: Cổ phần hoá các đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp.
Thứ tư: Chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành CTCP.
Trường hợp CPH đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thì không được gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh các bộ phận còn lại của doanh nghiệp.
Hai là, xã hội hoá sản xuất trên thực tế theo định hướng XHCN
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã để lại những chỉ dẫn rất cơ bản về vấn đề xã hội hoá sản xuất.
Trong tác phẩm ''Tư bản'' của C.Mác và F.ăngghen, khi nói về vai trò tập trung vốn của tín dụng dưới CNTB đã chỉ rõ: ''Trong các công ty cổ phần, chức năng tư bản tách rời với quyền sở hữu tư bản; và do đó lao động cũng vậy, nó hoàn toàn tách rời với quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và về lao động thặng dư. Đó là kết quả của sự phát triển cao nhất của nền sản xuất TBCN, là điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất, nhưng không phải với tư cách là sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ nữa, mà với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp, thành sở hữu xã hội trực tiếp. Mặt khác các công ty cổ phần cũng là điểm quá độ để biến tất cả những chức năng của quá trình tấi sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở hữu tư bản đơn giản thành những chức năng của những người sản xuất liên hiệp, tức thành những chức năng xã hội''.
V.I.Lênin trong tác phẩm ''Những nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền Xô Viết'' đã có luận điểm chỉ rõ nội dung ba mặt của xã hội hoá sản xuất và khẳng định phải thực hiện đồng bộ và chỉ khi nào hoàn thành về cơ bản mới có sự ''xã hội hoá sản xuất trên thực tế''.
Từ những chỉ dẫn trên có thể thấy: Lịch sử và lôgic đều khẳng định sản xuất bao giờ cũng mang tính xã hội-tính xã hội của sản xuất - nhưng tính xã hội của sản xuất không đồng nhất với xã hội sản xuất. Sự phát triển của phân công lao động xã hội và trao đổi xuất hiện, tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hoá từ thấp đến cao dưới tác động của cách mạng kỹ thuật đã làm cho lực lượng sản xuất từng bước mang tính xã hội hoá cao, làm cho sự biệt lập của các quá trình kinh tế theo kiểu ''đèn ai nhà ấy rạng'' không còn phù hợp và được thay thế bằng sự liên kết nhiều quá trình kinh tế riêng biệt thành một quá trình kinh tế thống nhất tồn tại với tư cách là một hệ thống thống nhất hữu cơ với nhau - xã hội hoá sản xuất. Trong lịch sử, thuật ngữ xã hội hoá sản xuất không gắn liền với nền sản xuất hàng hoá nhỏ mà gắn liền với nền sản xuất hàng hoá lớn. Chính sự xã hội hoá lao động và theo đó là xã hội hoá sản xuất về mặt kinh tế – kỹ thuật hình thành. Đến lượt nó, sự xã hội hoá sản xuất về mặt kinh tế – kỹ thuật phát triển tất yếu kéo theo sự xã hội hoá về vốn được thực hiện thông qua quá trình tích tụ và tập trung vốn, quá trình này gắn với xã hội hoá sản xuất về mặt kinh tế – xã hội. Và sự gắn kết có hiệu quả hai mặt xã hội hoá nói trên không thể không dẫn đến sự xã hội hoá sản xuất về mặt kinh tế tổ chức quản lý.
ở nước ta, quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN khi nhận thức và hành động không thể không gắn liền với trình độ xã hội hoá sản xuất và do đó không thể không gắn với giải pháp cổ phần hoá DNNN. Vì mục tiêu cổ phần hoá suy cho đến cùng là nhằm thực hiện xã hội hoá sản xuất về vốn, kỹ thuật – công nghệ theo hướng hiện đại và nâng cao hiệu quả quản lý các CTCP sau cổ phần hoá.
Hội nghị BCH TW lần thứ 3 khoá IX tháng 8/2001 đã nhấn mạnh thêm về: ''Mục tiêu CPH DNNN là nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho DNNN; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường giám sát của xã hội đối với doạnh nghiệp, bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Do vậy, không được biến CPH DNNN thành tư nhân hoá DNNN'' .
Từ những cơ sở trên giúp chúng ta có căn cứ khoa học để nhận thức và thực hiện đúng chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam nhằm mục tiêu là : Huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy DNNN kinh doanh có hiệu quả làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng lên, không phải để tư nhân hoá. CPH các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam là một nội dung, một mục tiêu quan trọng trong tiến trình đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam. Do vậy, CPH được xem là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt quá trình thực hiện đổi mới và cấu trúc lại doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam
Ba là, xác định đúng lộ trình và giải quyết kịp thời các vấn đề mới nảy sinh trong tiến trình cổ phần hoá DNNN
- Về lộ trình cổ phần hoá DNNN
Kể từ Hội nghị BCH TW lần thứ 2 (Khoá VII), tháng 12/1991, Đảng ta đã khẳng định: Việc chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành CTCP và thành lập một số công ty quốc doanh mới, phải làm thí điểm chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp. Sau thời kỳ thí điểm, Đảng ta đã khẳng định phải triển khai tích cực và vững chắc việc CPH DNNN để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng, không phải để tư nhân hoá. Bên cạnh những doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, sẽ có nhiều DNNN nắm đa số hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối. Gọi thêm cổ phần hay bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp, cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp tuỳ từng trường hợp cụ thể, vốn huy động được phải dùng để đầu tư sản xuất kinh doanh.
Sau giai đoạn thí điểm, Đảng chủ trương triển khai rộng khắp CPH DNNN trong cả nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tháng 4/2001, đã tiếp tục khẳng định nhất quán quan điểm CPH DNNN và nhấn mạnh cần phải: '' Hoàn thành cơ bản việc CPH các DNNN mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% sở hữu vốn. Ưu tiên bán cổ phần cho người lao động, mở rộng việc bán cổ phần cho nhà đầu tư trong và ngoài nước''.
Để đẩy nhanh lộ trình CPH DNNN, Hội nghị BCH TW lần thứ 3 khoá IX tháng 8/2001 đã ra Nghị quyết chuyên đề về: tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Trong đó, tiếp tục coi CPH DNNN là một giải pháp quan trọng của cải cách DNNN và đã chỉ rõ thêm đối tượng của CPH và các hình thức CPH.
Có thể nói, CPH các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam luôn gắn chặt với việc đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới cơ sở vật chất của doanh nghiệp, không ngừng nâng cao năng lực sản xuất và kinh doanh, đồng thời đảm bảo tính định hướng của Nhà nước trong phát triển kinh tế xã hội. CPH các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam phải gắn liền với đổi mới cơ chế quản lý để tạo động lực, phát huy mạnh hơn vai trò làm chủ và tính năng động, sáng tạo của người lao động trong quản lý doanh nghiệp, đồng thời phải đảm bảo vai trò quản lý của Nhà nước trên cơ sở giữ vững số cổ phần cần thiết chi phối của Nhà nước tại doanh nghiệp.
Bên cạnh đó trong CPH các doanh nghiệp thuộc thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam phải luôn chú ý đến chính sách khuyến khích cán bộ công nhân trong doanh nghiệp mua cổ phần, không để chênh lệch quá lớn giữa lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động. Có chính sách hỗ trợ công nhân nghèo mua được một số cổ phần cần thiết nhằm tạo động lực, góp phần xoá đói, giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội.
CPH các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam có một số vấn đề đáng chú ý :
- Tập trung giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong tiến trình cổ phần hoá DNNN
Trong quá trình thực hiện nội dung CPH DNNN, tất yếu nẩy sinh những bất cập mới cần có các biện pháp tháo gỡ. Những khó khăn đó là:
+ Phương pháp xác định tài sản doanh nghiệp;
+ Chính sách giải quyết công nợ;
+ Chính sách đối với người lao động dôi dư trong quá trình CPH.
Trên cơ sở những nghị định và văn bản của Chính phủ đã ban hành, vận dụng một cách sáng tạo cho phù hợp để nhanh chóng giải quyết những bất cập mới nảy sinh nhằm thực hiện tốt nội dung cơ bản CPH các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến cổ phần hoá doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam
1.2.3.1 Các nhân tố về điều kiện tự nhiên.
Xi măng là ngành sử dụng nguồn nguyên liệu lớn gồm đá vôi, đất sét. Do vậy các đơn vị đặt ở ngay vùng nguyên liệu với chất lượng tốt sẽ là tín hiệu tốt để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Với các đơn vị xa vùng nguyên liệu, cần khẳng định tính ổn định của nguồn cung cấp.
Các nguồn nguyên liệu chính cho sản xuất xi măng thường xa trung tâm kinh tế xã hội của địa phương- vị trí địa lý không thuận lợi cho giao thông- xa các trung tâm tiêu thụ sản phẩm xi măng là các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Do vậy, việc tạo được hệ thống vận tải, phân phối hàng hoá ảnh hưởng đến hiệu quả của doanh nghiệp hay tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Ví dụ: Công ty xi măng Hà Tiên 1 đóng ngay thành phố Hồ Chí Minh- là trung tâm tiêu thụ xi măng lớn nhất nước - đây là điều kiện thuận lợi, hấp dẫn nhà đầu tư. Tuy nhiên, do không có nguồn nguyên liệu, xi măng Hà Tiên 1 chỉ xây dựng trạm nghiền, phân phối và nhập khẩu hoặc mua clinker của các đơn vị trong nước- sự không chủ động trong nguồn nguyên vật liệu đầu vào làm nhiều lúc Hà Tiên 1 phải hoạt động cầm chừng do nguồn cung không đảm bảo. Trái lại, xi măng Hoàng Mai nằm ngay trung tâm nguyên liệu nam Thanh- bắc Nghệ, không chỉ nguyên liệu chính mà cả các phụ gia cho xi măng (bazan) cũng rất gần nhà máy sản xuất, do vậy Công ty luôn sản xuất vượt năng suất thiết kế. Tuy nhiên, nam Thanh-bắc Nghệ hiện đang là vùng kém phát triển về kinh tế, hơn một nửa sản phẩm của xi măng Hoàng Mai phải chuyển vào miền Trung tiêu thụ, khoảng cách tiêu thụ xa không chỉ làm tăng cao chi phí tiêu thụ mà nhiều lúc vì điều kiện thời tiết, khí hậu, công ty không đảm bảo việc phân phối sản phẩm theo kế hoạch.
1.2.3.2. Các nhân tố về điều kiện kinh tế - xã hội.
Các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty đều có quy mô lớn cả về tài sản, diện tích chiếm đất, lao động. Ngoại trừ Công ty Xi măng Hoàng Mai và Công ty Xi măng Tam Điệp ra đời sau, các đơn vị còn lại đều tổ chức bộ phận vận tải, bộ phận cung cấp một số nguyên liệu phụ cho sản xuất, các chi nhánh trải rộng trên nhiều địa phương để thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm. Đây vừa là lợi thế nhưng cũng là bất lợi của doanh nghiệp. Với các đơn vị tổ chức nhiều bộ phận phụ trợ đi kèm, thường các bộ phận này chưa được tách bạch rõ ràng, minh bạch, sự tồn tại nhờ bao cấp của công ty. Tổng công ty đã phải chỉ đạo thực hiện tách các bộ phận này, tạo tính độc lập cho các bộ phận và tiến hành cổ phần hoá trước. Nhờ điều kiện kinh tế gắn liền với công ty, các bộ phận công ty này đã được cổ phần hoá thành công và hiện đang đóng góp không chỉ cho Tổng công ty mà cho các còn cho các công ty thành viên nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ngược lại chính các bộ phận công ty đã được cổ phần hoá này trở thành là nhân tố kinh tế xã hội tốt để cổ phần công ty lớn. Đây là các yếu tố đảm bảo vật tư đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho công ty xi măng, các điều kiện này được đảm bảo thì sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư sẽ được nâng lên.
Bên cạnh nhân tố kinh tế xã hội tác động trực tiếp đến doanh nghiệp, tạo sức hấp dẫn cho doanh nghiệp, các nhân tố kinh tế vĩ mô cũng có tác động đến quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp. Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, phân bổ vốn cho đầu tư phát triển có ảnh hưởng lớn đến nhu cầu tiêu dùng xi măng và qua đó ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của ngành đối với các nhà đầu tư. Chi phí sản xuất xi măng chịu tác động lớn của ngành than, điện – chính sách đối với các ngành này ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh ngành xi măng và tác động đến tính hấp dẫn của cổ phiếu xi măng. Quy định về đánh giá giá trị doanh nghiệp; về ưu đãi, phân phối cổ phiếu có thể tạo lợi thế để đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá. Quy định ưu đãi hay không về thuế đối với doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp niêm yết sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phương án cổ phần, kết quả kinh doanh qua đó làm tăng hay giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu. Đối với ngành xi măng, do đặc điểm quy mô lớn, hiệu quả đầu tư thường là dài hạn- chính sách nhiều lúc quyết định đến thành công hay thất bại của cổ phần hoá. Như đã phân tích ở trên, ngành xi măng không hấp dẫn các nhà đầu tư đại chúng. Để thực sự đa dạng hoá sở hữu, ngành xi măng cần lựa chọn các nhà đầu tư chiến lược có năng lực về quản trị, tài chính, thị trường. Tuy nhiên, với quy định các nhà đầu tư chiến lược không được mua cổ phiếu với giá thấp hơn giá trúng thầu thành công bình quân, việc tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược là rất khó khăn-không một nhà đầu tư chuyên nghiệp nào chấp nhận mua lượng lớn hàng hoá mà mình không biết giá.
1.2.3.3. Các nhân tố về đặc điểm ngành nghề
Các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam một mặt có những đặc điểm chung của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, mặt khác có những đặc điểm riêng do tính chất hoạt động kinh doanh của ngành chi phối.
Những đặc điểm chung phần lớn thể hiện ở những nội dung tổ chức và quản lý các doanh nghiệp nhà nước – những khiếm khuyết từ mô hình kinh tế nhà nước như tổ chức không hiệu quả, tính chủ động trong kinh doanh kém, lãng phí, tham nhũng,… - đây là những lý do dẫn đến sự cần thiết phải cổ phần hoá các doanh nghiệp của ngành. Tuy nhiên ngành xi măng cũng có những đặc thù. Đó là:
- Các đơn vị phụ trợ: Các đơn vị phụ trợ chủ yếu do chính các nhà máy sản xuất xi măng thành lập để cung cấp một số sản phẩm, dịch vụ cho nhà máy chính như cung cấp một số nguyên liệu vật tư cho sản xuất xi măng (bao bì, phụ gia xi măng,…) hoặc là dịch vụ vận chuyển sản phẩm tiêu thụ . Do phụ thuộc nhà máy sản xuất xi măng về sản lượng, giá cả nên trạng thái tiền vốn, kết quả sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng quyết định từ công ty sản xuất. Do vậy khi các bộ phận này được tách thành công ty độc lập và thực hiện cổ phần hoá, cam kết của công ty sản xuất quyết định đến thành công hay thất bại quá trình cổ phần hoá các đơn vị này. Bên cạnh đó tình trạng máy móc thiết bị, trình độ tay nghề, tổ chức sản xuất và các nhân tố ngoại cảnh- đặc biệt nhân tố ngoại cảnh đối với các đơn vị dịch vụ vận tải tác động đến hoạt động vận tải sẽ tác động trực tiếp đến quá trình cổ phần hoá các đơn vị này.
- Các đơn vị kinh doanh: Như đã nêu ở phần trên, các đơn vị kinh doanh được thừa hưởng nhân tố thuận lợi về yếu tố địa lý, diện tích chiếm đất của thời kỳ công ty nhà nước với lợi thế là ngành chủ lực ảnh hưởng đến nền kinh tế được ưu ái về diện tích, vị trí. Tuy nhiên với đặc điểm của ngành kinh doanh dịch vụ với sự góp mặt của nhiều thành phần kinh tế thời mở cửa, hội nhập, sự yếu kém về tổ chức quản lý trong khi bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả lại là thách thức lớn. Khi cổ phần hoá, cùng với tiến trình cổ phần hoá các công ty sản xuất, sự bao cấp, các chính sách ưu đãi cho các đơn vị này sẽ không còn. Tiến hành cổ phần hoá phải thực hiện được việc sắp xếp lại tổ chức quản lý, sắp xếp lại lao động, xây dựng lại chiến lược, phương án kinh doanh- những nhân tố này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công tác cổ phần hoá.
- Các công ty sản xuất xi măng: Quy trình công nghệ sản xuất xi măng là quy trình khép kín hoạt động liên tục trong thời gian thường là 6 tháng. Tính liên tục trong hoạt động sản xuất ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc tiêu thụ sản phẩm chịu ảnh hưởng của thời tiết, mùa vụ. Sản phẩm xi măng lại có thời gian sử dụng ngắn, khối lượng sản phẩm lớn trong khi địa bàn tiêu thụ chính thường xa địa điểm sản xuất.
1.3. Kinh nghiệm về cph dnnn của trung quốc và của Tổng công ty điện lực việt nam.
1.3.1. Tổng quan kinh nghiệm.
1.3.1. 1. Kinh nghiệm cổ phần hoá DNNN ở Trung Quốc.
Trong quá trình chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, Trung Quốc là một trong những nước sớm nhận thấy những hạn chế của các DNNN như: Hiệu quả kinh tế thấp hơn các loại hình kinh tế khác, nhiều doanh nghiệp ở tình trạng thua lỗ và tình trạng này có xu hướng ngày càng tăng; tình trạng thất thoát tài sản Nhà nước ngày càng tăng và trở nên nghiêm trọng; máy móc thiết bị nói riêng, trình độ công nghệ nói chung của các DNNN rất thấp, lạc hậu rất nhiều so với các nước kinh tế phát triển; các DNNN ngoài chức năng kinh tế còn phải đảm nhiệm nhiều chức năng xã hội. Hệ thống các DNNN quá lớn với khoảng gần 350.000 DNNN. Tình trạng trên dẫn đến gánh nặng nợ nần của các DNNN ngày càng lớn, ngân sách Nhà nước phải chịu, trong khi đó nguồn ngân sách Nhà nước có hạn và cần chi dùng cho nhiều mục tiêu phát triển kinh tế xã hội khác. Trung Quốc cũng sớm nhận thấy con đường thoát khỏi khó khăn do các DNNN mang lại là mở cửa nền kinh tế, đổi mới hệ thống DNNN, chuyển một số DNNN thành các CTCP qua tiến hành CPH các DNNN. Việc tiến hành CPH các DNNN ở Trung Quốc được tiến hành khá khoa học. Bởi vì, nó được thực hiện theo một lộ trình tuân thủ các vấn đề mang tính lý thuyết và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng ngành, lĩnh vực. Việc triển khai cũng được tiến hành thí điểm trên phạm vi hẹp sau đó rút kinh nghiệm để các đơn vị ở các cấp, các ngành nghiên cứu học tập. Cuối cùng, CPH các DNNN mới được tiến hành trên phạm vi rộng. Điều đặc biệt của Trung Quốc so với các nước khi tiến hành CPH các DNNN là vai trò của Nhà nước trong xây dựng kế hoạch, lộ trình và sử dụng các biện pháp mạnh của quản lý hành chính nên kết quả của CPH các DNNN đạt được rất cao. Cụ thể:
- Trong những năm 1991-1995 đã có tới 13.500 doanh nghiệp đã CPH xong. Việc CPH xong một khối lượng lớn các DNNN đã tạo cho Chính phủ có nguồn thu ngân sách khá lớn. Chỉ tính 700 doanh nghiệp bán cổ phiếu trên thị trường đã thu được 500 tỷ Nhân dân tệ, bằng 7,3% GDP của Trung Quốc năm 1996. Với 97 công ty bán cổ phiếu loại B ra thị trường trong nước và 38 công ty bán cổ phiếu ra thị trường Quốc tế đã thu được 13 tỷ USD. Nhà nước đã sử dụng nguồn vốn quan trọng này vào các dự án cải tạo và đầu tư vào các công trình trọng điểm của nền kinh tế đất nước. Gánh nặng đối với các DNNN sau khi CPH đã được loại bỏ. Tạo thêm được 10.000 việc làm mới trên thị trường chứng khoán, 31 triệu người đã mua cổ phiếu - một lượng tiền lớn trong dân cư đã được thu hút vào các hoạt động kinh doanh của các DNNN khi CPH.
- CPH đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp chuyển đổi quản lý, chuyển đổi hướng sản xuất kinh doanh nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Sở hữu Nhà nước đã chuyển sang các hình thức sở hữu khác, những lý do để Nhà nước can thiệp trực tiếp vào quá trình kinh doanh của doanh nghiệp không còn. CTCP ( sản phẩm của CPH các DNNN) có điều kiện phát huy vao trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, những yêu cầu tối cần thiết của doanh nghiệp khi chuyển sang nền kinh tế thị trường.
- Sau CPH, các doanh nghiệp đã có điều kiện để tổ chức lại bộ máy quản lý theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, năng động. Chỉ riêng Tập đoàn ô tô số 1 sau CPH năm 1996, đến nay đã giảm được 12.000 người, 200 đơn vị trong cơ cấu tổ chức.
- Theo cơ chế hoạt động của các CTCP, các DNNN sau CPH không chỉ tuân thủ pháp luật kinh doanh và các chính sách của Chính phủ mà còn chịu sự giám sát chặt chẽ của các cổ đông (những người bỏ tiền mua cổ phiếu, góp vốn cho doanh nghiệp hoạt động) mà đại diện là Hội đồng quản trị.
Sức ép đó buộc doanh nghiệp phải có những đổi mới trong quản lý và hoạt động kinh doanh. Phải trực tiếp tìm hiểu thị trường, chấp nhận và chủ động trong cạnh tranh, tự tìm cách tồn tại và phát triển khi không còn sự nâng đỡ của Nhà nước, khi được quyền chủ động. Doanh nghiệp đã năng động hơn, thận trọng hơn khi đưa ra những quyết định về kinh doanh.
- Từ những đổi mới trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp sau CPH đã mạnh lên. CPH đã tạo ra những điều kiện để Trung Quốc thực hiện chiến lược xây dựng các Tập đoàn kinh tế lớn, có khả năng cạnh tranh mạnh với các Tập đoàn kinh tế của nước ngoài.
- Hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp sau CPH đã nâng cao vị thế của Nhà nước khi nắm cổ phần chi phối trong doanh nghiệp. Vai trò ''chủ đạo'' của kinh tế Nhà nước từng bước được phát huy.
Tuy nhiên để khống chế được các cổ phiếu trong các CTCP, Nhà nước phải có cơ chế kiểm tra, kiểm soát thích hợp… Muốn làm được điều đó, đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách hợp lý, năng lực quản lý của Nhà nước phải nâng lên.
1.3.1.2. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở Tổng Công ty Điện lực Việt Nam
Việc thực hiện cổ phần hoá DNNN thuộc Tổng Công ty Điện lực Việt Nam (EVN) có nhiều khó khăn và chậm trễ.
Sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 28/CP ngày 07/05/1996 về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần, EVN đã xác định đối tượng đầu tiên là các bộ phận doanh nghiệp phụ trợ tại các đơn vị thành viên hạch toán độc lập như: các đơn vị xây lắp, sản xuất cầu kiện bê tông ly tâm, gia công cơ khí, khách sạn, nhà hàng … và một số doanh nghiệp trong khâu phân phối điện (chi nhánh điện cấp quận, huyện, phường hoặc xã). Trên cơ sở đó, Tổng Công ty đã chỉ đạo các công ty: Điện lực TP.HCM; Điện lực Hà Nội; Bưu chính Viễn thông 1, 2, 3; Công ty xây lắy điện 1, 2, 3; Công ty khảo sát thiết kế điện; Công ty sản xuất thiết bị điện và Công ty viễn thông điện lực thành lập Ban chỉ đạo cổ phần hoá tại các công ty, đồng thời giao mỗi công ty lựa chọn 1-2 bộ phận doanh nghiệp trực thuộc để thực hiện cổ phần hoá. Tuy nhiên, do nhiều lý do nên suốt từ năm 1996 đến tháng 6/1998 Tổng Công ty chưa cổ phần hoá được đơn vị nào.
Khi Nghị định 44/1998/NĐ-CP được ban hành, EVN tập trung đẩy mạnh công tác cổ phần hoá bằng hàng loạt các biện pháp cụ thể như: tăng cường cán bộ cho tổ chuyên viên cổ phần hoá; cử cán bộ học tập kinh nghiệm ở các đơn vị đã thực hiện cổ phần hoá ở các bộ, ngành khác; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động; tổ chức tập huấn cho cán bộ lãnh đạo, các phòng ban chức năng của Tổng Công ty về quy trình và nghiệp vụ triển khai cổ phần hoá. Và từ thời điểm đó, công tác cổ phần hoá của EVN mới thu được những kết quả ban đầu.
Đến năm 2006, EVN đã và đang thực hiện cổ phần hoá 36 đơn vị.Các công ty cổ phần hoá đều làm ăn có lãi và có chiều hướng phát triển tốt. Tuy nhiên so với kế hoạch được Chính phủ giao thì tiến độ thực hiện vẫn chưa đạt. Theo đánh giá của Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp của Tổng Công ty thì thực tế này xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản cần được Nhà nước xem xét, tháo gỡ, đó là:
- Thủ tục xác định lại giá trị doanh nghiệp còn rườm rà và chậm trễ; việc xác định giá trị quyền sử dụng đất, xử lý nợ quá hạn và các khoản phải thu khó đòi cũng là những trở ngại rất lớn; việc tính lợi thế thương mại theo phương pháp định giá hiện nay thường là một quá trình chủ quan, không chính xác.
- Quy định về cổ phần ưu đãi cho một số đối tượng lãnh đạo, quản lý và lao động hợp đồng ngắn hạn dưới 3 tháng chưa hợp lý, đối với cán bộ lãnh đạo thì lại vướng khoản 2 điều 3 Pháp lệnh chống tham nhũng.
- Việc thực hiện cổ phần hoá các bộ phận doanh nghiệp trong khâu phân phối điện hiện nay gặp rất nhiều khó k._. nghiệp được loại ra khỏi giá trị tài sản nhưng có nhiệm vụ tiếp tục theo dõi, thu hồi nợ.
Đối với nợ phải thu khó đòi, không quy định khống chế mức trích lập dự phòng. Khi quá hạn cam kết, nếu chưa thu hồi được nợ, doanh nghiệp phải trích lập dự phòng tuỳ theo tính chất, thời gian quá hạn và khả năng thu hồi nợ.
Thứ hai, đẩy mạnh việc xử lý nợ phải trả tồn đọng của các doanh nghiệp thông qua việc đnhá giá lại nợ tồn đọng không có tài sản đảm bảo, xoá nợ lãi vay. Việc xoá nợ lãi vay cho các doanh nghiệp cần được thực hiện khi kết quả kinh doanh bị lỗ và phải thực hiện cùng với cơ cấu lại tài chính trước khi xác định giá trị doanh nghiệp để chuyển đổi hình thức sở hữu. Nội dung này cần được sự đồng thuận của tổ chức tín dụng – xem đây cũng là giải pháp lành mạnh tài chính của tổ chức tín dụng và tạo điều kiện để doanh nghiệp chuyển đổi hoạt động hiệu quả, qua đó gián tiếp tăng hiệu quả hoạt động cho tổ chức tín dụng.
Thứ ba, Có chế tài quy định trách nhiệm đối với Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc hoặc giám đốc công ty nếu không xử lý kịp thời các khoản nợ không có khả năng thu hồi hoặc không trích lập dự phòng phải thu khó đòi, báo cáo thiếu trung thực về tình hình tài chính công ty.
Hai là, tổ chức tốt hơn việc xác định giá trị doanh nghiệp và hoàn thiện cơ chế bán cổ phần lần đầu.
Giá trị doanh nghiệp cần được xác định phù hợp với thị trường, khắc phục việc đánh giá giá trị doanh nghiệp theo giá trị tài sản và việc áp đặt hành chính mang tính cảm tính hiện nay. Việc xác định giá trị doanh nghiệp qua nhiều thủ tục hành chính với hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp đã làm méo mó tính khoa học, chủ động của cơ quan định giá. Tiếp theo đó là việc lựa chọn tổ chức tư vấn phát hành và xác định giá khởi điểm đấu giá cũng được quyết định hành chính. Do vậy nhiều cuộc phát hành không thành công nhưng không ai phải chịu trách nhiệm, chỉ có tiến trình cổ phần hoá là chậm lại.
Về quy trình cụ thể hướng dẫn việc mua bán cổ phần cho DNNN CPH, Quy định hiện nay 2 đối tượng được mua cổ phần không qua đấu giá lần đầu là người lao động được mua với giá ưu đãi và cổ đông chiến lược mua theo giá không thấp hơn giá đấu thầu thành công bình quân. Giá ưu đãi lại được tính trên cơ sở giá đấu giá thành công bình quân, mà cụ thể người lao động được mua số cổ phần ưu đãi (mỗi năm làm việc được mua tối đa 100 cổ phần) theo giá giảm 40% so với giá đấu giá thành công bình quân; cố đông chiến lược (mua tối đa 50% số cổ phần bán ra) được mua theo giá không thấp hơn so với giá đấu giá thành công bình quân và không được chuyển nhượng cổ phần trong vòng 3 năm.
Về quy trình bán cổ phần, phương án đang là đem số cổ phần bán ra bên ngoài (bằng tổng số cổ phần trừ đi cổ phần nhà nước dự định nắm giữ, trừ cổ phần bán ưu đãi cho người lao động và trừ cổ phần bán ưu đãi cho cổ đông chiến lược) bán theo hình thức đấu giá. Sau đó, tính ra giá đấu giá thành công bình quân để xác định giá bán ưu đãi cho người lao động và giá bán cho cổ đông chiến lược. Nếu việc đấu giá không bán hết tổng số cổ phần chào bán do nhà đầu tư từ chối mua, thì phần dư ra sẽ đem bán lại cho những nhà đầu tư đã tham gia đấu giá có nhu cầu mua thêm theo giá không thấp hơn giá trúng thầu thành công bình quân hoặc tổ chức bán đấu giá lần 2. Nếu vẫn không bán hết thì sẽ điều chỉnh giá khởi điểm để bán tiếp hoặc điều chỉnh quy mô, cơ cấu vốn điều lệ.
Với cách làm này, việc thu hút cổ đông chiến lược là rất khó khăn như đã nêu ở phần trên do họ phải chấp nhận mua cổ phần với giá và khối lượng chưa được xác định. Bên cạnh đó do phải mua theo giá thị trường, việc ưu đãi về giá đối với người lao động nhiều khi không thực sự trên thực tế khi giá thị trường biến động làm không ít người lao động phải từ chối quyền mua cổ phần. Việc điều chỉnh quy mô, cơ cấu vốn điều lệ khi không bán hết số lượng cổ phần chào bán sẽ làm thay đổi lớn đến phương án kinh doanh, hiệu quả của công ty cổ phần, thể hiện sự thiếu minh bạch, nhất quán trong cổ phần hoá.
Để khắc phục những tồn tại này, Tổng công ty cần mạnh dạn đề xuất và thực hiện việc kết hợp định giá giá trị doanh nghiệp với bảo lãnh phát hành, vừa đảm bảo xác định chính xác hơn giá trị thị trường của doanh nghiệp, vừa đảm bảo lựa chọn được các cổ đông chiến lược thực sự mong muốn đầu tư, tham gia quản lý doanh nghiệp, vừa đảm bảo thành công của đấu giá bán cổ phần.
Ba là, nâng cao hơn tính thị trường, tính minh bạch và công bằng trong cổ phần hoá
Công khai thông tin tài chính tức là thông báo cho các nhà đầu tư những thông tin quan trọng về tình hình tài chính để các nhà đầu tư quan tâm xem xét, đánh giá giá trị của công ty và đưa ra các quyết định để đầu tư. Việc công khai thông tin về công ty đảm bảo tính công bằng trong mua bán, từ đó bảo vệ nhà đầu tư hình thành giá cổ phiếu.
Hiện nay, tìm kiếm thông tin về tài chính của những doanh nghiệp thuộc đối tượng CPH gặp nhiều khó khăn.
Về mặt tài chính, công khai thông tin bao gồm việc phân tích và đáng giá thực trạng, triển vọng của doanh nghiệp, về thực trạng tài chính:
- Vốn và tài sản: đánh giá vốn và tài chính theo giá trị thực tế tại thời điểm CPH. Phản ánh rõ:
. Về tài sản cố định: là tình trạng, chủng loại, công nghệ, mức độ hiện đại, tính đồng bộ, năng lực của máy móc thiết bị…
. Về tài sản lưu động: tình hình dự báo, khả năng thanh toán.
- Hiệu quả kinh doanh: thông qua các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận 3 năm gần nhất thời điểm CPH.
- Vốn liên doanh liên kết: đặc biệt là nợ, phải nói rõ các khâu nợ phải trả như nợ ngân sách, nợ ngân hàng, các khoản nợ phải thu trong đó có nợ khó đòi.
- Thu nhập, phân phối: thông qua các chỉ tiêu về thu nhập bình quân đầu người hàng tháng, tỷ lệ lợi nhuận trích vào quỹ.
- Những lợi thế thương mại: vị trí địa lý, uy tín mặt hàng, trình độ quản lý, thành tựu kỹ thuật áp dụng mang lại tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch.
- Triển vọng:
. Doanh số, lợi nhuận từng năm của 5 năm tới.
. Cổ tức có thể trả.
. Thu nhập bình quân của người lao động trong công ty.
Trong thời gian tới để nâng cao hơn tính thị trường, tính minh bạch và công bằng trong cổ phần hoá cần :
- Quy định bắt buộc về công khai tài chính: Nội dung công khai, hình thức công khai (qua các phương tiện thông tin đại chúng), thời gian công khai, chất lượng thông tin đại chúng (số liệu công khai phải được cơ quan kiểm toán xác lập), cơ quan sẽ tiếp nhận thông tin.
- Thành lập Tạp chí chuyên ngành chuyên về CPH trực thuộc Bộ Tài chính. Tạp chí là nơi phản ánh đầy đủ nhất về các doanh nghiệp chuẩn bị CPH đang bán cổ phần, cũng như những chi tiết về tình hình tài chính của các doanh nghiệp này. Đây cũng là diễn đàn để trao đổi kinh nghiệm và quảng bá nhận thức CPH đối với mọi tầng lớp xã hội.
- Thành lập quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH DNNN hỗ trợ chi phí kiểm toán hay niêm yết chứng khoán CTCP.
Bốn là, xác định rõ vai trò của người đại diện phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
Trong tiến trình CPH thời gian qua, không ít doanh nghiệp Nhà nước sau CPH vẫn còn một phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. ở những doanh nghiệp này tất yếu phải có người đại diện cho Nhà nước thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các cổ đông. Trước khi Nghị định số 199/2004/NĐ-CP ngày 31/12/2004 của Chính phủ về quản lý phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp được ban hành, người đại diện và người trực tiếp quản lý phần vốn Nhà nước tại các CTCP chưa được xác định rõ. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện, người trực tiếp quản lý cũng chưa được cụ thể hoá. Vì thế, khi Nghị định này ra đời đã xác định cụ thể về ngươi đại diện cho phần vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp nói chung và tại các CTCP được chuyển từ DNNN thực hiện CPH nói riêng. Đó là Bộ Tài chính hoặc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW; Hội đồng quản trị ở DNNN có Hội đồng quản trị hoặc giám đốc DNNN ở những doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị.
Người đại diện phần vốn Nhà nước tại các CTCP có chức năng thực hiện các quyền và nghĩa vụ phổ thông thông qua người trực tiếp quản lý do họ cử ra. Tuỳ theo số vốn Nhà nước tại CTCP mà người trực tiếp quản lý có thể hoạt động chuyên trách, ứng cử tham gia vào ban điều hành CTCP hoặc hoạt động kiêm nhiệm. Nhiệm vụ lớn nhất của người đại diện được giao nắm giữ số vốn Nhà nước là sử dụng có hiệu quả cao nhất số vốn Nhà nước đầu tư vào CTCP. Theo đó, những CTCP mà số vốn Nhà nước chiếm tỷ trọng nhỏ, Nhà nước chỉ đóng vai trò cổ đông bình thường, thì tác động của người đại diện đối với các quyết định của công ty rất hạn chế. Vì thế, để thông qua các quyết định quan trọng hoặc ngăn cản những quyết định ảnh hưởng đến quyền lợi của Nhà nước trong CTCP, người đại diện phải liên kết với các cổ đông khác mới có đủ số phiếu biểu quyết cần thiết theo điều lệ của công ty. Tuy nhiên, việc liên kết này không dễ dàng, thuận lợi, nên nhìn chung nhiệm vụ quan trọng nhất của người đại diện trong trường hợp này là theo dõi phân tích tình hình hoạt động CTCP, thu hồi lợi tức được chia. Trong trường hợp CTCP kinh doanh kém hiệu quả phải tìm các biện pháp để chuyển nhượng số cổ phần Nhà nước và thu hồi vốn, tránh thiệt hại cho Nhà nước. ở những DNNN nắm cổ phần chi phối, người đại diện có trách nhiệm chỉ đạo để người trực tiếp quản lý phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp nắm quyền quản lý và điều hành doanh nghiệp; định hướng cho doanh nghiệp phát triển theo đúng đường lối chiến lược của Đảng; hoạch định các chiến lược kinh doanh, mục tiêu và nhiệm vụ từng thời kỳ cho doanh nghiệp; bảo đảm cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Trong trường hợp này nhiệm vụ và quyền hạn của người đại diện được mở rộng nên họ cũng có điều kiện thuận lợi hơn để thực hiện nhiệm vụ của mình. Chính vì vậy, đòi hỏi người đại diện phải có năng lực, trình độ và trách nhiệm cao hơn.
Mặc dù theo các quy định hiện hành, vai trò và vị trí của người đại diện phần vốn Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của doanh nghiệp, tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, người đại diện tại các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối vì nhiều lý do vẫn chưa có đủ điều kiện để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình
3.2.3. Nhóm giải pháp sau cổ phần hóa.
Một là, giải quyết các vấn đề về sở hữu
Những vấn đề phát sinh của CTCP mới được hình thành từ DNNN sau CPH như: Một số CTCP - DNNN CPH không cần Nhà nước nắm giữ quyền chi phối, nhưng Nhà nước vẫn nắm giữ đã gây những khó khăn trong phát huy tính chủ động của doanh nghiệp. Hiện tượng thu gom cổ phiếu vào một số người biến cổ phần hoá thành tư nhân hoá và những vấn đề tồn đọng trong sở hữu là những bất cập cần phải xử lý về vấn đề sở hữu. Với những bất cập đó, cần phải tập trung các vấn đề sau:
- Về nguyên tắc, cần tạo cho các CTCP - DNNN sau CPH những điều kiện khai thác các ưu việt của doanh nghiệp sau CPH. Sự phát triển của các doanh nghiệp này sẽ tạo mức lãi cổ tức cao, đây là cơ sở để các cổ đông bảo toàn cổ phiếu, nhất là công nhân của doanh nghiệp. Tình trạng thu gom cổ phiếu vào một số người một cách không lành mạnh sẽ được hạn chế một cách tối đa.
- Đối với một số doanh nghiệp, Nhà nước không cần thiết phải nắm cổ phần chi phối, nhưng hiện đang nắm cổ phần chi phối: Nhà nước cần rà soát lại, đưa ra danh sách và có thể tiếp tục bán cổ phần của Nhà nước hiện đang nắm giữ hoặc cho phép doanh nghiệp tiếp tục phát hành cổ phiếu, một mặt tăng thêm vốn, mặt khác tạo sự thay đổi tương quan giữa phần vốn Nhà nước nắm giữ với phần vốn khác.
- Cần giải quyết một cách dứt điểm những vấn đề liên quan đến vốn quỹ còn tồn đọng như:
+ Xử lý các vấn đề công nợ giữa doanh nghiệp CPH với Nhà nước cũng như giữa các doanh nghiệp với nhau. Về vấn đề này Tổng công ty đã có quan điểm rõ và đã có những xử lý kiên quyết. Tuy nhiên, đây là vấn đề phức tạp và quy mô rộng. Vì vậy, trên thực tế vấn đề này vẫn còn nhiều tồn đọng gây những cản trở cho doanh nghiệp sau CPH. Trong số các biện pháp, biện pháp khoanh nợ và xoá nợ do DNNN trước đây gây nên là biện pháp có tính tích cực đối với doanh nghiệp. Bởi vì các khoản nợ là do DNNN trước đây gây nên, không thể để các CTCP - DNNN đã CPH phải chịu, trách nhiệm đó phải thuộc về Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu của các DNNN trước đây.
+ Tiếp tục xử lý những vấn đề bất cập trong việc bàn giao lại tài sản, nhất là bàn giao các bất động sản như nhà xưởng, văn phòng làm việc… DNNN trước đây xây dựng trên đất đi thuê của các DNNN chưa CPH hoặc của các tổ chức khác.
Đối với tài sản xây dựng trên nền đất của DNNN chưa CPH, nếu đất đó không ảnh hưởng đến hoạt động của DNNN chưa cổ phần, cần xử lý theo hướng đưa vào DNNN đã cổ phần và định giá cho doanh nghiệp để thu về ngân sách Nhà nước. Đối với đất thuê của các tổ chức khác, tuỳ theo sự cần thiết của các công trình có thể tạo những điều kiện để hai đơn vị thương lượng giải quyết.
Hai là, giải quyết các vấn đề về về tổ chức và quản lý
Những tiêu cực về tổ chức và quản lý của các DNNN sau CPH như khó khăn trong vay vốn; sự không rõ trong quản lý của Nhà nước vừa với tư cách là đại diện phần vốn của mình trong doanh nghiệp vừa là cơ quan chủ quản của doanh nghiệp, chi phối những người đại diện của Nhà nước trong doanh nghiệp, sự giảm sút quy mô và tốc độ tăng trưởng của các DNNN sau CPH là những vấn đề cần nhanh chóng được khắc phục ở các DNNN ngành xi măng sau CPH. Theo từng vấn đề xin được đưa ra các cách giải quyết sau:
- Về khó khăn trong vay vốn: Trong giải pháp liên quan đến CPH, chúng tôi đã có kiến nghị về vấn đề này. Không có văn bản nào phân biệt sự khác biệt về vay vốn giữa DNNN và DNNN CPH. Tuy nhiên, trên thực tế có những tư tưởng dẫn đến những ứng xử khác nhau của các tín dụng đối với các doanh nghiệp khác nhau. Về vấn đề này cần giải quyết từ 2 phía:
+ Đối với các CTCP - DNNN sau CPH: Cần tạo dựng niềm tin đối với các tổ chức tín dụng để xoá đi những định kiến về doanh nghiệp ngoài Nhà nước. Thực chất DNNN cũng không phải là những doanh nghiệp có tín chấp trong vay vốn mà họ thường dễ được chấp nhận vay vốn vì đứng đằng sau họ là Nhà nước với tư cách là ''khổ chủ'' trong những khoản vay ''khó đòi'' của các DNNN.
Những năm qua, hoạt động của các CTCP từ các DNNN CPH đã phần nào tạo được niềm tin của các tổ chức tín dụng. Vì vậy, việc vay vốn đã từng bước được cải thiện và đây là giải pháp cần thiết đối với doanh nghiệp.
+ Đối với Nhà nước, cần nghiên cứu cơ chế vay vốn hoặc tạo lập những cơ chế thuận lợi hơn nữa trong thu hút vốn; tạo sức cạnh tranh cho CTCP - DNNN sau CPH trong việc thu hút vốn đối với các tổ chức tín dụng, trước hết là các Ngân hàng.
- Về quan hệ quản lý vốn và hoạt động kinh doanh của Nhà nước đối với DNNN sau CPH với tư cách là người sở hữu hoặc nắm quyền chi phối doanh nghiệp: Một mặt có giải pháp thay đổi mối tương quan về quan hệ quản lý vốn; mặt khác Nhà nước cần ban hành cơ chế quản lý theo hướng khoán vốn hoặc giải quyết các vấn đề quản lý theo cơ chế Hội đồng quản trị của CTCP nhằm tạo sự chủ động cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Giải pháp tốt nhất là khoán quỹ vốn theo các tiêu chí bảo toàn và tăng trưởng vốn, tiếp nhận lợi ích thông qua lợi tức cổ phiếu như những cổ đông khác.
- Về sự giảm sút tốc độ tăng trưởng của các DNNN sau CPH: Những giải pháp về vốn, về sở hữu, về quan hệ quản lý sẽ phát huy tác dụng nếu triển khai tốt, nhờ đó mức độ tăng trưởng của các DNNN sau CPH của ngành sẽ được tăng lên. Bên cạnh đó, các vấn đề sắp xếp lại tổ chức, đào tạo đội ngũ cán bộ, đầu tư thêm tài sản cố định… là những vấn đề cần được các doanh nghiệp tập trung giải quyết.
+ Về sắp xếp lại tổ chức: tồn tại khá phổ biến ở các CTCP - DNNN sau CPH là vẫn duy trì kiểu tổ chức bộ máy quản trị như trước khi CPH. Tình trạng này một mặt do sự chi phối của Nhà nước đối với việc sắp xếp bộ máy quản trị của doanh nghiệp. Mặt khác, do những người trong bộ máy phần lớn là những người cũ của doanh nghiệp trước CPH nên ít có sự thay đổi. Về vấn đề này cần giải quyết theo 2 hướng: Trước hết, Nhà nước cần giảm bớt sự chi phối đối với doanh nghiệp trong các vấn đề nội bộ của họ. Thứ hai, các thành viên trong bộ máy quản trị cần nâng cao trình độ, tiếp cận với các vấn đề quản trị theo mô hình của CTCP. Tự bản thân những người trong Hội đồng quản trị, nhất là trong bộ máy quản trị (ban giám đốc, các phòng ban chức năng…) phải có sự thay đổi mới hy vọng tạo sự chuyển biến của doanh nghiệp.
+ Về đào tạo lại đội ngũ lao động: Đây cũng là những vấn đề tối cần thiết đối với đội ngũ lao động của CTCP - DNNN sau CPH. Trong CPH, doanh nghiệp cũng có những bố trí lại đội ngũ lao động theo hướng tinh giản. Những người lao động tuổi cao, trình độ không phù hợp đã được giải quyết chế độ nghỉ việc (hưu chờ hoặc nghỉ chế độ…). Tuy nhiên, việc lựa chọn như vậy mới chủ yếu dựa vào tiêu chí tuổi tác, bằng cấp vào trong số nguồn lao động hiện có của doanh nghiệp. Số lao động hiện có của DNNN trước CPH có thực lực chất lượng thấp, tuy có thể có bằng cấp cao. Bởi vì, họ đã qua nhiều năm sống trong cơ chế của bao cấp và thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi cao của chế độ bao cấp.
Đối với các doanh nghiệp đã CPH: Nội dung đào tạo đội ngũ lao động của doanh nghiệp rất rộng: từ những kiến thức theo chuyên ngành của từng đội ngũ lao động đảm nhận đến các kiến thức chung của kinh tế thị trường, các kiến thức pháp luật… Số lượng đào tạo và đào tạo lớn, nội dung rộng đòi hỏi các doanh nghiệp cần xây dựng đề án đào tạo, chuẩn bị kinh phí và lựa chọn phương thức đào tạo phù hợp với điều kiện lao động của doanh nghiệp.
+ Về đầu tư thêm tài sản cố định: CPH tạo thêm nguồn vốn là cơ hội vàng cho các doanh nghiệp đầu tư cải tạo công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất. Đây cũng là giải pháp tạo mức tăng trưởng cao cho doanh nghiệp sau CPH.
Ba là, giải quyết các vấn đề về phân phối.
Sự thay đổi nội dung và phương thức phân phối theo cơ chế của CTCP đã tạo nên động lực mới cho các CTCP - DNNN của ngành ximăng sau CPH. Tuy nhiên, mức tăng giảm thất thường của lợi nhuận ở các doanh nghiệp đã CPH, mức tăng thu nhập của người lao động thấp ở nhiều doanh nghiệp trong ngành trong những năm vừa qua là những vấn đề cần tập trung giải quyết.
Về logic, kết quả kinh doanh không tốt sẽ ảnh hưởng đến hoạt động phân phối của doanh nghiệp. Vì vậy, đổi mới phân phối của các DNNN ngành xi măng phải dựa trên cơ sở cải thiện tình trạng kinh doanh. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh doanh chưa tốt, phân phối trong các DNNN sau CPH cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng. Mối quan hệ đó được biểu hiện thông qua xác lập tỷ lệ giữa các khoản vốn quỹ: quỹ tái đầu tư mở rộng sản xuất, quỹ lương, lợi tức và quỹ phúc lợi.
Đối với những doanh nghiệp làm ăn có lãi: việc giải quyết các mối quan hệ trong phân phối có nhiều lợi nhuận. Vì vậy, lợi tức cổ phiếu của doanh nghiệp có thể đạt ở mức cao. Tuy nhiên, để tái đầu tư và cải thiện điều kiện lao động của doanh nghiệp, nên duy trì mức cổ tức cao không quá 2 lần mức lãi suất Ngân hàng trong năm.
Đối với những doanh nghiệp làm ăn không có lãi, cần duy trì mức cổ tức tương ứng mức lãi suất Ngân hàng. Vì thực chất mức cổ tức bao gồm 2 phần: phần chi phí tiền vay (như vay vốn từ các tổ chức tín dụng) và mức lợi nhuận phân phối qua cổ phiếu. Chú trọng đảm bảo mức thu nhập, đảm bảo tiền lương tối thiểu của người lao động.
Bốn là, giải quyết các vấn đề về xã hội nảy sinh sau cổ phần hoá
Trong các vấn đề phát sinh ở DNNN ngành xi măng sau CPH, những vấn đề xã hội có tính phức tạp và khó giải quyết nhất. Bởi vì, nhiều vấn đề thuộc phạm vi của doanh nghiệp mà nội dung tổ chức quản lý chúng có nhiều điểm khác biệt với các DNNN từ đó chúng được hình thành. Tuy nhiên, có thể lấy sự phát triển của doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh làm mục tiêu và động lực cho đề xuất các phương hướng giải quyết các vấn đề tồn tại của doanh nghiệp về xã hội.
- Về phát huy vai trò của các tổ chức chính trị trong doanh nghiệp: + Nâng cao nhận thức cho Hội đồng quản trị và bộ máy quản trị của doanh nghiệp về vai trò tổ chức chính trị trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó các chủ thể quản lý của doanh nghiệp chủ động tổ chức các tổ chức chính trị trong hệ thống quản lý của mình. Có sự phối hợp tốt giữa các tổ chức chính trị của doanh nghiệp với bộ máy quản trị vừa phục vụ cho hoạt động kinh doanh, vừa nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho các thành viên trong doanh nghiệp.
+ Đối với mỗi tổ chức chính trị trong doanh nghiệp: Cần nâng cao vai trò của mình trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó các cán bộ quản trị kinh doanh thấy được sự cần thiết và tạo những điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động.
Đối với tổ chức Đảng: Đảng bộ, chi bộ và các tổ chức Đảng là những hình thức cần được tổ chức trong các CTCP, trước hết là các DNNN sau CPH. Cần phát huy vai trò của các tổ chức Đảng trong doanh nghiệp.
Đối với các CTCP - DNNN đã CPH, các tổ chức Đảng và tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp đã được hình thành từ trước. Vì vậy, nền tảng của tổ chức đã có. Việc còn lại là nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng trong doanh nghiệp. Đối với các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp như: công đoàn, thanh niên, nữ công có vai trò quan trọng đối với việc đáp ứng nhu cầu này.
Thông qua các hình thức hội nghị, trao đổi, giải đáp thắc mắc, thu thập ý kiến, đề xuất của từng người, hoạt động của tổ chức này góp phần giải toả những ách tắc cùng với lãnh đạo doanh nghiệp giải quyết những nguyện vọng chính đáng của công nhân.
+ Đối với các tổ chức chính trị cấp trên: Cần chú trọng đầu tư, hướng dẫn các doanh nghiệp hình thành các tổ chức và giúp đỡ chúng hoạt động theo chức năng của từng tổ chức trong doanh nghiệp.
Kết luận
Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước là một chính sách mang tính kinh tế xã hội sâu sắc, đồng thời là giải pháp quan trọng được khẳng định trong khuôn khổ công cuộc cải cách cơ bản nhất là cải cách Doanh nghiệp Nhà nước.
Sau hơn 15 năm thực hiện cổ phần hoá, có thể khẳng định rằng cổ phần hoá là một đòi hỏi khách quan trong công cuộc đổi mới và sắp xếp lại Doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp với thực tế, là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước nói chung và cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam nói riêng đã tạo động lực phát triển thúc đẩy các Doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả, đổi mới và phát triển khu vực kinh tế nhà nước, làm thay đổi cơ cấu kinh tế quốc dân và mang lại những ảnh hưởng tích cực lên đời sống xã hội. Đồng thời khi cổ phần hoá, Nhà nước vừa có thể duy trì được sự có mặt của mình trong công ty cổ phần, vừa có thể huy động được các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế và khắc phục triệt để những yếu kém hiện nay của các Doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước là một quá trình khó khăn, phức tạp vì nó đụng chạm đến nhiều vấn đề nhạy cảm, đặc biệt là xử lý vấn đề tài chính, công tác định giá doanh nghiệp. Do đó, trong thực tế đã phát sinh một số vướng mắc trong quá trình cổ phần hoá làm chậm tiến trình cổ phần hoá.
Những nội dung trình bày trong luận văn mong muốn đóng góp phần bước đầu tổng kết những vấn đề lý luận, kinh nghiệm sắp xếp, đẩy mạnh quá trình CPH các doanh nghiệp nhà nước mà mô hình là Tổng công ty xi măng Việt Nam.
Trong khuôn khổ luận văn, tác giả chỉ tập trung đi vào những vấn đề chủ yếu sau:
Hệ thống hoá lý luận về cổ phần hoá, xác địnhtính cần thiết khách quan phải cổ phần hoá. Tổng kết kinh nghiệm cổ phần hoá, rút ra bài học kinh nghiệm để vận dụng vào Tổng công ty xi măng Việt Nam.
Phân tích thực trạng quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam trong các giai đoạn, từ đó rút ra các nhận xét xác đáng về nguyên nhân các tồn tại trong quá trình cổ phần hoá ở Tổng công ty xi măng Việt Nam.
Đề ra các giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam:
Nhóm giải pháp vĩ mô:
Một là, Nhà nước cần có những quy định làm cơ sở cho việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa các công ty cổ phần với các cơ quan nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho CTCP hoạt động có hiệu quả.
Hai là, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế cổ phần hoá theo hướng mở rộng phương thức bán, sửa đổi và quy định rõ hơn phương thức bán cho cổ đông chiến lược.
Ba là, Nhà nước phải nhanh chóng hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp
Bốn là, phải hòa thiện chính sách đối với người lao động
Nhóm giải pháp vi mô:
Một là, đẩy mạnh xử lý nợ tồn đọng của doanh nghiệp trước thời điểm cổ phần hoá.
Hai là, tổ chức tốt hơn việc xác định giá trị doanh nghiệp và hoàn thiện cơ chế bán cổ phần lần đầu.
Ba là, nâng cao hơn tính thị trường, tính minh bạch và công bằng trong cổ phần hoá.
Bốn là, xác định rõ vai trò của người đại diện phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Nhóm giải pháp sau cổ phần hóa.
Một là, giải quyết các vấn đề về sở hữu.
Hai là, giải quyết các vấn đề về về tổ chức và quản lý.
Ba là, giải quyết các vấn đề về phân phối.
Bốn là, giải quyết các vấn đề về xã hội nảy sinh sau cổ phần hoá
Kết quả bước đầu về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam cho they cổ phần hoá không làm yếu đi hoạt động của Tổng công ty, ngược lại đã góp phần huy động một lượng vốn lớn cho đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất.
Để tiếp tục thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam, Tổng công ty cần quán triệt đầy đủ những quy định mới về cổ phần hoá, đúc rút kinh nghiệm, những bài học từ việc thực hiện CPH các đơn vị thành viên từ đó có giải pháp hợp lý nhằm thực hiện thành công công tác cổ phần hoá, đảm bảo cho các doanh nghiệp cổ phần hoá hoạt động có hiệu quả cao. Tác giả mong rằng, với sự quyết tâm của các nhà quản lý, sự giúp đỡ các nhà khoa học, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện.
Danh mục tài liệu tham khảo
Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ về chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
Quyết định số 108/2005/QĐ-TTg ngày 16 tháng 5 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ.
Tạp chí tài chính các năm 2007, 2008.
Quyết định số 196/2006/QĐ-TTg ngày 29 tháng 8 năm 2006, quyết định số 189/2007/QĐ-TTg ngày 06 tháng 12 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án chuyển Tổng công ty xi măng Việt Nam sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con
Chu Hoàng Anh (3/1999) – Về chính sách đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá. Tạp chí lao động và xã hội, số 148, trang 30 – 31.
Chu Hoàng Anh (2001) – Chính sách và chế độ đối với người lao động trong và sau cổ phần hoá và đa dạng hoá. Tài liệu hội thảo về cổ phần hoá.
Trương văn Bân (1996) – Bàn về cải cách DNNN. Sách dịch, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
Trần Công Bảng (3/1998) – Tiến trình và triển vọng cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam. Tạp chí kinh tế phát triển, trang 5- 8.
Bộ Tài Chính – Viện nghiên cứu tài chính và công ty chứng khoán Merrill Lyuch (7/2001) – Tài liệu trình bày tại hội thảo về cổ phần hoá và các kinh nghiệm quốc tế tại Bộ Tài Chính Việt Nam.
Cơ sở khoa học của Viện nghiên cứu một số DNNN thành Công ty cổ phần ở Việt Nam (1993). Chương trình khoa học cấp Nhà nước, mã số KX – 0307-05. Bộ tài chính năm 1993.
Cổ phần hoá DNNN ( 1998) – Các văn kiện hiện hành. Nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 1998.
Trần Tiến Cường (2001) Các vấn đề tồn tại và phát sinh của doanh nghiệp sau cổ phần hoá, đa dạng sở hữu. Tài liệu Hội thảo về cổ phần hoá.
Khiết Hưng – Cổ phần hoá cần có cách làm mới, Tuổi trẻ ngày 01/8/2008.
Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991) – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nhà xuất bản chính trị quốc gia, tháng 04/1991.
Đảng Cộng Sản Việt Nam (1996) – Văn kiện Đại hội đậi biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tháng 04/1996.
Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006) – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2006.
Lê Hoàng Hải (2001) Một số vướng mắc về tài chính đối với doanh nghiệp sau cổ phần hoá và đa dạng sở hữu. Tài liệu hội thảo về cổ phần hoá.
Divil Heald (1985) – Tư nhân hoá - Chính sách, phương pháp và thủ tục. ADB – Manila năm 1985.
Athar Hussaiu (1/1999) – Gánh nặng về phúc lợi xã hội của các DNNN ở Trung Quốc. Tài liệu dự án đào tạo quản lý kinh tế do văn phòng chính phủ Việt Nam phối hợp với Viện Adam Smith, tháng 01/1999.
Phạm văn Hùng (1998) – Cổ phần hoá DNNN ở nước ta hiện nay, thành công bước đầu và những điều kiện cần tháo gỡ. Tạp chí sinh hoạt lý luận số 3/1998, trang 24 – 25.
Nguyễn Văn Huy (2001) – Cổ phần hoá và đa dạng sở hữu DNNN: Thực trạng và định hướng tiếp tục đẩy mạnh. Tài liệu hội thảo về cổ phần hoá DNNN.
Nguyễn Đình Kháng, Vũ Văn Phúc (1998) – Những nhận thức kinh tế chính trị trong giai đoạn đổi mới ở Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia tháng 4/1998.
Kỷ yếu khoa học đề tài cấp bộ năm 1999 – 2000: Kinh tế nhà nước và quá trình cổ phần hoá DNNN – Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt nam. Cơ quan chủ trì: Học Viện chính Trị quốc gia Hồ Chí Minh.
V.L.Leenin (1998) – Bàn về kiểm kê, kiểm soát. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia tháng 4/1998.
Bredan Marin (1999) – Tư nhân hoá ở các nước có nề kinh tế chuyển đổi. Dự án đào tạo quản lý của Văn phòng Chính phủ Việt Nam phối hợp với Viện Adam Smith tổ chức.
C.Marc (1978) – Tư bản tuyển tập, quyển 1 tập 3. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
C.Marc (1984) – Tư bản tuyển tập quyển 1 tập 1, phần II. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
C.Marc – P.ăngghen (1994) tuyển tập, tập 25, phần I. Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Đoàn Văn Mạnh (1998) – Công ty cổ phần và chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Nhà xuất bản Thống kê tháng 04/1998.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn cổ phần hoá khu vực kinh tế quốc doanh (1992). Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, mã số 91-98-017. Ban vật giá Nhà nước.
Chu Hữu Quý (1/1998) – Trung Quốc điều chỉnh chế độ sở hữu và cổ phần hoá DNNN. Tạp chí Cộng sản, trang 56-59.
Mai Hữu Thực (4/1993) – Cổ phần hoá DNNN: Thực chất, mục tiêu, vấn đề và giải pháp. Thông báo khoa học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, trang 33-35.
Đỗ Bình Trọng (11/1998) – Một số suy nghĩ về cổ phần hoá DNNN. Tạp chí nghiên cứu kinh tế, trang 31-34.
Trịnh Đình Từ (8/1997) – Cổ phần hoá DNNN ở Trung Quốc hiện nay. Tạp chí Cộng Sản, trang 58-60.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tk7.doc